GIỚI THIỆU
Trong buổi phỏng vấn do Barnes & Noble thực hiện [1], khi được hỏi:
“Cuốn sách nào ảnh hưởng nhiều nhất tới cuộc đời ông, và tại sao?” nhà văn
Mỹ Michael Cunningham [2] đã đáp: “Khi
tôi mười lăm tuổi, tôi đã đọc cuốn Mrs. Dalloway của Virginia Woolf, vì một cô
bé mà tôi phải lòng đã ném nó cho tôi và bảo đại loại là ‘sao cậu không đọc cuốn
này và cố bớt ngốc hơn chút xíu?’ Tôi đã đọc nó, và dù tôi vẫn khá ngu ngốc
không kém trước đó bao nhiêu, nó là một phát hiện đối với tôi. Cho tới khi đó,
tôi không hề biết rằng bạn – bất kỳ một ai – có thể làm những điều như thế với
ngôn ngữ; tôi chưa bao giờ đọc những câu phức tạp, đầy nhạc tính, đậm đặc và đẹp
đẽ như thế. Tôi nhớ tôi đã nghĩ, ‘Chà, bà ấy đã thực hiện với ngôn ngữ một điều
gì đó giống như cách Jimi Hendrix thực hiện với một cây đàn guitar.’ Mrs.
Dalloway đã biến tôi thành một độc giả, và chỉ là vấn đề thời gian cho tới khi
tôi trở thành một nhà văn.”
Như vậy, tác phẩm này, theo Michael Cunninggham, đã tạo cho
ông một ấn tượng vô cùng sâu sắc, biến ông từ một cậu bé “ngốc nghếch” trở
thành một độc giả có chiều sâu, và rốt cuộc biến ông trở thành một nhà văn tên
tuổi. Thật ra, theo người dịch, một tác phẩm như Mrs. Dalloway không dành cho một
cậu bé mười lăm tuổi, vì nó rất khó đọc, cả về văn phong lẫn chiều sâu của chủ
đề, mức độ phức tạp của tính cách nhân vật. Có lẽ, nếu nói một cách khách quan
và công bằng, ông có ấn tượng mạnh mẽ đến thế là vì từ trong bản chất ông đã có
thiên tư của một nhà văn.
Chúng ta cũng thử tìm hiểu xem bản thân Virginia Woolf nghĩ
gì về đứa con tinh thần này của mình. Bà viết:
“Trong cuốn sách này, hầu như tôi có quá nhiều ý tưởng. Tôi
muốn đưa ra sự sống và cái chết, sự tỉnh táo và sự mất trí; tôi muốn phê phán hệ
thống xã hội, và biểu thị nó trong hoạt động, ở trạng thái mãnh liệt nhất của
nó.” [3] (Woolf,
Diary 57)
Trong một phần nhật ký khác viết vào tháng 10-1923, bà nói cụ
thể hơn về quá trình viết một phần trong tác phẩm, phần vợ chồng Septimus đang ở
trong công viên Recent’s:
“Tôi đang ở giữa mớ dày đặc của cảnh tượng điên rồ trong công
viên Regent’s. Tôi nhận ra tôi viết nó bằng cách cố hết sức bám chặt vào thực tế…
Một ngày nào đó, tôi phải viết lại đoạn này. (Woolf, Diary 61) [4].
Virginia Woolf viết Mrs. Dalloway trong lúc đang cố chống chọi
với chứng bệnh thần kinh của chính mình. Và đây cũng là tác phẩm đầu tiên bà
khai thác thủ pháp Dòng ý thức. Phần vì bút pháp mới thử nghiệm ở đây chưa tinh
luyện và nhuần nhuyễn như ở Tới ngọn hải đăng, phần vì lượng nhân vật cũng quá nhiều
(Ngoài khoảng mười mấy nhân vật chủ yếu có tới mấy chục nhân vật phụ; có nhân vật
chỉ thoáng hiện ra rồi biến mất hoàn toàn.); mặt khác, ý nghĩ và hành động của
các nhân vật đan xen như những sợi tơ nhện từ quá khứ sang hiện tại, rồi lại từ
hiện tại sang quá khứ, với rất nhiều hình ảnh ẩn dụ, nên đòi hỏi người đọc phải
thật sự tập trung.
Toàn bộ câu chuyện diễn tiến trong một ngày Thứ tư của tháng
Sáu năm 1923, bắt đầu với cảnh bà Dalloway tự đi mua hoa vào buổi sáng sớm và kết
thúc vào cuối buổi tiệc tại nhà bà lúc đêm khuya. Tác phẩm không phân thành
chương mà phân thành mười phần, mỗi phần không đánh số mà được đánh dấu bằng một
số khoảng trống ở giữa. Nhưng để bạn đọc tiện theo dõi, vì có lẽ các bạn không
có thì giờ để đọc liền một mạch, người dịch xin mạn phép đánh dấu các phần
trong bản dịch bằng chữ số trong ngoặc đơn, ví dụ (1) nghĩa là phần 1.
Chủ đề nổi bật trong tác phẩm này là tác động của Thế chiến I
lên mọi tầng lớp xã hội ở Anh. Cuộc chiến tranh đã qua, nhưng dấu ấn của nó vẫn
còn nặng nề, sâu thẳm. Như với Septimus, một cựu chiến binh, bị chấn thương tâm
lý trong chiến tranh và sau đó đã tự sát. Anh đã kinh qua cuộc chiến bình an,
khá vô cảm; đã cưới một cô gái Ý được vài năm. Nhưng sau đó anh đã phát hiện ra
có một cái gì đó không ổn trong tâm hồn mình:
“…khi Evans bị giết ở Ý, ngay trước Ngày đình chiến,
Septimus, không hề biểu lộ chút cảm xúc hay ghi nhận nào, rằng đây là sự kết
thúc của một tình bạn, đã tự chúc mừng mình vì đã cảm xúc rất ít và rất hợp lý.
Cuộc chiến đã dạy anh. Nó thật phi thường. Anh đã trải qua toàn bộ vở kịch,
tình bạn, cuộc chiến châu Âu, cái chết, đã được thăng cấp, vẫn chưa tới ba mươi
và nhất định phải sống sót. Anh đã ở ngay tại đó. Những quả đạn pháo cuối cùng
đã sượt qua anh. Anh quan sát chúng nổ tung với sự dửng dưng. Khi hòa bình lặp
lại, anh đang ở Milan, tạm trú trong nhà của một ông chủ nhà trọ; ngôi nhà có một
mảnh sân nhỏ, những chậu hoa, những cái bàn nhỏ đặt ngoài trời, các cô con gái
hành nghề làm mũ, và một tối nọ anh đã hứa hôn với Lucrezia, cô con gái nhỏ
hơn, trong lúc đang hoang mang – rằng anh không thể cảm nhận được.”
Hoặc:
“Nhưng anh không thể thưởng thức, anh không thể cảm nhận.
Trong tiệm trà, giữa những cái bàn và những người bồi bàn đang tán gẫu, nỗi sợ
kinh khủng lại chế ngự anh – anh không thể cảm nhận. Anh có thể suy luận; anh
có thể đọc, Dante chẳng hạn, một cách hoàn toàn dễ dàng… anh có thể cộng tờ hóa
đơn của mình; bộ não của anh hoàn hảo; hẳn đây là lỗi của thế giới – rằng anh
không thể cảm nhận.”
Những
từ “không thể cảm thấy”, “không thể cảm nhận” cứ lặp đi lặp lại trong tác phẩm,
lặp đi lặp lại trong ý thức và tiềm thức và của Septimus, và anh kết luận:
“Vậy là không có gì để biện minh; không có gì, bất kể vấn đề
thế nào, trừ tội lỗi mà vì nó bản chất con người đã tuyên án tử hình anh; rằng
anh không cảm nhận được. Anh đã không quan tâm khi Evans bị giết; điều đó tệ hại
nhất; nhưng tất cả những tội ác khác bên trên cái chấn song giường vào những giờ
đầu buổi sáng cũng ngóc đầu lên, búng ngón tay, cười nhạo và châm chọc cái thân
thể sóng soài đang nằm nhận thức về sự thoái hóa của nó; anh đã cưới vợ mình mà
không yêu cô ta ra sao; đã nói dối cô ta; đã quyến rũ cô ta ra sao; đã sỉ nhục
cô Isabel Pole, và bị đánh dấu, đầy những vết rỗ đồi bại đến nỗi những người phụ
nữ phải rùng mình khi họ nhìn thấy anh trên phố ra sao. Phán quyết của bản chất
con người đối với một kẻ xấu xa đến thế là cái chết.”
Septimus nhiều lần nhắc tới từ tự sát, nhưng trong thâm tâm
anh không muốn chết. Mâu thuẫn là thế! Anh nghĩ:
“Vậy là anh đã bị bỏ rơi. Toàn thế giới đang gào thét: Hãy tự
sát, hãy tự sát đi, vì chúng tôi. Nhưng tại sao anh phải tự sát vì họ chứ? Thức
ăn là một lạc thú; mặt trời nóng ấm; và việc tự sát này, người ta thực hiện nó
bằng cách nào, với một con dao ăn, một cách xấu xí, với những vòi máu – bằng
cách hít một cái ống dẫn khí đốt chăng?...”
Và trước khi quăng mình từ cửa sổ căn nhà trọ xuống cái hàng
rào song sắt, anh vẫn nghĩ:
“(Anh ngồi lên bệ cửa sổ.) Nhưng anh sẽ chờ cho tới giây phút
cuối. Anh không muốn chết. Cuộc sống thật tốt đẹp. Mặt trời nóng ấm. Chỉ có con
người – họ muốn gì nhỉ?”
Ngay cả với bà Dalloway, một phụ nữ thuộc tầng lớp thượng
lưu, yêu cuộc sống và những thú vui vụn vặt hàng ngày của nó, ví dụ những bữa
tiệc do bà tổ chức, chiến tranh và cái chết cũng mơ hồ lẫn khuất, hiện diện đâu
đó trong cuộc sống quanh bà:
“Bởi giờ đang giữa tháng Sáu. Cuộc chiến tranh đã kết thúc,
ngoại trừ một ai đó như bà Foxcrott ở Đại sứ quán đêm qua đã đau xé cõi lòng vì
cậu thanh niên khôi ngô đó đã bị giết và giờ đây ngôi trang viên cũ phải chuyển
sang cho một người em họ; hoặc phu nhân Bexborough, người đã mở một cửa hàng
phúc thiện, người ta bảo, với bức điện tín trong tay bà ta, rằng John, đứa con
bà yêu mến nhất, đã bị giết chết; nhưng nó đã kết thúc; tạ ơn Trời – kết thúc.”
Hoặc nó xuất hiện ngay cả trong bữa tiệc của bà:
“Ồ! Clarissa nghĩ, giữa buổi tiệc của mình, đây là cái chết,
bà nghĩ.”
Và:
“Việc gì gia đình Bradshaw phải nói về cái chết trong bữa tiệc
của bà? Một người đàn ông trẻ đã tự sát. Và họ nói về nó trong bữa
tiệc của bà – vợ chồng nhà Bradshaw, nói về cái chết. Anh ta đã tự sát – nhưng
như thế nào? Luôn luôn thân thể bà đi qua nó trước nhất, khi bà được kể lại, một
cách đột ngột, về một tai nạn; chiếc áo của bà bùng cháy, thân thể của bà bị
thiêu rụi. Anh ta đã tự quăng người ra khỏi một cửa sổ. Mặt đất chợt lóe sáng;
những que sắt nhọn đầu xuyên qua thân người tím bầm của anh ta, một cách sai lầm.
Anh ta nằm đó với một tiếng rơi uỵch, uỵch, uỵch trong bộ não, và rồi
một màu tối đen nghẹt thở. Bà nhìn thấy nó như thế. Nhưng vì sao anh ta làm điều
đó? Và vợ chồng nhà Bradshaw đã nói về nó trong bữa tiệc của bà!”
Bên trên, tác giả thổ lộ với chúng ta về ý đồ sáng tác của bà
đối với tác phẩm, là nói về cuộc sống và cái chết, sự tỉnh táo và sự mất trí,
phê phán hệ thống xã hội… Chúng ta đã thử điểm qua về cái chết, sự mất trí. Vậy
còn cuộc sống, sự tỉnh táo, và hệ thống xã hội thì sao?
Mỗi nhân vật của Mrs. Dalloway, dù chính hay phụ, dù xuất hiện
nhiều lần hay chỉ trong một đoạn, một dòng duy nhất, cũng đều thể hiện sự muôn
màu muôn vẻ của tính cách con người, và đã thật sự góp phần vào bức tranh tổng
thể, đem đến thành công cho tác phẩm.
Bà Dalloway là một nhân vật vừa đơn giản lại vừa phức tạp,
thường xuyên đấu tranh để cân bằng đời sống nội tâm với thế giới bên ngoài. Ở
ngoại diện là những thứ lấp lánh, quần áo đẹp, những bữa tiệc, và mối quan hệ với
tầng lớp thượng lưu, nhưng sâu bên dưới bề mặt đó là một cuộc kiếm tìm ý nghĩa
đích thực của cuộc sống, bản chất của linh hồn. Bà thích tổ chức những bữa tiệc
là “để trao tặng; để kết hợp, để sáng tạo”:
“Nhưng nếu đi sâu hơn, bên dưới những gì mọi người nói (và những
phán xét này thật nông cạn, thật chắp vá biết bao!) trong tâm trí của bà lúc
này, nó có ý nghĩa gì với bà, cái điều mà bà gọi là cuộc đời này? Ôi, nó thật lạ
lùng. Đây là Ngài nào đó ở South Kensingtin; một ai đó ở Bayswater; và một ai
đó khác, chẳng hạn, ở Mayfair. Và bà cảm thấy một ý thức liên tục về sự tồn tại
của họ; bà cảm thấy thật lãng phí biết bao; bà cảm thấy thật đáng tiếc biết
bao; bà cảm thấy giá như bà có thể đưa họ tới gần nhau; thế là bà làm điều đó.
Và đó là một sự trao tặng; để kết hợp, để sáng tạo; nhưng cho ai?
Một sự trao tặng vì chính sự trao tặng, có lẽ.”
Bà ghét cô Kilman, gia sư dạy môn lịch sử cho Elizabeth, con
gái của bà, vì cô ta ăn mặc xấu xí, lúc nào cũng chỉ “một cái áo khoác đi mưa,”
vì cô ta “tước đoạt khỏi bà” Elizabeth. Nhưng bà cũng nghĩ rằng cô Kilman là “kẻ
thù của bà: tình yêu của bà.”
Thường xuyên trong bà là sự phân tranh giữa những đam mê thật
sự và một nếp sống thượng lưu dễ chịu mà bà yêu thích. Nhưng cuối cùng, bà nhượng
bộ cuộc sống, và bằng cách nhượng bộ, rốt cuộc bà lại là người chiến thắng.
Thông qua các nhân vật như Phu nhân Bruton, bác sĩ Holmes,
bác sĩ William Bradshaw, ông Thủ tướng, Virginia Woolf cũng đã phê phán tầng lớp
thượng lưu London, đặc biệt là giới bác sĩ, một cách sâu sắc và tinh
tế, đôi khi nhuốm vẻ mỉa mai. Họ là những kẻ thích áp chế người khác, áp đặt những
điều mình muốn lên toàn thế giới; là những kẻ ảo tưởng về một Đế chế đã lụi
tàn.
Bản thân nhân vật Peter Walsh không có gì ấn tượng, chỉ là một
người đàn ông đa cảm và thiếu quyết đoán. Tuy nhiên, qua hồi ức và những suy nghĩ
của ông, chúng ta hiểu rõ hơn về Clarissa và Sally Seton.
Cô Kilman, gia sư môn lịch sử cho Elizabeth và bà Ellie
Henderson là hai nhân vật khá thú vị. Sally Seton, một cô gái táo tợn, thông
minh khi còn trẻ và một phu nhân Rosschester trung niên tới dự bữa tiệc cũng là
một nhân vật khá đặc biệt, nhưng xuất hiện phần nhiều trong hồi ức của Clarissa
Dalloway và Peter Walsh. Sự hiện diện thật sự của nhân vật này trong bữa tiệc
không có gì nổi bật. Nụ hôn của Sally trao cho Clarissa vào một đêm giữa vườn rau
mang tính chất tình yêu đồng tính, ít ra là về phía Clarissa, vì bà vẫn lưu giữ
mãi ấn tượng về nó.
Elizabeth, con gái của Richard và Clarissa là một cô bé mười
bảy tuổi xinh đẹp, có ước mơ trở thành một bác sĩ hay chủ nông trại.
Thời gian là một yếu tố chi phối toàn tác phẩm. Tiếng chuông
Big Ben và những cái đồng hồ điểm giờ hầu như hiện diện từ đầu tới cuối tác phẩm.
Những tiếng chuông biểu thị sự “bất khả vãn hồi” của thời gian. Quá khứ êm dịu
hay cay đắng, hạnh phúc hay đau khổ đan xen với thực tại trong tâm thức của từng
nhân vật. Bản thân Virginia Woold lúc đầu cũng định đặt tựa đề cho tác phẩm là
Thời khắc (The Hours).
Dĩ nhiên trên đây là những nhận định rất sơ lược, đầy tính chủ
quan để giúp độc giả có một ý niệm khái quát về tác phẩm. Người dịch rất mong
các bạn có thể phát hiện thêm nhiều yếu tố sau khi đọc và sẽ yêu thích tác phẩm
qua bản dịch này. Nếu bạn cảm thấy tác phẩm không hay, đó chắc chắn là do khả
năng của người dịch còn hạn chế, dù đã cố hết sức mình. Xin chân thành cám ơn mọi
ý kiến đóng góp của các bạn.
Sài Gòn, 10/2012
Nguyễn Thành Nhân
[2] Ông đoạt giải Pulitzer và giải PEN/ Faulkner về văn học hư cấu
trong cùng năm 1999 với tác phẩm Thời khắc (The Hours – xuất bản 1998). Bộ phim
cùng tên chuyển thể từ tác phẩm (đạo diễn Stephen
Daldry; kịch bản phim David Hare, diễn viên Nicole
Kidman, Meryl Streep, Julianne
Moore và Ed Harris) đã được đề cử chín giải Oscar năm 2002 và
Nicole Kidman đã đoạt giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất năm đó với vai
Virginia Woolf.
Bà Dalloway bảo bà sẽ tự đi mua hoa.
Vì Lucy có công việc phù hợp với cô ta. Mấy cánh cửa sẽ được
tháo khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer sẽ tới. Và sau đó, Clarissa
Dalloway nghĩ, thật là một buổi sáng tuyệt vời – tươi tắn như thể được ban phát
cho lũ trẻ con trên bờ biển.
Thật hân hoan! Thật chìm đắm! Vì dường như đối với bà, khi những
cái bản lề kêu rít lên, như lúc này bà có thể nghe, bà phải mở tung những khung
cửa sổ kiểu Pháp và lao người vào bầu không khí thoáng đãng của Bourton. Trong
lành biết bao, êm ả biết bao, dĩ nhiên là yên tĩnh hơn lúc này, bầu không khí sớm
mai hồi ấy giống như tiếng vỗ của một làn sóng; nụ hôn của một làn sóng; lạnh
và gắt, thế nhưng nghiêm trang (với một cô gái mười tám tuổi như bà thuở ấy), khi
bà cảm thấy như đã từng cảm thấy lúc đứng đó ở khung cửa sổ mở, rằng một điều
gì đó kinh khủng sắp xảy ra; khi nhìn những bụi hoa, những cây cối với làn khói
ngoằn ngoèo lan tỏa và những con quạ đang vọt lên, sà xuống; đứng và nhìn cho tới
khi Peter Walsh bảo: “Đang suy tư giữa đám rau củ hả? – Phải thế không? – “Tôi
thích những người đàn ông hơn là những cây cải bắp” – Phải thế không? Hẳn ông ấy
đã nói thế vào bữa điểm tâm của một sớm mai nào đó khi bà đã bước ra trước sân
hiên – Peter Walsh. Một hôm nào đó, trong tháng Sáu hoặc tháng Bảy này, bà quên
mất là tháng nào, ông ấy sẽ trở về từ Ấn Độ, vì những lá thư của ông ấy cực kỳ
buồn nản; những câu nói của ông ấy chính là thứ làm cho người ta nhớ; đôi mắt,
con dao nhíp, nụ cười, tính tình gắt gỏng của ông ấy, và khi hàng triệu thứ đã
hoàn toàn biến mất, một vài câu nói như câu này về những cây cải bắp thật kỳ lạ
biết bao! Bà hơi cứng người lại chút đỉnh trên vệ đuờng, chờ chiếc xe tải của
Durtnall chạy qua. Một người phụ nữ quyến rũ, Scrope Purvis nghĩ về bà (ông ta
biết bà như người ta biết về những người sống bên cạnh nhà mình ở Westminster);
ở bà có cái dáng vẻ của một con chim, một nàng chim giẻ cùi, xanh lam, nhẹ
nhàng, sôi nổi, dù bà đã quá năm mươi, và đã bạc trắng mái đầu từ khi ngã bệnh.
Bà đứng đó, không hề nhìn thấy ông, chờ để băng qua đường, người thật thẳng.
Vì khi đã sống ở Westminster – bao nhiêu năm nhỉ? – hơn hai
mươi rồi – người ta cảm thấy thậm chí giữa những xe cộ giao thông qua lại, hay
khi tản bộ trong đêm, Clarissa luôn tỏ ra quả quyết, một sự im lặng, hay vẻ
nghiêm trang riêng biệt; một sự ngập ngừng vô tả, một trạng thái hồi hộp (nhưng
người ta bảo có thể đó là do tim bà đã chịu ảnh hưởng của bệnh cúm) trước khi
tháp Big Ben đổ chuông. Kia rồi! Nó đã trầm trầm vang dội. Đầu tiên là một âm
thanh cảnh báo, như âm nhạc, rồi tới thời khắc, bất khả vãn hồi. Những đường
tròn xám xịt nặng trĩu tan biến khỏi bầu không khí. Chúng ta thật là những kẻ
ngu xuẩn xiết bao, bà nghĩ khi băng qua phố Victoria. Vì chỉ có Trời mới biết
vì sao người ta yêu nó như thế, cách người ta nhìn nó như thế, tạo nên nó, dựng
nó lên xung quanh người ta, xô đổ nó, rồi mỗi khoảnh khắc lại làm mới nó; nhưng
những người đàn bà lôi thôi lếch thếch nhất, buồn nản hay bất hạnh nhất, đang
ngồi trên những bậc thềm (uống sự suy sụp của họ), làm một việc như nhau, không
thể bị xử lý bởi những đạo luật của Quốc hội; bà cảm thấy lạc quan, chính vì
nguyên nhân đó: họ yêu cuộc sống. Trong đôi mắt của mọi người, trong từng nhịp
điệu, bước đi nặng nề hay khó nhọc; trong âm thanh ồn ào nhiệt náo; những cỗ xe
ngựa, xe hơi, xe buýt, xe tải, những người bán sandwich ngược xuôi như những
con thoi; những ban nhạc kèn đồng; những cái đàn thùng; trong tiếng gầm vang đắc
thắng, lanh lảnh và cao vút lạ lùng của những chiếc phi cơ bên trên đầu là điều
mà bà yêu mến; cuộc sống; London; khoảnh khắc này của tháng Sáu.
Bởi giờ đang giữa tháng Sáu. Cuộc chiến tranh đã kết thúc,
ngoại trừ một ai đó như bà Foxcrott ở Đại sứ quán đêm qua đã đau xé cõi lòng vì
cậu thanh niên khôi ngô đó đã bị giết và giờ đây ngôi trang viên cũ phải chuyển
sang cho một người em họ; hoặc phu nhân Bexborough, người đã mở một cửa hàng
phúc thiện, người ta bảo, với bức điện tín trong tay bà ta, rằng John, đứa con
bà yêu mến nhất, đã bị giết chết; nhưng nó đã kết thúc; tạ ơn Trời – kết thúc.
Giờ là tháng Sáu. Đức Vua và Hoàng hậu đang ở trong Hoàng cung. Và khắp mọi
nơi, dù trời vẫn còn sớm lắm, có tiếng gõ móng ầm ầm của những con ngựa pony
đang phi nhanh, tiếng đập của những cây vợt crickê; sân Lords, Ascot và
Ravelagh và tất cả các sân chơi còn lại được bao bọc trong một bầu không khí mềm
mại, xanh xám, mà, khi ánh ngày lên, sẽ bung ra, và đáp xuống những thảm cỏ, những
mảnh sân nơi những con ngựa pony nhảy chồm lên, hai chân trước gõ mạnh lên mặt
đất, rồi phóng lên, những chàng thanh niên xoay tròn, những cô gái cười khanh
khách trong những chiếc váy muslin trong suốt, những kẻ mà ngay cả lúc này, sau
khi khiêu vũ suốt đêm, đang dắt những con chó lông xồm buồn cười đi dạo; và
ngay cả lúc này, vào giờ này, những quý bà thừa kế tước hiệu kín đáo đang phóng
ra phố trong những chiếc xe hơi để làm những việc nho nhỏ bí ẩn; và những người
chủ tiệm đang lu bu trong bên trong tiệm với những viên đá quý và kim cương, những
bộ trâm cài tóc cũ kỹ đáng yêu xanh màu biển hồi thế kỷ mười tám để dụ dỗ những
người Mỹ (nhưng người ta phải tiết kiệm, không vội vàng mua này mua nọ cho
Elizabeth), cả bà nữa, cũng yêu thích nó như trước kia với một niềm đam mê phi
lý và chân thật, là một phần của nó, vì ông cha của bà từng là triều thần dưới
thời các vua Georges; cả bà, ngay đêm đó cũng sẽ thắp sáng đèn đuốc để tổ chức
bữa tiệc của mình. Nhưng lạ lùng biết bao, khi bước vào công viên, sự thinh lặng;
màn sương mù; tiếng lao xao; những con vịt hạnh phúc đang bơi chậm rãi; những
con chim bồ nông đang bước lạch bạch; và kẻ đang đi tới, lưng quay về phía tòa
nhà Chính phủ một cách thích đáng nhất, mang theo một cái tráp có đóng dấu Quân
đội Hoàng gia có thể là ai nhỉ, còn ai khác ngoài Hugh Whitbread; ông bạn cũ
Hugh của bà – Hugh đáng ngưỡng mộ!
“Chúc buổi sáng tốt lành, Clarissa!” Hugh lên tiếng,
hơi cường điệu, vì họ đã quen biết nhau từ hồi còn bé. “Bà đi đâu vậy?”
“Tôi thích đi bộ trong thành London.” Bà Dalloway đáp. “Thật
sự, nó tốt hơn đi bộ ở miền quê.”
Không may là họ chỉ tới đây để khám bệnh. Những người khác tới
đây để ngắm những bức tranh; xem kịch opera; đưa con gái của họ đi dạo mát; còn
gia đình Whitbread thì đến “để khám bệnh.” Đã vô số lần Clarissa phải viếng
thăm Evelyn Whitbread trong căn phòng của bệnh xá. Phải chăng Evelyn lại ngã bệnh?
Evelyn thấy rất khó chịu trong người, Hugh nói, thể hiện qua cách bĩu môi hay bộ
quần áo bảnh bao, vẻ khôi ngô cực kỳ nam tính, và thân hình được che phủ một
cách hoàn hảo của ông (hầu như ông luôn ăn mặc rất trang nhã, nhưng người ta
cho là ông phải như vậy, với một công việc nho nhỏ trong Hoàng cung) rằng vợ của
ông bị yếu trong người, không có gì nghiêm trọng, với tư cách một người bạn cũ,
Clarissa Dalloway sẽ hoàn toàn thấu hiểu, không cần ông phải nói cụ thể. Ồ,
vâng, tất nhiên bà hiểu; thật phiền; và đồng thời cảm thấy một ý thức rất thân
thương, rất kỳ lạ, về cái mũ của mình. Không phải loại mũ dành cho buổi sáng sớm,
có phải không? Bởi Hugh luôn khiến cho bà cảm thấy, khi ông vội vã đi tiếp, giơ
cao mũ với vẻ khá ngông cuồng và bảo đảm với bà rằng bà có thể là một cô gái mười
tám tuổi, và dĩ nhiên ông sẽ tới dự buổi tiệc tối nay, Evelyn đã hoàn toàn dứt
khoát, chỉ có thể hơi muộn chút xíu, sau bữa tiệc ở Hoàng cung mà ông phải đưa
một trong mấy cậu con trai của Jim tới – bà luôn cảm thấy hơi thất thế bên cạnh
Hugh; giống như một nữ sinh; nhưng gắn bó với ông, phần vì luôn hiểu biết ông,
nhưng bà nghĩ ông là một gã tốt bụng theo cách của ông, dù suýt nữa ông đã khiến
cho Richard nổi điên lên, còn về phần Peter Walsh, mãi tới hôm nay ông ấy vẫn
chưa bao giờ tha thứ cho bà về việc ưa thích Hugh.
Bà có thể nhớ hết cảnh tượng này sang cảnh tượng khác ở
Bourton – Peter nổi giận; Hugh thì không, dĩ nhiên, cỡ nào ông cũng hòa đồng được,
nhưng vẫn không phải là một vẻ khờ khạo tích cực như kiểu của Peter; không đơn
giản là một cái hình nộm để gắn tóc giả của một anh thợ hớt tóc. Khi bà mẹ già
của ông muốn ông thôi chụp ảnh hay đưa bà ấy tới Bath, ông thực hiện nó, không
nói lời nào; ông thật sự vị tha, còn về nhận định, như Peter từng bảo, rằng ông
không có quả tim, không có đầu óc, không có thứ gì ngoài những cung cách hành xử
và nền giáo dục của một quý ông người Anh, thì đó là điều tệ hại nhất ở Peter
thân yêu của bà; và Hugh đáng được khoan dung; có thể khó mà chịu nổi ông,
nhưng ông lại rất đáng yêu khi cùng tản bộ với nhau trong một buổi sáng như hôm
nay.
(Tháng Sáu đã ló dạng trên từng chiếc lá của những hàng cây.
Những bà mẹ ở khu Pimlico đang cho con bú. Các thông điệp đang được chuyển từ Hạm
đội tới Bộ Hải quân. Có vẻ như phố Arlington và Piccadilly đã phá vỡ bầu không
khí trong công viên và nâng cao, một cách sôi nổi nhiệt tình, những chiếc lá của
nó, trên những đợt sóng của sức sống thiêng liêng mà Clarissa yêu mến. Để nhảy
múa, để lướt trôi, bà yêu thích tất cả những điều đó.)
Vì có vẻ như họ đã xa cách nhau suốt mấy trăm năm, bà và
Peter; bà chưa bao giờ viết lá thư nào, còn những lá thư của ông ấy thì khô khốc;
nhưng đột nhiên bà chợt nảy ra ý nghĩ, Nếu bây giờ ông ấy ở đây với mình, ông ấy
sẽ nói gì? – một số ngày, một số cảnh tượng đã mang ông ấy trở về với bà một
cách bình thản, không còn nỗi cay đắng cũ; có lẽ đây là sự tưởng thưởng cho việc
quan tâm tới mọi người; họ đã quay lại giữa công viên St. James vào một sáng đẹp
trời, thật vậy. Nhưng Peter – bất chấp ngày hôm đó có thể đẹp cỡ nào, những cây
cối và hoa cỏ, và cô gái nhỏ mặc áo hồng – Peter không bao giờ trông thấy thứ
nào trong tất cả những điều đó. Ông ấy sẽ đeo kính vào, nếu bà bảo ông ấy; ông ấy
sẽ nhìn. Điều mà ông quan tâm là tình trạng của thế giới; vĩnh viễn vẫn là thơ
của Wagner [1], Pope [2], tính cách của
mọi người, và những nhược điểm của linh hồn bà. Ông ấy đã trách móc bà thậm tệ
biết bao! Họ đã tranh cãi nhiều biết bao! Bà sẽ lấy một ông thủ tướng và đứng ở
đầu cầu thang; ông ấy đã gọi bà là nữ chủ nhân hoàn hảo (bà đã khóc vì câu nói
đó trong phòng ngủ), bà có những phẩm chất của nữ chủ nhân hoàn hảo, ông ấy bảo.
Thế
nên bà vẫn sẽ nhận ra mình đang tranh luận ở công viên St. James, vẫn chứng tỏ rằng
bà đúng – và bà cũng đã không kết hôn với ông ấy. Vì trong hôn nhân, cần phải
có một tờ chứng nhận nho nhỏ, một sự độc lập nho nhỏ giữa những người sống
chung hết ngày này sang ngày khác trong cùng một ngôi nhà; thứ mà Richard đã
cho bà, và bà đã cho ông ấy. (Chẳng hạn, sáng nay ông ấy đi đâu? Một ủy ban nào
đó, bà chưa bao giờ hỏi đó là ủy ban gì?) Nhưng với Peter, mọi thứ phải được
chia sẻ; mọi thứ phải được thảo luận. Và điều đó thật quá sức chịu đựng, và khi
cái cảnh tượng đó diễn ra trong khu vườn nhỏ, cạnh đài phun nước, bà phải chia
tay với ông, không thì họ sẽ bị hủy diệt, cả hai người đều bị hủy hoại, bà tin
chắc vậy; dù bà đã mang theo suốt nhiều năm, như một mũi tên ghăm chặt vào tim,
nỗi u sầu, thống khổ; thế rồi sự kinh khủng của khoảnh khắc khi ai đó nói với
bà trong một buổi hòa nhạc rằng ông ấy đã cưới một người phụ nữ gặp gỡ trên một
con tàu sang Ấn Độ! Bà không bao giờ quên được tất cả những chuyện ấy! Ông ấy gọi
bà là một kẻ lạnh lùng, tàn nhẫn, đoan trang vờ vịch. Bà không bao giờ hiểu ông
ấy thích thế nào. Nhưng có lẽ những người đàn bà Ấn Độ đó làm được – những cô
nàng khờ dại, xinh xắn, mong manh, ngốc nghếch. Và bà đã phí hoài lòng thương hại
của mình. Vì ông ấy hoàn toàn hạnh phúc, ông ấy quả quyết với bà – hoàn toàn hạnh
phúc, dù ông ấy chưa hề làm một điều nào mà họ từng nói tới; trọn cuộc đời ông ấy
là một sự thất bại. Điều này vẫn còn khiến cho bà nổi giận.
Bà
đã tới cổng công viên. Bà đứng một hồi, nhìn những chiếc xe buýt hai tầng trên
phố Piccadilly.
Giờ
bà sẽ không nói với bất kỳ một ai trên đời rằng họ như thế này hoặc như thế nọ.
Bà cảm thấy rất trẻ trung; đồng thời lại già nua vô tả. Bà xắn như một lưỡi dao
qua mọi thứ; đồng thời lại ở ngoài lề, dõi nhìn theo. Bà có một cảm giác thường
xuyên, trong lúc quan sát những chiếc taxi, về tình trạng ở xa, thật xa, ngoài
biển khơi và cô độc; bà luôn có cảm giác rằng sống dù chỉ một ngày là rất, rất
nguy hiểm. Bà không nghĩ rằng mình thông minh hay quá khác biệt. Bà không thể
nghĩ ra làm thế nào bà có thể đi qua cuộc đời dựa vào vài nhánh kiến thức mà cô
Daniels đã trao cho họ. Bà chẳng biết gì hết; ngôn ngữ không, lịch sử không; hiện
giờ bà ít khi đọc một cuốn sách, ngoại trừ những cuốn hồi ký khi lên giường; thế
nhưng đối với bà nó cực kỳ hấp dẫn, tất cả những thứ này; những chiếc xe taxi
chạy ngang qua; và bà sẽ không nói về Peter. Bà sẽ không nói về mình, Tôi thế
này, Tôi thế nọ.
Tài
năng thiên phú duy nhất của bà là hiểu biết mọi người hầu như bằng bản năng, bà
nghĩ, tiếp tục bước đi. Nếu bạn bỏ bà vào một căn phòng với ai đó, lưng bà sẽ
cong lên như lưng một con mèo; hoặc bà sẽ kêu rừ rừ như mèo. Tòa nhà
Devonshire, tòa nhà Bath, ngôi nhà có con vẹt mào Trung Quốc, có lần bà đã nhìn
thấy chúng sáng rực ánh đèn; và nhớ tới Sylvia, Fred, Sally Seton – những vị chủ
nhà hiếu khách; và cuộc khiêu vũ suốt đêm; những cỗ xe ngựa ra chợ nặng nề lướt
qua; và trở về nhà qua công viên. Bà nhớ có lần đã ném một đồng siling xuống hồ
Serpertine. Nhưng người ta nhớ mọi thứ; cái bà thích là điều này, tại đây, ngay
lúc này, trước mặt bà; vị phu nhân mập mạp trong cỗ xe. Vậy có quan trọng gì
không, bà tự hỏi, việc đi về phía phố Bond, có gì quan trọng không khi bà phải
từ bỏ hoàn toàn, không tài nào tránh khỏi; tất cả những thứ này phải tiếp diễn
mà không có bà; bà có ghét bỏ nó không? hay niềm tin rằng cái chết là sự kết
thúc hoàn toàn không mang lại chút an ủi nào? nhưng theo cách nào đó, trên những
đường phố London, trên sự thăng trầm của vạn vật, ở đây, ở đó, bà đã sống sót,
Peter đã sống sót, sống trong nhau, bà là một phần, bà chắc chắn, của những cây
cối ở nhà, của ngôi nhà ở đó, xấu xí, tất cả tan rã thành từng mảnh như đã diễn
ra; là một phần của những người bà chưa bao giờ gặp; đang trải ra như một làn
sương mù giữa những người bà biết rõ nhất, những người nâng bà lên nhánh cây của
họ như bà đã nhìn thấy những cây cối nâng một làn sương, nhưng nó lan trải ra
xa mãi, cuộc đời bà, bản thân bà. Nhưng bà đã mơ gì khi nhìn vào cửa sổ tiệm của
Hatchard? Bà đang cố khôi phục lại điều gì? Hình ảnh bình minh trắng nào ở miền
quê, như bà đã đọc trong cuốn sách bày bán công khai:
Đừng
e sợ nữa sức nóng của vầng thái dương,
Cái
lứa tuổi muộn màng này của kinh nghiệm trần thế đã nuốt chững tất cả bọn họ,
đàn ông và phụ nữ, một cái giếng đầy nước mắt. Những giọt lệ và những nỗi u sầu
của lòng can đảm và sự chịu đựng; một thái độ thẳng thắn và khắc kỷ tới độ hoàn
hảo. Cứ nghĩ, chẳng hạn, về người phụ nữ mà bà ngưỡng mộ nhất, Phu nhân
Bexborough, đang mở cửa hàng phúc thiện.
Có
cuốn “Những chuyến dạo chơi và những cuộc hội hè của Jorrocks”[4]; có cuốn “Xát
xà bông”[5], “Những hồi ức
của bà Asquith”[6] và “Săn
thú lớn ở Nigeria”[7], tất cả đều
bày bán công khai. Luôn có rất nhiều cuốn sách; nhưng dường như không có cuốn
nào hoàn toàn thích hợp để mang tới dưỡng đường cho Evelyn Whitbread.
Khi
Clarissa bước vào phòng, không thứ gì có thể giúp cho bà ấy vui lên và làm cho
vẻ ngoài của người phụ nữ nhỏ bé đã khô héo không tài nào tả xiết đó trở nên
thân mật, dù chỉ trong khoảnh khắc; trước khi họ lấy lại sự điềm tĩnh cho cuộc
chuyện trò tràng giang đại hải thông thường về những chứng bệnh của phụ nữ. Bà mong
muốn điều đó biết bao – rằng trông mọi người sẽ hài lòng khi bà bước vào,
Clarissa thầm nghĩ và quay lưng bước trở lại phía phố Bond, bực dọc, vì việc phải
có những lý do khác để làm các thứ là điều xuẩn ngốc. Có lẽ tốt hơn bà nên nằm
trong số những người giống như Richard, những kẻ làm các thứ là vì chính bản
thân chúng, bà nghĩ, chờ để băng qua đường, nửa phần thời gian bà đã làm những
thứ không đơn giản, không vì chính bản thân chúng; mà là để mọi người suy nghĩ
thế này thế khác; bà biết vậy là hoàn toàn ngu ngốc (và lúc này viên cảnh sát
giơ bàn tay lên) vì chưa hề có ai bị lừa dù chỉ trong một giây. Hoặc giá mà bà
có thể sống lại một lần nữa đời mình! bà nghĩ, bước lên vệ đường, thậm chí có
thể nhìn theo một cách khác hẳn!
Trước
hết, bà sẽ ngăm ngăm như Phu nhân Bexborough, với một làn da giống như da thuộc
và đôi mắt xinh đẹp. Bà sẽ, giống như Phu nhân Bexborough, chậm rãi và trang
nghiêm; khá to con; quan tâm tới chính trị như một gã đàn ông; với một ngôi nhà
nông thôn; rất có phẩm cách, rất chân thành. Thay vì thế, bà có một thân hình
nhỏ nhắn mảnh khảnh; một gương mặt nhỏ bé buồn cười, nhọn như mỏ của một con
chim. Đúng là bà duy trì tốt vóc dáng của mình; có đôi bàn tay và bàn chân đẹp,
và ăn mặc coi được, nếu xét tới việc bà tiêu tiền ít. Nhưng thường thường hiện
giờ, cái thân thể bà mang (bà dừng lại để nhìn một bức tranh Hà Lan), cái thân
thể này, với mọi khả năng của nó, dường như không có gì – không có gì cả. Bà có
một ý nghĩ kỳ quặc nhất về việc mình trở nên vô hình; không ai nhìn thấy; không
ai biết tới; lúc này không còn hôn nhân, không còn con cái, mà chỉ còn quá
trình lạ lùng và khá nghiêm trang với số còn lại bọn họ, ngược lên phố Bond, bà
Dalloway đang hiện hữu này; thậm chí không còn Clarissa; chỉ bà Richard
Dalloway đang hiện hữu này.
Phố
Bond mê hoặc bà; phố Bond vào buổi sớm mai của mùa này; những lá cờ đang tung
bay; những cửa hiệu; không nước văng tung tóe; không ánh sáng lấp lánh; một cuộn
vải tuýt trong cửa tiệm nơi cha bà đã mua những bộ comlê trong suốt năm mươi
năm; vài hạt ngọc trai; cá hồi trên một tảng nước đá.
“Đó
là tất cả,” bà nói, nhìn tiệm của người bán cá. “Đó là tất cả,” bà lặp lại, dừng
lại giây lát ở cửa sổ của một tiệm bán găng tay, nơi mà, trước chiến tranh, bạn
có thể mua những đôi găng tay gần như tuyệt hảo. Và ông chú già William của bà
thường bảo một quý cô được biết tới nhờ giày và găng tay của cô ta. Một sáng nọ
giữa cuộc chiến ông đã trở người trên cái giường. Ông đã nói, “Chú đã có đủ rồi.”
Những đôi găng tay và giày; bà có một đam mê đối với những đôi găng tay; nhưng
con gái của bà, Elizabeth của bà, không hề quan tâm tới thứ nào trong số đó.
Không
một mảy may, bà nghĩ, đi tiếp dọc phố Bond tới một cửa hiệu nơi họ để dành hoa
cho bà khi bà tổ chức một bữa tiệc. Elizabeth thật sự quan tâm tới con chó của
nó hơn tất cả mọi thứ. Cả ngôi nhà sáng nay đầy mùi hắc ín. Tuy nhiên con chó
Grizzle tội nghiệp vẫn tốt hơn là cô Kilman; chứng sốt ho của chó và hắc ín và
tất cả những thứ còn lại vẫn tốt hơn là việc ngồi ê a trong một căn phòng ngủ
ngột ngạt với một cuốn kinh cầu nguyện! Tốt hơn bất cứ thứ gì, bà có ý muốn nói
thế. Nhưng có thể nó chỉ là một cụm từ, như Richard nói, giống cụm từ cửa miệng
của tất cả mọi cô gái. Có thể đó là trạng thái của tình yêu. Nhưng sao lại với
cô Kilman? Người dĩ nhiên đã bị đối xử một cách tệ hại; người ta phải khoan
dung cho điều đó, và Richard bảo cô ta có khả năng, thật sự có đầu óc về mặt lịch
sử. Dù sao, không thể tách rời họ được, và Elizabeth, con gái của bà, đã tới dự
cuộc họp nhóm đạo; nó đã ăn mặc đẹp biết bao, nó đã đối xử tốt biết bao với những
người tới ăn trưa mà nó không hề quan tâm chút xíu nào, theo kinh nghiệm của
bà, trạng thái mê ly trong tôn giáo khiến mọi người trở nên tàn nhẫn (những
chính nghĩa cũng vậy); làm u mê những cảm giác của họ, vì cô Kilman sẽ làm bất
cứ điều gì cho những người Nga, chịu đói gần chết vì những người Úc, nhưng lại
kín đáo gây đau khổ cho người khác; cô ta rất vô cảm, mặc một cái áo khoác vải
cao su màu lục. Cô ta mặc cái áo đó hết năm này sang năm khác; cô ta toát mồ
hôi; cô ta không bao giờ ở trong phòng năm phút mà không khiến cho bạn cảm thấy
sự ưu việt của cô ta, sự thấp kém của bạn; cô ta nghèo khổ ra sao; bạn giàu có
ra sao; cô ta sống ra sao trong một khu ổ chuột, không một tấm màn, một cái giường,
một tấm thảm hay bất cứ thứ gì có thể có, toàn bộ linh hồn của cô ta trở nên
han rỉ với nỗi thống khổ gắn chặt vào nó; cô ta bị sa thải khỏi trường trung học
hồi chiến tranh – một con người tội nghiệp rất đỗi không may! Vì không phải người
ta ghét cô ta mà ghét cái ý tưởng về cô ta, mà không ngờ gì nữa, đã tự nó tập hợp
trong chính nó nhiều thứ không phải là cô Kilman; đã trở thành một trong những
bóng ma mà người ta chiến đấu với chúng trong đêm; một trong những bóng ma đứng
dạng chân bên trên chúng ta và hút lấy nửa phần máu huyết của chúng ta, những kẻ
thống trị và những tên bạo chúa; vì không ngờ gì nữa, với một cú gieo súc sắc
khác, hẳn bà sẽ yêu mến cô Kilman nếu như người da đen có địa vị cao hơn người
da trắng! Nhưng không phải trong cõi đời này. Không.
Tuy
nhiên, việc con quái vật hung bạo này khuấy động trong lòng khiến bà thấy khó
chịu! Việc nghe thấy tiếng những nhánh cây gãy răng rắc và cảm thấy những cái
móng guốc nện xuống những chiều sâu của khu rừng ngập lá đó, linh hồn; không
bao giờ cảm thấy hoàn toàn hài lòng, hay hoàn toàn có an ninh, vì con quái vật
đó sẽ khuấy động vào bất cứ lúc nào, niềm căm ghét đó, nhất là từ khi bà bị bệnh,
có khả năng khiến cho bà cảm thấy bị cào cấu, bị gây thương tổn bên trong xương
sống; mang tới cho bà nỗi đau thể chất, và khiến cho mọi lạc thú trong vẻ đẹp,
trong tình bạn, trong cuộc sống an lành, trong việc được yêu thương và mang lại
niềm vui cho ngôi nhà của bà bị chấn động, run rẩy và cong oằn như thể thật sự
có một con quái vật đang đào xới trên mái nhà, như thể toàn bộ chiếc áo giáp của
sự hài lòng không là gì khác ngoài tình yêu chính bản thân mình! Niềm căm ghét
này!
Vớ
vẩn, vớ vẩn! Bà kêu lên với chính mình, đi ào qua những cánh cửa xoay của những
tiệm bán hoa trên phố Mulberry.
Bà
tiến tới, nhẹ nhàng, cao, người rất thẳng, được chào hỏi ngay lập tức bởi cô
Pym có gương mặt tròn xoe và đôi bàn tay luôn đỏ ửng, như thể chúng đã bị nhúng
trong nước lạnh cùng với những nhánh hoa.
Một trang bản thảo viết tay tác phẩm Mrs Dalloway của Woolf
Có nhiều loại hoa: phi yến, đậu hoa, những chùm tử đinh hương; và hoa cẩm chướng,
hàng đống hoa cẩm chướng. Có hoa hồng; có hoa diên vĩ. Ồ, phải – bà hít vào mùi
thơm ngọt ngào của khu vườn địa đàng trong lúc đứng trò chuyện với cô Pym, người
chịu sự giúp đỡ của bà, và nghĩ rằng bà tử tế, vì bà đã tử tế từ nhiều năm trước;
rất tử tế, nhưng năm nay trông bà già hơn, đang xoay đầu từ phía này sang phía
khác giữa những đóa hoa diên vĩ và hoa hồng, và gật đầu chào những chùm tử đinh
hương với đôi mắt khép hờ, hít vào mùi thơm ngào ngạt, sự dịu mát tuyệt trần,
sau cảnh náo nhiệt trên phố xá. Và sau đó, khi mở mắt ra, những bông hồng nằm
trong những cái khay đan bằng nhánh liễu gai trông tươi tắn như tấm vải lanh xếp
nếp vừa mới giặt sạch từ một tiệm giặt ủi; và những bông cẩm chướng đỏ thẫm,
nghiêm trang, đang ngẩng cao đầu; và tất cả những bông đậu hoa trải ra trong những
cái bát, tím man mác, trắng tuyết, xanh nhạt – như thể đang là chiều tối và những
nàng thiếu nữ mặc váy dài vừa bước ra để hái những bông đậu hoa và bông hồng
sau khi một ngày hè huy hoàng, với bầu trời gần như xanh thẫm, với những đóa
hoa phi yến, hoa cẩm chướng và huệ trắng, đã trôi qua; và đây là khoảnh khắc giữa
sáu và bảy giờ khi mọi loài hoa – hoa hồng, phi yến, diên vĩ, tử đinh hương – tỏa
sáng; trắng, tím, đỏ, cam đậm; mỗi bông hoa dường như tự bốc cháy một cách mềm
mại, thuần khiết trong những luống đất mờ sương; và bà yêu biết bao những con
bướm đêm trắng xám đang bay vòng vòng, trên cái bánh nướng màu đỏ anh đào, trên
những đóa hoa anh thảo ban chiều!
Và
trong lúc bà bắt đầu đi cùng cô Pym từ chậu hoa này sang chậu hoa khác, chọn lựa,
bà tự nhủ, vớ vẩn, vớ vẩn, ngày càng dịu dàng hơn, như thể vẻ đẹp này, mùi thơm
này, màu sắc này, và việc cô Pym yêu quý bà, tin cậy bà, là một làn sóng mà bà
để cho lướt trôi qua người mình và trùm lên niềm căm ghét đó, con quái vật đó,
bao trùm lên tất cả; và nó nâng bà lên cao, lên cao mãi khi – Ồ! Có một tiếng
pít-tông nổ trên đường phố bên ngoài!
“Trời,
mấy chiếc xe hơi đó!” cô Pym nói, bước tới cửa sổ để nhìn, quay trở lại, với những
bông đậu hoa đầy ắp trên đôi cánh tay, và mỉm cười với vẻ hối lỗi như thể những
chiếc xe hơi đó, những cái lốp xe hơi đó, tất cả đều là lỗi của cô ta.
Cú
nổ thô bạo khiến cho bà Dalloway nhảy nhổm lên và cô Pym đi tới cửa sổ và xin lỗi
xuất phát từ một một chiếc xe hơi đã được lôi sang một phía vệ đường ngay đúng
chỗ đối diện với cửa sổ của tiệm Mulberry. Những khách qua đường dừng lại và
dòm ngó, dĩ nhiên, đã có đủ thời gian để nhìn thấy một gương mặt rất quan trọng
nổi lên trên tấm màn dày màu xám bồ câu, trước khi một bàn tay đàn ông kéo bức
màn xuống và người ta không còn thấy gì nữa trừ một ô vuông màu xám bồ câu.
Thế
nhưng lời đồn thổi ngay lập tức lan truyền từ giữa phố Bond tới phố Oxford ở đầu
này, tới tiệm nước hoa của Atkinson ở đầu kia, lan đi một cách vô hình, vô
thanh, như một đám mây mỏng như voan trôi nhanh trên những ngọn đồi, thật sự
buông rơi trên những gương mặt mà chỉ một giây trước đó cực kỳ rối loạn sự điềm
tĩnh và lặng lẽ bất ngờ của một đám mây. Nhưng giờ đây sự bí ẩn đã quét đôi
cánh của mình qua họ; họ đã nghe một giọng nói đầy quyền lực; linh hồn của tôn
giáo đang ra ngoài dạo chơi với đôi mắt che kín và đôi môi mở rộng. Nhưng không
ai biết người ta đã nhìn thấy gương mặt của ai. Có phải đó là mặt của Hoàng tử
xứ Wales, của Hoàng hậu, của Thủ tướng? Đó là gương mặt của ai? Không ai biết.
Edgar
J. Watkiss, với cuộn ống chì quấn quanh cánh tay, nói lớn tiếng, với một vẻ hài
hước, tất nhiên: “Xơ của Thủ táng.[8]”
Septimus
Warren Smith, kẻ nhận ra mình không thể đi qua, đã nghe thấy lời của anh ta.
Septimus
Warren Smith, độ ba mươi tuổi, mặt mày nhợt nhạt, mũi khoằm, mang một đôi giày
nâu và mặc một chiếc áo khoác tồi tàn, với đôi mắt màu nâu lục nhạt chứa đựng một
nỗi e sợ khiến cho những người hoàn toàn xa lạ cũng trở nên e sợ. Thế giới đã
vung ngọn roi của nó lên; nó sẽ hạ xuống chỗ nào?
Mọi
thứ trở nên bất động. Tiếng xình xịch của những động cơ xe hơi nghe như thể một
mạch máu đang đập dồn dập một cách bất thường qua toàn bộ một cơ thể. Mặt trời
trở nên nóng lạ lùng vì chiếc xe hơi đã dừng ở bên ngoài cửa sổ tiệm Mulberry;
những quý bà lớn tuổi trên tầng hai của những chiếc xe buýt hai tầng bung mấy
cái ô đen của họ ra; chỗ này một cái ô xanh lục, chỗ nọ một cái ô đỏ mở ra với
một tiếng bụp nho nhỏ. Bà Dalloway bước tới cửa sổ nhìn ra với đôi tay ôm đầy
những nhánh đậu hoa, gương mặt nhỏ nhắn hồng hào cau lại với vẻ dò hỏi. Mọi người
đều nhìn vào chiếc xe hơi. Septimus nhìn. Những cậu bé cưỡi xe đạp nhảy xuống
xe. Giao thông ùn tắt. Và chiếc xe hơi nằm chình ình ở đó, với những tấm màn buông
kín, và bên trên chúng là một hình vẽ lạ lùng giống như một cái cây, Septimus
nghĩ, và cái cây này dần dà thu hút mọi thứ tới một điểm trung tâm trước mắt
anh, như thể một điều kinh khủng nào đó đã gần như lên tới bề mặt và sắp sửa
bùng lên thành những ngọn lửa, khiến anh hoảng hốt. Thế giới chao động, run rẩy
và đe dọa bùng lên thành những ngọn lửa. Mình chính là người chắn đường, anh
nghĩ. Không phải mọi người đang nhìn ngó và chỉ vào anh; không phải anh đứng thừ
ra đó, chôn chân trên vỉa hè, là vì một mục đích hay sao? Nhưng vì mục đích gì?
“Chúng
ta đi tiếp đi, Septimus.” Vợ anh nói. Một phụ nữ nhỏ nhắn, với đôi mắt to trên
một gương mặt nhọn vàng bủng; một cô gái Ý.
Nhưng
bản thân Lucrezia không thể không nhìn vào chiếc xe và hình vẽ cái cây trên những
tấm màn. Có phải Hoàng hậu ở trong đó không – có phải bà đang đi mua sắm?
Tay
tài xế, lúc nãy đã mở thứ gì đó, xoay thứ gì đó, đóng thứ gì đó lại, trèo lại vào
xe.
“Đi thôi.” Lucrezia nói.
Nhưng
chồng cô, vì họ đã lấy nhau được bốn năm năm, nhảy chồm lên, nhìn chòng chọc,
và bảo: “Được rồi!” một cách giận dữ, như thể cô đã cắt ngang ý nghĩ của anh.
Hẳn mọi người đã chú ý; hẳn mọi người đã thấy. Mọi người, cô
nghĩ, nhìn đám đông đang chong mắt ngó vào chiếc xe hơi; người Anh, với con
cái, lũ ngựa và quần áo của họ, mà cô ngưỡng mộ theo cách nào đó; nhưng giờ họ
là “mọi người,” vì Septimus đã nói: “Tôi sẽ tự sát”; nói ra một điều kinh khủng
như thế. Giả sử họ đã nghe thấy anh ta? Cô nhìn đám đông. Giúp với, giúp với!
Cô muốn kêu lên với những cậu bé và những người phụ nữ giúp việc cho những ông
chủ hàng thịt. Giúp với! Mới mùa thu trước cô và Septimus đã đứng ở bến tàu, quấn
chung một tấm áo choàng, và Septimus đang đọc một tờ báo thay vì nói chuyện, cô
đã giật phắt nó khỏi tay anh và cười chế giễu ông già đang nhìn họ! Nhưng người
ta che đậy sự thất bại. Cô phải đưa anh ta vào một công viên nào đó.
“Giờ
chúng sẽ băng qua đường.” Cô nói.
Cô
ta có một quyền hạn đối với cánh tay của anh, dù anh không hề có chút cảm giác
nào. Anh sẽ trao tay cho cô ta, kẻ rất đơn giản, rất bốc đồng, chỉ mới hai mươi
bốn tuổi, không có người bạn nào ở Anh, đã rời nước Ý vì anh, một mẩu xương.
Chiếc
xe hơi với những tấm màn buông phủ và một vẻ bí hiểm tiếp tục tiến tới phố
Piccadilly, vẫn bị dòm ngó săm soi, vẫn làm cho những gương mặt ở cả hai bên đường
gợn lên cùng một hơi thở sùng kính ảm đạm mà không ai biết là dành cho Hoàng hậu,
Hoàng tử hay Thủ tướng. Bản thân gương mặt đó chỉ bị ba người nhìn thấy một lần
duy nhất trong vài giây. Ngay cả giới tính lúc này cũng đang trong vòng tranh
cãi. Nhưng chắc chắn là có nhân vật lớn đang ngồi trong đó; nhân vật lớn đã đi
ngang, ẩn nấp, xuôi xuống phố Bond, chỉ di chuyển cách những thường dân chiều rộng
của một bàn tay. Có thể đây là lần đầu tiên và lần cuối cùng họ ở trong phạm vi
nói chuyện với hoàng tộc nước Anh, với cái biểu tượng lâu dài của quốc gia sẽ
được những nhà khảo cổ hiếu kỳ biết tới, khi chọn lọc những tàn tích của thời
gian, khi London là một con đường mòn um tùm cỏ và tất cả những kẻ hối hả dọc vỉa
hè đó trong buổi sáng Thứ tư này chỉ còn là những khúc xương với vài chiếc nhẫn
cưới trộn lẫn trong tro tàn của họ và những lớp vàng trám răng của vô số cái
răng sâu. Khi đó gương mặt trong chiếc xe hơi sẽ được biết tới.
Có
lẽ đó là Hoàng hậu, bà Dalloway nghĩ, bước ra khỏi tiệm Mulberry với những bó
hoa; Hoàng hậu. Và trong giây lát, bà khoác lên một vẻ ngoài cực kỳ phẩm giá
khi đứng cạnh tiệm bán hoa dưới ánh mặt trời trong lúc chiếc xe chạy ngang qua
với vận tốc đi bộ, những tấm màn buông kín. Hoàng hậu sẽ tới một bệnh viện nào
đó; Hoàng hậu đang mở một cửa hàng phúc thiện nào đó, Clarissa nghĩ.
Sự
chen lấn xô đẩy thật là kinh khủng đối với giờ này trong ngày. Lords, Ascot,
Hurlingham, sân nào nhỉ? Bà tự hỏi, vì con đường đã bị nghẽn. Những tầng lớp
trung lưu nước Anh đang ngồi nghiêng người ở tầng trên những chiếc xe buýt hai
tầng với những cái gói và những chiếc ô, vâng, thậm chí cả áo lông, trong một
ngày như thế này, thật lố bịch, thật khác với bất cứ điều gì người ta có thể
hình dung; và bản thân Hoàng hậu đã bị trì hoãn; bản thân Hoàng hậu không thể
đi qua. Clarissa bị kẹt lại ở một phía của phố Brook; ngài John Buckhurst, vị
thẩm phán già ở phía bên kia, với chiếc xe ở giữa họ (ngài John đã nghỉ hưu nhiều
năm nay và ưa thích một phụ nữ ăn mặc đẹp) khi tay tài xế, hơi nghiêng người,
nói hay chỉ gì đó cho viên cảnh sát, tay này cúi đầu chào, giơ cánh tay lên và
hất đầu, dời chiếc xe buýt hai tầng sang một bên và chiếc xe hơi chạy qua. Chậm
rãi và rất yên lặng, nó tiến theo con đường của nó.
Clarissa đã đoán ra; Clarissa đã biết, tất nhiên; bà đã nhìn
thấy một cái gì đó màu trắng, kỳ diệu, hình tròn, trong bàn tay của tay người hầu,
một cái đĩa khắc một cái tên – của Hoàng hậu, của Hoàng tử xứ Wales, hay của Thủ
tướng? – mà, với sức mạnh tự thân của vẻ huy hoàng, đã lóe lên (Clarissa nhìn
thấy chiếc xe xa dần, biến mất) để bừng sáng giữa những giá đèn chùm, những vì
sao lấp lánh, những bộ ngực căng cứng với những chiếc lá sồi, Hugh Whitbread và
tất cả những đồng nghiệp của ông ta, những quý ông của nước Anh, trong đêm đó ở
điện Buckingham. Và cả Clarissa cũng tổ chức một bữa tiệc. Bà hơi cứng người một
chút; vì thế bà sẽ đứng ở đầu cầu thang.
Chiếc xe hơi đi khỏi, nhưng nó đã để lại một gợn sóng lăn tăn
tràn qua những cửa tiệm bán găng tay, tiệm bán mũ và tiệm may ở cả hai bên đường
của phố Bond. Trong ba mươi giây, tất cả những cái đầu đều nghiêng về một hướng
– tới cái cửa sổ. Chọn một cặp găng tay – chúng nên dài tới bên dưới hay bên
trên cùi chỏ, màu vàng chanh hay màu xám nhạt? – các quý bà dừng lại; khi
câu nói kết thúc đã có điều gì đó xảy ra. Một điều gì đó rất tầm thường
trong những trường hợp đơn lẻ mà không thiết bị toán học nào, dù có khả năng
truyền được những chấn động của Trung Quốc, có thể ghi lại sự rung động; thế
nhưng trạng thái viên mãn của nó khá dữ dội và sự tầm thường của nó đòi hỏi cảm
xúc; vì trong tất cả những tiệm mũ và tiệm may những người xa lạ nhìn nhau và
nghĩ tới những người chết; tới lá quốc kỳ; tới Đế chế. Trong một tiệm rượu ở một
phố hậu, một gã thuộc dân đã thóa mạ Hoàng gia Anh dẫn tới lời qua tiếng lại,
những ly bia bị vỡ, và một cuộc cãi lộn om xòm, vang dội đến lạ lùng suốt quãng
đường trong tai của những thiếu nữ đang mua áo lót trắng đính ruy băng trắng
cho đám cưới của họ. Bởi sự bối rối bề mặt của chiếc xe đang chạy ngang qua khi
chìm xuống đã lướt qua một điều gì đó rất sâu xa.
Lướt ngang qua phố Piccadilly, chiếc xe hơi quẹo xuống phố
St. James. Những người đàn ông cao lớn, những người đàn ông lực lưỡng, những
người đàn ông ăn mặc lịch sự với những chiếc áo đuôi tôm, áo sơ-mi trắng và tóc
chải vuốt ra sau gáy, những người, vì những lý do khó phân biệt, đang đứng
trong cửa sổ hình vòm của câu lạc bộ Brooks’s [9], với đôi bàn
tay đặt sau đuôi áo khoác, đang nhìn ra, ý thức một cách bản năng rằng nhân vật
lớn vừa mới đi ngang, và ánh sáng nhợt nhạt của sự hiện diện bất tử trùm lên họ
như đã trùm lên Clarissa Dalloway. Ngay lập tức, họ đứng thậm chí thẳng hơn, bỏ
tay xuống, và dường như sẵn sàng theo chân Quốc chủ của họ, nếu cần, tới họng
khẩu đại bác, như những tiền nhân của họ đã làm trước đó. Những bức tượng bán
thân trắng toát và những cái bàn nhỏ ở phía sau, bị che lấp bởi những cuốn tạp
chí Tatler và những chai xô-đa, dường như cũng tán thành; dường như biểu thị
cho cánh đồng lúa xào xạc và những thái ấp của nước Anh, và đáp lại tiếng bánh
xe lăn lao xao như những bức tường của một hành lang thì thầm mở rộng và tạo âm
vang cho một giọng nói đơn lẻ bởi sức mạnh của toàn thể một giáo đường. Shawled
Moll với những bó hoa của mình trên vệ đường đã chúc cậu bé thân yêu an lành (tất
nhiên đó là Hoàng tử xứ Wales) và hẳn sẽ tung số tiền bằng giá của một ca bia –
một bó hoa hồng – vào phố St. James vì sự bốc đồng và lòng khinh miệt sự nghèo
túng nếu như bà không nhìn thấy ánh mắt của viên cảnh sát đang dán vào mình,
làm thui chột lòng trung thành của một bà già Ái Nhĩ Lan. Những tay lính gác ở
phố St. James cúi chào; viên cảnh vệ của Hoàng hậu Alexandra tiếp nhận.
Trong lúc đó một đám đông nhỏ đã tập trung ở những cánh cổng
của Điện Buckingham. Cả bọn đều là những người nghèo, bơ phờ nhưng tự tin, họ
chờ đợi; nhìn vào bản thân cung điện với lá cờ đang tung bay; nhìn vào tượng Nữ
hoàng Victoria sừng sững trên cái bục, ngưỡng mộ những thềm nước chảy của bà,
những bụi phong lữ của bà; chọn từ những chiếc xe hơi trên đường The Mall, trước
tiên chiếc này, rồi tới chiếc kia, tỏ bày cảm xúc một cách vô ích với những thường
dân lái xe ra phố; khôi phục lại lòng tôn kính của họ, gìn giữ không để cho nó
lụi tàn trong lúc hết chiếc xe hơi này tới chiếc khác chạy qua; và suốt thời
gian đó vẫn để cho lời đồn tích tụ lại trong huyết mạch của họ và rung động những
dây thần kinh trong đùi họ với ý nghĩ về việc Hoàng gia đang nhìn họ; Hoàng hậu
đang chào; Hoàng tử đang chào; với ý nghĩ về cuộc sống thiên đường mà những vị
vua đã được ban tặng một cách tuyệt vời; về những viên quan hầu cận và những
cái nhún gối sâu; về căn nhà búp bê của Hoàng hậu; về việc Công chúa Mary đã lấy
một người Anh, và Hoàng tử – Chà! Hoàng tử! người giống Đức vua già Edward một
cách kỳ diệu, họ bảo, nhưng mảnh mai hơn nhiều. Hoàng tử sống ở phố St. James;
nhưng chàng có thể tới thăm mẹ chàng vào buổi sáng.
Sarah
Bletchley nói thế với đứa bé trên tay chị, nhón lên nhón xuống như thể chị đang
đứng cạnh tấm chắn lò sưởi của mình ở Pimlico, nhưng vẫn dõi mắt vào con đường,
trong lúc Emily Coates nhìn khắp các những cửa sổ cung điện và nghĩ tới những
nàng hầu, vô số nàng hầu, những căn phòng ngủ, vô số căn phòng ngủ. Đám đông
tăng lên khi có sự tham gia của một quý ông cao tuổi cùng một con chó săn
Aberdien và những người đàn ông thất nghiệp. Anh chàng bé nhỏ Bowley, người có
những căn phòng ở khu phố Albany và bị niêm phong bằng sáp những nguồn sống sâu
xa hơn nhưng có thể gỡ bỏ niêm phong một cách bất ngờ, không thích đáng, đầy cảm
xúc bởi chính sự kiện này – những phụ nữ nghèo đang chờ để trông thấy Hoàng hậu
đi qua – những phụ nữ nghèo, những đứa con côi, những người góa phụ, cuộc chiến
tranh – chậc chậc – thật sự có những giọt lệ trong mắt anh. Một làn gió nhẹ thật
ấm áp lướt dọc con đường The Mall, qua những hàng cây gầy guộc, qua những vị
anh hùng bằng đồng, cuốn lên một lá cờ đang phất phới tung bay trong lồng ngực
người Anh của Bowley và anh nhấc mũ khi chiếc xe hơi quẹo vào đường The Mall,
giơ cao nó khi chiếc xe tới gần; mặc cho những bà mẹ nghèo ở khu Pimlico áp sát
vào mình, và đứng thật thẳng. Chiếc xe hơi chạy tới.
Đột
nhiên chị Coates ngẩng lên nhìn bầu trời. Âm thanh của một chiếc phi cơ xoáy
vào tai của đám đông như một điềm gỡ. Nó đang bay tới trên những hàng cây, phụt
khói trắng ra sau, làn khói cuộn tròn và xoắn lại, thật sự đang viết ra một điều
gì đó! Đang tạo nên những mẫu tự giữa bầu trời! Mọi người ngẩng lên nhìn.
Chiếc
phi cơ bổ nhào thẳng xuống, gầm lên, lượn một vòng, chìm xuống, ngóc lên, và bất
kể nó làm gì, bất kể nó bay tới đâu, dập dờn phía sau nó một luồng khói trắng
dày đặc uốn cong và kết lại thành những mẫu tự giữa bầu trời. Nhưng chữ gì? Phải
là A C không? Một chữ E, rồi một chữ L? Chúng chỉ nằm yên chốc lát, rồi di chuyển
và tan ra và bị xóa đi khỏi bầu trời, và chiếc máy bay vọt ra xa rồi quay lại,
trong một không gian bầu trời mới, bắt đầu viết một chữ K, một chữ A, và có lẽ
một chữ Y?
“Glaxo,”
chị Coates nói với một giọng căng thẳng, sợ sệt, ngẩng lên nhìn, và em bé con
chị, nằm cứng đơ và trắng bóc trên tay chị, cũng ngẩng lên nhìn.
“Kreemo,”
chị Bletchley thì thào, như một kẻ mộng du. Với cái mũ giơ ra, bất động một
cách hoàn hảo trong bàn tay, anh Bowley nhìn thẳng lên. Dọc suốt con đường The
Mall mọi người đang đứng và nhìn lên bầu trời. Trong lúc họ nhìn, toàn thế giới
bắt đầu im lặng một cách hoàn hảo, và một đàn hải âu băng ngang qua bầu trời, đầu
tiên là một con dẫn đường, rồi tới con khác, và trong sự im lặng và thanh bình
khác thường này, trong vẻ xanh xao này, trong sự thuần khiết này, những cái
chuông ngân lên mười một tiếng, âm thanh bốc cao tan loãng giữa đàn chim hải
âu.
Chiếc
phi cơ quay lại, lao nhanh và sà xuống đúng nơi nó muốn, một cách nhanh nhẹn, tự
do, một người trượt băng…
“Đó
là chữ toffee,” anh Bowley lẩm bẩm – (chiếc xe hơi tiến vào cổng, và không ai
nhìn nó), và luồng khói bị cô lập, ngày càng cuốn ra xa, tan dần và hòa vào những
dải mây trắng thênh thang.
Nó
đã biến mất; nó đã nằm phía sau những đám mây. Không còn âm thanh. Những đám
mây mà các mẫu tự E, G hay L đã gắn vào di chuyển một cách tự do, như thể đã dự
định băng từ Tây sang Đông trong một sứ mệnh tối quan trọng không bao giờ tiết
lộ ra, thế nhưng chắc chắn đúng là thế – một sứ mệnh tối quan trọng. Thế rồi đột
nhiên, như một con tàu lao ra khỏi một đường hầm, chiếc phi cơ lại vọt ra khỏi
những đám mây, âm thanh xoáy vào tai của tất cả mọi người trên đường The Mall,
trong công viên Green, trong phố Piccadilly, phố Regent’s, công viên Regent’s,
một cột khói cuộn lên phía sau nó và nó sà xuống, rồi bay vút lên, viết hết mẫu
tự này sang mẫu tự khác – nhưng nó đang viết chữ gì?
Lucrezia
Warren Smith, đang ngồi cạnh chồng mình trên một cái ghế trên đường Broad Walk
trong công viên Regent’s, nhìn lên.
“Nhìn
kìa, nhìn kìa, anh Septimus!” Cô kêu lên. Vì bác sĩ Holmes đã bảo cô phải làm
cho chồng cô (kẻ không bị bất kỳ bệnh gì nghiêm trọng mà chỉ hơi khó ở) chú ý tới
mọi sự vật bên ngoài.
Vậy
là, Septimus nghĩ, nhìn lên, chúng đang ra hiệu cho mình. Thật ra không phải là
những từ thật sự; nghĩa là, anh chưa thể đọc được thứ ngôn ngữ này; nhưng nó
khá đơn giản, cái vẻ đẹp này, cái vẻ đẹp tinh tế này, và mắt anh rưng lệ khi
anh nhìn những từ làm bằng khói đang tan chảy dần giữa bầu trời và ban tặng cho
anh với lòng từ thiện vô cùng tận và tinh chất của tiếng cười hết hình dáng này
tới hình dáng khác của vẻ đẹp phi thường và đang ra hiệu về dự định của chúng
nhằm cung cấp cho anh vẻ đẹp, thêm nhiều vẻ đẹp, mà không đòi hỏi gì đáp lại,
mãi mãi, đơn thuần chỉ để nhìn! Những giọt lệ lăn xuống đôi gò má của anh.
Nó
là toffee [kẹo bơ cứng]; họ đang quảng cáo kẹo bơ cứng, một người vú em nói với
Rezia. Họ bắt đầu cùng nhau đánh vần t… o… f… “K….
R….” người bảo mẫu nói, và Septimus nghe chị ta nói “Kay, Arrr” sát bên tai
anh, sâu thẳm, dịu dàng, như một tiếng đàn organ êm dịu, nhưng với một chút thô
kệch trong giọng của chị ta như tiếng kêu của một con châu chấu, nó nạo vào
xương sống của anh một cách tuyệt vời và chuyển lên bộ não của anh những làn
sóng âm thanh chấn động, vỡ tung. Thật là một phát hiện diệu kỳ – rằng giọng của
con người trong những điều kiện khí quyển nhất định (vì người ta phải có đầu óc
khoa học, trên hết tất cả là đầu óc khoa học) có thể làm cho cây cối mọc nhanh hơn!
Rezia hạnh phúc đặt bàn tay cô với một sức nặng to lớn lên đầu gối của anh để
anh trở nên nặng nề, chết sững, không thì sự phấn khích của những cây du đang
dâng lên và hạ xuống – dâng lên hạ xuống với toàn bộ những chiếc lá cháy bùng
lên và màu sắc mỏng đi, dày lên từ màu xanh dương sang màu xanh lục của một lượn
sóng trũng sâu, giống như những chiếc lông chim gắn trên đầu lũ ngựa, những chiếc
lông vũ trên đầu của các quý bà, chúng dâng lên hạ xuống một cách rất đỗi kiêu
hãnh, rất đỗi mỹ lệ – sẽ khiến anh nổi điên lên. Nhưng anh sẽ không nổi điên.
Anh sẽ nhắm mắt lại; anh sẽ không nhìn thấy gì nữa.
Nhưng
chúng đã ra hiệu; những chiếc lá sống động; những cây du sống động, và những
chiếc lá được nối với cơ thể của anh, trên cái ghế ở đó, bởi hàng triệu thớ sợi,
thổi nó bay lên hạ xuống; khi những nhánh cây vươn ra, cả anh cũng tạo nên ấn
tượng đó. Những con chim sẻ vỗ cánh, cất mình lên và rơi vào những vòi phun nước
lởm chởm là một phần của mô hình; trắng và xanh, bị chặn lại với những nhánh
cây đen. Những âm thanh hòa điệu với hành động có chủ tâm; những khoảng không
gian giữa chúng cũng quan trọng như những âm thanh. Một đứa bé khóc. Từ xa vọng
lại một tiếng còi. Kết hợp lại tất cả có nghĩa là sự chào đời của một tôn giáo
mới…
“Septimus!”
Rezia nói. Anh giật nảy cả người lên. Hẳn là mọi người phải nhìn thấy.
“Em
sẽ đi tới chỗ đài phun nước và quay lại,” cô nói.
Vì
cô không chịu đựng được nữa. Bác sĩ Holmes có thể nói không có chuyện gì quan
trọng. Cô muốn thà là anh chết cho rồi! Cô không thể ngồi cạnh anh khi anh nhìn
chòng chọc như thế mà không thấy cô và khiến cho mọi thứ trở nên kinh khủng; bầu
trời và cây cối, trẻ em đang nô đùa, những cỗ xe ngựa đang chậm chạp lăn bánh,
những cái còi đang thổi, đang rơi xuống; tất cả đều kinh khủng. Và anh sẽ không
tự sát; và cô không thể nói với một ai. “Septimus đã làm việc quá vất vả” – đó
là tất cả những gì cô có thể nói với mẹ cô. Tình yêu khiến cho người ta cô độc,
cô nghĩ. Hiện giờ cô không thể nói với một ai, ngay cả với Septimus, và quay
nhìn lại, cô thấy anh đang ngồi một mình trong chiếc áo khoác tồi tàn, trên cái
ghế, lưng khòm xuống, nhìn chòng chọc. Và một người đàn ông thật hèn hạ khi nói
anh ta sẽ tự sát, nhưng Septimus đã chiến đấu, anh dũng cảm; anh không phải là
Septimus hiện giờ. Cô thắt dây cổ áo lại. Cô đội cái mũ mới lên và anh không
bao giờ chú ý tới; và anh hạnh phúc mà không cần tới cô. Không gì có thể làm
cho cô hạnh phúc nếu không có anh! Không gì cả! Anh ích kỷ. Những người đàn ông
đều như vậy. Vì anh không bị ốm. Bác sĩ Holmes đã bảo anh chẳng có vấn đề gì cả.
Cô duỗi bàn tay ra trước mặt. Coi kìa! Chiếc nhẫn cưới của cô bị tuột – cô đã
trở nên gầy quá. Chính cô là người gánh chịu khổ đau – nhưng cô không có ai để
nói.
Xa
rồi nước Ý và những con ngựa trắng và căn phòng nơi các chị em cô ngồi làm những
cái mũ, và những đường phố đông nghẹt mỗi chiều tối, với mọi người đi lại, cười
lớn tiếng, không sống kiểu nửa vời như những người ở đây, co người lại trong những
cái xe lăn, nhìn vài bông hoa xấu xí nhú lên từ một cái chậu!
“Vì
anh nên nhìn thấy những khu vườn ở Milan.” Cô nói to. Nhưng với ai?
Không
ai cả. Những từ của cô tan biến mất. Một quả tên lửa cũng tan đi như thế. Những
tia lửa, sau khi bắn xẹt vào bóng đêm, đầu hàng nó, bóng tối buông xuống, tuôn
trút lên những đường viền của những ngôi nhà và tháp; những sườn đồi trống trải
mềm đi và chìm xuống. Nhưng dù chúng đã biến mất, đêm chứa đầy chúng; màu sắc bị
tước đoạt, khoảng trống của những ô cửa sổ, chúng tồn tại một cách trầm trọng
hơn, phát ra thứ mà ánh ngày minh bạch không truyền dẫn được – sự bất an và hồi
hộp của vạn vật kết lại thành khối ở đó, trong bóng tối; co cụm lại trong bóng
tối; tước đi sự khác biệt về độ cao thấp mà ánh bình mang tới khi, quét lên những
bức tường màu trắng và xám, làm ố đi từng tấm kính cửa sổ, nâng làn sương khỏi
những cánh đồng, phô bày ra những con bò nâu đỏ đang bình an gặm cỏ, tất cả một
lần nữa được trang hoàng trước mắt; một lần nữa tồn tại. Tôi cô đơn; tôi cô
đơn! Cô kêu lên, bên cạnh đài phun nước trong công viên Regent’s (nhìn đăm đăm
vào người Ấn Độ và cây thập giá của ông ta), như có lẽ vào lúc nửa đêm, khi mọi
biên giới mất đi, đất nước có lại hình dáng cổ xưa của nó, như người La Mã đã
nhìn thấy nó, đang nằm buồn bã, khi họ đặt chân lên đất liền, những ngọn đồi
không tên và những dòng sông mà họ không biết chảy quanh co về đâu – đó là bóng
tối của cô; khi đột nhiên, như thể một viên đạn pháo được bắn đi và cô đứng bên
trên nó, cô nói cô là vợ của anh thế nào, đã cưới nhau ở Milan nhiều năm trước,
vợ của anh, và sẽ không bao giờ, không bao giờ nói rằng anh điên! Quay đi, viên
đạn pháo rơi; cô rơi, rơi xuống. Vì anh đã ra đi, cô nghĩ – đã ra đi, như anh
đe dọa, để tự giết mình – để tự quăng mình vào dưới một cỗ xe! Nhưng không, anh
ở đó, vẫn ngồi một mình trên ghế, trong chiếc áo khoác tồi tàn, đôi chân gập lại,
ánh mắt đăm đăm, đang nói to tiếng.
Những
người đàn ông không được đốn hạ cây cối. Có một Thượng đế. (Anh đã ghi những
phát hiện như thế vào mặt sau của những phong bì). Thay đổi thế giới. Không ai
giết chóc do lòng căm ghét. Phải làm cho mọi người biết điều này (anh đã viết
nó ra). Anh chờ. Anh lắng nghe. Một con chim sẻ đậu trên một cái rào đối diện
chiêm chiếp kêu lên, Septimus, Septimus, bốn hoặc năm lần, và tiếp tục kéo dài
những nốt nhạc của nó, hót lanh lảnh một điệu mới những từ Hy Lạp về việc không
có tội ác, và với sự tham gia của một con sẻ khác, chúng hót bằng những giọng
kéo dài và chói tai những từ Hy Lạp, từ những hàng cây trong cánh đồng của sự sống
ở mé ngoài một dòng sông nơi những người chết bước đi, về việc không có cái chết.
Đó
là bàn tay của anh; đó là những người chết. Những vật trắng toát tụ hợp lại sau
cái hàng rào đối diện. Nhưng anh không dám nhìn. Evans đang ở sau cái hàng rào!
“Anh
đang nói gì vậy?” Đột nhiên Rezia hỏi, ngồi xuống cạnh anh.
Lại
phá ngang! Cô luôn luôn phá ngang.
Cách
xa khỏi mọi người – họ phải cách xa khỏi mọi người, anh nói (nhảy nhổm lên), đi
ngay tới đằng kia, nơi có những cái ghế bên dưới một cái cây và con dốc dài của
công viên trũng xuống như một khúc vải xanh lục với một tấm vải trần bằng khói
màu xanh trời và hồng trên cao, và có một cái lũy gồm những ngôi nhà xa gần lố
nhố mờ mờ trong làn khói, xe cộ lao xao trong một vòng tròn, và bên mé tay phải,
những con vật màu nâu xám vươn những cái cổ dài bên trên hàng rào Vườn thú,
đang rống, đang tru lên. Ở đó, họ ngồi xuống bên dưới một tàng cây.
“Nhìn
kìa.” Cô nài nỉ anh, chỉ vào một đám con trai đang xách những cái cột gôn
crickê, một đứa kéo lê bước chân, xoay tròn quanh gót chân rồi lại lê bước, như
thể nó đang diễn vai một anh hề trong nhà hát.
“Nhìn kìa.” Cô nài nỉ anh, vì bác sĩ Holmes đã bảo cô phải
làm cho anh chú ý tới những sự vật có thật, đi tới một nhà hát ca múa nhạc,
chơi crickê – đó là một môn chơi rất tuyệt, bác sĩ Holmes nói, một trò chơi
ngoài trời thú vị, đúng thứ trò chơi dành cho chồng cô.
“Nhìn
kìa.” Cô lặp lại.
Nhìn
kẻ vô hình đang ra lệnh cho anh, lúc này giọng nói đó trao đổi với
anh, Septimus, kẻ vĩ đại nhất trong nhân loại, mới bị đưa từ sự sống sang cái
chết, Vị Chúa tể, kẻ đã tới để làm mới lại xã hội, kẻ nằm như một tấm khăn trải
giường, một tấm chăn bằng tuyết chỉ bị tác động bởi mặt trời, mãi mãi không
hoang phí, mãi mãi khổ đau, kẻ giơ đầu chịu báng, kẻ gánh chịu khổ đau vĩnh viễn,
nhưng anh không muốn nó, anh rên lên, gạt nó ra khỏi anh với một cái vẫy tay, sự
gánh chịu khổ đau vĩnh viễn đó, sự cô độc vĩnh viễn đó.
“Nhìn
kìa.” Cô lặp lại, vì anh không nên nói lớn tiếng với chính mình ở bên ngoài.
“Ồ,
nhìn đi.” Cô nài nỉ anh. Nhưng có gì ở đó để nhìn? Vài con cừu. Tất cả chỉ có
thế.
Đường
tới trạm xe điện ngầm của công viên Regent’s – họ có thể nói cho cô biết đường
tới trạm xe điện ngầm của công viên Regent’s không – Maisie Johnson muốn biết.
Cô chỉ mới lên đây từ Edinburgh hai ngày trước.
“Không
phải đường này – ở đằng kia!” Rezia kêu lên, xua tay gạt cô ta sang một bên, để
cô ta không nhìn thấy Septimus.
Dường
như cả hai đều kỳ quặc, Maisie Johnson nghĩ. Dường như mọi thứ đều rất kỳ quặc.
Tới London lần đầu tiên để nhận một chức vụ ở công ty của bác cô trên đường
Leadenhall, và hiện đang đi bộ qua công viên Regent’s vào buổi sáng, cặp vợ chồng
ngồi trên ghế này khiến cô hoàn toàn bị sốc; người thiếu phụ hình như là người
nước ngoài, người đàn ông trông thật kỳ lạ, đến nỗi nếu cô có rất già cô vẫn nhớ
lại và để cho nó reo lên ầm ĩ trong những hồi ức của mình về việc cô đã đi bộ
qua công viên Regent’s vào một sáng đẹp trời mùa hạ hồi năm mươi năm trước. Bởi
lẽ cô chỉ mới mười chín và cuối cùng đã tìm ra con đường tiến thân của mình, tới
London. Và thật kỳ quặc làm sao, đôi vợ chồng mà cô đã hỏi đường này, người phụ
nữ giật mình và khua tay, còn người đàn ông dường như khác thường một cách đáng
sợ; đang cãi nhau, có lẽ; chia tay mãi mãi, có lẽ; một điều gì đó sắp xảy ra,
cô biết; và hiện giờ tất cả những người này (vì cô đã quay trở lại đường Broad
Walk), những cái chậu đá, những bụi hoa nghiêm nghị, những ông già bà già, hầu
hết đều là những người bệnh tật ngồi trên những chiếc xe lăn – sau Edinburgh, tất
cả dường như đều kỳ quặc. Và Maisie Johnson, khi tham gia vào nhóm bạn đồng
hành đang khẽ khàng di chuyển, nhìn ngó mông lung, hôn gió nhau đó – lũ sóc
đang đứng làm dáng, lũ chim sẻ bay quanh đài phun nước tìm vụn bánh, lũ chó bận
rộn với những cái hàng rào, bận rộn với nhau, trong lúc làn không khí mềm mại ấm
áp bao trùm lên chúng và thêm vào cái nhìn chằm chặp không chút ngạc nhiên mà với
nó chúng đón nhận từ cuộc sống một thứ gì đó bất thường và có tính xoa dịu – cảm
thấy một cách chắc chắn cô phải kêu lên Ồ! (vì người đàn ông trẻ trên cái ghế
đã khiến cô hoàn toàn chuyển sang một chiều hướng khác. Có gì đó sắp xảy ra, cô
biết.)
Khủng
khiếp! Khủng khiếp! Cô muốn kêu lên. (Cô đã rời khỏi nhóm bạn đồng hành của
mình; họ đã cảnh báo cho cô biết chuyện gì sẽ xảy ra.)
Vì
sao cô không ở nhà cho rồi, cô kêu lên, vặn cái nắm đấm của hàng rào chấn song
sắt.
Cô gái đó, bà Dempster nghĩ (người đã để dành vỏ bánh mì cho
lũ sóc và thường ăn trưa trong công viên Regent’s) chưa biết một điều nào hết;
và có vẻ như tốt hơn cô ta nên tỏ ra cứng rắn một chút, chậm chạp một chút,
khiêm tốn một chút trong những kỳ vọng của người ta. Percy đã say. Chà, tốt hơn
nên có một đứa con trai, bà Demspster nghĩ. Bà đã trải qua một thời điểm khổ sở
về chuyện đó, và không thể kềm được một nụ cười trước một thiếu nữ như thế. Cô
ta sẽ lấy chồng, vì cô ta khá xinh xắn, bà Dempster nghĩ. Lấy chồng, bà nghĩ,
và rồi cô ta sẽ biết. Ồ, nấu nướng các thứ, vân vân. Mỗi người đàn ông đều có
cách thức của mình. Nhưng mình có chọn lựa hoàn toàn giống như thế không nếu
mình có thể biết trước, bà Dempster nghĩ, và không thể kềm một lời chúc thì thầm
cho Maisie Johnson; để cảm thấy trên cái mọng mắt nhăn nheo của gương mặt già
nua héo hắt của mình nụ hôn của lòng thương hại. Vì đó là một cuộc sống khó
khăn, bà Dempster nghĩ. Bà đã cho nó được gì? Những đóa hoa hồng; thân hình;
đôi bàn chân của bà nữa. (Bà kéo những cục u bên dưới lớp váy.)
Những bông hồng, bà nghĩ một cách mỉa mai. Toàn thứ rác rưởi,
bạn thân mến của tôi. Vì thật sự, việc ăn, uống, hẹn hò, những ngày tốt đẹp và
tệ hại, cuộc đời, không hề dính dáng chút gì tới những bông hồng, và hơn thế nữa,
để tôi nói cho bạn biết, Carrie Dempster không muốn đổi số phận của mình với bất
kỳ người phụ nữ nào ở thị trấn Kentish! Nhưng bà cầu khẩn lòng thương hại. Lòng
thương hại cho sự mất mát của những bông hồng. Lòng thương hại bà yêu cầu ở
Maisie Johnson, đang đứng cạnh những luống dạ lan hương.
Chà, nhưng chiếc phi cơ đó! Không phải bà Dempster luôn ao ước
được nhìn thấy những vùng ở nước ngoài sao? Bà có một đứa cháu trai, một người
truyền giáo.Nó bay vút lên và lao đi.[10] Bà
luôn tới vùng biển Margate, không xa khỏi tầm nhìn từ đất liền, nhưng bà không
có đủ kiên nhẫn với những người phụ nữ sợ nước. Nó lướt tới và hạ xuống. Bụng
dạ bà trào lên miệng. Lại bay vút lên. Có một anh chàng trẻ tuổi đẹp trai ở
trên đó, bà Dempster dám đánh cược, và nó cứ bay ngày càng xa; nhanh và
nhòa dần, chiếc phi cơ lao đi; bay vút lên bên trên Greenwich và tất cả những cột
ăng-ten; bên trên hòn đảo nhỏ của những ngôi nhà thờ xám, St. Paul’s và những
nhà thờ còn lại, cho tới khi, ở mé bên kia London, những cánh đồng trải ra và
những khu rừng nâu sẫm, nơi những con chim hét thích mạo hiểm nhảy loi choi,
đưa mắt liếc nhanh, tóm lấy con ốc sên và moi nó ra khỏi vỏ trên một tảng đá, một
lần, hai lần, ba lần.
Chiếc phi cơ phóng vụt đi, cho tới khi nó chỉ còn là một tia
sáng rực rỡ; một khát vọng; một sự tập trung; một biểu tượng của linh hồn một
gã đàn ông (với Bentley, dường như nó là thế, anh đang hăng hái cắt cỏ trên bãi
cỏ của mình ở Greenwich); của quyết tâm thoát ra khỏi cơ thể của anh, ra khỏi
ngôi nhà, Bentley nghĩ, đi vòng quanh cây tuyết tùng, bằng phương tiện của tư
duy, Einstein, óc phán đoán, toán học, học thuyết Mendel. Chiếc phi cơ phóng vụt
đi.
Thế rồi, trong lúc một người đàn ông trông có vẻ tiều tụy khó
tả xách một cái túi da đứng trên bậc thềm của giáo đường St. Paul, và do dự, vì
trong đó là niềm an ủi nào, ông nghĩ, sự chào đón tuyệt vời ra sao, có bao
nhiêu ngôi mộ với những ngọn cờ vung vẫy bên trên, những vật kỷ niệm chiến thắng
không phải đối với quân thù, mà đối với, ông nghĩ, cái tinh thần tìm kiếm sự thật
ghê gớm đó, lúc này đang rời khỏi mình không nguyên cớ, và hơn thế nữa, thánh
đường cung cấp bằng hữu, ông nghĩ, mời ông trở thành hội viên của một đoàn thể;
những người đàn ông vĩ đại tham gia nó; những kẻ tử vì đạo đã chết vì nó; vì
sao không bước vào, ông nghĩ, đặt cái túi da chứa đầy những cuốn sách mỏng này
trước một bàn thờ, một thánh giá, biểu tượng của một thứ gì đó đã bay vút ra khỏi
sự tìm kiếm, truy lùng và tấn công vào những ngôn từ và tất cả đã trở thành
tinh thần, lìa khỏi xác, phất phưởng như một hồn ma – vì sao không bước vào?
Ông nghĩ, và trong lúc ông do dự, chiếc phi cơ bay vọt qua bên trên ngã tư
Ludgate Circus.
Thật lạ lùng; thật tĩnh lặng. Người ta không nghe thấy một âm
thanh nào bên trên tiếng xe cộ giao thông. Dường như nó không có người dẫn dắt;
bay nhanh theo ý chí tự do của chính nó. Và lúc này, lượn vòng lên mãi, hướng
thẳng lên, như một thứ gì đó bốc lên cao trong trạng thái mê ly, trong niềm vui
thuần khiết, làn khói trắng vọt ra từ phía sau kết thành hình thòng lọng, đang
viết một chữ T, một chữ O và một chữ F.
[1] Wilhelm Richard Wagner (1813 – 1883) nhà soạn nhạc, nhạc trưởng,
triết gia, thi sĩ nổi tiếng người Đức.
[2] Alexander Pope (1688 – 1744) nhà thơ Anh, nổi tiếng về thể thơ
trào phúng và bản dịch Homer sang tiếng Anh; là tác giả được trích dẫn thường
xuyên thứ ba trong Tự điển Danh ngôn Oxford, sau Shakespeare và Tennyson.
[4] Jorrocks’s Jaunts and Jollities của nhà văn Anh chuyên viết về thể
thao Robert Smith Surtees (1805 – 1864).
[6] Mrs. Asquith’s Memoirs: Có lẽ ám chỉ cuốn hồi ký của Emma
Alice Margaret “Margot” Asquith, Nữ bá tước vùng Oxford và Asquith (1864 –
1945), xuất bản năm 1920.
Nguyên văn toàn câu: “Edgar J. Watkiss, with his roll of lead
piping round his arm, said audibly,
humorously of course: “The Proime Minister’s kyar.”
(Một sự trùng hợp: kyar có nghĩa là xơ dừa hay dây thừng bện
bằng xơ dừa.)
[9] Brooks's là một trong các câu lạc bộ mang tính chọn lọc nhất của
các quý ông ở London, thành lập năm 1764 bởi 27 người, trong đó có bốn công tước.
Phần 2:
“Họ đang nhìn gì thế?” Clarissa Dalloway hỏi người hầu
vừa mở cửa.
Đại
sảnh của ngôi nhà mát rượi như một mái vòm. Bà Dalloway đưa tay lên che mắt,
trong lúc cô hầu gái đóng cửa lại, và bà nghe thấy chiếc váy của Lucy kêu sột
soạt, bà cảm thấy giống như một nữ tu đã lìa bỏ thế giới và cảm thấy bao phủ
quanh bà là những lớp vải voan quen thuộc và lời phụ xướng cho những câu kinh cầu
nguyện cũ. Người đầu bếp đang huýt sáo trong bếp. Bà nghe tiếng lách cách của
cái máy đánh chữ. Đó là cuộc sống của bà, và, nghiêng đầu xuống cái bàn trong sảnh,
bà cúi chào bên dưới sự tác động, cảm thấy hạnh phúc và thanh khiết, tự nhủ với
mình, trong lúc cầm lấy tập giấy ghi chú với thông điệp điện thoại bên trên, những
khoảnh khắc như vầy thật giống biết bao những chồi non trên cây sự sống, giống
biết bao những bông hoa của bóng tối, bà nghĩ (như thể một đóa hồng xinh tươi
nào đó đã nở chỉ riêng cho đôi mắt của bà); không một khoảnh khắc nào bà tin
vào Thượng đế; nhưng càng có nhiều lý do hơn, bà nghĩ, cầm tập giấy lên, để người
ta phải đền đáp trong cuộc sống thường nhật cho những người giúp việc, cho những
con chó và những con chim yến, trên hết là cho Richard chồng bà, người là nền tảng
của nó – của những âm thanh vui vẻ, của những ánh sáng xanh, thậm chí tiếng
huýt sáo của bà đầu bếp, vì bà Walker là người Ái Nhĩ Lan và cứ huýt sáo suốt
ngày – người ta phải đền đáp lại lớp trầm tích bí ẩn này của những khoảnh khắc
tinh tế, bà nghĩ, giơ tập giấy lên, trong lúc Lucy đứng cạnh bà, cố giải thích
lý do.
“Ông
Dalloway, thưa bà.”
Clarissa
đọc tập giấy ghi chú điện thoại: “Phu nhân Bruton muốn biết hôm nay ông
Dalloway có thể tới dự bữa ăn trưa với bà ấy không.”
“Thưa
bà, ông Dalloway bảo tôi nói với bà rằng ông ấy sẽ ăn trưa ở ngoài.”
“Ôi
Trời!” Clarissa nói, và Lucy chia sẻ vì cô ta hiểu sự thất vọng của bà (nhưng
không chia sẻ nỗi đau); cảm thấy sự tương hợp giữa họ; nắm bắt được hàm ý; suy
nghĩ về cách thức yêu của tầng lớp xã hội cao; tô điểm tương lai của chính mình
với sự bình thản; và, cầm lấy cái ô của bà Dalloway, xem nó như một thứ vũ khí
thiêng liêng mà một nữ thần buông xuống sau khi làm xong bổn phận một cách vinh
quang trên bãi chiến trường, và đặt nó vào cái giá ô.
“Đừng
sợ nữa.” Clarissa nói. Đừng sợ nữa sức nóng của vầng thái dương; vì cú sốc của
việc phu nhân Bruton mời Richard dùng cơm trưa mà không có bà khiến cho khoảnh
khắc bà đứng rung chuyển, như một nhánh rêu dưới đáy sông cảm thấy sự chuyển động
của một mái chèo lướt qua và run rẩy; bà cũng chấn động như thế, bà cũng run rẩy
như thế.
Millicent
Bruton, người mà những bữa tiệc trưa của bà ta được cho là cực kỳ vui thú, đã
không mời bà. Không lòng ghen tuông thô tục nào có thể tách rời bà khỏi
Richard. Nhưng bà sợ bản thân thời gian, và đọc thấy trên gương mặt của phu
nhân Bruton, như thể nó là một cái đồng hồ mặt trời khắc trên tảng đá dửng
dưng, sự hao mòn của cuộc sống; phần chia của bà đã bị cắt mỏng ra sao từ năm
này sang năm khác; số dư còn lại ít oi biết bao để có thể kéo dài thêm, để thẩm
thấu, như trong những năm trẻ trung, những sắc màu, những điều ý nhị, những
cung bậc của sự tồn tại, để bà phủ đầy căn phòng bà bước vào, và thường xuyên cảm
thấy, khi bà đứng đó trong giây lát trên bậc cửa phòng khách, một trang thái hồi
hộp tinh tế, giống như cảm giác hồi hộp níu giữ một người thợ lặn trước khi lao
mình xuống trong lúc biển cả hết tối sầm lại sáng rực bên dưới anh ta, và những
lượn sóng đe dọa vỡ tung, nhưng chỉ nhẹ nhàng tách bề mặt của chúng ra, cuộn
lên và che giấu và kết tụ lại trong lúc chúng lật ngửa những nhánh rong biển với
những con trai.
Bà
đặt tập giấy ghi chú lên cái bàn trong sảnh. Bà bắt đầu chậm rãi đi lên gác, với
bàn tay đặt trên thành cầu thang, như thể bà vừa rời khỏi một bữa tiệc, nơi khi
thì người bạn này, khi thì người bạn khác đã quay phắt khỏi gương mặt của bà,
giọng nói của bà; đã đóng cửa lại, đi ra và đứng một mình, một hình dáng đơn
côi nổi lên trên màn đêm đáng sợ, hay nói chính xác hơn, nổi lên trên ánh nhìn
đăm đăm của buổi sáng tháng Sáu thật sự này; mềm mại với sắc đỏ của những cánh
hoa hồng, bà biết, và cảm thấy nó, khi bà dừng lại cạnh cửa sổ cầu thang mở rộng
để cho tiếng phần phật của những tấm màn, tiếng chó sủa ùa vào, bà nghĩ, cảm thấy
bản thân đột nhiên run rẩy, già nua, không còn hơi thở, để cho tiếng ken két,
tiếng gió thổi, tiếng hoa nở của ngày thoát ra khỏi những cánh cửa ra vào, cửa
sổ, thoát ra từ thân thể và bộ óc của bà mà lúc này trở nên bất lực, vì phu
nhân Bruton, người mà những bữa ăn trưa của bà ta được cho là cực kỳ thú vị, đã
không mời bà.
Giống
như một nữ tu đang rút lui, hoặc một đứa trẻ đang thám hiểm một tòa tháp, bà đi
lên gác, dừng lại ở cửa sổ, đi tới phòng tắm. Có một tấm vải lót sàn màu xanh
và một cái vòi rỉ nước. Có một sự trống vắng quanh trung tâm cuộc sống; một căn
phòng áp mái. Những người phụ nữ phải tháo bộ trang sức giàu có của họ ra. Vào
giữa trưa họ phải cởi áo dài ra. Bà chọc tay vào cái gối cắm kim và đặt cái mũ
vàng gắn lông chim lên giường. Những tấm vải giường còn sạch, căng trải thành một
mảng rộng trắng toát từ mé này sang mé kia. Cái giường của bà như ngày càng hẹp
lại. Cây nến đã cháy hết phân nửa và bà đã đọc say sưa cuốn Hồi ký của Nam tước
Marbot. Đêm qua bà đã đọc tới khuya về cuộc rút lui khỏi Moscow. Bởi Hạ viện đã
họp lâu đến nỗi Richard cứ khăng khăng, sau cơn bệnh của bà, rằng bà phải ngủ
cho yên giấc. Và thật sự bà thích đọc về cuộc rút lui khỏi Moscow. Ông ấy biết
điều đó. Thế nên căn phòng nằm ở tầng áp mái; cái giường hẹp; và khi nằm đó đọc,
vì bà khó ngủ, bà không thể xua đuổi một trạng thái trinh bạch đã bảo lưu suốt
kỳ sinh sản cứ bám sát vào bà như một tấm chăn. Một khoảnh khắc của thời con
gái đáng yêu đột nhiên xuất hiện – chẳng hạn trên con sông bên dưới cánh rừng ở
Clieveden – khi mà, qua một cơn co thắt của nào đó của linh hồn lạnh lẽo này,
bà đã lơ là với ông. Và rồi ở Constantinople, và cứ lặp đi lặp lại. Bà có thể
nhìn thấy cái bà thiếu hụt. Nó không phải là vẻ đẹp; nó không phải là trí tuệ.
Nó là một thứ gì đó tỏa lan ra từ giữa; một thứ gì đó ấm áp, phá vỡ những bề mặt
và làm gợn sóng những cuộc tiếp xúc lạnh nhạt giữa đàn ông và đàn bà, hay giữa
những phụ nữ với nhau. Bà có thể lờ mờ nhận thức được điều đó. Bà bực tức với sự
thận trọng mà chỉ có trời mới biết đã mọc ra từ đâu, hoặc, như bà cảm thấy, đã
được Tự nhiên gửi tới (kẻ luôn luôn khôn ngoan); thế nhưng đôi khi bà không thể
cưỡng lại việc đầu hàng trước sự quyến rũ của một người đàn bà, không phải một
cô gái, một người đàn bà đang tự thú một sự dại dột, một ý nghĩ điên rồ nào đó,
vì họ thường làm điều đó với bà. Và dù đó là lòng thương hại hay là do vẻ đẹp của
họ, hay vì bà lớn tuổi hơn, hay một sự ngẫu nhiên nào đó – như một mùi hương mơ
hồ, hay một tiếng đàn vĩ cầm ở nhà bên (sức mạnh của những âm thanh thật lạ
lùng trong những khoảnh khắc nhất định), khi đó, không ngờ gì nữa, bà cảm thấy
điều mà những người đàn ông cảm thấy. Chỉ trong một khoảnh khắc; nhưng thế cũng
đủ rồi. Đó là một phát hiện bất ngờ, một nét thoảng qua giống như một thoáng đỏ
bừng trên mặt mà người ta cố kềm lại, và rồi, khi nó lan ra, người ta đầu hàng
sự mở rộng của nó, và vội vã chạy tới một chỗ xa nhất, và ở đó run rẩy, cảm thấy
thế giới đang tiến tới gần hơn, phình lên với một ý nghĩa lạ lùng nào đó, một sức
ép nào đó của trạng thái mê ly, đang tách lớp vỏ mỏng của nó ra, phun trào và
tuôn trút với một sự nhẹ nhõm lạ thường bên trên những vết nứt và những nỗi
đau! Thế rồi, trong khoảnh khắc đó, bà nhìn thấy một làn ánh sáng; một que diêm
bùng cháy trong màu vàng nghệ; một ý nghĩa nội tại hầu như hiển lộ ra. Nhưng sự
tới gần lùi lại, trạng thái căng cứng mềm đi. Nó đã trôi qua – cái khoảnh khắc ấy.
Tương phản với những khoảnh khắc như thế (cả với những người đàn bà) là cái giường
(khi bà nằm xuống) và Nam tước Marbot, và cây nến đã cháy nửa phần. Nằm tỉnh thức,
sàn nhà kêu cót két; ngôi nhà sáng đèn đột nhiên tối lại, và nếu ngóc đầu lên bà
có thể nghe thấy tiếng lách cách của quả đấm cửa được thả ra hết sức khẽ khàng
bởi Richard, kẻ đang rón rén đi lên gác trong đôi tất ngắn và rồi, thường thường,
đánh rơi chai nước nóng của ông và cất tiếng chửi thề. Bà cười mới thỏa thích
làm sao!
Nhưng câu hỏi này về tình yêu (bà nghĩ, cởi chiếc áo khoác
ra), việc phải lòng những người đàn bà này. Cứ xét tới Sally Seton; mối quan hệ
của bà với Sally Seton thuở xa xưa đó. Nói cho cùng, đó có phải là tình yêu
không?
Cô ta ngồi trên sàn nhà – đó là ấn tượng đầu tiên của bà về
Sally – cô ta ngồi trên sàn nhà, tay vòng quanh gối, đang hút một điếu thuốc.
Nó có thể ở đâu nhỉ? Nhà của Mannings? Nhà của Kinloch-Jones? Trong một bữa tiệc
nào đó (bà không thể chắc chắn ở đâu), vì bà có một ký ức rõ ràng về việc đã nói
với người đàn ông đi cùng bà, “Đó là ai vậy?” Và ông ta đã nói cho bà biết, và
bảo rằng cha mẹ của Sally không hòa thuận (việc đó đã khiến bà bị sốc quá chừng
– rằng cha mẹ của một người cãi cọ nhau!) Nhưng suốt buổi tối hôm đó bà không
thể rời mắt khỏi Sally. Đó là loại sắc đẹp lạ thường mà bà ngưỡng mộ nhất, mắt
to, thẫm màu, với cái phẩm chất mà, vì bản thân bà không có, bà luôn ganh tị –
một dạng buông thả tự do, như thể cô ta có thể nói bất cứ, làm bất cứ thứ gì; một
phẩm chất phổ biến ở những người ngoại quốc hơn ở những phụ nữ Anh. Sally luôn
bảo rằng cô ta có dòng máu Pháp trong huyết quản, một vị tổ tiên đã từng ở với
Marie Antoinette [1], đã bị chặt đầu, để lại một chiếc nhẫn hồng nhọc. Có lẽ mùa hè
đó cô ta đã tới sống ở Bourton, bước vào hoàn toàn đột ngột, không một xu dính
túi, một đêm sau giờ ăn tối, và khiến bà cô Helena khốn khổ bực mình đến nỗi bà
không bao giờ tha thứ cho cô ta. Đã có một cuộc tranh cãi ở nhà. Đúng là đêm đó
khi tới chỗ họ cô ta không có xu nào. Đã đem cầm một cái trâm cài để tới đó. Cô
ta đã bỏ đi trong một cơn tức giận. Họ ngồi trò chuyện suốt những giờ của đêm
đó. Chính Sally là người đã khiến cho bà cảm thấy, lần đầu tiên, cuộc sống ở
Bourton đã được che chở ra sao. Bà không biết chút gì về tình dục – không biết
chút gì về những vấn đề xã hội. Có lần bà trông thấy một ông già bị chết bất đắc
kỳ tử trong một cánh đồng – bà đã nhìn thấy những con bò cái ngay sau khi lũ bê
con chào đời. Nhưng cô Helena không hề thích thảo luận về bất cứ thứ gì (khi
Sally đưa cho bà cuốn sách của William Morris [2], nó được bao bằng giấy nâu). Họ ngồi đó, giờ này sang giờ
khác, nói chuyện trên giường của bà ở tầng trên cùng của ngôi nhà, nói về cuộc
sống, về cách họ cải tạo thế giới. Họ có ý định thành lập một tổ chức để thủ
tiêu sở hữu tư nhân, và thật sự đã viết một lá thư, dù chưa gửi đi. Những ý tưởng
đó là của Sally, tất nhiên, nhưng bà sớm trở nên kích động không kém – đọc
Plato [3] trên giường trước giờ ăn sáng; đọc Morris; đọc Shelley [4] vào giờ đó.
Năng
lực của Sally, thiên tài của cô, tính cách của cô thật tuyệt vời. Chẳng hạn cái
cách của cô với những bông hoa. Ở Burton họ luôn luôn đặt những lọ hoa cứng nho
nhỏ suốt con đường tới bàn. Sally ra ngoài, hái những nhánh hoa thục quỳ, thược
dược – tất cả những loài hoa mà người ta chưa từng nhìn thấy mọc chung với nhau
– cắt hoa khỏi nhánh, và cho chúng nổi lềnh bềnh trên mặt nước trong những cái
bát. Tác động thật đặc biệt – khi vào ăn tối lúc hoàng hôn. (Dĩ nhiên cô Helena
đã nghĩ rằng thật ác độc khi đối xử với những bông hoa như thế.) Rồi cô ta quên
lấy miếng bọt biển, và chạy trần truồng khắp hành lang. Người hầu gái già dữ dằn,
Ellen Atkins, đi tới đi lui, càu nhàu: “Giả sử có quý ông nào trông thấy thì
sao đây? Thật sự cô ta đã khiến cho họ bị sốc. Cô ta không ngăn nắp, Papa nói.
Điều
lạ lùng là, khi nhìn lại, sự thanh khiết, sự chính trực trong cảm giác của bà đối
với Sally. Nó không giống như cảm giác của một phụ nữ đối với một người đàn
ông. Nó hoàn toàn bất vụ lợi, và ngoài ra, nó có một phẩm chất chỉ có thể tồn tại
giữa những người phụ nữ, giữa những người phụ nữ vừa trưởng thành. Nó mang tính
bảo bọc, về phía bà; nảy sinh từ một ý thức cùng hội cùng thuyền với nhau, một
linh cảm về điều gì đó khiến họ buộc phải bị tách ra khỏi nhau (họ luôn nói về
hôn nhân như là một thảm họa), thứ đã dẫn tới tinh thần mã thượng này, cảm giác
bảo bọc thuộc về phía bà nhiều hơn là về phía Sally này. Bởi trong những ngày
đó bà hoàn toàn liều lĩnh; làm những việc ngốc nghếch nhất để làm ra vẻ bạo
gan; đạp xe quanh bức tường chắn trên sân; hút thuốc. Ngốc nghếch – bà rất ngốc
nghếch. Nhưng sự quyến rũ đang chế ngự, ít ra là đối với bà, khiến bà có thể nhớ
đã đứng trong phòng ngủ của mình trên tầng cao nhất của ngôi nhà và nói to: “Cô
ta đang ở dưới mái nhà này… Cô ta đang ở dưới mái nhà này!”
Không,
những lời đó giờ đây hoàn toàn không có ý nghĩa gì đối với bà. Thậm chí bà
không thể tìm được một tiếng vang của cảm xúc cũ của mình. Nhưng bà có thể nhớ
đã lạnh người đi vì phấn khích, và chải tóc trong một trạng thái mê ly (lúc này
cảm giác cũ bắt đầu quay lại với bà, khi bà gỡ mấy cái kẹp tóc ra, đặt chúng
lên bàn trang điểm, bắt đầu chải tóc), với những con quạ bay chấp chới lên xuống
trong ánh chiều hồng, rồi thay quần áo và xuống thang, có cảm giác khi băng qua
đại sảnh rằng “giá như lúc này mà chết thì đây là lúc hạnh phúc nhất.” Đó là cảm
giác của bà, cảm giác của Othello [5], và bà cảm thấy nó, bà tin chắc, mạnh mẽ không kém Shakespeare
muốn Othello cảm thấy nó, tất cả là vì bà đi xuống ăn tối trong một chiếc váy
dài trắng tinh để gặp Sally Seton!
Bà
đang mặc chiếc váy bằng sa màu hồng – có thể không nhỉ? Dù sao đi nữa, dường
như toàn thân bà tỏa ánh sáng, bừng lên rực rỡ, như một con chim hoặc một quả
bóng bay nào đó vừa được thổi lên, tự gắn bản thân nó trong khoảnh khắc vào một
bụi mâm xôi. Nhưng khi người ta đang yêu (và đây là gì ngoại trừ trạng thái
đang yêu?) không có gì lạ lùng cho bằng sự dửng dưng hoàn toàn của những người
khác. Cô Helena vừa ra ngoài đi dạo sau bữa tối; Papa đọc báo. Peter Walsh có
thể có mặt ở đó, và cô Cummings lớn tuổi; Joseph Breitkopf chắc chắn có mặt, vì
hè nào ông cũng tới, suốt tuần này sang tuần khác, ông cụ tội nghiệp, và vờ như
cùng đọc tiếng Đức với bà, nhưng thật ra là chơi dương cầm và hát nhạc Brahms
mà không có chút hơi nào.
Tất
cả những điều này chỉ là một cảnh nền đối với Sally. Cô ta đứng cạnh lò sưởi
nói chuyện, với giọng nói đáng yêu khiến mọi điều cô ta nói nghe như một sự mơn
trớn, đối với Papa, người đã bắt đầu bị cuốn hút ngược với ý muốn của mình (ông
không bao giờ quên được việc đã cho cô ta mượn một trong số sách của ông và tìm
thấy nó bị ướt sũng trên sân hiên), khi cô ta đột ngột nói, “Thật là đáng tiếc
nếu ngồi trong nhà!” và cả bọn ra ngoài hiên, đi tới đi lui. Peter Walsh và
Joseph Breitkopf tiếp tục bàn về Wagner. Bà và Sally đi theo sau một quãng ngắn.
Thế rồi khoảnh khắc tinh tế nhất trong toàn bộ đời bà đã tới khi đi ngang qua một
cái chậu đá trong có trồng hoa. Sally dừng lại, hái một bông hoa, hôn lên môi
bà. Hẳn là toàn cõi thế đã bị lộn ngược! Những người khác biến mất; chỉ có mình
bà ở đó với Sally. Và bà cảm thấy bà đã được tặng một món quà, gói kín, và được
bảo hãy gìn giữ nó, đừng nhìn vào nó – một viên kim cương, một thứ gì đó vô
cùng quý báu, được gói kín, mà, trong lúc họ bước đi (tới và lui, lui và tới),
bà đã mở ra, hoặc ánh sáng chói lọi đã xuyên qua, sự mặc khải, cảm giác tín ngưỡng
đó! – khi già Joseph và Peter chạm mặt họ:
“Đang
ngắm sao hả?” Peter hỏi.
Nó
giống như một người va mặt của mình vào một bức tường đá hoa cương trong bóng tối!
Nó gây sốc; nó kinh khủng!
Không
phải đối với bản thân bà. Bà chỉ cảm thấy Sally đã bị đối xử thô bạo, bị ngược
đãi; bà cảm thấy sự thù địch của anh ta; sự ghen tị của anh ta; quyết tâm của
anh ta nhằm phá vỡ tình bạn hữu của họ. Bà nhìn thấy tất cả những điều này như
người ta nhìn thấy một phong cảnh trong một tia chớp – và Sally (bà chưa bao giờ
ngưỡng mộ cô nhiều đến thế!) tiếp tục cái cung cách bất khả chiến bại của mình
một cách dũng cảm. Cô cười khanh khách. Cô yêu cầu ông già Joseph nói cho cô biết
tên của những vì sao, việc mà ông thích làm một cách rất nghiêm túc. Cô đứng
đó: cô lắng nghe. Bà nghe thấy tên của những vì sao.
“Ôi
chao, sự khủng khiếp này!” Bà tự nhủ; như thể bà đã biết ngay từ đầu rằng có
cái gì đó sẽ gián đoạn, sẽ khiến cho khoảnh khắc hạnh phúc của bà trở nên cay đắng.
Thế
nhưng, nói cho cùng, sau đó bà đã nợ ông ấy nhiều biết bao. Luôn luôn, khi nghĩ
tới ông ấy, bà nghĩ tới những cuộc cãi cọ của họ vì một lý do nào đó – có lẽ vì
bà rất muốn có ý kiến tốt đẹp của ông ấy. Bà nợ của ông ấy những từ: ủy mị, lịch
sự; họ đã nêu ra mỗi ngày trong cuộc đời của bà như thể ông ấy muốn cảnh giác
bà. Một cuốn sách ủy mị; một thái độ ủy mị đối với cuộc sống. “Ủy mị,” có lẽ bà
sẽ suy nghĩ về quá khứ. Ông ấy sẽ nghĩ gì, bà tự hỏi, khi ông ấy quay lại?
Rằng
bà đã già đi? Ông ấy sẽ nói thế, hoặc bà sẽ nhìn thấy ông ấy suy nghĩ khi ông ấy
trở lại, rằng bà đã già đi? Điều đó đúng. Từ sau trận ốm, tóc bà hầu như bạc trắng.
Khi
đặt cây trâm cài tóc lên bàn, bà cảm thấy một cơn đau thắt đột ngột, như thể,
trong lúc bà im lặng, những móng vuốt lạnh như băng đã có cơ hội cắm vào bà. Bà
chưa gì. Bà vừa mới bước sang tuổi năm mươi hai. Nhiều tháng của cái tuổi đó vẫn
còn chưa bị chạm tới. Tháng Sáu, tháng Bảy, tháng Tám! Mỗi tháng vẫn còn đó hầu
như nguyên vẹn, như thể để tóm lấy một giọt nước đang rơi, Clarissa (đang đi tới
bàn trang điểm) đã lao vào chính trung tâm của khoảnh khắc đó, chọc thủng nó, ở
đó – cái khoảnh khắc của buổi sáng tháng Sáu này mà trên đó là áp lực của toàn
bộ những buổi sáng khác, nhìn thấy tấm gương, cái bàn trang điểm, và tất cả những
chai lọ một lần nữa, tập hợp toàn bộ con người bà vào một điểm (khi bà nhìn vào
tấm gương), nhìn thấy gương mặt hồng hào thanh tú của người phụ nữ mà ngay đêm
đó sẽ tổ chức một bữa tiệc; của Clarissa Dalloway; của bản thân bà.
Bà
đã nhìn thấy gương mặt của mình biết bao nhiêu triệu lần, và luôn luôn với cùng
sự co thắt không thể cảm thấy đó! Bà mím môi khi nhìn vào tấm gương. Việc đó
mang tới ý nghĩa thiết yếu cho gương mặt của bà. Đó là bản lai diện mục của bà;
giống như chuyển động của một chiếc lao; xác định. Đó là bản ngã của bà khi một
nỗ lực, một tiếng gọi nào đó bảo bà trở thành chính bản thân bà, kéo những bộ phận
lại gần nhau, chỉ một mình bà biết là khác biệt thế nào, không tương hợp và bao
hàm thế nào chỉ để cho thế giới thu vào trong một trung tâm, một viên kim
cương, một người phụ nữ đang ngồi trong phòng khách của mình và tạo nên một điểm
gặp gỡ, một ánh sáng huy hoàng mà không ngờ gì nữa có trong một số cuộc đời buồn
tẻ, một nơi trú ẩn cho kẻ cô đơn tìm đến, có lẽ; bà đã giúp những người trẻ tuổi,
những kẻ biết ơn bà; đã cố luôn là một người, không bao giờ biểu lộ một dấu hiệu
nào về tất cả những khía cạnh khác của bà – những khiếm khuyết, lòng ghen tị,
những thứ hão huyền, những mối hoài nghi, như việc phu nhân Bruton không mời bà
ăn trưa này; điều mà, bà nghĩ (cuối cùng đang chải tóc), là cực kỳ hèn hạ! Bây
giờ, cái váy của bà đâu nhỉ?
Bộ
váy áo buổi tối của bà treo trong tủ quần áo. Clarissa thọc tay vào lớp vải mềm
mại, nhẹ nhàng gỡ chiếc váy màu xanh lá ra và mang nó tới chỗ cửa sổ. Bà đã làm
rách nó. Một người nào đó đã dẫm lên cái váy. Bà đã cảm thấy nó bị rách ở đầu
những nếp gấp trong bữa tiệc ở Đại sứ quán. Dưới ánh sáng nhân tạo màu xanh lá
tỏa sáng, nhưng lúc này đánh mất màu sắc của nó dưới ánh mặt trời. Bà sẽ vá lại
nó. Những người hầu của bà có quá nhiều việc phải làm. Đêm nay bà sẽ mặc nó. Bà
sẽ mang mấy mảnh lụa và cây kéo – và gì nữa nhỉ? – cái đê của bà, dĩ nhiên, xuống
phòng khách, vì bà còn phải viết, và coi xem nói chung mọi sự đã ít nhiều nằm
trong vòng trật tự hay chưa.
Lạ
thật, bà nghĩ, dừng lại ở đầu cầu thang, và tập hợp lại hình dáng viên kim
cương đó, con người đơn lẻ đó, thật lạ lùng biết bao khi một bà chủ nhà biết
chính cái khoảnh khắc này, chính cái trạng thái này của nhà bà! Những âm thanh
yếu ớt cất lên qua những đường xoắn ốc của cầu thang; tiếng sột soạt của một tấm
giẻ lau sàn; tiếng vỗ, tiếng gõ; một tiếng động lớn khi cánh cửa chính mở ra; một
giọng nói lặp lại một thông điệp ở tầng hầm; tiếng loảng xoảng của dao nĩa trên
một cái khay; những dao nĩa sạch dành cho bữa tiệc. Tất cả đều dành cho bữa tiệc.
(Lucy
bưng cái khay vào phòng khách, đặt những cái giá nến to tướng lên bệ lò sưởi,
cái tráp bạc ở giữa, quay con cá heo thủy tinh hướng về phía cái đồng hồ treo
tường. Họ sẽ tới; họ sẽ đứng; họ sẽ trò chuyện với những giọng điệu uốn éo mà
bà có thể nhại theo, các quý bà và các quý ông. Trong tất cả, bà chủ nhà đáng
yêu nhất – bà chủ của những dao nĩa, của vải lanh, của đồ sứ, bởi mặt trời, các
thứ dao nĩa, những cánh cửa tháo khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer,
đã cho bà một cảm giác, khi bà con dao rọc giấy lên cái bàn khảm xà cừ, về một
điều gì đó đạt được. Chú ý! Chú ý! Bà nói, với những người bạn cũ của mình
trong tiệm bánh, nơi lần đầu tiên bà nhìn thấy sự phục vụ ở Caterham, khi tò mò
nhìn vào lớp kính. Bà ta là phu nhân Angela, đang hầu hạ Công chúa Mary, khi bà
Dalloway bước vào.)
“Này
Lucy,” bà nói, “dao nĩa trông thật đẹp!”
“Và
đêm qua cô đã thưởng thức vở kịch như thế nào?” Bà hỏi, xoay con cá heo thủy
tinh đứng thẳng lên. “Ồ, họ phải đi trước khi kết thúc!” Bà nói. “Họ phải quay
về lúc mười giờ!” Bà nói. “Vì thế họ không biết chuyện gì xảy ra.” Bà nói. “Điều
đó thật rủi ro.” Bà nói (vì những người giúp việc của bà ở lại sau, nếu họ hỏi
xin bà).
“Điều
đó thật đáng tiếc.” Bà nói, cầm lấy tấm đệm cũ sờn ở giữa cái trường kỷ và đặt
nó vào tay Lucy, đẩy nhẹ cô ta và kêu lên:
“Mang
nó đi đi! Mang nó cho bà Walker với lời hỏi thăm của tôi! Mang nó đi đi!”
Và
Lucy dừng lại ở cửa phòng khách, ôm tấm đệm, và nói, rất bẽn lẽn, mặt hơi ửng hồng
lên, Cô ta không thể giúp vá lại cái váy đó sao?
Nhưng,
bà Dalloway nói, bà đã có đủ đồ trong tay, hoàn toàn đủ để làm mà không cần
giúp.
“Nhưng
cám ơn cô, Lucy, ồ, cám ơn.” Bà Dalloway nói, và cám ơn, cám ơn, bà tiếp tục
nói (trong lúc ngồi xuống cái trường kỷ với cái váy trên đầu gối, cây kéo và mảnh
lụa), cám ơn, cám ơn, bà tiếp tục nói với lòng biết ơn những người giúp việc của
mình nói chung về việc giúp cho bà như thế này, trở thành người bà mong muốn, dịu
dàng, phóng khoáng. Những người giúp việc của bà thích bà. Và sau đó là cái váy
này của bà – chỗ rách ở đâu? và lúc này bà luồn chỉ vào cây kim. Đây là một cái
váy được ưa thích, một trong những cái váy của tiệm Sally Parker, gần như là
chiếc váy cuối cùng bà ta may, ôi trời, vì hiện giờ Sally đã nghỉ may, sống ở
Ealing, và nếu có khi nào mình rảnh rỗi (nhưng bà sẽ không bao giờ có một phút
rảnh rỗi), mình sẽ tới Ealing thăm bà ấy. Vì bà ấy là một nhân vật, Clarissa
nghĩ, một nghệ sĩ thật sự. Bà ấy nghĩ về những chuyện vặt vãnh không đâu vào
đâu; thế nhưng những chiếc váy của bà ấy không bao giờ kỳ quặc. Bạn có thể mặc
chúng ở Hatfield; ở điện Buckingham. Bà đã mặc nó ở Hatfield; ở điện Bucking
ham.
Sự im lặng đáp lên bà, bình thản, hài lòng, trong lúc cây kim
của bà êm ái luồn qua mảnh lụa, tập hợp những nếp gấp xanh lại và đính chúng, rất
nhẹ nhàng, vào thắt lưng. Những làn sóng của một ngày hè cũng tập hợp lại giống
như thế, vượt quá trạng thái cân bằng, và rơi xuống; tập hợp và lại rơi xuống;
và toàn cõi thế dường như đang nói: “đó là tất cả,” ngày càng trầm trọng hơn,
cho tới khi ngay cả quả tim trong cơ thể đang nằm trên bãi biển dưới ánh nắng
cũng nói: Đó là tất cả. Đừng sợ nữa, quả tim nói. Đừng sợ nữa, quả tim nói,
chuyển gánh nặng của nó cho một biển cả nào đó đang thở dài chung cho những nỗi
u sầu, và làm mới lại, bắt đầu, tập hợp, rơi xuống. Và chỉ có thân thể đó lắng
nghe những con ong bay ngang qua; làn sóng vỡ tung; con chó sủa; cứ sủa mãi ở
ngoài xa.
“Ôi
Trời, chuông cửa trước!” Clarissa kêu lên, dừng mũi kim lại. Bà sực tỉnh, lắng
nghe.
“Bà
Dalloway sẽ gặp tôi.” Người đàn ông cao tuổi trong sảnh nói. “Ồ, phải, bà ấy sẽ
gặp tôi.” Ông ta lặp lại, khẽ khàng đẩy Lucy sang một bên và chạy lên cầu thang
thật nhanh. “Phải, phải, phải.” Ông ta lẩm bẩm trong lúc chạy lên cầu thang.
“Bà ấy sẽ gặp tôi. Sau năm năm ở Ấn Độ, Clarissa sẽ gặp tôi.”
“Ai
có thể – cái gì có thể?” Bà Daloloway hỏi (suy nghĩ rằng thật kỳ quặc khi bị
phá ngang vào lúc mười một giờ sáng của cái ngày bà sẽ tổ chức một bữa tiệc),
nghe thấy tiếng chân trên cầu thang. Bà nghe thấy một bàn tay đặt lên cửa. Bà
tìm chỗ giấu cái váy, như một trinh nữ bảo vệ sự trong trắng; tôn trọng sự
riêng tư. Lúc này, cái quả đấm bằng đồng xoay đi. Lúc này cánh cửa mở ra, và
ông ấy bước vào – trong một giây độc nhất bà không thể nhớ phải gọi ông ấy là
gì! Bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ông ấy, rất vui mừng, rất e thẹn, rất kinh
ngạc, khi Peter Walsh bất ngờ đến thăm bà vào buổi sáng! (Bà chưa đọc thư của
ông ấy.)
“Bà
khỏe không?” Peter Walsh nói, rõ là đang run rẩy; cầm lấy cả hai bàn tay của
bà; hôn cả hai bàn tay. Bà ấy đã già đi, ông nghĩ, ngồi xuống. Mình sẽ không
nói với bà ấy bất cứ điều gì về chuyện đó, ông nghĩ, vì bà ấy đã già đi. Bà ấy
đang nhìn mình, ông nghĩ, một sự lúng túng bất ngờ ập tới với ông, dù ông đã
hôn đôi bàn tay của bà ấy. Đưa tay vào túi, ông lôi ra một con dao nhíp to và mở
con dao ra phân nửa.
Vẫn
hệt như trước, Clarissa nghĩ; vẫn cái vẻ kỳ quặc ấy; vẫn bộ đồ com-lê kẻ ô
vuông; gương mặt hơi phị ra chút xíu, gầy hơn chút xíu, lãnh đạm hơn, có lẽ,
nhưng trông ông ta vô cùng khỏe mạnh, và vẫn hệt như trước.
“Thật
tuyệt khi gặp lại ông!” Bà cảm thán. Ông móc con dao của mình ra. Điều đó thật
giống với tính cách ông, bà nghĩ.
Ông ta chỉ mới tới thị trấn đêm qua, ông ta nói; phải đi xuống
vùng nông thôn ngay; và mọi thứ ra sao, mọi người ra sao – Richard? Elizabeth?
“Và
tất cả những thứ này là gì?” Ông hỏi, nghiêng con dao nhíp về phía chiếc váy
xanh của bà.
Bà
ấy đang ở đây vá lại cái váy; vá lại váy của bà ấy như thường lệ, ông nghĩ; bà ấy
ngồi ở đây trong suốt thời gian mình ở Ấn Độ; vá lại váy của bà ấy; đi chơi
quanh quẩn; dự những bữa tiệc; chạy tới Hạ viện rồi quay về và tất cả những thứ
đó, ông nghĩ, càng lúc càng bực mình, càng lúc càng khích động, vì không có gì
trên đời này tệ hại đối với một số phụ nữ cho bằng hôn nhân, ông nghĩ; và chính
trị; và có một ông chồng bảo thủ, như tay Richard đáng ngưỡng mộ. Là thế đó, là
thế đó, ông nghĩ, khép con dao lại đánh tách một cái.
“Richard
rất khỏe. Richard đang họp ở một ủy ban.” Clarissa nói.
Bà
mở cây kéo ra, và nói, ông có phiền không nếu bà hoàn tất công việc đang làm
cho cái váy, vì tối hôm đó bà tổ chức một bữa tiệc?
“Mà
tôi sẽ không mời ông.” Bà nói. “Peter thân mến của tôi!”
Nhưng
thật tuyệt khi nghe bà nói câu đó – Peter thân mến của tôi! Thật sự, tất cả những
điều này thật tuyệt vời – những bộ dao nĩa, những cái ghế; tất cả đều rất tuyệt
vời!
Vì
sao bà không mời ông dự tiệc? Ông hỏi.
Lúc
này, dĩ nhiên, Clarissa nghĩ, ông ta đang bỏ bùa mê! Bỏ bùa mê một cách hoàn hảo!
Giờ mình nhớ ra việc quyết định không lấy ông ta vào cái mùa hè dễ sợ đó luôn
là bất khả ra sao rồi – và vì sao mình lại quyết định? Bà tự hỏi.
“Nhưng
việc ông tới sáng nay thật là bất thường!” Bà kêu lên, đặt hai bàn tay, tay nọ
úp lên tay kia, xuống chiếc váy.
“Ông có nhớ những tấm màn cửa đã vỗ phần phật thế nào ở
Bourton không?” Bà hỏi.
“Chúng đã vỗ.” Ông nói; và ông nhớ đã ăn điểm tâm một mình, rất
lúng túng, với cha của bà; người đã chết; và ông đã không viết thư cho
Clarissa. Nhưng ông chưa bao giờ hòa hợp với ông cụ Parry, cái ông cụ cáu kỉnh,
đầu gối yếu ớt đó, cha của Clarissa, Justin Parry.
“Tôi
thường ước gì tôi hòa hợp với cha của bà.” Ông nói.
“Nhưng
ông cụ chưa bao giờ ưa bất kỳ người nào là bạn của chúng tôi.” Clarissa nói; và
suýt cắn phải lưỡi của mình vì đã nhắc cho Peter nhớ rằng ông ta đã muốn cưới
bà.
Tất
nhiên mình đã muốn, Peter nghĩ; việc đó hầu như đã khiến cho tim mình tan nát,
ông nghĩ; và vượt qua nỗi đau riêng của mình, mọc lên như một vầng trăng nhìn
thấy từ một khoảnh sân hiên, đẹp kinh khủng trong ánh ngày tàn. Mình đã bất hạnh
hơn bao giờ hết kể từ đó, ông nghĩ. Và như thể ông đang thật sự ngồi đó trên
sân, ông hơi nghiêng người về phía Clarissa; chìa tay ra; giơ nó lên; buông rơi
nó. Bên trên họ, vầng trăng treo lơ lửng. Cả bà ấy nữa, dường như đang ngồi với
ông trong sân, dưới ánh trăng.
“Hiện
giờ Herbert là chủ ở đó.” Bà nói. “Giờ tôi không bao giờ đi tới đó.”
Thế
rồi, như xảy ra trong một sân hiên dưới ánh trăng, khi một người bắt đầu cảm thấy
xấu hổ vì anh ta đã phát chán, thế nhưng trong lúc người kia ngồi im lặng, rất
lặng lẽ, buồn bã nhìn vầng trăng, không muốn nói năng gì, cựa quậy đôi bàn
chân, hắng giọng, chú ý tới một hình trang trí bằng sắt nào đó trên một cái
chân bàn, lay một chiếc lá, nhưng không nói năng gì – lúc này Peter Walsh cũng
hành động như thế. Vì sao cứ quay về quá khứ như thế này? Ông nghĩ. Vì sao tự
làm cho mình nghĩ tới nó lần nữa? Vì sao tự làm cho mình đau khổ, khi bà ấy đã
hành hạ mình ghê gớm đến thế? Vì sao?
“Ông
có nhớ cái hồ nước không?” Bà hỏi, với một giọng vội vã, dưới sức ép của một cảm
xúc đã choán lấy tim bà, khiến những cơ trong cổ họng bà cứng lại, và khiến đôi
môi của bà thu nhỏ lại trong một cơn co thắt trong lúc bà nói “cái hồ.” Bởi bà
là một đứa trẻ con, đang ném vụn bánh mì cho lũ vịt, giữa cha mẹ bà, và đồng thời
là một phụ nữ trưởng thành đang đi tới chỗ cha mẹ mình đứng cạnh hồ nước, ôm
trong hai cánh tay bà cuộc đời của chính bà; khi bà tới gần họ, nó ngày càng to
hơn trên hai cánh tay bà, cho tới khi nó trở thành toàn thể một cuộc đời, trọn
vẹn một cuộc đời mà bà đặt xuống cạnh họ và nói, “Đây là cái mà con đã tạo nên
từ nó! Cuộc đời này!” Và bà đã tạo nên cái gì từ nó? Thật sự là cái gì? Khi
đang ngồi đó may vá trong buổi sáng này với Peter.
Bà
nhìn Peter Walsh; cái nhìn của bà, đi ngang qua tất cả thời gian đó và cảm xúc
đó, không ngờ gì nữa, đã chạm tới ông; khiến ông buồn phát khóc; và cất mình
lên, vỗ cánh bay đi, như một con chim chạm phải một cành cây, cất mình lên và vỗ
cánh bay đi. Bà chậm mắt, hoàn toàn đơn giản.
“Có.”
Peter nói. “Có, có, có.” Ông nói, như thể bà đã lôi lên bề mặt thứ gì đó đã khiến
ông cực kỳ tổn thương khi nó ló lên. Thôi đi! Thôi đi! Ông muốn kêu lên. Bởi
ông chưa già; cuộc đời của ông chưa kết thúc; chưa ở bất cứ ý nghĩa nào. Ông chỉ
mới quá năm mươi. Mình sẽ nói với bà ấy, ông nghĩ, hay không nói? Ông muốn thú nhận
hết tất cả những chuyện đó. Nhưng bà ấy quá lạnh lùng, ông nghĩ; đang may, với
cây kéo của bà ấy; Daisy sẽ trông có vẻ bình thường bên cạnh Clarissa. Và bà ấy
sẽ nghĩ mình là một kẻ thất bại, mà trong nhận thức của họ mình là thế, ông
nghĩ; trong nhận thức của Dalloway. Ồ, phải, ông không còn ngờ gì về điều đó;
ông là một kẻ thất bại, so với tất cả những thứ này – cái bàn khảm, con dao rọc
giấy có giá đựng, con cá heo và những cái giá nến, những tấm vải bọc ghế và những
bản in tiếng Anh cổ có màu giá trị – ông là một kẻ thất bại! Mình ghét cay ghét
đắng sự tự mãn của toàn thể vụ này, ông nghĩ; việc làm của Richard, chứ không
phải của Clarissa; trừ một điều là bà ấy đã cưới ông ta. (Tới đây Lucy bước vào
phòng, mang theo dao nĩa, thêm nhiều dao nĩa, nhưng trông cô ta xinh xắn, mảnh
mai, đáng yêu, ông nghĩ, khi cô ta khom người để đặt chúng xuống.) Và việc này
đã tiếp diễn trong suốt thời gian đó! ông nghĩ; hết tuần này sang tuần khác; cuộc
đời của Clarissa; trong lúc mình – ông nghĩ; và ngay tức khắc mọi thứ dường như
tỏa sáng từ ông; những chuyến đi, những cuộc cưỡi ngựa; những vụ cãi cọ; những
chuyến phiêu lưu; những ván bài; những chuyện yêu đương; công việc; công việc;
công việc! Và ông mở toang con dao nhíp – con dao cũ có cán bằng sừng mà
Clarissa có thể thề rằng ông ta đã giữ suốt ba mươi năm qua – và úp nắm tay của
ông ta lên trên nó.
Đó
đúng là một thói quen kỳ lạ, Clarissa nghĩ; luôn nghịch chơi với một con dao.
Cũng luôn khiến cho người ta cảm thấy phù phiếm; lơ đãng; chỉ là một kẻ ba hoa
ngốc nghếch, như ông ta từng là. Nhưng cả mình cũng vậy, Clarissa nghĩ, và cầm
cây kim lên, bà triệu tập, như một nữ hoàng mà những người lính cận vệ của bà
ta đã ngủ say và bỏ mặc bà ta không ai bảo vệ (bà hoàn toàn kinh ngạc vì cuộc
viếng thăm này – nó đã làm cho bà khó chịu) khiến bất kỳ ai cũng có thể bước
vào và đưa mắt nhìn chỗ bà nằm với những bụi mâm xôi rũ xuống từ bên trên, triệu
tập để hỗ trợ cho những điều bà đã làm; những điều bà thích; chồng bà;
Elizabeth; nói tóm lại, là bản thân bà, mà giờ đây Peter hầu như không biết,
triệu tập tất cả tới quanh bà và đánh đuổi kẻ thù đi.
“À,
chuyện gì đã xảy ra với ông vậy?” Bà hỏi. Vì trước khi một trận chiến bắt đầu,
lũ ngựa gõ móng xuống đất, ngẩng đầu lên; ánh sáng bừng lên trên sườn chúng; cổ
chúng cong lại. Peter Walsh và Clarissa cũng thế, đang ngồi bên cạnh nhau trên
cái trường kỷ màu xanh dương, thách thức nhau. Những sức mạnh của ông cồn cào
và quăng quật trong lòng ông. Ông tập hợp từ những khu vực khác nhau mọi thứ; lời
tán tụng; sự nghiệp của ông ở Oxford; cuộc hôn nhân của ông, mà bà không biết bất
cứ điều gì về nó; ông đã yêu như thế nào; và nói chung đã hoàn thành công việc
của mình như thế nào.
“Hàng
triệu thứ!” Ông cảm thán, và, bị thôi thúc bởi sự tập hợp của những sức mạnh hiện
đang tích nạp theo cách này cách khác và lập tức mang tới cho ông cảm giác sợ
hãi và cực kỳ vui sướng về việc lao qua không trung trên đôi vai của những người
mà ông không thể nhìn thấy nữa, ông đưa hai tay lên trán.
Clarissa
ngồi rất thẳng; hít sâu một hơi.
“Tôi đang yêu.” Ông nói, tuy nhiên không phải với bà ấy, mà với
một người nào đó đang vươn lên trong bóng tối khiến bạn không thể chạm vào bà ấy
mà phải đặt vòng hoa của bạn xuống mặt cỏ trong bóng tối.
“Đang yêu.” Ông lặp lại với Clarissa, lần này khá khô khan.
“Yêu một cô gái ở Ấn Độ.” Ông đã đặt vòng hoa của mình xuống. Clariss có thể
làm bất kỳ điều gì bà ấy muốn với nó.
“Đang
yêu!” Bà nói. Ông ấy, ở lứa tuổi này, lại có thể bị hút vào dưới cái nơ con bướm
nhỏ xíu của ông ấy bởi con quái vật đó! Và trên cổ ông ấy không còn chút bắp thịt
nào; đôi bàn tay ông ấy đỏ ửng; và ông ấy lớn hơn mình sáu tháng! Mắt bà phản
ánh lại với bà; nhưng trong tim bà cảm thấy, dù sao đi nữa, ông ấy đang yêu. Ông
ấy có điều đó, bà cảm thấy; ông ấy đang yêu.
Nhưng
tính tự cao tự đại bất khả khuất phục vẫn luôn xoa dịu những bà chủ nhà phản đối
lại nó, cái dòng sông bảo tiếp, tiếp, tiếp; mặc dù, nó thừa nhận, không có bất
kỳ mục tiêu nào cho chúng ta hết, vẫn tiếp tục, tiếp tục; cái tính tự cao tự đại
bất khả khuất phục này khiến cho đôi má của bà ửng đỏ; khiến cho bà trông rất
trẻ trung; rất hồng hào; đôi mắt rất ngời sáng, khi bà ngồi với cái váy đặt
trên đầu gối, và cây kim cắm vào đầu mảnh lụa xanh, hơi run rẩy. Ông ấy đang
yêu! Không phải bà. Mà là một cô gái trẻ nào đó, dĩ nhiên.
“Cô
ta là ai?” Bà hỏi.
Lúc
này pho tượng đó phải được đưa khỏi cái bệ cao của nó và đặt xuống giữa họ.
“Thật
không may, đó là một phụ nữ đã kết hôn.” Ông nói; “Vợ của một thiếu tá trong
quân đội Ấn.”
Và
với một sự ngọt ngào đầy mai mỉa, ông mỉm cười khi đặt cô ta trước mặt Clarissa
theo cái cách lố bịch này .
(Dù
sao đi nữa, ông ấy đang yêu, Clarissa nghĩ.)
“Cô
ta có hai đứa con nhỏ,” ông nói tiếp, “một trai và một gái; và tôi đã tới gặp
các luật sư của tôi về việc ly dị.”
Họ
đấy! Ông nghĩ. Hãy làm những gì bà muốn với họ, Clarissa! Họ đấy! Và từng giây
một, với ông, dường như bà vợ của viên thiếu tá trong quân đội Ấn Độ (Daisy của
ông) và hai đứa bé ngày càng trở nên đáng yêu khi Clarissa nhìn chúng; như thể
ông đã rọi ánh sáng lên một hòn cuội xám trong một cái đĩa và một thân cây đáng
yêu đã mọc lên trong bầu không khí trong lành mặn mùi biển cả của tình thân của
họ (vì theo cách nào đó không ai hiểu ông, cảm nhận với ông như Clarissa hồi
đó) – tình thân đầy tinh tế của họ.
Cô
ta đã tâng bốc ông ấy; cô ta đã lừa phỉnh ông ấy, Clarissa nghĩ; định hình người
phụ nữ đó, vợ của viên thiếu tá trong quân đội Ấn Độ, với ba nhát chém của một
con dao. Thật lãng phí làm sao! Thật dại dột làm sao! Suốt cuộc đời dài của ông
ấy, Peter vẫn cứ ngốc nghếch như thế; đầu tiên là bị thuyên chuyển khỏi Oxford;
tiếp theo là cưới một cô gái trên một con tàu sang Ấn Độ; và bây giờ là vợ của
một viên thiếu tá trong quân đội Ấn – tạ ơn Trời bà đã từ chối lấy ông! Tuy
nhiên, ông ấy đang yêu; người bạn cũ của bà, Peter thân mến của bà, ông ấy đang
yêu.
“Nhưng
ông sẽ làm gì?” Bà hỏi. Ồ, những luật sư và cố vấn pháp lý, các ông Hooper và
Grateley của hãng luật Lincoln, họ sẽ thực hiện việc đó, ông nói. Và ông thật sự
xén những cái móng tay của mình với con dao.
Ôi
trời, hãy để yên con dao của ông đi! Bà thầm kêu lên với sự bực tức không thể kềm
nén; chính cái tính khác thường ngốc nghếch của ông ấy, khuyết điểm của ông ấy;
sự thiếu vắng một ý thức nhỏ nhất về cảm giác của bất kỳ người nào khác của ông
ấy khiến cho bà bực mình, luôn làm bà bực mình; và giờ này, ở lứa tuổi của ông ấy,
thật ngốc nghếch biết bao!
Mình
biết tất cả những điều đó, Peter nghĩ; mình biết mình đang chống lại thứ gì,
ông nghĩ, đưa ngón tay lướt qua lưỡi dao, Clarissa và Dalloway và tất cả số còn
lại; nhưng mình sẽ chỉ cho Clarissa thấy – thế rồi với sự ngạc nhiên cực độ của
ông, đột ngột bị ném qua bầu không khí bởi những sức mạnh không thể kiểm soát
đó, ông rơi nước mắt; khóc; khóc không chút xấu hổ, khi đang ngồi trên cái trường
kỷ, những giọt nước mắt lăn xuống má ông.
Và
Clarissa đã nghiêng người về phía trước, cầm lấy tay ông, kéo ông lại gần bà,
hôn ông – thật sự cảm thấy mặt của ông trên mặt của bà trước khi bà có thể hạ
tia chớp lóe màu bạc đó xuống – những chiếc lông chim giống như cỏ bông bạc
trong một cơn bão nhiệt đới trong lồng ngực bà, mà khi đáp xuống, để lại bà
trong tình trạng đang cầm lấy tay ông, vỗ nhẹ lên đầu gối của ông, và cảm thấy,
khi bà ngồi ngay lại, đặc biệt thoải mái và dễ chịu với ông ấy, tất cả xâm chiếm
lấy bà trong một tiếng nổ vang, Giá như mình lấy ông ấy, hẳn niềm vui này sẽ là
của mình suốt cả ngày!
Tất
cả những điều đó đã kết thúc đối với bà. Tấm vải giường đã được trải ra và cái
giường thì hẹp. Bà đã đi lên tòa tháp một mình và mặc cho họ hái quả mâm xôi
trong ánh nắng. Cánh cửa đã đóng lại và ở đó, trong đám bụi vữa tường rơi xuống
và rơm rác trong những tổ chim, cảnh vật trông mới xa xôi làm sao, và những âm
thanh vọng tới mong manh và lạnh lẽo (một lần ở trên đồi Leith, bà nhớ), và
Richard, Richard! bà kêu lên, như một người đang ngủ trong bóng tối bị giật
mình và đưa tay ra tìm sự giúp đỡ. Đang ăn trưa với phu nhân Bruton, chuyện đó
quay lại với bà. Ông ấy đã bỏ mặc mình; mình mãi mãi cô đơn, bà nghĩ, úp hai
bàn tay lên đầu gối.
Peter
Walsh đã đứng lên và bước tới chỗ cửa sổ, đứng quay lưng về phía bà, vụt một
cái khăn tay lớn in hoa từ phía này sang phía khác. Trông ông ấy có vẻ xuất
chúng, khô khan và lẻ loi, bờ vai gầy của ông ấy nhẹ nâng chiếc áo khoác; đang
sịt mạnh mũi. Hãy mang tôi theo ông, Clarissa nghĩ một cách bốc đồng, như thể
ông ta đang trực chỉ tiến tới trong một chuyến du hành lớn nào đó; và rồi, khoảnh
khắc tiếp theo, như thể một vở kịch năm hồi rất thú vị và xúc động giờ đã kết
thúc, và bà đã sống cả một đời người trong đó và đã bỏ trốn, đã sống với Peter,
và giờ đây nó đã kết thúc.
Giờ
đã tới lúc di chuyển, và như một người phụ nữ đang thu gom các thứ của mình,
chiếc áo choàng, đôi găng tay, cặp kính xem kịch opera, và đứng lên để bước ra
khỏi rạp hát xuống đường, bà đứng lên khỏi chiếc trường kỷ, bước tới cạnh
Peter.
Và
thật lạ lùng, ông nghĩ, làm thế nào bà ấy vẫn có khả năng, khi bà đi tới với tiếng
lanh canh, sột soạt, vẫn có khả năng, khi bà ấy băng qua căn phòng, khiến cho vầng
trăng mà ông ghét cay ghét đắng mọc lên trên sân hiên ở Bourton giữa bầu trời
mùa hạ.
“Hãy
nói cho tôi biết,” ông nói nắm lấy hai vai bà. “Bà có hạnh phúc không,
Clarissa? Richard có…”
“Đây
là Elizabeth của tôi.” Clarissa nói, một cách xúc động, có vẻ như đóng kịch, có
lẽ.
“Chào
ông.” Elizabeth nói, bước tới.
Tiếng
chuông Big Ben điểm nửa giờ vang lên giữa họ với một sức mạnh khác thường, như
thể một thanh niên, khỏe mạnh, dửng dưng, khinh suất, đang đu đưa những cái
chuông về phía này phía khác.
“Chào
Elizabeth.” Peter kêu lên, nhét cái khăn tay vào túi, vừa đi nhanh tới gần cô vừa
nói, Tạm biệt, Clarissa, mà không nhìn bà, vội vàng rời phòng và bước nhanh xuống
thang, mở cánh cửa đại sảnh ra.
‘Peter!
Peter!” Clarissa kêu to, đi theo ông ta ra đầu cầu thang. “Bữa tiệc tối nay của
tôi! hãy nhớ bữa tiệc tối nay của tôi!” Bà kêu lên, cất cao giọng trên tiếng ồn
của bầu không khí bên ngoài, và bị áp đảo bởi tiếng xe cộ qua lại và âm thanh của
mọi cái đồng hồ đang điểm giờ, giọng kêu của bà “Hãy nhớ bữa tiệc tối nay của
tôi” nghe có vẻ mong manh, mơ hồ và rất xa xôi khi Peter khép cánh cửa lại.
[1] Marie Antoinette (1755 – 1793), công chúa nước Áo,
trở thành Hoàng hậu Pháp khi vua Louis XVI của Pháp lên ngôi. Bà bị
xử tử bằng máy chém năm 1793.
[2] William Morris (1834 – 1896): nhà thiết kế hình họa
trên các chất liệu vải, nghệ nhân, nhà văn người Anh.
[3] Plato (424/423 Tr.CN – 348/347 Tr.CN) triết gia, nhà
toán học Hy Lạp cổ đại, đệ tử của triết gia Socrates.
[4] Percy Bysshe Shelley (1792 – 1822) một trong những
nhà thơ lãng mạn trụ cột của Anh.
[5] Othello - Người Ma-rốc ở thành Venice, một vở bi kịch của
thi hào, kịch tác gia Anh Shakespeare (1564-1616).
Phần 3:
Hãy nhớ bữa tiệc của tôi, hãy nhớ bữa tiệc của tôi, Peter
Walsh nói trong lúc bước xuôi xuống phố, tự nhủ với mình theo một nhịp điệu,
đúng với nhịp trôi chảy của âm thanh, cái âm thanh hoàn toàn trực tiếp của
chuông Big Ben điểm nửa giờ. (Những vòng tròn xám xịt tan ra giữa không trung.)
Ồ, những bữa tiệc này, ông nghĩ; những bữa tiệc của Clarissa. Vì sao bà ấy tổ
chức những bữa tiệc này, ông nghĩ. Không phải ông phiền trách bà hay cái hình nộm
của một người đàn ông mặc áo đuôi tôm với một bông cẩm chướng trên khuy áo đang
đi về phía ông. Chỉ có thể có một người trên cõi đời này giống như ông, đang
yêu. Và đó chính là ông, con người may mắn này, chính bản thân ông, phản chiếu
lại trong lớp kính cửa sổ của một nhà máy sản xuất xe hơi ở phố Victoria. Toàn
bộ nước Ấn nằm sau lưng ông; những thảo nguyên, những ngọn núi, những trận dịch
tả; một quận to gấp đôi Ái Nhĩ Lan; những quyết định ông phải đưa ra một mình –
ông, Peter Walsh; kẻ hiện đang thật sự yêu lầu đầu tiên trong đời mình.
Clarissa đã trở nên khó chịu, ông nghĩ và ngoài ra còn hơi ủy mị nữa, ông ngờ
thế, nhìn những chiếc xe hơi lớn – bao nhiêu ga-lông trên bao nhiêu dặm? Vì ông
có năng khiếu về cơ khí; đã phát minh một cái cày ở quận của ông, đã đặt mua những
chiếc xe cút kít ở Anh, nhưng những tay công nhân không dùng tới chúng,
Clarissa không hề biết gì về tất cả những điều đó.
Cách
bà ấy nói, “Đây là Elizabeth của tôi!” khiến ông thấy khó chịu. Vì sao không
nói một cách đơn giản “Đây là Elizabeth”? Nó không chân thành. Và cả Elizabeth
cũng không thích nó. (Những dư chấn cuối cùng của tiếng chuông lớn vẫn còn rung
động bầu không khí quanh ông; nửa giờ, vẫn còn sớm, chỉ mới mười một giờ rưỡi.).
Bởi ông hiểu những người trẻ tuổi; ông thích họ. Ở Clarissa luôn có vẻ lạnh
lùng nào đó, ông nghĩ. Bà đã luôn luôn, ngay cả hồi còn con gái, là một kẻ có
tính rụt rè, và nó trở thành tính bảo thủ ở tuổi trung niên, và tất cả đã xong
xuôi, tất cả đã xong xuôi, ông nghĩ, nhìn với vẻ hơi sầu thảm vào những
chiều sâu của lớp kính, và tự hỏi ông có làm bà bực mình không khi ghé thăm vào
giờ đó; đột nhiên thấy mất tự chủ với nỗi xấu hổ vì đã tỏ ra ngu ngốc; đã khóc;
đã xúc động; đã nói với bà mọi thứ, như thường lệ, như thường lệ.
Như
một đám mây bay ngang qua mặt trời, sự thinh lặng rơi lên London; và rơi lên
tâm trí. Sự nỗ lực ngưng lại. Thời gian vỗ cánh trên cột cờ. Chúng ta dừng tại
đó; chúng ta đứng đó. Cứng nhắc, bộ xương của thói quen một mình chống đỡ cái
khung con người. Ở nơi không có gì cả, Peter Walsh tự nhủ; cảm thấy bị lõm vào,
trống rỗng trong lòng. Clarissa đã từ chối mình, ông nghĩ. Ông đứng đó suy
nghĩ, Clarissa đã từ chối mình.
Chà,
Thánh Margaret nói, như một bà chủ nhà bước vào phòng khách của mình đúng vào
lúc chuông điểm giờ và thấy quan khách đã tề tựu ở đó. Tôi không bị muộn.
Không, chính xác là mười một giờ rưỡi, bà ấy nói. Thế nhưng, dù bà ấy hoàn toàn
đúng, giọng nói của bà ấy, vì là giọng nói của bà chủ, miễn cưỡng bộc lộ cá
tính của nó. Một nỗi tiếc thương nào đó đối với quá khứ ngăn trở nó: một mối
quan tâm nào đó đối với hiện tại. Bây giờ là mười một giờ rưỡi, bà ấy nói, và
âm thanh của Thánh Margaret lướt vào những chỗ thầm kín của con tim và tự chôn
mình trong những tiếng chuông tiếp nối, như một thứ gì đó sống động muốn thổ lộ
bản thân, tự phân tán nó, muốn được nghỉ ngơi, với một cái rùng mình hoan hỉ,
như chính bản thân Clarissa khi bước xuống cầu thang trong chiếc váy trắng vào
giờ đổ chuông. Peter Walsh nghĩ. Đó chính là Clarissa, ông nghĩ, với một sự xúc
động sâu sắc và một hồi ức rất rõ ràng nhưng gây bối rối về bà ấy, như thể tiếng
chuông này đã vọng tới căn phòng hồi nhiều năm trước, nơi họ đang ngồi trong một
khoảnh khắc rất thân tình, di chuyển từ người này sang người kia rồi rời khỏi,
như một con ong với mật ong, chở đầy khoảnh khắc ấy. Nhưng căn phòng nào? Khoảnh
khắc nào? Và vì sao ông đã vô cùng hạnh phúc khi đồng hồ điểm giờ? Thế rồi,
trong lúc tiếng nói của thánh Margaret phai nhòa, ông nghĩ, Bà ấy đã bị ốm, và
âm thanh đó biểu lộ sự suy nhược và đau khổ. Chính là quả tim của bà ấy, ông nhớ;
và sự inh ỏi đột ngột của tiếng chuông báo tử cuối cùng ngân lên giữa cuộc sống
khiến người ta kinh ngạc, Clarissa té xuống từ nơi bà ấy đứng, trong phòng
khách của bà ấy. Không! Không! ông kêu lên. Bà ấy không chết. Tôi không già,
ông kêu lên, và đi ngược lên phố Whitehall, như thể tương lai của ông đang lăn
về phía ông, mãnh liệt, vô tận.
Ít
ra, ông không hề già, hay hết thời, hay khô héo. Về phần những gì họ nói về ông
– gia đình Dalloway, gia đình Whitebread, và tầng lớp của họ, ông không mảy may
quan tâm tới – không một mảy may (dù đúng là lúc này lúc khác ông cũng tìm hiểu
xem Richard có thể giúp ông làm một công việc gì đó hay không). Bước sải chân,
ánh mắt đăm đăm, ông nhìn vào bức tượng ngài Công tước vùng Cambridge. Ông đã bị
điều động khỏi Oxford – đúng. Ông từng là một người theo Chủ nghĩa xã hội, ở một
ý nghĩa nào đó là một kẻ thất bại – đúng. Tuy nhiên tương lai của nền văn minh,
ông nghĩ, vẫn nằm trong tay của những người trẻ tuổi giống như thế; của những
người trẻ tuổi như ông từng là, hồi ba mươi năm trước; với tình yêu của họ dành
cho những nguyên tắc trừu tượng; nhận những quyển sách được gửi tới cho họ suốt
cả quãng đường xa từ London tới một đỉnh núi trong dãy Hymalaya; đọc khoa học,
đọc triết học. Tương lai nằm trong tay của những người trẻ tuổi giống như thế,
ông nghĩ.
Một
tiếng lao xao giống như tiếng lao xao của những chiếc lá trong một khu rừng
phát ra từ phía sau, và cùng với nó là một âm thanh sột soạt, thình thịch đều đều,
mà khi bắt kịp ông, nó đã làm xáo trộn những ý nghĩ của ông, nghiêm trang cất
bước ngược phố Whitehall, không để ý tới ông. Những cậu con trai mặc đồng phục,
mang súng, đang bước đều với mắt nhìn thẳng về phía trước, cánh tay của họ cứng
ngắc, và trên mặt họ là một biểu hiện giống như những mẫu tự của một truyền
thuyết được viết quanh bệ của một pho tượng, ca tụng bổn phận, lòng biết ơn,
lòng trung thực và tình yêu nước Anh.
Đó
là một cuộc huấn luyện rất đẹp mắt, Peter Walsh nghĩ, bắt đầu bước theo nhịp bước
của họ. Nhưng trông họ không cường tráng. Hầu hết trong bọn đều gầy nhom, những
cậu bé mười sáu tuổi; có thể ngày mai họ sẽ đứng sau những chén cơm, những bánh
xà phòng trên mấy cái kệ. Hiện giờ họ khoác lên mình sự trang nghiêm không hề lẫn
lộn với lạc thú xác thịt hay những mối bận tâm hàng ngày của những vòng hoa mà
họ đã mang từ phố Finsbury Pavement tới ngôi mộ trống. Họ đã nguyện thề. Dòng
xe cộ lưu thông tôn trọng nó; những chiếc xe tải bị chặn lại.
Mình
không thể theo kịp họ, Peter Walsh nghĩ, khi họ bước đều ngược lên phố
Whitehall, và đúng là vậy, họ tiếp tục bước đều, vượt qua ông, vượt qua mọi người,
với nhịp bước đều đặn, như thể người ta sẽ hoạt động những đôi chân và những
cánh tay theo cùng một kiểu, và cuộc sống, với những trạng thái muôn màu muôn vẻ
của nó, những sôi động ồn ào của nó, đã bị đặt bên dưới một con đường của những
tượng đài và những vòng nguyệt quế và bị đánh thuốc tê thành một cái xác cứng đờ
nhưng vẫn nhìn chòng chọc bởi tính kỷ luật. Người ta phải tôn trọng nó; người
ta có thể cười phá lên; nhưng người ta phải tôn trọng nó, ông nghĩ. Họ đi,
Peter Walsh nghĩ, dừng lại ở lề đường; và tất cả những pho tượng cao quý,
Nelson [1], Gordon [2], Havelock [3], những hình ảnh màu đen, hùng tráng của những người lính vĩ đại
đứng nhìn về phía trước, như thể cả họ cũng đã thực hiện sự quên mình tương tự
(Peter Walsh cảm thấy cả ông cũng đã thực hiện nó, sự quên mình vĩ đại đó), dậm
chân dưới cùng một sức cám dỗ, và cuối cùng đạt được một tia nhìn lãnh đạm.
Nhưng chí ít, Peter Walsh không muốn có cái nhìn đó cho bản thân ông; dù ông có
thể tôn trọng nó ở những người khác. Ông có thể tôn trọng nó ở những cậu bé. Họ
chưa biết những rắc rối của xác thịt, ông nghĩ, trong lúc những cậu bé đang
hành tiến biến mất về phía phố Strand – mình đã trải qua tất cả những thứ đó,
ông nghĩ, băng qua đường, và đứng bên dưới pho tượng của Gordon, Gordon mà ông
từng tôn thờ hồi còn là một cậu bé; Gordon đang đứng lẻ loi với một chân giơ
lên và đôi tay khoanh lại – Gordon khốn khổ, ông nghĩ.
Và
chỉ vì chưa có ai biết ông đang ở London, trừ Clarissa, và thế giới, sau chuyến
du hành, vẫn dường như là một hòn đảo đối với ông, sự khác thường của việc đứng
một mình, đang sống, không ai biết tới, vào lúc mười một giờ rưỡi trong quảng
trường Trafalgar khiến ông mất hết tinh thần. Nó là gì? Mình đang ở đâu? Và rốt
cuộc, vì sao người ta thực hiện nó? Ông nghĩ. Toàn bộ vụ ly hôn dường như là ảo
mộng. Và xuôi theo tâm trí ông, trải ra bằng phẳng như một đầm lầy là ba cảm
xúc lớn lao đang áp đảo ông; sự thấu hiểu; một lòng nhân ái bao la; và cuối
cùng, như là kết quả của hai cảm xúc kia, một niềm hân hoan tinh tế, không thể
kềm chế; như thể những sợi dây trong bộ não của ông được kéo bởi một bàn tay
khác, những con thoi di chuyển, và ông, không dính dáng gì tới nó, nhưng đứng ở
đầu của những đại lộ vô tận, mà nếu chọn một con đường, ông sẽ xuôi theo nó. Suốt
nhiều năm qua, ông chưa hề cảm thấy trẻ trung đến thế.
Ông
đã trốn thoát! tuyệt đối tự do – như những diễn biến trong sự sa sút của thói
quen khi tâm trí, như một ngọn lửa không người coi sóc, rùn thấp xuống, uốn
cong và có vẻ như sắp sửa bùng ra khỏi vật đang cầm giữ nó. Mình chưa từng cảm
thấy trẻ trung đến thế suốt nhiều năm! Peter nghĩ, thoát khỏi con người thật sự
của ông hiện tại (tất nhiên chỉ độ một giờ), và cảm thấy giống như một đứa bé
chạy vụt ra khỏi cửa, và nhìn thấy, trong lúc chạy, bà vú già đang vẫy tay về
phía cánh cửa sổ không đúng. Nhưng cô ta hấp dẫn lạ lùng, ông nghĩ, vì đang
băng qua Quảng trường Trafalgar, hướng về phố Haymarket là một thiếu nữ mà, khi
nàng đi ngang qua pho tượng của Gordon, có vẻ như, Peter walsh nghĩ (vẫn nhạy cảm
như trước giờ), đã trút bỏ hết lớp voan này tới lớp voan khác, cho tới khi nàng
trở thành chính người phụ nữ mà ông luôn có trong tâm trí; trẻ trung, nhưng
nghiêm trang; vui tươi, nhưng dè dặt, ngăm đen, nhưng quyến rũ.
Vươn
thẳng người lên và len lén sờ ngón tay lên con dao nhíp, ông bắt đầu đi theo
người phụ nữ này, sự kích động này, mà thậm chí với cái lưng quay về phía ông
cũng soi rọi lên ông một thứ ánh sáng nối kết hai người bọn họ, chọn lọc ra
ông, như thể tiếng ồn ào ngẫu nhiên của xe cộ lưu thông đã thì thầm qua những
bàn tay ụp lại tên ông, không phải Peter, mà là tên riêng mà ông đã tự gọi mình
trong những ý nghĩ của chính ông. “Ông,” nàng nói, chỉ “ông,” nói từ đó với đôi
găng tay trắng và đôi vai của mình. Rồi cái áo choàng mỏng mà cơn gió khuấy động
khi nàng bước ngang qua cửa tiệm Dent’s trên phố Cockspur tung bay phất phới với
một sự từ ái bao trùm, một sự dịu dàng buồn bã, như đôi cánh tay sẽ mở rộng và
đón nhận kẻ đã mệt nhoài…
Nhưng
nàng chưa kết hôn; nàng còn trẻ; rất trẻ, Peter nghĩ, đóa hoa cẩm chướng ông
nhìn thấy nàng cài khi nàng băng qua quảng trường Trafalgar lại bùng lên trong
mắt ông và khiến đôi môi nàng đỏ mọng. Nhưng nàng chờ ở lề đường. Ở nàng có một
phẩm cách. Nàng không từng trải như Clarissa; không giàu có như Clarissa. Nàng,
ông tự hỏi trong lúc nàng di chuyển, có khả kính không? Hóm hỉnh, với cái lưỡi
liếng thoắng của một con thằn lằn, ông nghĩ (dù người ta phải bịa đặt, phải tự
cho phép bản thân một sự tiêu khiển nho nhỏ), một người dí dỏm bình thản đợi chờ,
một người dí dỏm nhanh như tên bắn; không ồn ào.
Nàng
di chuyển; nàng băng qua; ông đi theo nàng. Ông không hề muốn làm nàng bối rối.
Tuy nhiên nếu nàng dừng lại ông sẽ nói “Hãy tới đây và dùng một que kem,” ông sẽ
nói, và nàng sẽ trả lời, hoàn toàn đơn giản, “Ồ, vâng.”
Nhưng
những người khác trên đường đã chắn ngang giữa họ, ngăn trở ông, che khuất mất
nàng. Ông đuổi theo; nàng đã thay đổi. Má nàng ửng đỏ; mắt nàng ánh lên sự chế
giễu; ông là một kẻ phiêu lưu, khinh suất, ông nghĩ, nhanh nhẹn, liều lĩnh, (đã
đáp máy bay từ Ấn Độ về đêm qua) thật sự là một tay cướp biển lãng mạn, không
quan tâm tới tất cả những thứ đúng mực này, những cái áo khoác ngoài của phụ nữ
màu vàng, những ống tẩu, những cái cần câu, trong những cửa sổ tiệm buôn; và tư
cách khả kính và những bữa tiệc tối và những người đàn ông lớn tuổi ăn mặc bảnh
bao mặc áo lót trắng bên dưới áo gi-lê. Ông là một tên cướp biển. Nàng tiếp tục
đi, băng qua phố Piccadilly, ngược lên phố Regent, ở phía trước ông, tấm áo
choàng của nàng, đôi găng tay của nàng, đôi vai của nàng kết hợp với những dải
tua, những dải đăng ten và những cái khăn choàng bằng lông trong những cửa tiệm
để tạo nên linh hồn của sự trang nhã và kỳ quặc đang thu nhỏ lại từ những cửa
tiệm ra hè phố, như ánh sáng của một ngọn đèn đêm tỏa lung linh trên những bờ
rào trong bóng tối.
Cười
to và vui vẻ, nàng đã băng qua phố Oxford và phố Great Portland, quẹo xuống một
trong những con đường nhỏ, và lúc này, và lúc này, cái khoảnh khắc lớn lao đang
tới gần, vì lúc này nàng bước chậm lại, mở cái túi xách ra, và với một cái nhìn
về phía ông, nhưng không hướng vào ông, một cái nhìn nói lên lời từ giã, tổng kết
toàn bộ hoàn cảnh và gạt bỏ nó một cách thắng lợi, mãi mãi, đã tra chìa vào ổ
khóa, mở cửa, và biến mất! Giọng nói của Clarissa, Hãy nhớ tới bữa tiệc của
tôi, Hãy nhớ tới bữa tiệc của tôi, vang lên trong tai ông. Ngôi nhà này là một
trong những ngôi nhà đỏ mái bằng với những giỏ hoa treo lủng lẳng không đúng chỗ.
Nó đã kết thúc.
Vâng,
mình đã vui vẻ; mình đã có nó, ông nghĩ, ngẩng lên nhìn những giỏ hoa phong lữ
nhợt nhạt đang đong đưa. Và nó đã vỡ tan thành những nguyên tử – niềm vui của
ông, vì nó chỉ được tạo nên một cách nửa vời, như ông biết rất rõ; đã được bịa
đặt ra, cuộc phiêu lưu này với nàng thiếu nữ; được bịa đặt ra, như người
ta bịa đặt ra phần tốt đẹp hơn của cuộc đời, ông nghĩ – bịa đặt ra
chính mình, bịa đặt ra nàng; tạo nên một niềm vui mạnh mẽ, và một thứ gì hơn thế.
Nhưng nó thật kỳ quặc, và hoàn toàn có thật; người ta không bao giờ có thể chia
sẻ tất cả những điều này – nó đã vỡ tan thành những nguyên tử.
Ông
quay lại; đi ngược lên phố, suy nghĩ tìm nơi nào đó để ngồi, cho đến giờ phải tới
tửu quán Lincohn’s – để gặp các ông Hooper và Grateley. Ông nên đi đâu? Không
quan trọng. Ngược lên phố, rồi đi về phía công viên Regent’s. Đôi ủng của ông
trên vệ đường thốt lên “không quan trọng”; vì giờ còn sớm, hãy còn rất sớm.
Đây
cũng là một buổi sáng tuyệt diệu. Như nhịp đập của một quả tim hoàn hảo, sự sống
tuôn trào thẳng qua những đường phố. Không chút dò dẫm – không chút ngần ngừ.
Quét qua và phình lên, một cách chính xác, một cách đúng giờ, không tiếng động,
chính xác ngay giây phút đó có một chiếc xe hơi dừng lại ở cửa. Cô gái, mang vớ
lụa, đội mũ lông, phù du, nhưng không đặc biệt hấp dẫn đối với ông (vì ông đã
vui vẻ chán chê), rạng rỡ. Những tay quản gia đáng ngưỡng mộ, những con chó su
nâu vàng, những đại sảnh lát cẩm thạch hình thoi đen và trắng với những tấm màn
che trắng đang phấp phới, Peter nhìn thấy qua cánh cửa mở và tán thưởng.
London, một thành tựu tuyệt vời theo cách riêng của nó, nói cho cùng; mùa này;
nền văn minh. Xuất thân như ông, từ một gia đình Anh-Ấn mà trong suốt ít nhất
ba thế hệ đã điều hành những sự vụ của một lục địa (thật lạ lùng, ông nghĩ, cái
cảm xúc mà mình có về điều đó, không thích Ấn Độ, và đế quốc, và quân đội như
ông đã), có những khoảnh khắc khi nền văn minh, ngay cả loại này, dường như
thân thiết với ông như một tài sản cá nhân; những khoảnh khắc của niềm tự hào về
nước Anh; về những người quản gia; những con chó su; những cô gái trong sự an
toàn. Tuy nhiên nó vẫn khá lố bịch, ông nghĩ. Và những tay bác sĩ và những
doanh nhân và những người phụ nữ tài năng, tất cả đều lăng xăng với công việc của
họ, đúng giờ giấc, nhanh nhạy, thiết thực, với ông dường như hoàn toàn đáng ngưỡng
mộ, những người tốt, mà với họ người ta có thể giao trọn cả đời mình, những bạn
đồng hành trong nghệ thuật sống, kẻ có thể nhìn thấu suốt một người. Với công
việc bận bịu này khác, vở diễn này thật sự rất đáng khoan dung; và ông sẽ ngồi
xuống dưới bóng râm, hút thuốc.
Có
công viên Regent’s. Phải. Hồi còn bé ông đã đi vào công viên Regent’s – thật lạ,
ông nghĩ, cái cách ý nghĩ về thời thơ ấu vẫn tiếp tục quay lại với mình – có lẽ
đó là kết quả của chuyến thăm viếng Clarissa; vì những người phụ nữ sống trong
quá khứ nhiều hơn chúng ta, ông nghĩ. Họ tự gắn mình vào những nơi chốn; và những
ông bố của họ – một người phụ nữ luôn tự hào về bố của mình. Bourton là một địa
điểm xinh đẹp, rất xinh đẹp, nhưng mình không bao giờ có thể hòa hợp với ông cụ
đó, ông nghĩ. Một đêm nọ đã có một màn kịch hoàn toàn – một cuộc tranh cãi về
điều này điều nọ, ông không thể nhớ đó là chuyện gì. Có lẽ là chính trị.
Phải,
ông nhớ công viên Regent’s; quãng đường dài, thẳng; ngôi nhà nhỏ nơi người ta
mua những quả bóng bay ở bên trái; một pho tượng ngớ ngẩn với một câu khắc ở
nơi này nơi khác. Ông tìm một chỗ ngồi. Ông không muốn bị quấy rầy (ông cảm thấy
hơi buồn ngủ) bởi những người hỏi về giờ giấc. Một người vú em già mặc đồ xám,
với một em bé nằm ngủ trong cái xe đẩy; ngồi ở một đầu ghế cạnh người vú em –
đó là điều tốt nhất ông có thể làm cho mình.
Con
bé là một cô gái có vẻ lạ lùng, ông nghĩ, sực nhớ tới Elizabeth khi cô bước vào
phòng và đứng cạnh mẹ mình. Đã lớn phổng, hoàn toàn trưởng thành, không chính
xác là xinh xắn, đẹp thì đúng hơn; và con bé không thể hơn mười tám tuổi. Có lẽ
nó không hòa hợp với Clarissa. “Đây là Elizabeth của tôi”, đại loại thế – vì
sao không nói đơn giản “Đây là Elizabeth?” – đang cố làm ra vẻ, như mọi bà mẹ,
rằng mọi sự việc không phải là chính bản thân chúng. Bà ấy quá tin vào sự quyến
rũ của mình. Bà ấy quá cường điệu điều đó.
Làn
khói thuốc thơm nhẹ nồng nàn bình thản cuộn xuống cổ họng ông; ông thổi nó ra
thành những vòng tròn chống lại bầu không khí một cách quả cảm trong giây lát;
xanh ngát, hình tròn – tối nay mình sẽ cố nói riêng một lời với Elizabeth – rồi
bắt đầu giãn ra thành những hình đồng hồ cát và tan biến mất; chúng có những
hình dáng lạ lùng, ông nghĩ. Đột nhiên ông nhắm mắt lại, giơ tay lên với một nỗ
lực, và quẳng đi đoạn cuối nặng nề của điếu xì gà. Một nhát cọ lớn êm ái quét
qua tâm trí ông, quét ngang qua nó là những nhánh cây lay động, những giọng nói
của trẻ con, tiếng lê bước của những bàn chân, và mọi người đi ngang qua, và tiếng
xe cộ ồn ào, tiếng xe cộ cao lên rồi hạ thấp. Ông chìm ngày càng sâu vào những
lông vũ và lông cánh của giấc ngủ, chìm xuống, và bị bao trùm.
Người
vú em mặc đồ xám tiếp tục đan trong lúc Peter Walsh, ngồi trên cái ghế nóng cạnh
bà ta, bắt đầu ngáy. Trong chiếc váy xám, di chuyển đôi tay một cách không biết
mệt nhưng lặng lẽ, dường như bà ta giống một chiến sĩ bảo vệ cho quyền lợi của
những người đang ngủ, giống một trong những hồn ma bóng quế hiện lên trong ánh
chiều chạng vạng ở khu rừng tạo thành từ bầu trời và những nhánh cây. Người lữ
khách cô đơn, kẻ hay lai vãng trên những con đường nhỏ, kẻ quấy rầy những lùm
dương xỉ, và kẻ tàn phá những bụi độc cần to lớn, khi ngẩng lên, đột nhiên nhìn
thấy nhân vật vĩ đại ở cuối con đường.
Có
lẽ do niềm tin của một kẻ vô thần, ông ngạc nhiên với những khoảnh khắc phấn chấn
khác thường. Không có gì tồn tại bên ngoài chúng ta ngoại trừ một trạng thái
tinh thần, ông nghĩ; một nỗi khát khao đối với sự an ủi, sự thư thái, đối với một
cái gì đó ở bên ngoài những con người nhỏ bé bất hạnh này, những kẻ xấu xí, những
người đàn ông và đàn bà hèn nhát này. Nhưng nếu ông có thể hình dung ra nàng, vậy
là nàng tồn tại dưới một hình thức nào đó, ông nghĩ, và khi xuôi con đường với
đôi mắt ngước lên bầu trời và những nhánh cây, ông nhanh chóng phú cho chúng một
nữ tính; nhìn với sự kinh ngạc về việc chúng đã trở nên nghiêm nghị biết bao;
đường bệ biết bao, khi làn gió nhẹ khuấy động chúng, với một nhịp vỗ kín đáo của
những chiếc lá, chúng phân phát lòng nhân ái, sự thấu hiểu, sự thứ tha, và rồi,
chúng đột ngột quăng mình lên cao, phá vỡ lòng trung thành với vẻ ngoài của
chúng bằng một cuộc vui hoang dại.
Những
ảo tượng như thế dâng hiến những cái sừng dê chứa đầy hoa quả cho người lữ
khách cô đơn, hoặc thì thầm trong tai ông như những mỹ nhân ngư đang lượn lờ
trên những làn sóng xanh biển cả, hoặc bị ném mạnh vào mặt ông như những bó hoa
hồng, hoặc trồi lên trên mặt nước như những gương mặt nhợt nhạt mà những người
ngư phủ ngoi ngóp lội qua những dòng nước cuồn cuộn để ôm chầm lấy.
Những
ảo tượng như thế không ngừng nổi lên, bước bên cạnh, đưa bộ mặt của chúng ra
phía trước sự vật thật sự; thường khiến cho người lữ khách cô đơn mê mẩn và tước
khỏi ông ý thức về quả đất, ước vọng quay về, và thay vào đó trao cho ông một sự
an bình phổ quát, như thể (ông nghĩ thế trong lúc đi xuôi theo con đường rừng)
tất cả những xôn xao của sự sống này đang tự đơn giản hóa chúng; và vô số sự vật
hợp nhất thành một sự vật; và nhân vật này, tạo thành từ bầu trời và những
nhánh cây, đã trồi lên từ biển cả bồn chồn (giờ ông đã lớn tuổi, quá năm mươi rồi)
như một nhân vật có thể bị hút ra từ những làn sóng để trút xuống từ đôi bàn
tay cao quý của nàng lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu, sự thứ tha. Vậy là, ông nghĩ,
mình không bao giờ quay lại với ánh đèn; với căn phòng khách; không bao giờ
hoàn thành cuốn sách của mình; không bao giờ gõ tẩu để trút bỏ cặn thuốc; không
bao giờ gọi cho bà Turner để dọn dẹp; tốt hơn mình cứ bước thẳng tới nhân vật
vĩ đại này, người sẽ, với một cái hất đầu, nâng mình lên trên những lá cờ đuôi
nheo của nàng ta và để cho mình cuốn vào cõi hư vô cùng với số còn lại.
Có
những ảo tượng như thế. Người lữ khách cô đơn sẽ sớm ra khỏi cánh rừng; và ở
đó, đi tới cửa với đôi mắt bị che mờ, có thể đang mong đợi chuyến quay về của
ông, với đôi bàn tay giơ cao, với cái tạp dề trắng tung bay, là một phụ nữ cao
tuổi (sự yếu ớt này mạnh mẽ biết bao), kẻ dường như đang tìm kiếm trên một sa mạc
một đứa con thất lạc; tìm kiếm một kỵ sĩ đã bỏ mình; là hình dáng của một bà mẹ
có những đứa con trai đã bị giết trong những trận đánh trên thế giới. Cứ thế,
trong lúc người lữ khách cô đơn đi xuôi theo con đường làng nơi những người phụ
nữ đứng đan và những người đàn ông đào xới trong vườn, buổi chiều hôm dường như
báo điềm gỡ; những hình dáng bất động; như thể một định mệnh uy nghiêm nào đó,
mà họ biết và chờ đợi không chút e sợ, đang sắp sửa cuốn họ tới sự hủy diệt
hoàn toàn.
Trong
nhà, giữa những đồ vật bình thường, cái tủ chạn, cái bàn, cái bệ cửa sổ với những
cây phong lữ thảo, đột nhiên đường nét của một bà chủ nhà, đang khom xuống để dời
tấm vải trải bàn, trở nên mềm đi dưới ánh sáng, một biểu tượng đáng yêu mà chỉ
ký ức về những mối liên hệ lạnh lẽo của con người mới ngăn cấm chúng ta ôm chầm
lấy. Bà lấy món mứt cam; bà cất nó vào tủ chạn.
“Đêm
nay không có gì nữa, thưa ông?”
Nhưng
người lữ khách cô đơn trả lời với ai đây?
Cứ thế, người vú em cao tuổi ngồi đan bên trên em bé đang ngủ
trong công viên Regent’s. Cứ thế Peter Walsh ngáy.
Ông
choàng tỉnh, cực kỳ đột ngột, tự nhủ: “Cái chết của linh hồn.”
Chúa
ơi, Chúa ơi!” ông nói với chính mình, to thành tiếng, duỗi người ra và mở mắt.
“Cái chết của linh hồn.” Những từ này tự gắn chúng vào một cảnh tượng nào đó, một
căn phòng nào đó, một quá khứ nào đó mà ông từng mơ thấy. Nó trở nên rõ ràng
hơn; cảnh tượng, căn phòng, quá khứ mà ông từng mơ thấy.
Đó
là ở Bourton mùa hè năm ấy, hồi đầu thập niên 90, khi ông đang yêu Clarissa say
đắm. Có rất nhiều người ở đó, cười nói râm ran, ngồi quanh một cái bàn sau bữa
tiệc trà và căn phòng tắm trong một ánh sáng vàng vọt, đầy khói thuốc. Họ đang
trò chuyện về một người đàn ông đã cưới nàng hầu của mình, một trong những địa
chủ ở gần đó, ông đã quên tên của ông ta. Ông ta đã cưới nàng hầu của mình, và
cô ta đã được đưa tới thăm Bourton – đó là một cuộc thăm viếng khó chịu. Cô ta
ăn mặc trưng diện một cách lố bịch, giống như một con vẹt mào, Clarissa bảo, nhại
theo cô ta, và cô ta nói không ngừng. Cô ta cứ nói liếng thoắng, huyên thuyên.
Clarissa nhại theo cô ta. Thế rồi có ai đó lên tiếng – đó là Sally Seton – việc
biết rằng trước khi kết hôn cô ta đã có một đứa con có tạo nên bất kỳ khác biệt
thật sự nào trong cảm giác của một người đàn ông hay không? (vào thời đó, trong
một cuộc họp mặt lẫn lộn, nói thế là rất trơ trẻn.) Giờ đây ông có thể nhìn thấy
Clarissa, mặt ửng hồng, hơi co người lại; và nói: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ có
thể nói chuyện với cô ta nữa!” Sau đó, toàn thể đám tiệc đang ngồi quanh bàn dường
như rúng động. Điều đó rất khó chịu.
Ông
không trách bà ấy về việc lưu tâm tới thực tế đó, vì vào thời ấy, một cô gái mới
lớn như bà ấy không biết gì cả, nhưng chính cung cách của bà ấy khiến ông phiền
lòng; bẽn lẽn; nghiêm khắc; hơi ngạo mạn; thiếu đầu óc tưởng tượng; đoan trang
vờ vịch. “Cái chết của linh hồn.” Ông đã nói câu đó theo bản năng, dán nhãn cho
giây phút đó như ông thường làm – cái chết của linh hồn bà ấy.
Mọi
người đều rúng động; mọi người dường như cúi chào, trong lúc bà ấy nói, và rồi
đứng lên, khác hẳn. Ông có thể nhìn thấy Sally Seton, như một đứa trẻ con đang
bực tức, nghiêng người tới trước, hơi đỏ mặt, muốn nói, nhưng lại sợ, và
Clarissa đã làm cho mọi người hoảng sợ. (Cô là bạn thân nhất của
Clarissa, luôn có mặt ở đó, hoàn toàn khác với bà ấy, một sinh vật hấp dẫn,
xinh đẹp, da ngăm, nổi tiếng táo bạo hồi thời ấy, và ông đã cho cô những điếu
xì gà mà cô hút trong phòng ngủ. Cô đã hứa hôn với ai đó hoặc đã gây gỗ với gia
đình mình và ông cụ Parry không ưa cả hai người bọn họ như nhau, đó là một mối
liên kết lớn lao giữa họ.) Thế rồi Clarissa, vẫn trong một dáng vẻ bị xúc phạm,
đứng lên, viện một lý do nào đó, và bước ra khỏi phòng. Khi bà ấy mở cửa, cái
con chó chăn cừu lông xồm ấy chạy vào. Bà ấy ôm chầm lấy nó, rơi vào trạng thái
mê ly. Như thể bà ấy nói với Peter – tất cả đều nhắm vào ông, ông biết – “Tôi
biết ngay lúc này anh nghĩ rằng tôi vô lý về người phụ nữ này; nhưng hãy nhìn
xem tôi cực kỳ thông cảm ra sao; hãy nhìn xem tôi yêu Rob của tôi ra
sao!”
Họ
luôn có cái khả năng giao tiếp không cần lời lẽ lạ lùng này. Bà ấy biết ngay
ông đang chỉ trích mình. Thế là bà ấy sẽ làm một điều gì đó hoàn toàn hiển
nhiên để tự vệ, như cái trò nhặng xị với con chó này – nhưng nó không bao giờ
đánh lừa được ông, ông luôn nhìn thấu Clarissa. Không phải ông đã nói bất cứ điều
gì, dĩ nhiên; chỉ ngồi cau mặt nhìn. Những cuộc cãi vã giữa họ thường bắt đầu
theo cách đó.
Bà
ấy đóng cửa. Ngay tức khắc ông trở nên cực kỳ phiền muộn. Tất cả dường như vô
ích – tiếp tục yêu; tiếp tục cãi nhau; tiếp tục làm hòa, và ông rời phòng đi
lang thang một mình, giữa những ngôi nhà phụ, những chuồng ngựa, nhìn những con
ngựa. (Chốn này hoàn toàn là một nơi khiêm tốn, gia đình Parry chưa bao giờ rất
giàu có; nhưng luôn có những người giữ ngựa và những cậu bé chăm sóc ngựa quanh
đó – Clarissa thích cưỡi ngựa – và một người đánh xe già – tên ông ấy là gì nhỉ?
– một bà vú già, cụ Moody, cụ Goody, họ gọi bà ta với cái tên đại loại như thế,
ông đã được đưa tới thăm bà ta trong một căn phòng nhỏ có nhiều tấm ảnh, nhiều
cái lồng chim.
Đó
là một buổi tối kinh khủng! Càng lúc ông càng buồn chán, không chỉ về chuyện
đó; về tất cả mọi chuyện. Và ông không thể nhìn thấy bà ấy; không thể giải
thích với bà ấy; không thể tranh luận. Luôn có mọi người quanh đó – bà ấy cứ tiếp
tục như thể không có gì xảy ra. Đó là cái phần quái quỷ của bà – sự lạnh lùng
này, sự thô cứng này, một điều gì đó rất sâu sắc trong bà, mà ông đã cảm nhận lại
lần nữa hồi sáng này khi trò chuyện với bà ấy; một tính chất bất khả xâm nhập.
Thế nhưng trời đất biết ông yêu bà ấy. Bà ấy có một quyền năng lạ lùng nào đó
trong việc kéo đàn trên những sợi dây thần kinh của người ta, biến những sợi thần
kinh của người ta thành những sợi dây đàn vĩ cầm, vâng.
Sau
đó ông đã vào ăn tối muộn, từ một ý tưởng ngu ngốc nào đó để cảm thấy dễ chịu
hơn, và đã ngồi xuống cạnh bà cụ họ Parry – cô Helena – em của ông Parry, được
xem là chủ trì bữa tiệc. Bà ngồi đó với chiếc khăn choàng Cashmere trắng toát,
mái đầu nổi lên trên cửa sổ – một phu nhân già kinh khủng, nhưng tử tế với ông,
vì ông đã tìm được cho bà một loại hoa hiếm có, và bà là một nhà thực vật học lớn,
bước ra khỏi nhà với một đôi ủng dày và một cái thùng đựng mẫu vật treo giữa
hai vai. Ông ngồi bên cạnh bà, và không thể nói năng gì. Mọi sự vật dường như
đang chạy ào qua ông; ông chỉ ngồi đó, và ăn. Và vào giữa buổi tiệc, ông tự buộc
mình nhìn sang Clarissa lần đầu tiên. Bà ấy đang nói chuyện với một thanh niên
ngồi bên tay phải của mình. Ông có một phát hiện bất ngờ. “Cô ta sẽ lấy người
đàn ông đó,” ông tự nhủ. Thậm chí ông còn chưa biết tên của anh ta.
Bởi
tất nhiên trong buổi tối đó, chính cái buổi tối đó, Dalloway đã tới, và
Clarissa đã gọi anh ta là “Wickham”; đó là sự khởi đầu của tất cả mọi chuyện. Một
người nào đó đã đưa anh ta tới, và Clarissa đã nghe nhầm tên của anh ta. Bà ấy
đã giới thiệu anh ta với mọi người là Wickham. Rốt cuộc anh ta nói: “Tôi tên là
Dalloway!” – đó là lần đầu tiên ông gặp Richard – một thanh niên trắng trẻo,
hơi ngượng nghịu, ngồi trên một cái ghế xếp, và bật thốt “Tôi tên là Dalloway!”
Sally đã chộp ngay lấy nó; sau đó cô luôn gọi anh ta là “Tôi tên là Dalloway!”
Lúc
ấy, ông là một nạn nhân của những phát hiện. Phát hiện này – rằng bà ấy sẽ cưới
Dalloway – khiến mắt lòa đi – hoàn toàn áp đảo vào lúc đó. Có một kiểu – ông có
thể nói sao nhỉ – một kiểu thoải mái trong cung cách của bà ấy đối với anh ta;
một điều gì đó mang tính chất tình mẫu tử; một điều gì đó dịu dàng. Họ nói chuyện
về chính trị. Suốt bữa ăn tối ông đã cố nghe xem họ đang nói gì.
Sau
đó, ông có thể nhớ đã đứng cạnh ghế của bà cô già Parry trong phòng khách.
Clarissa đi tới, với cung cách hoàn hảo, như một bà chủ nhà thật sự, và muốn giới
thiệu ông với một ai đó – đã nói như thể họ chưa bao giờ gặp nhau trước đó, điều
này khiến ông giận điên lên. Thế nhưng ngay cả lúc đó ông vẫn ngưỡng mộ bà ấy về
chuyện đó. Ông ngưỡng mộ sự can đảm của bà, bản năng xã hội của bà; ông ngưỡng
mộ khả năng hoàn tất thành công mọi sự của bà. “Vị chủ nhân hoàn hảo,” ông đã
nói với bà, khiến mặt bà nhăn lại. Nhưng ông muốn bà cảm thấy điều đó. Ông sẽ
làm bất kỳ điều gì để khiến cho bà ấy tổn thương sau khi nhìn thấy bà ấy với
Dalloway. Vì thế bà ấy đã rời khỏi ông. Và ông có cảm giác rằng tất cả bọn họ tập
hợp với nhau trong một âm mưu chống lại ông – cười cười nói nói sau lưng ông.
Ông đứng đó cạnh cái ghế của bà cô Parry như thể ông đang nói với những loài
hoa dại. Chưa bao giờ, chưa bao giờ ông đau khổ kinh khủng đến thế! Hẳn ông đã
quên ngay cả việc giả vờ lắng nghe; cuối cùng ông tỉnh lại; ông thấy bà cô
Parry trông có vẻ hơi bực dọc, phẫn nộ thì đúng hơn, với đôi mắt lồi dán vào
ông. Ông suýt kêu lên rằng ông không thể tham gia vì ông đang ở trong địa ngục!
Mọi người bắt đầu rời khỏi phòng. Ông nghe họ nói về việc lấy những cái áo
choàng; và việc trời lạnh trên mặt nước, vân vân. Họ sẽ đi thuyền trên hồ để ngắm
trăng – đó là một trong những ý tưởng điên rồ của Sally. Ông có thể nghe cô mô
tả mặt trăng. Và cả bọn kéo ra ngoài. Ông bị bỏ lại, hoàn toàn cô độc.
“Cậu
không muốn đi với họ à?” Cô Helena hỏi – bà cô già Parry! – bà đã đoán ra. Ông
quay người lại và Clarissa lại xuất hiện. Bà ấy đã quay lại đón ông. Ông bị áp
đảo bởi sự rộng lượng của bà – lòng tốt của bà.
“Đi
thôi.” Bà ấy nói. “Họ đang đợi.” Suốt cả đời mình, ông chưa bao giờ cảm thấy hạnh
phúc đến thế! Họ đã làm hòa với nhau không cần nói một lời. Họ bước xuống hồ.
Ông có hai mươi phút hoàn toàn hạnh phúc. Giọng nói của bà, tiếng cười của bà,
chiếc váy của bà (một thứ gì đó bềnh bồng, trắng tinh, đỏ thẫm), tinh thần của
bà, sự mạo hiểm của bà; bà đã khiến cho tất cả bọn họ phải lên thuyền và khám
phá hòn đảo; bà đã làm cho một con gà mái giật mình; bà cười khanh khách; bà
hát. Và trong suốt thời gian đó, ông biết rất rõ, Dalloway đã phải lòng bà; bà
đã phải lòng Dalloway; nhưng điều đó dường như không quan trọng. Không có gì
quan trọng. Họ ngồi trên mặt bước và trò chuyện – ông và Clarissa. Họ ra vào
tâm trí của nhau không cần chút nỗ lực nào. Và rồi trong một giây tất cả kết
thúc. Ông tự nhủ khi họ đi xuống thuyền: “Cô ấy sẽ lấy người đàn ông đó,” một
cách ơ thờ, không chút oán giận; nhưng đó là một điều hiển nhiên. Dalloway sẽ
cưới Clarissa.
Dalloway
chèo thuyền đưa họ vào. Ông không nói lời nào. Nhưng vì lý do nào đó khi họ
quan sát anh ta xuất phát, nhảy lên chiếc xe đạp của mình để đạp hai mươi dặm
qua khu rừng, ngoái lại trên yên xe, vẫy tay và biến mất, rõ ràng ông đã cảm thấy,
một cách bản năng, lớn lao, mạnh mẽ, tất cả những điều đó; đêm đó; mối tình
lãng mạn; Clarissa. Anh ta xứng đáng có cô ấy.
Về
phần mình, ông thật vô lý. Những đòi hỏi của ông đối với Clarissa (giờ ông có
thể nhìn thấy nó) thật vô lý. Ông đã yêu cầu những điều bất khả. Ông đã tạo ra
những màn kịch kinh khủng. Tuy nhiên, hẳn bà ấy sẽ chấp nhận ông, có lẽ, nếu
ông ít vô lý hơn. Sally cũng nghĩ như vậy. Suốt mùa hè đó cô ta đã viết cho ông
những lá thư dài; họ đã nói về ông ra sao; bà ấy đã ca ngợi ông thế nào,
Clarissa đã khóc ra sao! Đó là một mùa hè đặc biệt – tất cả những lá thư, những
cảnh tượng, những bức điện tín – tới Bourton vào sáng sớm, đi lang thang vơ vẩn
cho tới khi những người giúp việc xuất hiện; dọa dẫm nhau mặt đối mặt
với ông cụ Parry vào bữa điểm tâm; bà cô Helena rất kinh khủng nhưng tốt bụng;
Sally lôi ông ra vườn rau trò chuyện; Clarissa nằm trên giường vì bị nhức đầu.
Cảnh
tượng cuối cùng, cái cảnh tượng mà ông tin rằng đáng kể hơn bất kỳ thứ gì trong
suốt đời ông (có thể đó là một sự cường điệu – nhưng đến giờ dường như nó vẫn
như vậy), đã xảy ra lúc ba giờ chiều của một ngày rất oi bức. Một chuyện nhỏ nhặt
đã dẫn tới nó – trong bữa ăn trưa Sally đã nói gì đó về Dalloway, và gọi ông ta
là “Tôi tên là Dalloway”; tiếp đó Clarissa đột nhiên cứng người lại, đỏ mặt
lên, theo cách của bà ấy, và gay gắt thốt lên: “Chúng ta đã có đủ cái thứ chuyện
đùa nhạt như nước ốc đó.” Chỉ có thế. Nhưng với ông, nó chính xác như thể bà ấy
đã nói, “Tôi chỉ giải trí với anh thôi; tôi có một sự thấu hiểu với Richard
Dalloway.” Ông hiểu nó như vậy. Ông đã mất ngủ nhiều đêm. “Bằng cách này hay
cách khác phải kết thúc chuyện này,” ông tự nhủ. Ông nhờ Sally gửi cho bà một
lá thư đề nghị bà gặp ông ở cạnh đài phun nước lúc ba giờ. “Có một điều rất
quan trọng đã xảy ra,” ông viết ở cuối thư.
Cái
đài phun nước nằm giữa một khu vực nhỏ nhiều bụi rậm, cách xa ngôi nhà, với những
bụi rậm và cây cối xung quanh. Bà ấy tới đó, thậm chí trước giờ hẹn, và họ đứng
đó, ở giữa là cái vòi phun nước, cái vòi (nó đã bị vỡ) không ngừng nhỏ giọt. Những
cảnh tượng tự gắn chúng vào tâm trí lâu bền làm sao! Ví dụ, lớp rêu xanh rực rỡ.
Bà
ấy không nhúc nhích. “Hãy nói với tôi sự thật, nói với tôi sự thật,” ông lặp đi
lặp lại. Ông cảm thấy như thể trán mình sẽ nổ tung. Dường như bà ấy co rúm lại,
điếng người. Bà ấy không nhúc nhích. “Hãy nói với tôi sự thật,” ông lặp lại, khi
đột nhiên ông già Breitkopf ló đầu ra, mang theo tờ Times; nhìn họ chòng chọc;
thở dốc, rồi bỏ đi. Không ai trong hai người bọn họ nhúc nhích. “Hãy nói với
tôi sự thật,” ông lặp lại. Ông cảm thấy ông đang nghiền một thứ gì đó rất cứng
về mặt vật lý; bà ấy cứng cỏi. Bà ấy giống như sắt, giống như đá lửa, cứng rắn
từ trong xương sống. Và khi bà ấy nói, “Việc đó chẳng ích gì. Việc đó chẳng ích
gì. Đây là kết thúc” – sau khi ông đã nói hàng giờ, dường như vậy, với những giọt
nước mắt lăn trên má – như thể bà ấy đã tát vào mặt ông. Bà ấy quay lưng, rời
khỏi ông, bỏ đi mất.
“Clarissa!
Ông kêu lên. “Clarissa!” Nhưng bà ấy không bao giờ quay lại. Nó đã kết thúc.
Đêm đó ông đi xa. Ông không bao giờ gặp lại bà ấy.
[1] Horatio Nelson, Đệ nhất Tử tước Nelson, Đệ nhất Công
tước xứ Bronte, (1758 – 1805) anh hùng đô đốc hải quân Anh, nổi tiếng
nhất với việc chỉ huy trận thủy chiến Trafalgar năm 1805 trong cuộc chiến tranh
với Napoleon.
[2] Charles George Gordon, (1833 – 1885), còn có các biệt
danh Gordon Trung Hoa, Tổng trấn Gordon, và Gordon Thành
Khartoum, anh hùng, thiếu tá quân đội Anh.
[3] Sir Henry Havelock, Đại tướng quân đội Hoàng gia Anh
(1795 – 1857).
Phần 4:
Thật kinh khủng, ông kêu lên, kinh khủng, kinh khủng!
Tuy
nhiên, mặt trời đang nóng. Tuy nhiên, người ta phải chấp nhận mọi sự đã qua.
Tuy nhiên sự sống có một cung cách bổ sung thêm cho mỗi ngày. Tuy nhiên, ông
nghĩ, ngáp dài và bắt đầu chú ý – công viên Regent’s đã thay đổi rất ít từ khi
ông còn là một cậu bé, ngoại trừ những con sóc – tuy nhiên, giả sử có những bù
đắp – khi em bé Elise Mitchell, người đã nhặt những hòn cuội để bổ sung cho bộ
sưu tập đá cuội mà nó và anh nó đang thực hiện trên cái bệ lò sưởi của phòng trẻ
em, đã trút ào cả nắm cuội lên đầu gối của người vú em và đã lao hết tốc lực
vào đôi chân của một quý cô. Peter Walsh cười phá lên.
Nhưng
Lucrezia Warren Smith đang tự nhủ; vì sao mình phải chịu khổ? Cô đang tự hỏi,
khi bước dọc theo con đường rộng. Không; mình không thể chịu đựng thêm nữa, cô
đang nói, sau khi rời khỏi Septimus, kẻ không còn là Septimus nữa, cứ nói ra những
điều khó nghe, độc ác, xấu xa, tự nói với chính mình, nói với một người chết,
trên cái ghế đằng kia; khi một đứa bé chạy đâm sầm vào cô, ngã sóng soài và bật
khóc.
Điều
đó an ủi đôi chút. Cô đỡ nó đứng lên, phủi bụi trên váy nó, hôn nó.
Nhưng
với chính mình cô chưa làm điều gì sai trái cả; cô đã yêu Septimus; cô đã hạnh
phúc; cô đã có một ngôi nhà đẹp đẽ, và ở đó các chị em của cô sống lặng lẽ, làm
những chiếc mũ. Vì sao cô phải chịu khổ?
Đứa
bé chạy thẳng về chỗ người vú em của nó, và Rezia thấy nó nhăn nhó, được vỗ về, được
người vú em của nó bế lên sau khi đặt món đồ đan xuống, và người đàn ông trông
có vẻ tốt bụng đưa cho nó cái đồng hồ của mình để nó mở tung ra, để an ủi nó –
nhưng vì sao cô lại bị phơi trần? Vì sao không bỏ đi ở Milan? Vì sao bị hành hạ?
Vì sao?
Hơi
lung liêng chao động bởi những giọt nước mắt, con đường rộng, người vú em, người
đàn ông mặc đồ xám, cái xe đẩy, dâng lên rồi hạ xuống trước đôi mắt của cô. Bị
kẻ hành hạ hiểm ác này làm cho rúng động là số phận của cô. Nhưng vì sao? Cô giống
như một con chim ẩn náu dưới lòng trũng mong manh của một chiếc lá, chớp mắt
nhìn ánh mặt trời khi chiếc lá chuyển động; giật mình với một tiếng rạn lách
tách của một nhánh cây khô. Cô bị phơi trần. Cô bị vây quanh bởi những cây cối
to lớn, những đám mây thênh thang của một thế giới bàng quang, bị phơi trần; bị
hành hạ; và vì sao cô phải chịu khổ đau? Vì sao?
Cô
nhăn mặt; cô dậm chân. Cô phải quay lại với Septimus vì đã tới lúc họ phải tới
nhà ngài William Bradshaw. Cô phải quay lại và nói với anh ta, quay lại với anh
ta đang ngồi đó trên cái ghế xanh bên dưới cái cây, đang nói chuyện với chính
mình, hay với người đàn ông đã chết Evans đó, người mà cô chỉ thoáng nhìn thấy
một lần trong trong cửa tiệm. Có vẻ như anh ta là một người lặng lẽ tốt bụng; một
người bạn thân của Septimus, và anh ta đã bị giết trong chiến tranh. Nhưng những
điều như thế xảy ra với mọi người. Mọi người đều có những người bạn bị giết
trong cuộc chiến. Mọi người đều từ bỏ một thứ gì đó khi họ kết hôn. Cô đã từ bỏ
ngôi nhà của mình. Cô đã tới sống ở đây, trong cái thành phố dễ sợ này. Nhưng
Septimus cứ cho phép bản thân suy nghĩ về những điều khủng khiếp, vì cả cô cũng
có thể, nếu cô cố gắng. Anh ta ngày càng trở nên xa lạ. Bà Filmer nghĩ là điều
đó thật kỳ quặc. Anh ta còn nhìn thấy nhiều điều nữa – anh ta đã nhìn thấy đầu
của một bà già ở giữa một lùm dương xỉ. Nhưng anh ta có thể hạnh phúc nếu anh
ta chọn. Họ đã tới điện Hampton trên tầng trên của một chiếc xe buýt, và họ đã
hoàn toàn hạnh phúc. Tất cả những loài hoa nho nhỏ màu đỏ và màu trắng đều ở
ngoài bãi cỏ, như những ngọn đèn trôi nổi bập bềnh, anh ta đã nói, tán gẫu và
cười lớn, bịa ra những câu chuyện. Đột nhiên anh ta nói, “Giờ chúng ta sẽ tự
sát,” khi họ đang đứng cạnh dòng sông, và anh ta nhìn nó với một ánh mắt mà cô
đã nhìn thấy trong mắt anh ta khi có một con tàu hỏa chạy ngang, hay một chiếc
xe buýt hai tầng – một ánh mắt như thể có cái gì đó đang mê hoặc anh ta; cô cảm
thấy anh ta sắp rời khỏi cô và cô chụp lấy cánh tay của anh ta. Nhưng khi về
nhà anh ta hoàn toàn lặng lẽ – hoàn toàn hợp lý. Anh ta thường tranh cãi với cô
về việc họ tự sát; và giải thích mọi người xấu xa như thế nào; anh ta có thể thấy
họ bịa đặt những lời dối trá thế nào khi họ đi ngang qua trên phố. Anh ta biết
tất cả những ý nghĩ của họ, anh ta bảo; anh ta biết mọi thứ. Anh ta biết ý
nghĩa của thế gian này, anh ta bảo.
Rồi
khi họ đã về nhà anh ta hầu như không thể bước đi. Anh ta nằm trên cái trường kỷ
và bảo cô nắm lấy bàn tay của mình để ngăn không cho anh ta rơi xuống, rơi xuống,
vào những ngọn lửa! Anh ta khóc, và nhìn thấy những gương mặt đang cười nhạo
anh ta, gọi anh ta bằng những cái tên kinh tởm khủng khiếp, từ những bức tường,
và những bàn tay chỉ vòng qua bức bình phong. Thế nhưng họ hoàn toàn chỉ có một
mình. Nhưng anh ta bắt đầu nói lớn tiếng, trả lời mọi người, tranh luận, cười,
khóc, trở nên rất kích động và bắt cô phải viết lại các thứ. Điều đó thật phi
lý; về cái chết; về cô Isabel Pole. Cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sẽ quay
lại.
Lúc
này cô đã tới gần anh ta, có thể nhìn thấy anh ta đang nhìn chòng chọc lên bầu
trời, lẩm bẩm, vỗ tay. Thế nhưng bác sĩ Holmes đã bảo không có gì nghiêm trọng
với anh ta hết. Vậy chuyện gì đã xảy ra – vậy vì sao anh ta bỏ đi, khi cô ngồi
cạnh anh ta, anh ta lại giật mình, cau mặt nhìn cô, nhích ra xa, và chỉ vào tay
cô, cầm lấy tay cô, nhìn nó một cách kinh hoàng?
Có
phải cô đã tháo chiếc nhẫn cưới ra không? “Tay em đã trở nên quá gầy,” cô ta
nói. “Em phải cất nó vào ví,” cô ta nói với anh.
Anh
buông tay cô ta xuống. Cuộc hôn nhân của họ đã kết thúc, anh nghĩ, với sự thống
khổ, với sự nhẹ nhõm. Sợi thừng đã bị cắt đứt; anh đã trèo lên; anh tự do, như
lệnh đã ban rằng anh, Septimus, chúa tể của những người đàn ông, sẽ được tự do;
đơn độc (vì vợ anh đã vất bỏ chiếc nhẫn cưới của mình; vì cô ta đã bỏ mặc anh),
anh, Septimus, chỉ có một mình, được kêu gọi tiến lên trước đám đàn ông để nghe
sự thật, để biết ý nghĩa, mà cuối cùng giờ đây, sau tất cả những công việc nhọc
nhằn của việc dân sự hóa – những người Hy Lạp, những người La Mã, Shakespeare,
Darwin và giờ là bản thân anh – sẽ phải trao tất cả cho… “Cho ai?” Anh lớn tiếng
hỏi. “Cho ngài thủ tướng,” những giọng nói lao xao bên trên đầu anh trả lời. Bí
mật tối cao phải được báo cho nội các; đầu tiên là những cây cối đang sống; tiếp
đến là không có tội ác; tiếp đến là tình yêu, tình yêu phổ quát, anh lẩm bẩm,
thở hổn hển, run rẩy, rút ra một cách đau đớn những chân lý sâu xa này, những
chân lý rất sâu xa mà cần có một nỗ lực rất đỗi khó khăn, to lớn để nói lên,
nhưng thế gian đã bị chúng làm cho thay đổi hoàn toàn mãi mãi.
Không
có tội ác; tình yêu; anh lặp lại, lần mò tìm tấm danh thiếp và cây bút chì, khi
một con chó săn giống Skye đánh hơi cái quần của anh và anh giật mình hoảng hốt.
Nó đang biến thành một người đàn ông! Anh không thể quan sát chuyện này diễn
ra! Việc nhìn thấy một con chó biến thành một người đàn ông thật kinh hoàng, khủng
khiếp! Con chó bỏ chạy ngay lập tức.
Trời
đất khoan dung cực kỳ, nhân từ vô hạn. Nó đã tha cho anh sống, khoan thứ sự yếu
đuối của anh. Nhưng đâu là lý giải theo khoa học? (Vì trên tất cả mọi thứ người
ta phải có đầu óc khoa học.) Vì sao anh có thể nhìn thấu qua những thân thể,
nhìn thấy tương lai, khi những con chó trở thành người? Có thể cho đó là làn
sóng nhiệt, tác động lên một bộ não đã trở nên nhạy cảm bởi nhiều niên đại tiến
hóa. Nói theo khoa học, thịt da đã tan chảy khỏi trần gian. Thân thể anh trở
nên cằn cỗi cho tới khi chỉ còn sót lại những sợi thần kinh. Nó trải ra như một
tấm voan trên một tảng đá.
Anh
nằm ngửa trên ghế, kiệt sức nhưng giữ vững tinh thần. Anh nằm ngơi nghỉ, chờ đợi,
trước khi một lần nữa anh diễn giải cho nhân loại, với nỗ lực, với niềm thống
khổ. Anh nằm rất cao, trên lưng cõi thế. Quả đất rùng mình bên dưới thân anh.
Những cây hoa màu đỏ mọc qua da thịt anh; những chiếc lá cứng của chúng lao xao
cạnh đầu anh. Tiếng nhạc bắt đầu lanh lảnh vọng lên những tảng đá trên này. Đó
là một tiếng còi xe ở dưới phố, anh lẩm bẩm; nhưng ở trên này nó bắn từ tảng đá
này sang tảng đá khác, tách ra, nhập lại trong những âm thanh chấn động; chúng
cất cao thành những cây cột mịn màng (việc có thể nhìn thấy thứ âm nhạc đó là một
phát hiện) và trở thành một bản thánh ca, một bản thánh ca lúc này bị cuộn tròn
lại bởi tiếng sáo của một thằng bé chăn cừu (Đó là một ông già đang thổi một
cái còi thiếc cạnh tiệm rượu, anh lẩm bẩm); trong lúc thằng bé bất động, bản nhạc
vẫn sôi sục thoát ra từ cái ống sáo, và rồi, khi anh trèo lên cao hơn, tiếng
sáo trở nên cực kỳ ão não trong lúc xe cộ lưu thông bên dưới. Khúc bi ca của thằng
bé này được chơi giữa đám xe cộ lưu thông, Septimus nghĩ. Lúc này anh rút lui
vào lớp tuyết, và những bụi hoa hồng rũ nhánh quanh anh – những nhánh hoa hồng
dày mọc trên vách phòng ngủ của mình, anh tự nhắc bản thân. Tiếng nhạc dừng lại.
Thằng bé đã nhận được đồng xu của nó, nhận định về đồng xu, và đã đi sang tiệm
rượu kế bên.
Nhưng
bản thân anh vẫn còn ở trên tảng đá cao của mình, như một thủy thủ chết đắm
trên một tảng đá. Tôi vươn người ra thành tàu và rơi xuống, anh nghĩ. Tôi chìm
xuống biển. Tôi đã chết, thế nhưng lúc này còn sống, nhưng hãy để tôi nằm yên;
anh cầu xin (anh lại đang nói với chính mình – nó thật kinh khủng, kinh khủng!);
và trong lúc, trước khi thức tỉnh, giọng hót của lũ chim chóc và âm thanh của
những bánh xe trộn lẫn vào nhau và lao xao trong một sự hài hòa kỳ lạ, ngày
càng lớn dần và người nằm ngủ cảm thấy mình bị cuốn tới những bãi biển cuộc đời,
anh cảm thấy mình bị cuốn về phía cuộc sống như thế, mặt trời ngày càng nóng
hơn, những tiếng kêu nghe lớn hơn, một điều gì đó lớn lao sắp xảy ra.
Anh
chỉ cần mở mắt ra; nhưng một sức nặng đè lên chúng; một nỗi sợ. Anh căng người;
anh đẩy; anh nhìn; anh nhìn thấy công viên Regent’s trước mặt. Những luồng ánh
nắng vuốt ve đôi bàn chân của anh. Đám cây cối nghiêng ngả, vươn cành. Chúng
tôi chào đón, dường như thế giới nói; chúng tôi chấp nhận; chúng tôi sáng tạo.
Vẻ đẹp, dường như thế giới nói. Và như thể để chứng minh (một cách khoa học), bất
cứ nơi nào anh nhìn tới, những ngôi nhà, những hàng rào, những con linh dương
đang vươn cổ qua hàng rào, vẻ đẹp ngay lập tức bừng lên. Quan sát một chiếc lá
run rẩy trong luồng không khí là một niềm vui tinh tế. Trên trời, những con
chim nhạn sà xuống, lượn vòng, chao liệng vào ra giữa đàn, hết vòng này sang
vòng khác, thế nhưng luôn luôn với sự kiểm soát hoàn hảo như thể có một sợi dây
cao su giữ chúng lại; và những con ruồi vút lên hạ xuống; và mặt trời đáp xuống
khi thì chiếc lá này, lúc thì chiếc lá nọ, với sự chế giễu, khiến nó sáng lóa
lên một sắc vàng mềm mại trong sự an hòa thuần khiết; và thi thoảng có một tiếng
chuông hòa âm (có thể đó là một tiếng còi xe) kêu leng keng đến tuyệt vời trên
những nhánh cỏ – tất cả những thứ này, êm đềm và hợp lý như thường lệ, được tạo
nên từ những sự vật bình thường như thường lệ, giờ đây là chân lý; vẻ đẹp, giờ
đây đó là chân lý. Vẻ đẹp ở khắp mọi nơi.
“Đã
tới lúc rồi.” Rezia nói.
Cái từ “lúc” [1] tách đôi cái vỏ của nó ra; trút những nội dung phong phú
của nó lên anh; và từ đôi môi anh rơi xuống như những cái vỏ sò, như những dăm
kim loại từ một chiếc máy bay, không hề do anh thốt ra, những từ cứng, trắng, bất
diệt, và chúng bay lên, tự gắn vào vị trí của chúng trong một khúc tụng ca Thời
gian. Anh hát. Evans đáp lại từ sau thân cây. Những người chết ở Thessaly, Evans
hát, giữa những chùm phong lan. Họ ở đó chờ cho tới khi cuộc chiến tranh kết
thúc, và giờ là những người chết, giờ là chính bản thân Evans…
“Vì
Chúa, đừng tới!” Septimus kêu lên. Vì anh không thể nhìn vào những người chết.
Nhưng
những nhánh cây tách ra. Một người đàn ông mặc đồ xám đang thực sự bước về phía
chúng. Nhưng trên người anh ta không có bùn; không một vết thương; anh ta không
thay đổi. Tôi phải nói với toàn thế giới, Septimus la lên, giơ cao tay (trong
lúc người đàn ông mặc đồ xám tiến tới gần hơn), giơ cao tay như một nhân vật khổng
lồ đã một mình than khóc trong sa mạc suốt nhiều niên đại cho định mệnh của con
người, với đôi tay áp vào trán, những nếp nhăn tuyệt vọng hằn trên má, và lúc
này nhìn thấy ánh sáng ở rìa sa mạc; nó mở rộng ra và tấn công vào nhân vật đen
như sắt (và Septimus hơi nhổm lên trên ghế), và với những binh đoàn người nằm
sóng soài phía sau ông ta, người than khóc kh
ổng lồ, đón nhận trong khoảnh khắc trên mặt mình toàn bộ…
ổng lồ, đón nhận trong khoảnh khắc trên mặt mình toàn bộ…
“Nhưng
em rất đau khổ, Septimus ạ.” Rezia nói, cố kéo anh ngồi xuống.
Nhiều
triệu người than khóc; họ đã đau buồn biết bao lâu nay. Anh sẽ quay người lại,
anh sẽ nói với họ trong giây lát, chỉ thêm trong giây lát, về sự khuây khỏa
này, về niềm vui này, về phát hiện đáng kinh ngạc này…
“Mấy
giờ, Septimus?” Rezia lặp lại. “Mấy giờ rồi?”
Anh
đang nói. Anh đang bắt đầu, người đàn ông này phải chú ý tới anh. Ông ta đang
nhìn họ.
“Tôi
sẽ nói cho anh biết giờ.” Septimus nói, rất chậm rãi, rất uể oải, mỉm cười bí ẩn.
Trong lúc anh mỉm cười với người đàn ông đã chết mặc đồ xám, đồng hồ đổ chuông
– mười hai giờ kém mười lăm.
Và
đó là tuổi trẻ, Peter Walsh nghĩ khi ông đi ngang qua họ. Có một cảnh tượng
đáng sợ – cô gái khốn khổ trông có vẻ hoàn toàn tuyệt vọng – vào giữa buổi
sáng. Nhưng đó là về cái gì, ông tự hỏi, người thanh niên mặc áo khoác đó đã
nói gì với cô ta để khiến cho cô ta trông như vậy; họ đã tự gắn mình vào sự việc
đáng sợ nào, khiến cả hai trông tuyệt vọng đến thế trong một buổi sáng mùa hạ đẹp
trời?
Điều
thú vị về việc quay trở lại Anh, sau năm năm, là cái cách thức nó khiến cho, bất
kể những ngày đầu tiên ra sao, những sự việc nổi bật lên như thể người ta chưa
bao giờ nhìn thấy chúng trước đó; đôi tình nhân cãi nhau dưới một gốc cây; cuộc
sống gia đình của những công viên. Ông chưa bao giờ thấy London có vẻ mê hoặc
như thế – sự mềm mại của những khoảng xa; sự phong dật; sự xanh tươi; sự văn
minh, sau Ấn Độ, ông nghĩ, lững thững băng qua bãi cỏ.
Không
ngờ gì nữa, sự nhạy cảm đối với những ấn tượng này đã làm hại ông. Ở tuổi mình,
ông vẫn có những tâm trạng đan xen này như một cậu bé hay thậm chí một cô bé;
những ngày tốt đẹp, những ngày tệ hại, bất kể vì lý do gì, niềm hạnh phúc từ một
gương mặt xinh xắn rơi tụt xuống nỗi khốn khổ khi nhìn thấy một người đàn bà ăn
mặc lôi thôi. Sau Ấn Độ, dĩ nhiên người ta phải lòng mọi phụ nữ người
ta gặp. Ở họ có một sự tươi tắn; ngay cả người ăn mặc tồi tàn nhất chắc chắn
cũng đẹp hơn năm năm trước; và với đôi mắt của ông, các thứ thời trang chưa bao
giờ thích hợp đến thế; những chiếc áo choàng đen dài; thanh mảnh; tao nhã; rồi
tới thói quen thú vị và rõ ràng là phổ quát về mỹ phẩm. Mọi phụ nữ, ngay cả người
khả kính nhất, đều như hoa hồng đang nở; những làn môi sắc sảo; những lọn tóc
đen nhánh; có sự thiết kế, mỹ thuật ở mọi nơi; một thay đổi nào đó chắc chắn đã
xảy ra. Những người trẻ tuổi nghĩ về cái gì? Peter Walsh tự hỏi.
Năm
năm đó – 1918 tới 1923 – vì lý do nào đó là rất quan trọng, ông ngờ thế. Mọi
người trông có vẻ khác hẳn. Những tờ nhật trình dường như khác hẳn.
Chẳng hạn như hiện nay có một người đàn ông viết hoàn toàn cởi mở trên một
trong những tờ tuần báo khả kính về những nhà vệ sinh. Mười năm trước bạn không
thể làm điều đó – viết hoàn toàn cởi mở về những cái nhà xí trên một tờ tuần
báo khả kính. Rồi tới việc lấy ra một thỏi son môi hay một nùi bông thoa phấn
và trang điểm trước đám đông này nữa. Trên boong con tàu về nhà có nhiều thanh
niên nam nữ – cụ thể là Betty và Bertie, ông nhớ – xử sự hoàn toàn cởi mở; bà mẹ
già ngồi quan sát với mớ đồ đan, thản nhiên như không. Cô gái đứng yên và thoa
phấn lên môi trước mặt mọi người. Và họ chưa đính hôn với nhau, chỉ tận hưởng một
thời gian vui vẻ; không bên nào có cảm giác tổn thương. Cô ta, Betty hay gì nhỉ,
cứng như một cây đinh, nhưng là một người hoàn toàn tử tế. Cô ta sẽ trở thành một
bà vợ rất tốt ở tuổi ba mươi – cô ta sẽ kết hôn khi tới thời điểm thích hợp; lấy
một người đàn ông giàu có nào đó và sống trong một ngôi nhà lớn gần Manchester.
Người
đã thực hiện điều đó là ai nhỉ? Peter Walsh tự hỏi, quẹo vào đường Broad Walk –
đã lấy một người đàn ông giàu có và sống trong một ngôi nhà lớn gần Manchester?
Một ai đó đã viết cho ông một lá thư dài lai láng hoàn toàn muộn màng về “những
bông hoa tú cầu xanh”. Chính việc nhìn thấy những bông hoa tú cầu xanh đã khiến
cho bà ấy nghĩ tới ông và những ngày xưa – Sally Seton, tất nhiên rồi! Chính là
Sally Seton – người cuối cùng trên đời này mong đợi lấy được một người đàn ông
giàu có và sống trong một ngôi nhà lớn gần Manchester, cái cô nàng Sally hoang
dã, táo tợn, lãng mạn!
Nhưng
trong cả đám bạn xưa của Clarissa – vợ chồng nhà Whitbread, Kinderley,
Cunningham, Kinloch-Jones – có lẽ Sally là người tốt nhất. Bằng cách nào đó cô
đã cố hiểu đúng được vấn đề. Bằng cách nào đó cô đã nhìn thấu Hugh Whitbreads –
cái gã Hugh đáng ngưỡng mộ – khi Clarissa và số còn lại đều bị anh
ta mê hoặc.
“Vợ
chồng nhà Whitbread à?” Ông có thể nghe cô nói. “Vợ chồng nhà Whitbread là ai?
Những thương gia ngành than. Những nhà buôn khả kính.”
Cô
ghét cay ghét đắng Hugh vì một lý do nào đó. Anh ta không nghĩ tới thứ gì khác
ngoài ngoại hình của chính mình, cô ta bảo. Lẽ ra anh ta nên là một công tước.
Chắc chắn là anh ta sẽ cưới một trong những công nương trong hoàng tộc. Và dĩ
nhiên Hugh có một sự tôn kính đặc biệt, tự nhiên nhất, siêu phàm nhất, đối với
giới quý tộc Anh trong số bất kỳ người nào anh ta từng gặp gỡ. Ngay cả Clarissa
cũng phải thừa nhận điều đó. Chà, nhưng anh ta là một gã rất dễ thương, rất vị
tha, đã từ bỏ việc săn bắn để làm vừa lòng bà mẹ già của mình, nhớ tới sinh nhật
bà cô của mình, vân vân.
Sally,
thật đáng ngưỡng mộ, đã nhìn thấu tất cả những điều đó. Một trong những điều mà
ông nhớ nhất là một cuộc tranh cãi vào một sáng Chủ nhật ở Bourton về những quyền
của phụ nữ (cái đề tài cũ rích đó), khi Sally đột nhiên mất bình tĩnh, nổi cáu
lên, và nói với Hugh rằng anh ta đại diện cho tất cả những thứ đáng ghét nhất
trong cuộc sống của tầng lớp trung lưu nước Anh. Cô bảo với anh ta rằng cô cho
là anh ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng của “những cô gái nghèo ở khu
Piccadilly” – Hugh, quý ông hoàn hảo, Hugh khốn khổ! – chưa từng có người đàn
ông nào trông hoảng kinh hồn vía hơn thế! Sau đó cô ta bảo rằng cô ta làm thế
là có mục đích (vì họ thường tụ hợp với nhau trong vườn rau và trao đổi ý kiến).
“Anh ta không hề đọc thứ gì, suy nghĩ điều gì, cảm thấy điều gì,” ông có thể
nghe cô ta nói với cái giọng nhấn mạnh đó, nó chuyên chở rất nhiều điều hơn mức
cô ta biết. Trong những cậu bé chăm sóc ngựa còn có nhiều sức sống hơn là trong
Hugh, cô ta nói. Anh ta là một mẫu vật hoàn hảo của kiểu trường công lập, cô ta
nói. Không quốc gia nào ngoài nước Anh có thể sản sinh ra anh ta. Cô ta thật sự
hằn học, vì một lý do nào đó; có một mối hận nào đó đối với anh ta. Một chuyện
gì đó đã xảy ra – ông quên mất là gì – trong phòng hút thuốc. Anh ta đã sỉ nhục
cô ta – đã hôn cô ta? Không thể tin nổi! Tất nhiên là không ai tin vào một lời
chống lại Hugh. Ai có thể tin chứ? Hôn Sally trong phòng hút thuốc! Nếu đó là một
công nương Edith hay phu nhân Violet thì có lẽ; nhưng không phải là cô nàng
Sally ăn mặc nhếch nhác không có một xu thừa kế với một ông bố hay bà mẹ chơi cờ
bạc ở Monte Carlo đó. Bởi trong số tất cả những người ông từng gặp Hugh là một
gã hợm mình ghê gớm nhất – một gã xun xoe nhất – không, chính xác thì anh ta
không khúm núm. Anh ta quá khinh khỉnh ta đây đối với điều đó. Một gã hầu phòng
hạng nhất là một so sánh hiển nhiên – một ai đó đi theo sau mang những cái va
li; có thể tin cậy để gửi những bức điện tín – tuyệt đối cần thiết đối với những
bà chủ nhà. Và anh ta đã tìm được công việc của mình – kết hôn với cô nàng
Evelyn danh giá; có một chức vụ nhỏ ở triều đình, chăm sóc cho những hầm rượu của
đức vua, lau chùi những cái khóa giày của hoàng đế, đi lại với cái quần chẽn gối
và những ống tay áo viền đăng ten. Cuộc sống thật tàn nhẫn biết bao! Một công
việc nhỏ ở triều đình!
Anh
ta đã cưới tiểu thư này, cô nàng Evelyn danh giá, và họ sống gần đâu đây, ông
nghĩ thế (khi nhìn vào những ngôi nhà tráng lệ quay ra hướng công viên), vì ông
đã có lần ăn trưa ở đó, trong một ngôi nhà mà, như tất cả các tài sản của Hugh,
có một thứ gì đó mà không ngôi nhà khác có thể có được – có thể đó là những cái
tủ chứa quần áo vải lanh. Bạn phải tới và nhìn thấy chúng – bạn luôn phải bỏ ra
nhiều thì giờ để tán thưởng bất kể nó là gì – những cái tủ chứa đồ vải lanh, những
cái áo gối, những đồ nội thất cổ bằng gỗ sồi, những bức tranh, mà Hugh đã chọn
ra cho một bài hát cũ. Nhưng đôi khi bà Hugh để lòi cái dốt ra. Cô ta là một
trong những phụ nữ nhỏ nhắn như chuột nhắt luôn hâm mộ những gã đàn ông to lớn.
Cô ta hoàn toàn không đáng kể. Rồi đột nhiên cô ta nói một điều gì đó hoàn toàn
bất ngờ – một điều gì đó sắc sảo. Có lẽ cô ta có tàn tích những lề thói trưởng
giả. Hơi than quá nồng đối với cô ta – nó khiến cho bầu không khí dày đặc. Và họ
sống như thế, với những cái tủ đựng đồ vải lanh, những người chủ nhà đất già
nua và những cái áo gối viền đăng ten thật với mức năm hoặc mười ngàn bảng mỗi
năm, có lẽ, trong lúc ông, người lớn hơn Hugh hai tuổi, vẫn lang thang để tìm một
việc làm.
Ở
tuổi năm mươi ba ông phải tới và nhờ họ gửi gắm ông vào một văn phòng thơ ký
nào đó, tìm cho ông một công việc trợ giáo tiếng Latin cho những cậu bé, chịu sự
sai khiến của một viên quan lại nào đó trong một văn phòng, một việc làm nào đó
có thể mang lại năm trăm bảng một năm; vì nếu ông cưới Daisy, ngay cả với tiền
lương hưu của ông, họ cũng không thể nào sống nổi.
Có
lẽ Whitebread có thể làm được điều này; hoặc Dalloway. Ông không quan tâm tới
điều ông đã yêu cầu Dalloway. Ông ta là một người hoàn toàn tốt; hơi hạn chế một
chút; chậm hiểu một chút; phải, nhưng là một người hoàn toàn tốt. Bất kể bắt đầu
một việc gì, ông ta đều thực hiện nó với cùng một cách thức thực tế; không có
chút đầu óc tưởng tượng nào, không một tia sáng tài hoa, nhưng với sự tỉ mỉ bất
khả lý giải theo cách của ông ta. Lẽ ra ông ta phải là một quý ông ở nông thôn
– ông ta đã lãng phí cho chính trị. Ông ta có khả năng tốt nhất ở ngoài trời, với
lũ ngựa và lũ chó – chẳng hạn, ông ta đã tài giỏi biết bao khi con chó lông xồm
to lớn của Clarissa bị mắc bẫy và đứt mất bàn chân, Clarissa ngất xỉu và
Dalloway đã làm mọi thứ: băng bó, buộc nẹp, bảo Clarissa đừng có ngốc nghếch.
Có lẽ bà ấy thích ông ta ở điều đó. Đó là thứ bà ấy cần. “Nào, cô thân mến, đừng
có ngốc thế. Giữ lấy cái này, đi lấy cái kia,” suốt thời gian đó nói chuyện với
con chó như thể nó là một con người.
Nhưng
làm sao bà ấy có thể nuốt trôi tất cả những thứ thơ thẩn đó nhỉ? Làm sao bà ấy
có thể để cho ông ta nói tràng giang đại hải về Shakespeare thế nhỉ? Một cách
nghiêm túc, trang trọng, Richard Dalloway tỏ ra tức giận và bảo rằng không người
đàn ông lịch sự nào nên đọc những bài sonnet của Shakespeare vì nó giống như
nghe lén qua lỗ khóa (ở ngoài những mối quan hệ không phải là một điều ông ta
chấp nhận). Không người đàn ông lịch sự nào nên để cho vợ mình tới thăm một cô
em gái đã chết. Thật không thể tin nổi! Điều duy nhất để làm là xối xả tấn công
ông ta bằng món mứt quả hạnh – đó là vào bữa tối. Nhưng Clarissa đã bị che mắt
hoàn toàn; nghĩ rằng ông ta rất chân thành; rất độc lập; có trời biết bà ấy có
nghĩ rằng ông ta là người có đầu óc bình thường nhất mà bà ấy từng gặp hay
không.
Đó
là mối liên kết giữa Sally và ông. Có một khu vườn nơi họ thường đi dạo, một
nơi có tường bao bọc, với những bụi hoa hồng và những cây cải bắp to lớn – ông
có thể nhớ Sally đã hái một bông hồng, dừng lại để cảm thán về vẻ đẹp của những
lá cải bắp dưới ánh trăng (thật lạ lùng, cách thức tất cả những chuyện mà ông
không nghĩ tới suốt nhiều năm quay lại với ông), trong lúc cô ta van nài ông,
dĩ nhiên là nửa đùa nửa thật, hãy chiếm lấy trái tim của Clarissa, để cứu bà ấy
khỏi gia đình Hugh và Dalloway và tất cả những quý ông hoàn hảo khác, những kẻ
sẽ bóp nghẹt linh hồn của bà ấy (dạo đó bà ấy viết hàng tập thơ), biến bà ấy
thành một bà chủ nhà đơn thuần, khuyến khích bà ấy trở nên phàm tục. Nhưng người
ta ngưỡng mộ Clarissa. Dù sao đi nữa, bà ấy đã không lấy Hugh. Bà ấy có một nhận
thức hoàn toàn rõ ràng về điều mình muốn. Tất cả mọi cảm xúc của bà ấy đều ở
trên bề mặt. Bên dưới, bà ấy rất sắc sảo – chẳng hạn giỏi xét đoán về tính cách
hơn Sally nhiều, và với tất cả những điều đó, bà hoàn toàn nữ tính; với khả
năng thiên phú khác thường ấy, cái khả năng thiên phú của một người phụ nữ
trong việc tạo ra một thế giới riêng ở bất cứ nơi đâu bà ấy có mặt. Bà ấy bước
vào một căn phòng; bà ấy đứng, như ông thường nhìn thấy bà ấy, ở lối ra vào với
nhiều người xung quanh. Nhưng thứ người ta nhớ chính là Clarissa. Không phải vì
bà nổi bật; bà không xinh đẹp chút nào; ở bà không có gì ấn tượng; bà chưa bao
giờ nói bất cứ điều gì đặc biệt thông minh; tuy nhiên, bà có mặt ở đó; bà có mặt
ở đó.
Không,
không, không! Ông không còn yêu bà ấy nữa! Ông chỉ cảm thấy, sau khi gặp bà hồi
sáng, với cây kéo và những mảnh lụa, đang chuẩn bị cho bữa tiệc, không thể nào
thoát khỏi ý nghĩ về bà ấy; bà ấy cứ quay lại, quay lại mãi, như một cái giường
ngủ cứ xóc người ông lên trong một toa xe lửa; dĩ nhiên đó không phải là tình
yêu; chỉ là việc suy nghĩ về bà ấy, phê phán bà ấy, bắt đầu lần nữa, sau ba
mươi năm, cố lý giải về bà ấy. Điều hiển nhiên để nói về bà ấy là bà ấy thực tế;
quan tâm quá nhiều tới giai tầng và xã hội và việc tiến thân trong đời – ở ý
nghĩa nhất định điều này đúng; bà ấy đã thừa nhận với ông điều đó. (Bạn luôn có
thể làm cho bà ấy thừa nhận nếu bạn gắng công; bà ấy trung thực.) Điều bà ấy sẽ
nói là bà ấy ghét những phụ nữ ăn mặc lôi thôi, những kẻ thất bại, có lẽ giống
như ông; nghĩ rằng mọi người không có quyền đi lại lừ đừ với hai bàn tay thọc
trong túi; phải làm điều gì đó, phải là một thứ gì đó; và người ta gặp những
nhân vật lớn ăn mặc bảnh bao này, những nữ công tước này, những nữ công tước
già khụ trong phòng khách của bà ấy, xa rời vô tả như ông cảm thấy với bất cứ
thứ gì quan trọng, đại diện cho một thứ gì đó có thật đối với bà ấy. Phu nhân
Bexborough, có lần bà ấy nói, đã giữ người rất thẳng (bản thân Clarissa cũng thế;
bà ấy không bao giờ ngồi với vẻ uể oải theo bất cứ ý nghĩa nào của từ này; bà ấy
thẳng như một chiếc lao, thật sự là hơi cứng nhắc). Bà ấy bảo họ có một kiểu
can đảm mà càng lớn tuổi hơn bà ấy càng kính trọng hơn. Trong tất cả những điều
này Dalloway chiếm một phần lớn, dĩ nhiên; một phần lớn của tinh thần vì mọi
người, đế quốc Anh, sự cải cách thuế má, tinh thần của giai cấp thống trị, đã lớn
lên trong bà như nó có xu hướng là thế. Với trí thông minh gấp đôi ông ta, bà ấy
phải nhìn thấy mọi sự qua đôi môi của ông ta, một trong những bi kịch của cuộc
sống hôn nhân. Với trí tuệ của mình, bà ấy phải luôn trích dẫn lời của Richard
– như thể người ta không thể biết chút gì về một cái tựa mà Richard nghĩ tới bằng
cách đọc tờ Morning Post của một buổi sáng! Mấy bữa tiệc này chẳng hạn, là tất
cả đối với ông ta, hoặc đối với ý nghĩ của bà ấy về ông ta (nói một cách chính
xác, lẽ ra Richard sẽ hạnh phúc hơn nếu sống trong một nông trại ở Norfolk.) Bà
ấy biến phòng khách của mình thành một nơi hội họp; bà ấy có một thiên tài về
việc chuyện trò. Lần này sang lần khác, ông đã nhìn thấy bà ấy tóm lấy một
thanh niên non nớt nào đó, vặn người anh ta, xoay anh ta lại, đánh thức anh ta,
lèo lái anh ta. Tất nhiên có vô số người đần độn xúm xít quanh bà. Nhưng có những
người kỳ quặc bất ngờ xuất hiện; khi thì một diễn viên; khi thì một nhà văn; những
con cá lạ trong bầu khí quyển đó. Và đằng sau tất cả những điều này là cái mạng
lưới của sự thăm viếng, để lại những tờ danh thiếp, tỏ ra tử tế với mọi người;
chạy lăng xăng với những bó hoa, những món quà nho nhỏ; một ai đó sẽ sang Pháp
– phải có một cái gối hơi; một sự hút kiệt thật sự sức lực của bà ấy; tất cả những
dòng lưu thông vô tận đó mà những người phụ nữ như kiểu bà ấy theo đuổi; nhưng
bà ấy thực hiện nó một cách tài tình, từ một bản năng tự nhiên.
Thật
lạ lùng, bà ấy là một trong những kẻ hoài nghi tuyệt đối nhất mà ông từng gặp,
và có thể (đây là một lý thuyết mà ông thường bịa ra để lý giải về bà ấy, rất
minh bạch theo một số cách nào đó, rất bí hiểm theo một số cách khác), có thể
bà ấy đã tự nhủ: Vì chúng ta là một chủng tộc có định mệnh bi đát, bị xiềng vào
một con tàu đắm (tác giả ưa thích của bà hồi còn con gái là Huxley và Tyndall,
và họ ưa thích những phép ẩn dụ về biển này), vì toàn bộ sự việc là một trò đùa
tệ hại, chúng ta hãy, ở bất cứ giá nào, thực hiện phần việc của chúng ta; làm
giảm bớt nỗi đau khổ của những người bạn tù của chúng ta (lại Huxley); trang
trí căn ngục thất bằng những bông hoa và những cái gối hơi; cố hết sức tỏ ra lịch
sự. Những tên vô lại đó, những thần linh, không thực hiện tất cả những điều đó
theo cách riêng của họ – nhận thức của bà rằng những thần linh, những kẻ không
bao giờ đánh mất một cơ hội để gây tổn hại, ngăn trở và làm băng hoại cuộc sống
của loài người, sẽ bị cản trở ra trò nếu, dù sao đi nữa, bạn cư xử như một phu
nhân. Giai đoạn đó đến ngay sau cái chết của Sylvia – sự kiện kinh khủng đó.
Nhìn thấy em gái của mình bị giết chết bởi một thân cây đổ (tất cả là do lỗi của
Justin Parry – tất cả do sự bất cẩn của ông ta) ngay trước mắt mình, một cô gái
cũng đang ở bên rìa cuộc sống, người có tài năng nhất trong số họ, Clarissa
luôn nói thế, là đã đủ để khiến cho một người trở nên cay đắng. Có lẽ sau đó bà
không còn quá lạc quan nữa; bà nghĩ rằng không có các thần linh; không có ai để
oán trách; và thế là bà đã phát triển thứ tín ngưỡng vô thần làm điều tốt vì sự
tốt lành này.
Và
dĩ nhiên bà ấy tận hưởng hết mức. Bản chất của bà ấy là hưởng thụ (vì chỉ có
Chúa biết, bà ấy có những dè dặt của mình; đó là một phác thảo đơn giản, ông
thường cảm thấy, mà thậm chí ông, sau tất cả ngần ấy năm, mới có thể vẽ nên về
Clarissa). Dù sao, trong bà không có sự khắc nghiệt; không có cái ý thức về đức
hạnh luân lý đáng kinh tởm ở những người đàn bà tốt. Bà ấy thật sự tận hưởng mọi
thứ. Nếu bạn tản bộ với bà ấy trong công viên Hyde, khi thì một luống uất kim
hương, khi thì một đứa bé trong chiếc xe đẩy, khi thì một vở kịch nhỏ ngớ ngẩn
nào đó mà bà ấy nghĩ ra do sự kích thích của khoảnh khắc. (Rất có khả năng bà ấy
sẽ nói chuyện với cặp tình nhân đó, nếu bà ấy nghĩ họ không hạnh phúc.) Bà ấy
có một cảm quan về hài kịch thật sự tuyệt vời, nhưng bà ấy cần tới mọi người,
luôn phải có mọi người, để trưng nó ra, với cái kết quả không thể tránh khỏi là
bà phung phí thì giờ của mình, ăn trưa, ăn tối, tổ chức những bữa tiệc liên
miên này, nói những điều phi lý, nói những điều bà ấy không định nói, làm cùn
mòn trí tuệ của mình, đánh mất sự suy xét đúng đắn của mình. Bà ấy thường ngồi ở
đầu bàn, cố gắng vô hạn để chịu đựng một lão già ngu ngốc có thể có ích cho
Dalloway – họ biết những thứ đáng chán kinh khủng ở châu Âu – hoặc Elizabeth bước
vào và mọi thứ phải nhường bước trước con bé. Nó học ở một trường trung học, ở
vào cái giai đoạn mơ hồ mà ông đã trải qua, một cô gái mặt tròn trĩnh, trắng trẻo,
không có chút nét nào của mẹ mình, một sinh vật im lặng dửng dưng, xem mọi thứ
là chuyện bình thường, mặc cho mẹ mình lăng xăng rối rít lên vì mình, và rồi
nói: “Giờ con có thể đi chưa?” như một em bé bốn tuổi; ra ngoài để chơi khúc
côn cầu, Clarissa giải thích, với sự trộn lẫn giữa niềm vui và sự tự hào mà dường
như chính Dalloway đã khơi dậy ở bà ấy. Và giờ đây Elizabeth đang “ra ngoài”,
có lẽ; nghĩ ông là một ông già cổ hủ, cười nhạo những người bạn của mẹ mình.
Chà, tốt, cứ vậy đi. Sự bù đắp của tuổi già đơn giản là điều này, Peter Walsh
nghĩ, bước ra khỏi công viên Regent’s, tay cầm mũ; rằng niềm đam mê vẫn còn mạnh
mẽ như trước giờ, nhưng rốt cuộc người ta đã có được cái khả năng này: nó bổ
sung thêm hương vị quan trọng cho sự tồn tại – khả năng nắm giữ kinh nghiệm,
xoay tròn nó một cách chậm rãi trong ánh sáng.
Đó
là một lời tự thú kinh khủng (ông đội lại mũ lên đầu), nhưng giờ đây, ở tuổi
năm mươi ba người ta hiếm khi cần tới mọi người nữa. Bản thân cuộc sống, từng
phút giây của nó, từng giọt của nó, ở tại đây, vào khoảnh khắc này, ngay bây giờ,
dưới ánh mặt trời, trong công viên Regent’s, đã đủ rồi. Thật sự là quá nhiều.
Toàn bộ một cuộc đời là quá ngắn để đưa ra, khi giờ đây người ta đã thủ đắc được
khả năng đó, hương vị trọn vẹn đó; để trích từng ao-xơ lạc thú, từng bóng dáng
của ý nghĩa; cả hai thứ này đều đậm đặc hơn trước rất nhiều; ít tính chất cá
nhân hơn rất nhiều. Việc ông sẽ lại đau khổ khi Clarissa làm cho ông đau khổ là
điều không thể có. Suốt nhiều giờ liên tục (cầu Chúa để người ta có thể nói ra
những điều này mà không bị nghe lén!), suốt nhiều giờ và nhiều ngày ông chưa
bao giờ nghĩ tới Daisy.
Có
lẽ nào khi đó ông yêu cô ấy, nhớ lại nỗi khốn khổ, sự dằn vặt, niềm say mê lạ
thường của những ngày đó? Đây là một việc hoàn toàn khác hẳn – một việc thú vị
hơn nhiều – sự thật là, dĩ nhiên, bây giờ cô ấy đang yêu ông. Và đó có lẽ là lý
do vì sao, khi con tàu thật sự ra khơi, ông cảm thấy một sự nhẹ nhõm lạ thường,
không muốn gì hơn là được ở một mình; bực bội khi phát hiện ra những quan tâm
nho nhỏ của cô ấy – những điếu xì gà, những cuốn sổ ghi chép, một tấm chăn cho
chuyến đi – trong căn phòng trên tàu của ông. Mọi người, nếu họ trung thực, sẽ
nói cùng một điều; người ta không cần tới mọi người sau tuổi năm mươi; người ta
không muốn tiếp tục nói với những người phụ nữ rằng họ xinh đẹp; đó là điều mà
hầu hết những người đàn ông ở lứa tuổi năm mươi sẽ nói, Peter Walsh nghĩ, nếu họ
trung thực.
Nhưng
rồi những cơn dâng trào cảm xúc đáng kinh ngạc này – việc rơi nước mắt lúc sáng
nay, tất cả những thứ đó là nghĩa làm sao? Clarissa có thể nghĩ gì về ông? Có lẽ
nghĩ ông là một gã ngốc, không phải là lần đầu. Ở dưới đáy của nó là sự ghen tức
– sự ghen tức đã cứu sống mọi đam mê khác của loài người, Peter Walsh nghĩ, mở
con dao nhíp ra. Cô ấy đã gặp Thị trưởng Orde, Daisy nói trong lá thư cuối của
cô ấy, nói điều đó với một mục đích, ông biết; nói thế để làm cho ông ghen tức;
ông có thể nhìn thấy cô ấy nhíu trán lại trong lúc viết, tự hỏi có thể nói gì để
làm tổn thương ôn; thế nhưng nó đã không tạo được điều gì khác biệt; ông đã nổi
giận! Tất cả những sự nhặng xị này về việc trở lại nước Anh và gặp những luật
sư không phải là để cưới cô ta, mà để ngăn không cho cô ta kết hôn với bất kỳ
ai khác. Đó là điều đã dằn vặt ông, đó là điều đã áp đảo ông khi ông thấy
Clarissa bình thản đến thế, lạnh lùng đến thế, quan tâm đến thế tới chiếc váy của
mình hay bất cứ thứ gì; nhận ra rằng bà ấy có thể không cần tới ông, cái mà bà ấy
có thể giảm thiểu ông thành – một con lừa yếu đuối, than van. Nhưng những người
phụ nữ, ông nghĩ, khép con dao nhíp lại, không biết sự đam mê là gì cả. Họ
không biết ý nghĩa của nó đối với những người đàn ông. Clarissa lạnh lùng như một
cột băng. Bà ấy ngồi đó cạnh ông trên chiếc trường kỷ, để cho ông nắm tay mình,
tặng cho ông một nụ hôn… Ông đã tới ngã tư rồi.
Một
âm thanh cắt ngang ý nghĩ của ông; một âm thanh run rẩy mong manh, một giọng
nói trào lên vô phương hướng, vô sinh lực, đang bắt đầu hoặc kết thúc, chạy một
cách yếu ớt và chói tai với một sự vắng mặt của toàn thể ý nghĩa loài người vào
những từ
ee um fah um so
foo swee too eem
oo…
giọng
nói không có tuổi hay giới tính, giọng nói của một dòng suối cổ trào lên từ quả
đất; nó phát ra ngay từ phía đối diện trạm xe điện ngầm của công viên Regent’s
từ một hình dáng cao run rẩy, giống như một cái máy bơm nước han rỉ, giống như
một thân cây bị gió hoành hành mãi đến cằn cả lá đang để
cho cơn gió quăng quật những nhánh cây của nó trong lúc hát
cho cơn gió quăng quật những nhánh cây của nó trong lúc hát
ee um fah um so
foo swee too eem
oo…
và
đung đưa, kêu cọt kẹt và rên rỉ trong trận gió thiên thu.
Xuyên
qua mọi thời đại – khi mặt đường lát đá còn là cỏ, khi nó còn là đầm lầy, qua
thời đại của ngà voi và khổng tượng, qua thời đại của bình minh lặng lẽ, người
phụ nữ bị ngược đãi – vì bà mặc một cái váy – với tay phải xòe ra,
tay trái giữ chặt bên hông, đứng hát về tình yêu – tình yêu đã tồn tại một triệu
năm, bà hát, tình yêu đã thắng thế, và hàng triệu năm trước, người yêu của bà,
kẻ đã chết trong những thế kỷ này, đã bước đi, bà ngâm nga, với bà trong tháng
Năm; nhưng trong quãng thời gian nhiều niên đại đó, dài như những ngày hè, và rực
rỡ, bà nhớ, chỉ với những hoa cúc đỏ, ông ta đã ra đi; lưỡi hái to lớn của tử
thần đã quét qua những ngọn đồi mênh mông, và cuối cùng khi bà đặt mái đầu bạc
trắng già nua của mình lên mặt đất, lúc này đã trở thành một lớp xỉ băng, bà
van nài các thần linh hãy đặt bên cạnh bà một bó hoa cúc tím, ở đó, trên ngôi mộ
cao của bà, nơi những tia nắng cuối cùng của vầng thái dương cuối cùng ve vuốt;
vì khi đó hoạt cảnh lịch sử của vũ trụ sẽ kết thúc.
Trong
lúc bài hát cổ xưa trào lên ở phía đối diện trạm xe điện ngầm của công viên
Regent’s, dường như quả đất vẫn còn xanh mướt đầy hoa cỏ; vẫn còn, dù nó thoát
ra từ một cái miệng rất thô lỗ, một cái lỗ trên mặt đất, đầy bùn, chằng chịt rễ
cây và cỏ rối, bài hát cổ xưa phun trào vẫn còn đó, ngấm qua những cọng rễ đầy
mấu đốt của vô vàn niên đại, những bộ xương và kho báu, chảy đi trong những
dòng suối trên vệ đường và suốt dọc phố Marylebone, xuôi về hướng Euston, bồi bổ
đất đai, để lại một vết ẩm ướt.
Vẫn
còn nhớ có lần trong một tháng Năm ban sơ nào đó bà đã bước đi với người tình
ra sao, cái máy bơm han rỉ này, người phụ nữ già tơi tả này, với một bàn tay
xòe ra để nhận những đồng xu và tay kia khép lại bên hông, sẽ còn ở đó suốt mười
triệu năm, nhớ có lần bà đã bước đi thế nào trong tháng Năm, nơi hiện giờ biển
khơi tuôn chảy, với ai không quan trọng – ông ta là một người đàn ông, ồ, phải,
một người đàn ông đã từng yêu bà. Nhưng sự lướt trôi của nhiều niên đại đã bôi
mờ đi sự rõ ràng của cái ngày tháng Năm xa xưa đó; những cánh hoa rực rỡ đã bị
sương muối phủ lên, xám và trắng bạc; và bà không còn nhìn thấy, khi bà van nài
ông ta (như hiện giờ bà đang làm rất rõ ràng): “hãy chăm chú nhìn vào mắt em với
đôi mắt dịu dàng của chàng,[2]” bà không còn nhìn thấy đôi mắt nâu, bộ râu quai nón đen nhánh
hay gương mặt rám nắng nữa mà chỉ một hình dáng lờ mờ, một bóng hình mà bà vẫn
hát líu lo với sự tươi tắn như loài chim ở lứa tuổi già này, “hãy trao cho em
bàn tay của chàng để em khẽ khàng áp tay lên” (Peter Walsh không thể không cho
sinh vật khốn khổ này một đồng xu khi ông bước vào chiếc taxi), “và nếu có ai
đó nhìn thấy thì có gì là quan trọng?” bà gặng hỏi; và bàn tay của bà khép chặt
bên hông, và bà mỉm cười, bỏ đồng siling vào túi, và tất cả những đôi mắt tò mò
đang nhìn dường như mờ đi, và những thế hệ lướt qua – vệ đường đông nghẹt những
người trung lưu đang hối hả – biến mất, như những chiếc lá, để bị dẫm lên, bị
nhúng và ngâm nước và làm cho mốc meo bởi mùa xuân vĩnh cửu đó…
ee
um fah um so
foo
swee too eem oo
“Bà
cụ tội nghiệp.” Rezia Warren Smith nói trong lúc chờ băng qua đường.
Ôi
bà cụ khốn khổ bất hạnh!
Giả
sử đó là một đêm ẩm ướt? Giả sử cha của một người, hay ai đó từng biết một người
trong những ngày tốt đẹp hơn đã trôi qua, và nhìn thấy người ấy đứng đó trong
bùn lầy nước đọng? Và bà ấy ngủ ở đâu vào ban đêm?
Vui
vẻ, hầu như hoan hỉ, âm thanh bất khả chiến bại mong manh như sợi chỉ đó cuộn
vào bầu không như làn khói từ một ống khói nhà, cuốn lên trên những cây sồi thẳng
tắp và tản mác thành một đám khói xanh giữa những chiếc lá trên cùng. “Và nếu
có ai đó nhìn thấy thì họ có gì là quan trọng?”
Vì
cô rất khốn khổ, suốt mấy tuần qua, Rezia đã gán ý nghĩa cho những sự việc xảy
ra, đôi lúc hầu như cảm thấy cô có thể chặn mọi người trên phố lại, nếu họ có vẻ
là những người tốt bụng, tử tế, chỉ để nói với họ “Tôi thật bất hạnh”; và bà cụ
đang hát “nếu có ai đó nhìn thấy, thì họ có gì là quan trọng?” giữa phố này khiến
cô đột nhiên hoàn toàn chắc chắn rằng mọi thứ sẽ đi đúng hướng. Họ sắp tới nhà
của ngài William Bradshaw; cô nghĩ tên của ông ta nghe có vẻ hay hay; ông ta sẽ
chữa ngay cho Septimus. Và sau đó có một cỗ xe ngựa của người ủ rượu bia, và những
con ngựa xám có gắn những túm rơm thẳng vào đuôi; có những tấm áp phích quảng
cáo nhật trình. Cảm thấy bất hạnh chỉ là một giấc mơ ngu xuẩn, ngu xuẩn.
Thế
là họ băng qua đường, ông và bà Septimus Warren Smith, và nói cho cùng, có bất
cứ thứ gì khiến họ bị chú ý, có bất cứ thứ gì khiến một khách qua đường ngờ rằng
đây là một người đàn ông trẻ mang trong người một thông điệp lớn lao nhất trần
đời, và hơn nữa, là người đàn ông hạnh phúc nhất trần đời, và bất hạnh nhất trần
đời hay không? Có lẽ họ đi chậm hơn những người khác, và có gì đó do dự, dùng dằng
trong bước chân của người đàn ông, nhưng điều tự nhiên hơn đối với một viên thư
ký, người chưa từng có mặt tại khu West End vào giờ này của một ngày trong tuần
suốt nhiều năm, là cứ nhìn lên bầu trời, nhìn người này, kẻ nọ, người kia, như
thể phố Portland Place là một căn phòng anh ta đã bước vào khi gia đình đi khỏi,
những ngọn đèn chùm treo trong những túi vải lanh Hà Lan và người chăm sóc –
khi cô ta để cho những luồng ánh sáng dài mờ bụi tràn lên những cái ghế bành
không người, trông có vẻ kỳ quặc – nhấc một góc của tấm màn che lên, giải thích
với những vị khách rằng nó là một nơi chốn tuyệt vời thế nào; thật tuyệt, anh
ta nghĩ, khi anh ta nhìn những thứ bàn ghế, thật lạ lùng.
Thoạt
trông, có thể anh ta là một viên thư ký, nhưng thuộc loại khá hơn; vì anh mang
một đôi ủng nâu; hai bàn tay của anh có rèn luyện; nét mặt nhìn nghiêng của anh
– cái mũi to, đầy góc cạnh, nét nhìn nghiêng thông minh, nhạy cảm; nhưng đôi
môi của anh thì hoàn toàn không, vì chúng mềm nhũn; và đôi mắt của anh (như những
đôi mắt có xu hướng là thế) chỉ đơn giản là một đôi mắt; màu lục nhạt, to; anh
là thế, nhìn chung, một trường hợp nửa vời, không phải loại này cũng không phải
loại kia, có thể kết thúc với một ngôi nhà ở Purley và một chiếc xe hơi, hoặc
tiếp tục thuê những căn hộ ở các dãy phố mặt hậu suốt đời mình; một trong những
người đàn ông có trình độ văn hóa nửa vời, tự học, mà toàn bộ học vấn của anh
ta là từ những cuốn sách mượn ở những thư viện công cộng, đọc vào lúc chiều tối
sau một ngày làm việc, làm theo lời khuyên của những tác giả nổi tiếng đã tư vấn
qua thư.
Còn
về phần những kinh nghiệm khác, những kinh nghiệm cô đơn mà mọi người trải qua
một mình, trong phòng ngủ, trong văn phòng, khi bước trên những cánh đồng và những
đường phố của London, anh có chúng; đã rời khỏi nhà, khi chỉ là một cậu bé, vì
mẹ của anh; bà đã nói dối; vì anh đi xuống uống trà lần thứ năm mươi với đôi
tay chưa rửa; vì anh không thể nhìn thấy tương lai cho một nhà thơ ở thị trấn
Stroud; và thế là, sau khi thổ lộ tâm tình với cô em gái nhỏ, anh đã tìm tới
London, bỏ lại một lá thư ngớ ngẩn, như kiểu những người vĩ đại từng viết, mà
sau đó thế giới sẽ đọc khi câu chuyện về những cuộc đấu tranh của họ đã trở nên
nổi tiếng.
London
đã nuốt sống nhiều triệu thanh niên có tên là Smith; dù không có gì kỳ lạ ở những
cái tên thánh như Septimus mà cha mẹ của họ đã nghĩ ra để phân biệt họ. Ở trọ
trên phố Euston, có những kinh nghiệm, lại những kinh nghiệm, như thời gian hai
năm đã biến đổi một gương mặt, từ trái soan hồng hào ngây thơ trở
thành một gương mặt gầy guộc, teo tóp, đầy thù địch. Nhưng trong số tất cả những
điều này, một người bạn giỏi quan sát nhất có thể nói gì ngoại trừ điều một người
làm vườn nói khi sáng ra ông ta mở cánh cửa vào nhà kính và phát hiện ra có một
cây vừa mới trổ hoa: Nó đã nở hoa; nở hoa từ sự phù phiếm, tham vọng,
lý tưởng chủ nghĩa, niềm đam mê, sự cô độc, lòng can đảm, sự lười nhát, tất cả
những hạt giống bình thường đã rối tung lên (trong một căn phòng ở phố Euston)
khiến cho anh hổ thẹn và nói cà lăm, khiến anh nôn nóng muốn tự cải thiện bản
thân, khiến anh phải lòng cô Isabel Pole, đang giảng dạy về Shakespeare ở phố
Waterloo.
Ông
ấy không giống Keats sao? Cô ta hỏi; và nhớ lại cô ta có thể cho anh nếm thử cảm
giác về Antony và Cleopatra và số còn lại ra sao; cho anh mượn những cuốn sách;
viết cho anh những lá thư; và thắp lên trong anh một ngọn lửa chỉ bùng lên một
lần trong suốt một đời người, không sức nóng, lấp lóe một ngọn lửa đỏ vàng vô
cùng thoát tục và không có thật đối với cô Pole; Anthony và Cleopatra; và phố
Waterloo. Anh nghĩ cô ta xinh đẹp, tin vào sự khôn ngoan hoàn hảo của cô ta; mơ
về cô ta; viết cho cô ta những bài thơ, mà, làm ngơ không thèm chú ý tới chủ đề,
cô ta sửa lại chúng bằng mực đỏ; anh nhìn thấy cô ta đang đi trong một quảng
trường, mặc một cái váy xanh lá. “Nó đã nở hoa,” người làm vườn có thể nói, nếu
ông ta mở cửa ra; nghĩa là nếu ông ta bước vào, vào giờ này của bất kỳ đêm nào,
và nhìn thấy anh đang xé nát những gì mình viết; tìm thấy anh đang hoàn thành một
kiệt tác vào lúc ba giờ sáng và chạy ra ngoài để thả bước trên những con đường,
viếng thăm các nhà thờ, hôm này nhịn ăn, hôm khác say sưa chè chén, ngấu nghiến
đọc Shakerpeare, Darwin, Lịch sử của nền văn minh và Bernard Shaw.
Có
điều gì đó đang xảy ra, ông Brewer biết; ông Brewer, chánh văn phòng hãng
Sibleys và Arrowsmiths, người điều khiển các cuộc bán đấu giá, định giá viên, đại
diện chủ đất và bất động sản; điều gì đó đang xảy ra, ông nghĩ, và, quan tâm tới
những chàng trai giúp việc của mình như một người cha, và đánh giá rất cao các
khả năng của Smith, tiên đoán rằng cậu ta, trong vòng mười hoặc mười lăm năm, sẽ
ngồi vào cái ghế bành bọc da ở phòng trong bên dưới cửa sổ mái nhà với những
cái hộp kim loại đựng hồ sơ xung quanh, “nếu cậu ta giữ gìn sức khỏe của mình,”
ông Brewer nói, và nguy hiểm là chỗ đó – trông anh ta yếu ớt quá; ông đã khuyên
anh ta chơi bóng đá, mời anh ta tới ăn tối và đang theo dõi cách thức của anh
ta để xét tới việc đề nghị tăng lương thì một chuyện đã xảy ra, xóa đi nhiều
tính toán của ông, tước mất những chàng trai có năng lực nhất của ông, và cuối
cùng, những ngón tay của cuộc chiến châu Âu thật quá tọc mạch và xảo quyệt, đã
phá tan một cái khuôn đúc tượng Ceres [3], xới một cái hố trong những luống cây phong lữ, và phá hỏng
hoàn toàn những sợi dây thần kinh của người đầu bếp tại cơ sở kinh doanh của
ông Brewer ở Muswell Hill.
Septimus
là một trong những tình nguyện viên đầu tiên. Anh sang Pháp để cứu một nước Anh
bao gồm hầu như toàn bộ những vở kịch của Shakespeare và cô Isabel Pole mặc chiếc
váy xanh đi dạo trong một quảng trường.
Ở
đó, trong những chiến hào, sự thay đổi mà ông Brewer ao ước khi ông khuyên về
bóng đá đã xuất hiện ngay lập tức; anh đã phát triển tính cách đàn ông; anh được
đề bạt; anh thu hút sự chú ý, thật ra là cảm tình của viên sĩ quan chỉ huy anh,
Evans. Đó là trường hợp hai con chó đang chơi đùa trên một một tấm thảm trước
lò sưởi; một con nhá nhá một con đinh ốc đóng giấy, gầm gừ, táp, thỉnh thoảng lại
nhá nhá tai của con chó già; con kia nằm ngủ lơ mơ, hấp háy mắt trước ngọn lửa,
giơ một bàn chân lên, quay lại và gầm gừ một cách hiền hậu. Họ phải ở bên nhau,
chia sẻ với nhau, đánh nhau, cãi cọ nhau. Nhưng khi Evans (Rezia, chỉ gặp anh
ta một lần, gọi anh ta là một “con người lặng lẽ”, một gã đàn ông tóc đỏ, cường
tráng, kín đáo khi có mặt những người phụ nữ), khi Evans bị giết ở Ý, ngay trước
Ngày đình chiến, Septimus, không hề biểu lộ chút cảm xúc hay ghi nhận nào, rằng
đây là sự kết thúc của một tình bạn, đã tự chúc mừng mình vì đã cảm xúc rất ít
và rất hợp lý. Cuộc chiến đã dạy anh. Nó thật phi thường. Anh đã trải qua toàn
bộ vở kịch, tình bạn, cuộc chiến châu Âu, cái chết, đã được thăng cấp, vẫn chưa
tới ba mươi và nhất định phải sống sót. Anh đã ở ngay tại đó. Những quả đạn
pháo cuối cùng đã sượt qua anh. Anh quan sát chúng nổ tung với sự dửng dưng.
Khi hòa bình lặp lại, anh đang ở Milan, tạm trú trong nhà của một ông chủ nhà
trọ; ngôi nhà có một mảnh sân nhỏ, những chậu hoa, những cái bàn nhỏ đặt ngoài
trời, các cô con gái hành nghề làm mũ, và một tối nọ anh đã hứa hôn với
Lucrezia, cô con gái nhỏ hơn, trong lúc đang hoang mang – rằng anh không thể cảm
nhận được.
Vì
bấy giờ tất cả đã kết thúc, thỏa ước ngừng bắn đã được ký kết, và những người
chết đã được chôn cất, anh chợt có những cơn sợ hãi đến đột ngột như sét đánh
này, nhất là vào chiều tối. Anh không thể cảm thấy. Khi mở cửa căn phòng nơi những
cô gái Ý đang ngồi làm mũ, anh có thể nhìn thấy họ; có thể nghe thấy họ; họ
đang chà những sợi dây giữa những hạt nhiều màu trong những cái đĩa nông; họ
đang tạo dáng cho những mảnh vải hồ cứng; cái bàn vương vải những chiếc lông
chim, trang kim, lụa, ruy băng; những cây kéo đang nhấp trên bàn; nhưng có gì
đó đã hỏng trong anh; anh không thể cảm thấy. Tuy nhiên, những cây kéo vẫn nhấp,
các cô gái cười lớn tiếng, những cái nón đang được làm ra bảo vệ anh; anh yên
tâm về sự an toàn; anh có một nơi ẩn náu. Nhưng anh không thể ngồi đó suốt đêm.
Có những khoảnh khắc thức giấc vào sáng sớm. Cái giường đang rơi; anh đang rơi.
Ôi chao, vì những cây kéo, ánh đèn và những mảnh vải hồ tạo dáng! Anh đã đề nghị
Lucrezia cưới mình; cô là người trẻ hơn trong hai cô gái, có tính tình vui vẻ,
nhẹ dạ, với những ngón tay nhỏ nhắn của một nghệ nhân. Cô thường giơ mấy ngón
tay lên và bảo: “Tất cả đều ở trong chúng.” Lụa, những cái lông chim, và những
thứ khác đều sống động đối với chúng.
“Chính
cái mũ là thứ quan trọng nhất.” Cô thường nói, khi họ cùng đi dạo. Cô thường khảo
sát từng cái mũ đi ngang qua; cả chiếc áo choàng, váy và cách thức người phụ nữ
đó đi đứng. Cô chê bai: ăn mặc tệ, ăn mặc quá lòe loẹt, không hề có ác ý, mà
đúng hơn với những cử động nôn nóng của đôi bàn tay, như đôi bàn tay của một họa
sĩ gạt bỏ đi một sự lạm dụng rõ ràng sắc màu lòe loẹt dù là với thiện chí; và rồi,
một cách khoan dung, nhưng luôn mang tính chỉ trích, cô sẽ hoan nghênh một cô gái
bán hàng đã thay đổi cách phục trang một cách gan dạ, hoặc ca ngợi hết mình, với
sự thấu hiểu nồng nhiệt và đầy tính chuyên nghiệp, một quý bà người Pháp đang
bước ra khỏi cỗ xe ngựa, trong chiếc áo choàng lông sóc, cái váy ngắn và chuỗi
ngọc trai.
“Đẹp
quá!” Cô sẽ lẩm bẩm, thúc cùi chỏ vào Septimus để anh có thể nhìn thấy. Nhưng vẻ
đẹp nằm phía sau một tấm kính. Ngay cả chuyện ăn uống (cô thích kem, sô-cô-la,
những món ăn ngọt) cũng chả có mùi vị gì đối với anh. Anh đặt cái cốc
lên cái bàn đá hoa nhỏ. Anh nhìn những người ở bên ngoài, họ có vẻ hạnh phúc,
đang tụ hợp giữa phố, la hét, cười đùa, cãi cọ những chuyện không đâu. Nhưng
anh không thể thưởng thức, anh không thể cảm nhận. Trong tiệm trà, giữa những
cái bàn và những người bồi bàn đang tán gẫu, nỗi sợ kinh khủng lại chế ngự anh
– anh không thể cảm nhận. Anh có thể suy luận; anh có thể đọc, Dante chẳng hạn,
một cách hoàn toàn dễ dàng (“Septimus, hãy đặt cuốn sách xuống đi nào,” Rezia
nói, nhẹ nhàng khép cuốn Inferno [4] lại), anh có thể cộng tờ hóa đơn của mình; bộ não của anh
hoàn hảo; hẳn đây là lỗi của thế giới – rằng anh không thể cảm nhận.
“Người
Anh thật lặng lẽ.” Rezia nói. Cô thích điều đó, cô bảo. Cô tôn trọng những người
Anh này, muốn tham quan London, những con ngựa Anh, những bộ com-lê may tiệm,
và có thể nhớ đã từng nghe nói những cửa tiệm tuyệt vời như thế nào, từ một bà
cô đã lấy chồng và sống ở Soho.
Rất
có khả năng, Septimus nghĩ, nhìn nước Anh từ cửa sổ toa tàu, khi họ rời
Newhaven; rất có khả năng rằng chính bản thân thế giới không có ý nghĩa gì cả.
Ở
văn phòng, họ bổ nhiệm anh vào một chức vụ có trách nhiệm đáng kể. Họ tự hào về
anh; anh đã được thưởng những chiếc bội tinh. “Cậu đã thực hiện xong bổn phận;
việc của chúng tôi là…” ông Brewer mở đầu, và không thể nói hết câu, rất vui sướng
là cảm xúc của ông ta. Họ đã có chỗ cư ngụ đáng ngưỡng mộ ở phố Tottenham
Court.
Tới
đây anh lại mở cuốn kịch Shakespeare ra. Niềm say mê ngôn ngữ của một chàng
trai – Antony và Cleopatra – đã hoàn toàn co rúm lại. Shakespeare kinh tởm con
người biết bao – việc mặc quần áo vào, việc sinh con đẻ cái, sự bẩn thỉu của
cái mồm và cái bụng! Điều này giờ đã hé lộ với Septimus; cái thông điệp ẩn nấp
trong vẻ đẹp của ngôn từ. Cái dấu hiệu bí mật mà một thế hệ đã đi ngang qua, nằm
dưới lớp ngụy trang, đối với thế hệ kế tiếp là sự kinh tởm, căm ghét, tuyệt vọng.
Dante cũng vậy. Aeschylus [5] (đã được dịch) cũng vậy. Rezia ngồi bên bàn tô điểm những
cái nón. Cô tô điểm chúng cho những người bạn của bà Filmer; cô đã tô điểm
chúng cả tiếng đồng hồ. Trông cô có vẻ nhợt nhạt, bí ẩn, như một đóa hoa huệ chết
đắm trong lòng nước, anh nghĩ.
“Người
Anh rất nghiêm túc.” Cô thường nói khi vòng đôi tay quanh người Septimus, má áp
vào má của anh.
Đối
với Shakespeare, tình yêu giữa nam và nữ thật đáng tởm. Công việc giao hợp trước
khi kết thúc với ông là sự bẩn thỉu. Nhưng Rezia bảo cô phải có con. Họ đã lấy
nhau năm năm.
Họ
đã cùng nhau tới tháp Big Ben; tới nhà hát Victoria và viện bảo tàng Albert; đứng
trong đám đông để xem nhà vua khai mạc Quốc hội. Và có những cửa tiệm – những
tiệm nón, tiệm quần áo, những cửa tiệm với những cái túi xách bằng da ở cửa sổ,
nơi cô thường đứng nhìn chằm chặp. Nhưng cô phải có một đứa con trai.
Cô
phải có một đứa con trai giống Septimus, cô bảo. Nhưng không ai có thể giống
như Septimus; rất dịu dàng, rất nghiêm túc; rất thông minh. Phải chăng cô cũng
không thể đọc Shakepeare? Phải chăng Shakespeare là một tác giả khó đọc? Cô hỏi.
Người
ta không thể đưa trẻ con vào một thế giới như thế này. Người ta không thể duy
trì sự khổ đau, hay gia tăng nòi giống của những con vật đầy dục vọng này, những
kẻ không có những cảm xúc lâu dài mà chỉ có những ý thích bất chợt và những thứ
hão huyền phù phiếm, cuốn xoay họ trong vòng xoáy khi theo hướng này, khi theo
hướng khác.
Anh
quan sát cô cắt, tạo hình, như một người quan sát một con chim nhảy nhót, di
chuyển nhẹ nhàng trên bãi cỏ, không dám nhúc nhích một ngón tay. Bởi sự thật là
(cứ mặc cho cô ta làm ngơ nó) con người không có lòng tốt, hay sự trung thành
hay lòng nhân ái ngoài những thứ phục vụ cho việc gia tăng lạc thú của khoảnh
khắc. Họ đi săn theo đàn. Những bầy đàn của họ lùng sục khắp sa mạc và thét lên
biến mất vào chốn hoang vu. Họ bỏ rơi những ai gục ngã. Họ trát dầy bộ mặt của
mình với những nụ cười nhăn nhở. Có Brewer ở văn phòng, với bộ ria vuốt sáp,
cái kẹp cà vạt màu san hô, cái áo lót trắng, và những cảm xúc thú vị – bên
trong toàn là sự lạnh lùng và lãnh đạm – những chậu phong lữ của ông ta đã bị hủy
hoại trong cuộc chiến – những sợi dây thần kinh của đầu bếp của ông ta đã bị hủy
hoại; hoặc Amelia, tên cô ta là gì nhỉ, đã phân phát những tách trà vào đúng
năm giờ – một nữ yêu tinh bé nhỏ tục tĩu hay liếc mắt đưa tình và cười khẩy; và
các gã Tom và Bertie mà mặt trước áo sơ mi của họ rỉ ra những giọt đồi bại đậm
đặc. Họ chưa bao giờ thấy anh đang vẽ những bức tranh về họ, trần truồng với những
trò hề của họ, trong cuốn vở của anh. Trên đường phố, những chiếc xe tải gầm rú
chạy qua anh; sự thô bạo gào rú om xòm trên những bức tranh cổ động; những người
đàn ông mắc kẹt trong những cái mỏ; những phụ nữ bị thiêu sống; và có lần một
hàng người điên, đang tập thể dục hay biểu diễn để giúp vui cho một đám đông (họ
cười rất lớn), bước thong thả, gật đầu và nhe răng cười khi đi ngang qua anh trên
phố Tottenam Court, mỗi người đâm thọc với vẻ hối lỗi nhưng đắc thắng vào vết
thương vô vọng của anh. Và anh có sẽ nổi điên không?
Vào
giờ uống trà, Rezia nói với anh rằng con gái của bà Filmer đang mang thai một
em bé. Cô không thể già đi và không có đứa con nào! Cô rất cô đơn, cô rất bất hạnh!
Cô khóc, lần đầu tiên từ khi họ cưới nhau. Từ xa, anh nghe thấy tiếng nức nở của
cô; anh nghe thấy nó một cách chính xác, anh nhận ra nó một cách bản năng; anh
so sánh nó với một tiếng nổ pít-tông. Nhưng anh không cảm thấy gì cả.
Vợ
anh đang khóc, và anh không cảm thấy gì cả; chỉ có điều mỗi lần cô ta nức nở
theo cách thức sâu sắc, im lặng, vô vọng này, anh lại dấn thêm một bước xuống
cái hố sâu.
Cuối
cùng, với một cử chỉ thống thiết, mà anh giả định một cách máy móc và hoàn toàn
có ý thức về sự không chân thành của nó, anh gục đầu vào đôi bàn tay. Giờ anh
đã đầu hàng; giờ những người khác phải giúp anh. Mọi người phải được cử tới.
Anh đã chịu thua.
Không
gì có thể đánh thức anh. Rezia đặt anh lên giường. Cô mời một bác sĩ tới – bác
sĩ Holmes của bà Filmer. Bác sĩ Holmes khám cho anh. Không có bất cứ điều gì quan
trọng, ông nói. Ôi thật nhẹ nhõm biết bao! Một người tử tế biết bao, một người
tốt biết bao! Rezia nghĩ. Khi ông cảm thấy giống như thế ông sẽ tới Nhà hát lớn,
bác sĩ Holmes nói. Ông sẽ nghỉ việc một hôm ở với vợ và chơi gôn. Vì sao không
thử hai viên thuốc an thần hòa tan trong một ly nước vào giờ đi ngủ? Những ngôi
nhà Bloomsbury cổ lổ này, bác sĩ Holmes nói, gõ lên tường, thường đầy những giấy
dán rất đẹp, mà những người chủ nhà đã đủ điên rồ để dán nên. Chỉ có điều một
hôm khác, khi đi thăm một bệnh nhân, Ngài gì đó Chức vụ gì đó ở quảng trường
Bedford…
Vậy
là không có gì để biện minh; không có gì bất kể vấn đề thế nào, trừ tội lỗi mà
vì nó bản chất con người đã tuyên án tử hình anh; rằng anh không cảm nhận được.
Anh đã không quan tâm khi Evans bị giết; điều đó tệ hại nhất; nhưng tất cả những
tội ác khác bên trên cái chấn song giường vào những giờ đầu buổi sáng cũng ngóc
đầu lên, búng ngón tay, cười nhạo và châm chọc cái thân thể sóng soày đang nằm
nhận thức về sự thoái hóa của nó; anh đã cưới vợ mình mà không yêu cô ta ra
sao; đã nói dối cô ta; đã quyến rũ cô ta ra sao; đã sỉ nhục cô Isabel Pole, và
bị đánh dấu, đầy những vết rỗ đồi bại đến nỗi những người phụ nữ phải rùng mình
khi họ nhìn thấy anh trên phố ra sao. Phán quyết của bản chất con người đối với
một kẻ xấu xa đến thế là cái chết.
Bác
sĩ Holmes lại tới. To cao, mặt mũi hồng hào tươi tắn, đẹp mã, vừa lật nhanh cuốn
sách của ông, vừa nhìn vào cái ly, ông gạt tất cả các thứ sang một bên – chứng
nhức đầu, mất ngủ, những nỗi sợ, những giấc mơ – những triệu chứng thần kinh và
không có gì khác, ông nói. Nếu bác sĩ Holmes phát hiện ra chính mình bị giảm chỉ
cần nửa cân Anh dưới 160 cân, ông sẽ bảo vợ mình thêm một đĩa cháo đặc nữa vào
bữa điểm tâm. (Rezia sẽ học cách nấu cháo đặc.) Nhưng, ông ta nói tiếp, sức khỏe
nói chung là một vấn đề nằm trong tầm kiểm soát của chính chúng ta. Hãy lao vào
những mối quan tâm bên ngoài, tìm một thú tiêu khiển nào đó. Ông mở quyển kịch
Shakespeare ra – Anthony và Cleopatra; hãy gạt Shakespeare sang một bên. Một
thú tiêu khiển nào đó, bác sĩ Holmes nói, vì không phải ông đã thừa nhận rằng sức
khỏe tuyệt vời của chính ông (và ông đã làm việc vất vả ngang với bất kỳ người
đàn ông nào ở London) bắt nguồn từ thực tế rằng ông luôn có thể chuyển từ những
bệnh nhân của mình sang những món đồ nội thất cũ hay sao? Và bà Warren Smith, nếu
ông có thể nói, đang cài một cái kẹp tóc thật xinh xắn!
Khi
gã ngu ngốc chết tiệt đó đến lần nữa, Septimus từ chối gặp ông ta. Anh ta thật
sự từ chối hả? Bác sĩ Holmes hỏi, mỉm cười dễ chịu. Thật sự ông phải thân mật đẩy
quý bà nhỏ nhắn dễ thương đó một cái trước khi ông có thể đi ngang qua cô để
vào phòng ngủ của ông chồng.
“Vậy
là anh đang khiếp sợ.” Ông ta nói với vẻ dễ chịu, ngồi xuống bên cạnh người bệnh.
Anh đã thật sự nói về việc tự sát với vợ mình, một cô gái cực kỳ, một người ngoại
quốc, phải không nhỉ? Điều đó có khiến cô ta có một ý tưởng rất kỳ quặc về ông
chồng người Anh hay không? Người ta có mang ơn, có lẽ là một bổn phận, đối với
vợ của mình hay không? Có tốt hơn khi làm một điều gì đó thay vì nằm trên giường
hay không? Bởi ông ta có bốn mươi năm kinh nghiệm ở sau lưng; và Septimus có thể
tin lời của bác sĩ Holmes về điều đó – không có bất kỳ vấn đề gì với anh cả. Và
lần sau khi bác sĩ Holmes tới ông hy vọng sẽ tìm thấy Smith rời khỏi giường và
không làm cho quý bà nhỏ bé đáng yêu vợ của anh phải lo lắng về anh.
Bản
chất con người, nói tóm lại, đang đè nặng lên anh – gã vũ phu kinh tởm đó, với
hai lỗ mũi đỏ lòm máu. Holmes đang đè nặng lên anh. Bác sĩ Holmes đến rất đều đặn
mỗi ngày. Một khi bạn sẩy chân, Septimus đã ghi vào mặt sau một tấm bưu thiếp,
bản chất con người đè nặng lên bạn. Holmes đang đè nặng lên bạn. Cơ may duy nhất
của họ là tẩu thoát, không để cho Holmes biết; sang Ý – bất cứ nơi nào, bất cứ
nơi nào, tránh xa bác sĩ Holmes.
Nhưng
Rezia không hiểu anh. Bác sĩ Holmes là một người tử tế đến thế. Ông ta rất quan
tâm tới Septimus. Ông ta chỉ muốn giúp đỡ, ông ta nói. Ông ta có bốn đứa con nhỏ
và đã mời cô dùng trà, cô nói với Septimus.
Vậy
là anh đã bị bỏ rơi. Toàn thế giới đang gào thét: Hãy tự sát, hãy tự sát đi, vì
chúng tôi. Nhưng tại sao anh phải tự sát vì họ chứ? Thức ăn là một lạc thú; mặt
trời nóng ấm; và việc tự sát này, người ta thực hiện nó bằng cách nào, với một
con dao ăn, một cách xấu xí, với những vòi máu – bằng cách hít một cái ống dẫn
khí đốt chăng? Anh quá yếu ớt; anh hầu như không giơ tay lên nổi. Ngoài ra, hiện
giờ khi anh hoàn toàn cô độc, bị kết án, bị bỏ rơi, như những người sắp chết
luôn cô độc, có một sự xa hoa trong việc đó, một sự lẻ loi đầy tính siêu phàm;
một sự tự do mà thân quyến không bao giờ có thể biết được. Holmes đã thắng, dĩ
nhiên; gã cục súc với đôi lỗ mũi đỏ máu đã thắng. Nhưng ngay cả bản thân Holmes
cũng không thể chạm vào thánh tích duy nhất đang lang thang ở rìa cõi thế này,
kẻ bơ vơ này, kẻ ngoái nhìn lại những miền có cư dân, kẻ nằm, như một thủy thủ
chết chìm, trên bờ của cõi trần gian.
Chính
cái khoảnh khắc ấy (Rezia đã đi mua đồ), phát hiện lớn lao đã xảy ra. Một giọng
nói từ phía sau tấm bình phong. Evans đang nói. Những người chết đang đi với
anh ta.
“Evans,
Evans!” Anh kêu lên.
Ông
Smith đang nói với chính mình, cô người hầu Agnes gọi bà Filmer đang ở trong bếp.
“Evans, Evans,” ông ta đã nói khi cô ta mang cái khay vào. Cô đã nhảy nhổm lên,
cô đã làm thế. Cô hấp tấp chạy xuống thang.
Và
Rezia vào nhà, cùng với bó hoa, băng ngang qua căn phòng, cắm những bông hồng
vào lọ; mặt trời rọi thẳng vào cái lọ và nó cười phá lên, nhảy nhót quanh căn
phòng.
Cô
phải mua hoa hồng, Rezia nói, từ một người đàn ông nghèo trên phố. Nhưng chúng
gần như đã chết héo rồi, cô nói, sửa sang lại những nhánh hoa.
Vậy
là có một người đàn ông ở bên ngoài; có lẽ là Evans; và những nhánh hoa hồng,
mà Rezia bảo là đã chết nửa phần, đã được anh ta hái ở những cánh đồng của Hy Lạp.
“Giao tiếp là sức khỏe; Giao tiếp là hạnh phúc, giao tiếp….” anh lẩm bẩm.
“Anh
đang nói gì vậy, Septimus?” Rezia hỏi, phát điên lên vì kinh hoàng, vì anh ta
đang nói với chính mình.
Cô
nhờ Agnes chạy tới mời bác sĩ Holmes. Chồng cô, cô bảo, đã nổi điên. Anh ta hầu
như không biết cô.
“Đồ cục súc! Đồ cục súc!” Septimus kêu lên, nhìn thấy bản chất
con người, đó là bác sĩ Holmes, đang bước vào phòng.
“Nào,
tất cả những vụ này là sao đây?” Bác sĩ Holmes nói với vẻ hòa nhã nhất trần đời.
“Đang nói vớ vẩn để hù dọa vợ của anh hả?” Nhưng ông sẽ cho anh thứ gì đó để
làm cho anh ngủ. Và nếu họ là những người giàu có, bác sĩ Holmes nói, nhìn một
cách mỉa mai quanh căn phòng, tất nhiên họ có thể tới phố Harley; nếu họ không
tin vào ông, bác sĩ Holmes nói, trông có vẻ hoàn toàn tử tế.
[1] Nguyên văn: “Time”.
[2] Theo cuốn khảo luận Virginia Woolf: An Inner Life của nhà
phê bình nổi tiếng Julia Briggs, những lời của bài hát này dịch từ bài thơ
Allerseelen (All Souls’ Day) của Heberb von Gilm, được nhạc sĩ Richard Strauss
phổ nhạc. Bản tiếng Anh (do bà Malcolm Lawson dịch) như sau:
Lay by my side your bunch of purple heather,
The last red asters of an autumn day,
And let us sit and talk of love together,
As one in May, as once in May.
Give me your hand, that I may press it gently,
And if the others see, what matter they?
Look in mine eyes with your sweet eyes intently,
As one in May, as once in May.
The last red asters of an autumn day,
And let us sit and talk of love together,
As one in May, as once in May.
Give me your hand, that I may press it gently,
And if the others see, what matter they?
Look in mine eyes with your sweet eyes intently,
As one in May, as once in May.
Dịch nghĩa:
Hãy đặt cạnh em bó hoa thạch nam tím của chàng/ Bó hoa cúc
tía cuối cùng của một ngày thu/ Và chúng ta hãy cùng ngồi chuyện vãn về tình
yêu/ Như một ngày trong tháng Năm, như một lần trong tháng Năm.
Hãy trao cho em tay chàng, để em khẽ khàng áp tay lên/ Và nếu
những người khác thấy, thì họ có gì là quan trọng?/ Hãy chăm chú nhìn vào mắt
em với đôi mắt ngọt ngào của chàng/ Như một ngày trong tháng Năm, như một lần
trong tháng Năm.
[3] Nữ thần về nông nghiệp, mùa màng, sinh sản trong thần thoại
Hy Lạp.
[4] Địa ngục. Phần 1 trong kiệt tác Thần khúc (Divina) của Durante
degli Alighieri, thường gọi là Dante ( khoảng 1265–1321), thi sĩ Ý nổi
tiếng thời Trung cổ.
[5] Aeschylus: (khoảng 525/524 Tr.CN. – khoảng
456/455 TR.CN) kịch tác gia Hy Lạp cổ đại.
Phần 5:
Lúc đó chính xác là mười hai giờ; mười hai giờ theo
chuông Big Ben; tiếng chuông đổ bao trùm khắp khu vực phía bắc London; hòa với
tiếng chuông của những cái đồng hồ khác, trộn lẫn trong một cách thức mong manh
siêu thoát với những đám mây và những làn khói, và lịm tắt giữa đàn chim hải âu
– tiếng chuông báo mười hai giờ khi Clarissa đặt chiếc váy xanh của mình lên
giường, và vợ chồng Warren Smith bước xuống phố Harley. Mười hai giờ là giờ hẹn
của họ. Có lẽ, Rezia nghĩ, đó là nhà của ngài William Bradshaw với chiếc xe hơi
xám ở phía trước. Những vòng tròn xám màu chì tan loãng giữa không trung.
Thật
sự là vậy – đó là chiếc xe hơi của ngài William Bradshaw; thấp, đầy uy thế, màu
xám với những chữ viết tắt tên họ rõ ràng cài vào nhau trên tấm biển số, như thể
những sự phô phang của thuật vẽ huy hiệu là không thích hợp, người đàn ông này
là kẻ trợ giúp tinh thần, giáo sĩ của khoa học; và, vì chiếc xe màu xám, thế
nên để hòa hợp với sự ngọt ngào đúng mực của nó, bên trong nó chất đống những tấm
lông thú xám, những tấm chăn màu xám bạc, để giữ ấm cho vị phu nhân trong lúc
bà chờ đợi. Vì ngài William thường đi khoảng sáu mươi dặm hoặc hơn về miền quê
để viếng thăm những người giàu có, đau buồn, những kẻ có đủ tiền trả cho khoản
phí rất lớn mà ngài William đã tính rất đúng đắn cho sự tư vấn của mình. Vợ ông
chờ với những tấm chăn đắp quanh gối khoảng một giờ, ngả lưng ra sau, đôi khi
suy nghĩ về những bệnh nhân, đôi khi, một cách đáng tha thứ, về bức tường bằng
vàng, đang cao lên từng phút trong lúc bà chờ đợi; bức tường bằng vàng đang cao
lên giữa họ và tất cả những thăng trầm lo lắng (bà đã chịu đựng nó một cách quả
cảm; họ đã có những cuộc đấu tranh) cho tới khi bà cảm thấy bị lèn chặt trên một
đại dương yên tĩnh, nơi chỉ có những cơn gió gia vị thổi qua; được kính trọng,
được ngưỡng mộ, bị ganh ghét, hầu như không còn bất cứ điều gì để ước ao nữa,
dù bà thấy tiếc sự rắn chắc của mình; thi thoảng mở một cửa hàng phúc thiện;
đón mừng hoàng gia; ôi chao, có quá ít thì giờ với chồng bà, khi công việc của
ông ngày càng nhiều; một đứa con trai học hành tấn tới ở Eton, bà cũng thích có
một cô con gái; tuy nhiên, bà có nhiều mối quan tâm; phúc lợi thiếu nhi; việc
chăm sóc những người động kinh sau điều trị, và nghệ thuật nhiếp ảnh, để nếu có
một nhà thờ đang xây dựng, hoặc một nhà thờ bị đổ nát, bà sẽ hối lộ người trông
coi nhà thờ, nhận chìa khóa và vào chụp ảnh; những tấm ảnh hầu như không thể
phân biệt với tác phẩm của những tay chuyên nghiệp, trong lúc bà chờ đợi.
Bản
thân ngài William không còn trẻ nữa. Ông đã làm việc rất vất vả; ông đạt được địa
vị của mình hoàn toàn nhờ vào năng lực (là con của một người chủ hiệu); yêu mến
nghề của mình; trở thành một kẻ bù nhìn tốt ở những buổi lễ và nói năng hoạt
bát – tất cả những thứ đã đạt được vào lúc ông được phong tước hiệp sĩ mang tới
cho ông một dáng vẻ nặng nề, một dáng vẻ mệt mỏi (dòng bệnh nhân cứ chảy liên
miên, những trách nhiệm và đặc quyền của nghề nghiệp của ông quá nặng nề); sự mệt
mỏi, cùng với mái tóc bạc của ông, đã tăng thêm vẻ nổi bật khác thường ở sự hiện
diện của ông và khiến ông nổi tiếng (điều quan trọng nhất khi xử lý những ca thần
kinh) không chỉ về kỹ năng thần tốc, và sự chính xác hầu như không sai sót
trong chẩn đoán mà còn là sự cảm thông; tài ứng biến; sự thấu hiểu tâm hồn con
người. Ông có thể nhìn thấy ngay khoảnh khắc đầu tiên họ bước vào phòng (họ được
gọi là vợ chồng Warren Smith); ông chắc chắn ngay lập tức khi ông nhìn thấy người
đàn ông; đây là một ca cực kỳ nghiêm trọng. Đây là một ca sụp đổ hoàn toàn – sụp
đổ hoàn toàn về mặt thể chất và thần kinh, với mọi triệu chứng ở một giai đoạn
tiến triển, ông xác định ngay trong vòng một hai phút (viết những câu trả lời
cho những câu hỏi trên một tấm thẻ màu hồng, lẩm bẩm những từ rời rạc).
Bác sĩ Holmes đã điều trị cho anh được bao lâu rồi?
Sáu tuần.
Đã kê đơn chút ít thuốc an thần? Bảo rằng không có gì nghiêm
trọng? À phải, (những tay bác sĩ đa khoa đó! Ngài William nghĩ. Ông phải mất
phân nửa thời gian của mình để tháo gỡ sai lầm của họ. Một số không thể khắc phục
được.)
“Anh đã phục vụ với cấp bậc cao trong Cuộc chiến?”
Người bệnh lặp lại từ “Cuộc chiến” với vẻ dò hỏi.
Anh ta đang gắn liền ý nghĩa của những từ với một dạng biểu
tượng. Một triệu chứng trầm trọng, được ghi chú trên tấm thẻ.
“Cuộc chiến à?” Người bệnh hỏi. Cuộc chiến tranh châu Âu – sự
rắc rối nho nhỏ của những cậu học trò với thuốc súng đó à? Anh đã phục vụ với cấp
bậc cao? Anh thật sự quên mất. Anh đã thất bại trong chính cuộc chiến tranh đó.
“Vâng, anh ấy đã phục vụ với cấp bậc cao.” Rezia bảo đảm với
vị bác sĩ; “Anh ấy đã được thăng cấp.”
“Và họ đã đánh giá rất cao về anh ở văn phòng của anh?” Ngài
William lẩm bẩm, liếc nhìn lá thư giới thiệu với lời lẽ rất rộng lượng của ông
Brewer. “Vậy là anh không có gì phải lo lắng, không có những lo âu về tài
chính, không có gì?”
Anh đã thực hiện một tội ác kinh khủng và bị kết án tử hình bởi
bản chất con người.
“Tôi đã… tôi đã,” anh bắt đầu, “thực hiện một tội ác…”
“Anh ấy không hề làm bất cứ điều gì sai cả.” Rezia bảo đảm với
vị bác sĩ. Nếu anh Smith có thể chờ, ngài William nói, ông sẽ nói chuyện với chị
Smith ở phòng bên cạnh. Chồng của cô bị ốm rất nghiêm trọng, ngài William nói.
Anh ta có đe dọa tự sát không?
Ồ, anh ta đã, cô khóc. Nhưng anh ấy không có ý đó, cô nói. Dĩ
nhiên là không. Đây chỉ đơn giản là vấn đề nghỉ ngơi, ngài William nói; về sự
nghỉ ngơi, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi; một đợt nghỉ ngơi dài trên giường. Có một ngôi
nhà vui tươi ở miền quê nơi chồng cô sẽ được chăm sóc chu đáo. Rời xa khỏi cô
à? Cô hỏi. Không may là đúng vậy; những người chúng ta quan tâm nhất không tốt
cho chúng ta khi chúng ta bị ốm. Nhưng anh ấy không bị điên, đúng không? Ngài
William bảo ông chưa hề nói từ “điên”; ông gọi nó là việc không có một ý thức về
sự tương quan. Nhưng chồng cô không ưa những vị bác sĩ. Anh ta sẽ từ chối tới
đó. Ngài William giải thích một cách ngắn gọn và tử tế cho cô biết tình trạng của
ca bệnh. Anh ta đã đe dọa sẽ tự sát. Không có chọn lựa thay thế nào cả. Đây là
vấn đề luật pháp. Anh ta sẽ nằm dưỡng bệnh trong một ngôi nhà xinh đẹp ở nông
thôn. Những người y tá rất tuyệt vời. Ngài William sẽ tới thăm bệnh anh ta mỗi
tuần một lần. Nếu chị Warren Smith hoàn toàn chắc chắn chị không còn câu hỏi
nào khác – ông không bao giờ thúc hối các bệnh nhân của mình – họ nên quay lại
với chồng chị. Cô không còn điều gì phải hỏi nữa – không, với ngài William.
Thế là họ quay trở lại với kẻ cao quý nhất trong loài người;
tên tội phạm đã đối mặt với những phán quan của hắn; nạn nhân đã bị phơi trần
trên những đỉnh cao; kẻ chạy trốn; người thủy thủ bị chết đắm; nhà thơ của khúc
tụng ca bất tử; vị chúa tể đã đi từ sự sống sang cái chết; trở lại với Septimus
Warren Smith, đang ngồi trong cái ghế bành dưới cửa sổ mái nhà, nhìn đăm đăm
vào một tấm ảnh chụp phu nhân Bradshaw mặc triều phục, lẩm bẩm những thông điệp
về vẻ đẹp.
“Chúng tôi đã chuyện trò đôi chút.” Ngài William nói.
“Ông ấy bảo anh bị ốm, ốm rất nặng.” Rezia khóc.
“Chúng tôi đã sắp xếp rằng anh nên tới ở tại một ngôi nhà.”
Ngài William nói.
“Một trong những ngôi nhà của Holmes?” Septimus cười khẩy.
Anh chàng này đã tạo một ấn tượng khó chịu. Vì trong lòng ngài
William, kẻ có cha là một thương nhân, có một sự kính trọng tự nhiên đối với việc
ăn mặc đàng hoàng; sự luộm thuộm khiến ông bực dọc; thêm nữa, sâu xa hơn, trong
lòng ngài William, kẻ chưa bao giờ có thì giờ để đọc, có một sự căm ghét, được
chôn giấu rất sâu, đối với những người có học thức bước vào phòng của ông và thể
hiện ra rằng những vị bác sĩ, mà nghề nghiệp của họ là một sự căng thẳng thường
xuyên hơn tất cả những phân khoa cao nhất, không phải là những người có giáo dục.
“Một trong những ngôi nhà của tôi, anh Warren Smith ạ,” ông
nói, “nơi chúng tôi sẽ dạy cho anh cách nghỉ ngơi.”
Và chỉ còn một điều nữa.
Ông hoàn toàn chắc chắn rằng khi Warren Smith đã khỏe mạnh,
anh sẽ là người cuối cùng trên đời này làm cho vợ mình sợ hãi. Nhưng anh đã nói
tới việc tự sát.
“Tất cả chúng ta đều có những lúc nản lòng.” Ngài William
nói.
Một khi bạn ngã xuống, Septimus lặp lại với chính mình, bản
chất con người đè lên bạn. Holmes và Bradshaw đang đè lên bạn. Họ đang lùng sục
trong sa mạc. Họ thét gào, bay vào chốn hoang dã. Sự tra tấn hành hạ được áp dụng.
Bản chất con người rất nhẫn tâm.
“Thỉnh thoảng anh lại lên cơn bốc đồng?” Ngài Willian hỏi, với
cây bút chì đặt trên tấm thẻ màu hồng.
Đó là việc riêng của anh, Septimus nói.
“Không ai sống chỉ cho bản thân mình.” Ngài William nói, liếc
nhìn tấm ảnh chụp vợ mình trong bộ triều phục.
“Và anh có một sự nghiệp rực rỡ ở trước mặt.” Ngài William
nói. Có lá thư của ông Brewer trên bàn. “Một sự nghiệp cực kỳ rực rỡ.”
Nhưng nếu anh đã thú tội? Nếu anh đã thông báo? Vậy họ có miễn
cho anh những cuộc tra tấn hay không?
“Tôi… tôi…” anh nói lắp bắp.
Nhưng tội ác của anh là gì? Anh không thể nhớ ra.
“Thế nào?” Ngài William động viên anh. (Nhưng nó đang ngày
càng chậm trễ.)
Tình yêu, những cây cối, không có tội ác – thông điệp của anh
là gì?
Anh không thể nhớ ra nó.
“Tôi… tôi…” Septimus lắp bắp.
“Hãy cố suy nghĩ về bản thân anh càng ít càng tốt.” Ngài
William nói với lòng tốt. Thật sự ông không khỏe mấy để dông dài thêm.
Họ còn muốn hỏi ông về bất cứ điều gì khác không? Ngài
William sẽ tiến hành mọi việc chuẩn bị (ông lẩm bẩm với Rezia) và ông sẽ cho cô
biết giữa năm và sáu giờ chiều hôm đó, ông lẩm bẩm.
“Hãy tin cậy ở tôi về mọi thứ.” Ông nói, và tiễn họ ra.
Chưa bao giờ, chưa bao giờ Rezia cảm thấy đau khổ đến thế
trong đời mình! Cô đã yêu cầu sự giúp đỡ và đã bị bỏ rơi! Ông ta đã phụ lòng
cô! Ngài William Bradshaw không phải là một người tốt.
Chỉ riêng chi phí bảo dưỡng cho chiếc xe hơi đó đã khiến ông ấy
tốn bộn tiền, Septimus nói, khi họ bước ra đường.
Cô bám vào tay anh. Họ đã bị bỏ rơi.
Nhưng cô còn muốn gì hơn nữa?
Ông cho các bệnh nhân của mình bốn mươi lăm phút; và nếu
trong bộ môn khoa học chính xác này, môn khoa học phải xử lý, nói cho cùng, thứ
mà chúng ta không biết gì về chúng hết – hệ thần kinh, bộ não của con người – một
bác sĩ đánh mất ý thức về sự tương quan, ông ta sẽ thất bại với tư cách một bác
sĩ. Chúng ta phải có sức khỏe; và sức khỏe là sự tương quan; để khi một người
đàn ông bước vào phòng của bạn và và bảo anh ta là đấng Ky-tô (một ảo tưởng phổ
quát), và có một thông điệp, như đa số bọn họ thường có, và đe dọa, như họ thường
làm, sẽ tự sát, bạn cầu viện tới sự tương quan; ra lệnh phải nghỉ ngơi trên giường;
nghỉ ngơi trong trạng thái cô đơn; im lặng và nghỉ ngơi; nghỉ ngơi không có bạn
hữu, không có sách vở, không có những thông điệp; nghỉ ngơi trong sáu tháng;
cho tới khi một người đàn ông cân nặng 114 cân Anh khi bước vào sẽ cân nặng 168
cân Anh khi bước ra.
Sự tương quan, sự tương quan thiêng liêng, nữ thần của ngài
William, mà ngài William đã thủ đắc được khi tới những bệnh viện, khi câu cá hồi,
khi trở thành cha của một đứa con trai nhờ vào phu nhân Bradshaw, kẻ tự mình
cũng câu cá hồi và chụp những tấm ảnh hầu như không thể phân biệt với tác phẩm
của những tay chuyên nghiệp. Khi tôn thờ sự tương quan, ngài William không chỉ
làm cho bản thân mình được thịnh vượng mà còn giúp cho nước Anh thịnh vượng,
tách riêng những người điên của Người ra, ngăn cấm việc sinh sản, trừng phạt sự
tuyệt vọng, buộc những kẻ thiểu năng không thể phổ biến những quan điểm của họ
cho tới khi cả họ cũng chia sẻ ý thức của ông về sự tương quan – của ông, nếu họ
là đàn ông; của phu nhân Bradshaw, nếu họ là phụ nữ (bà ấy thêu, đan, dành ra bốn
trong số bảy đêm để ở nhà với con trai), để không chỉ những đồng nghiệp của ông
tôn trọng ông, mà cả những bạn hữu và bà con của các bệnh nhân của ông cũng
dành cho ông lòng biết ơn nồng nhiệt nhất vì đã dứt khoát rằng những đấng Ky-tô
nam và nữ có tài tiên tri này, những kẻ tiên đoán sự kết thúc của thế giới, hay
sự ra đời của Thượng đế này, nên uống sữa ở trên giường, như ngài William đã ra
lệnh; ngài William với kinh nghiệm ba mươi năm về những ca bệnh dạng này và bản
năng không thể sai lầm của mình, đây là sự điên rồ, nhận thức này; thật sự, nhận
thức của ông về sự tương quan.
Nhưng sự tương quan có một người chị em, ít tươi cười hơn,
kinh khủng hơn, một nữ thần ngay lúc này đang hòa mình vào cái nóng và cát ở Ấn
Độ, bùn và đầm lầy ở châu Phi, những vùng phụ cận của London, tóm lại, ở bất cứ
nơi nào xu thế của ma quỷ quyến rũ những người đàn ông rơi ra khỏi niềm tin
chân xác, cũng là chính bản thân mụ ta; ngay lúc này đang tham gia vào việc lao
sầm xuống những thánh tích, đập nát những thần tượng, và dựng lên ở vị trí của
chúng bộ mặt nghiêm khắc của chính mụ ta. Sự hoán chuyển là tên của mụ ta và mụ
ta ăn tiệc trên ý chí của kẻ nhu nhược; thích gây ấn tượng, áp đặt, tôn sùng những
đặc điểm của chính mụ ta in dấu trên gương mặt của đám đông. Ở góc phố Hyde
Park, mụ ta đứng trên một cái chậu, đang giảng đạo; tự quấn mình trong vải liệm
trắng và bước đi dưới vẻ ăn năn ngụy tạo với tư cách tình huynh đệ qua những
nhà máy và những nghị viện; đưa ra sự trợ giúp, nhưng khao khát quyền lực; thô
bạo hất khỏi đường đi của mình những kẻ không tán đồng, hay không hài lòng; ban
lời chúc phúc cho những kẻ đang ngẩng lên, ngoan ngoãn đón nhận từ mắt mụ ta
ánh sáng của chính họ. Cả quý bà này (Rezia Smith đã đoán biết về nó) cũng có
nơi cư ngụ trong tim của ngài William, dù được che đậy, như thường lệ, bên dưới
lớp ngụy trang hợp lý nào đó; một cái tên khả kính nào đó; tình yêu, bổn phận,
sự tự hy sinh. Ông ta làm việc mới hăng hái làm sao – cực khổ biết bao để kêu gọi
những khoản tài trợ, tuyên truyền cho những cuộc cải cách, khởi xướng ra những
thể chế! Nhưng sự hoán chuyển, nữ thần khó tính, yêu thích máu hơn gạch, và ăn
tiệc một cách tinh tế nhất trên ý chí của con người. Chẳng hạn, phu nhân
Bradshaw. Mười lăm năm trước bà đã khuất phục. Bạn không thể làm gì để can thiệp;
không có một cảnh tượng, một tiếng vang đột ngột nào; chỉ có sự chìm đắm chậm
chạp, ngập sũng nước, của ý chí của bà vào ý chí của ông ta. Nụ cười của bà thật
ngọt ngào, sự phục tùng của bà thật nhanh chóng; ăn tối ở phố Harley, việc dọn
lên tám hay chín món, đãi mười hay mười lăm vị khách thuộc tầng lớp chuyên môn,
diễn ra êm ả và lịch sự. Chỉ khi buổi chiều đã khoác lên một vẻ ảm đạm rất nhẹ
nhàng, hay có lẽ là sự khó chịu, một dây thần kinh co giật, sự lần mò, sự vấp
ngã và bối rối đã chỉ ra, một điều thật đau đớn để tin vào – rằng quý bà khốn
khổ đó đã nói dối. Một lần, lâu rồi, bà đã câu cá hồi một cách thoải mái: giờ
đây, để nhanh chóng chăm lo cho lòng khao khát quyền thế, sức mạnh khiến cho
đôi mắt của ông chồng lóng lánh như có dầu, bà bị câu thúc, co rút lại, bị tỉa
gọt, cắt xén, nhìn qua; khiến dù không biết chính xác điều gì làm cho buổi tối
trở nên không vừa ý, và tạo nên áp lực này trên đỉnh đầu (có thể đổ lỗi cho cuộc
trò chuyện mang tính chuyên môn, hay sự mệt nhọc của một bác sĩ lớn mà cuộc đời
của ông, phu nhân Bardshaw nói, “không là của chính ông mà là của những bệnh
nhân của ông”), nó vẫn không vừa ý: khiến những vị khách, khi đồng hồ điểm mười
giờ, hít một hơi không khí của phố Harley thậm chí với sự sung sướng vô ngần;
tuy nhiên, sự nhẹ nhõm đó không dành cho những bệnh nhân của ông ta.
Ở đó, trong căn phòng xám xịt, với những bức ảnh trên tường,
và những đồ nội thất quý giá, dưới lớp kính của cửa sổ mái nhà, họ đã học cách
nhận biết mức độ phạm tội của họ; co người trong những cái ghế bành, họ quan
sát ông ta đi qua, vì lợi ích của họ, một bài tập lạ lùng với đôi cánh tay, mà
ông ta vung ra rồi đặt mạnh trở lại hông, để chứng minh (nếu người bệnh ngoan cố)
rằng ngài William là chủ của những hành động của ông ta chứ không phải người bệnh.
Có một số người sụp đổ một cách yếu ớt; khóc nức nở, phục tùng; một số khác, được
gợi hứng bởi sự điên loạn quá độ mà chỉ có Trời mới biết, gọi thẳng vào mặt
ngài William rằng ông là một tên bịp bợm đáng nguyền rủa; chất vấn, thậm chí một
cách bất kính hơn, chính bản thân cuộc sống. Vì sao sống? Họ thắc mắc. Ngài
William đáp rằng cuộc sống vẫn tốt đẹp. Tất nhiên bức ảnh phu nhân Bradshaw
trong bộ lông đà điểu được treo bên trên bệ lò sưởi, còn về phần thu nhập của
ông, nó đúng là mười hai ngàn bảng mỗi năm. Nhưng, họ phản đối, cuộc sống không
cho chúng tôi hào phóng như thế. Ông ta thừa nhận. Họ thiếu một ý thức về sự
tương quan. Và có lẽ, nói cho cùng, không có Thượng đế? Ông ta nhún vai. Nói
tóm lại, việc sống hay không sống này là việc riêng của chúng tôi. Nhưng họ đã
phạm sai lầm. Ngài William có một người bạn ở Surrey, nơi họ dạy thứ mà ngài
William đã thẳng thắn thừa nhận là một nghệ thuật khó khăn – một ý thức về sự
tương quan. Ngoài ra còn có tình cảm gia đình, danh dự; lòng quả cảm; và một sự
nghiệp rực rỡ. Tất cả những thứ này tạo nên bên trong ngài William một chiến sĩ
kiên cường. Nếu họ làm ông thất vọng, ông phải hỗ trợ cảnh sát và những người tốt
của xã hội, mà, ông ta nhận xét rất lặng lẽ, sẽ chăm sóc [cho họ] ở mạn Surrey,
rằng những thôi thúc phi xã hội này, được nuôi dưỡng hơn bất cứ thứ gì khác bởi
sự thiếu hụt máu tốt, sẽ được duy trì trong vòng kiểm soát. Rồi sau đó lén lút
bước ra từ chỗ ẩn nấp của ông ta và trèo lên cái ngai của Nữ thần đó, kẻ có
tham vọng giày xéo sự chống đối, in hình ảnh không thể tẩy xóa của chính mụ ta
lên những nơi tôn nghiêm của những người khác. Trần truồng, vô phương tự vệ, kẻ
kiệt sức, kẻ không có bạn hữu phải đón nhận cái dấu ấn ý chí của ngài William.
Ông ta sà xuống; ông ta ngấu nghiến. Ông ta buộc mọi người câm lặng. Chính sự kết
hợp giữa tính quả quyết và tính nhân bản này đã khiến cho ngài William cực kỳ
ưa chuộng các phát hiện của những nạn nhân của ông ta.
Nhưng Rezia Smith kêu lên, trong lúc đi xuống phố Harley, rằng
cô không thích người đàn ông đó.
Sài Gòn, 10/2012
Virginia Woolf
Nguyễn Thành Nhân dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét