“Tiếng đàn xưa đứt
ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người”
(Tố Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Vượt cầu Bến Thủy, men theo sông Lam về huyện Nghi Xuân để
thăm làng Tiên Ủy, xã Tiên Điền quê Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc.
Hát ví dặm dưới chân tượng đài
Nguyễn Du trên quê hương Tiên
Điền
Quê Nguyễn Du là một vùng nước non rất đẹp, nét đẹp dịu dàng chân chất, có sông
có núi hữu tình của làng quê Việt Nam. Dòng sông Lam, uốn mình lượn ngay sau
nhà Nguyễn Du chỉ độ chừng nửa ki-lô-mét. Còn trước mặt, hơi xa một chút, sau
cánh đồng Tiên An là núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn uy nghi lúc mờ, lúc hiện trong
mây. Phía Đông là biển cả ngày đêm đem gió về quạt mát lòng người và đùa vui với
tùng, với dương liễu trong vườn nhà Nguyễn Du. Tiên Điền vốn là đất cát pha do
sông Lam bồi đắp nên từ mấy nghìn năm về trước. Tổ tiên của dòng họ Nguyễn Tiên
Điền là ở ngoài Bắc vào lập nghiệp từ cuối thời Mạc (thế kỷ 16). Trên mảnh đất
tiên ấy đã sản sinh cho đất nước nhiều vị đại khoa, văn thần, võ tướng, mà đỉnh
cao nhất là cụ Nguyễn Nghiễm, thân sinh nhà thơ Nguyễn Du. Anh cả Nguyễn Du là
Nguyễn Khản giữ chức thị thư trong phủ chúa. Nguyễn Du sinh ở Thăng Long.Trong
những năm 10 và 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha và mẹ. Ông ở với anh, rồi về sau
phiêu bạt “góc biển chân trời”, chịu cảnh cơ cực của “gió bụi”, thật là:
Khi sao phong gấm rủ là
Cho nên chưa đến 30 tuổi đầu tóc Nguyễn Du đã bạc trắng.
Cha và anh Nguyễn Du đều giỏi văn và thích thơ ca, hay nghe hát xướng. Nguyễn
Du dường như “thâm nhiễm” điều đó từ bé. Nên khi ông rời quê vợ trở về Tiên Điền
(1796) thì ông lấy nghiệp thơ ca làm chính và tìm niềm vui trong những đám hát ở
Trường Lưu của trai gái đương thời.Làng Trường Lưu cách Tiên Điền non 10
ki-lô-mét.Nguyễn Du ở quê cha 7 năm, đó là 7 năm nghèo nàn, khánh kiệt, “suốt
ngày bếp nhà không đỏ lửa”. Và ông “ngồi xếp bằng tròn cạnh cửa sổ say mắt lim
dim”, để “nhìn vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh” (Đối tửu). Ông thấu hiểu
nỗi khổ của dân tình, ông ngán ngẩm sự đời.Tuy vậy, ông vẫn quyết giữ “tấm lòng
trong vằng vặc như ánh trăng sáng, như nước giếng xưa” (Đạo ý).Lúc bình minh
lên cũng như khi hoàng hôn xuống, Nguyễn Du hay ngồi trong nhà làm thơ và “nhìn
những cây tùng trước nhà”, ông ước gì “thoát được vòng trần tục, ngồi dưới gốc
tùng thú biết bao nhiêu” (Sơn Thôn).
Tượng đài đại thi hào Nguyễn Du - ảnh tư liệu
Quê hương vẫn là hình ảnh in sâu sắc nhất trong ông, là nguồn
an ủi động viên ông. Ông vẫn thường tự hào khoe với bạn bè:
Lam Hồng sông núi vô cùng đẹp
Nhờ bạn thu về giúp tứ thơ
Nguyễn Du, thường đi câu cá ven sông Lam và rất hay “dắt chó
vàng mà vui dưới núi Hồng Lĩnh” (Tạp thi).
Chính những chuyến đi săn này đã làm Nguyễn Du thêm yêu quí
quê hương đất nước. Đứng trên núi Hồng Lĩnh nhìn về quê thì Tiên Điền như một tấm
thảm hoa và dòng sông Lam như một con rồng uốn lượn. Biển Cửa Hội xa xa với đảo
Ngư trong ráng chiều như đôi cá vươn mình trên mặt nước trò chuyện.
Chính Nguyễn Du khi viết “Lam Điền nhật noản ngọc sinh yên”
(Sông núi Lam Điền bóng nắng ấm, những hòn ngọc lên khói), cũng là ở góc độ Hồng
Lĩnh nhìn về thôn xóm. Trong hơn hai nghìn năm trăm ngày sống trên mảnh đất quê
hương, Nguyễn Du đã bao lần đứng trên núi Hồng Lĩnh để thu vào tầm mắt mình
hình ảnh tuyệt đẹp của quê nhà. Trong truyện Kiều, ông có viết:
Buồn trong cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trong nội cỏ dàu dàu
Cửa bể thấp thoáng cánh buồm xa xa ấy có thể là Cửa Hội, còn
đồng nội một màu xanh xanh kia là Tiên Điền. Và tâm trạng hoa trôi không biết về
đâu lại chính là tâm tư của Nguyễn Du lúc đó.
Năm năm làm bạn ngư tiều đủ
Cười ráng hồ mây rợn bãi đồng” Những năm ở quê, Nguyễn
Du ngoài tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên cha mẹ đặt cho, ông còn tự xưng là: Hồng
Sơn Liệp Hộ (người đi săn núi Hồng Lĩnh) và Nam Hải Điếu Đồ (dân chài biển Nam)
Sông Lam, núi Hồng là một bức tranh tuyệt tác về non xanh nước biếc.
Ngày nay, mỗi lần vượt sông Lam, men theo chân Hồng Lĩnh để
vào đất Hà Tĩnh, chúng ta lại bâng khuâng nghĩ đến Nguyễn Du. Thời nhà thơ của
chúng ta còn sống, Hồng Lĩnh được gọi là cõi tiên:
Non Hồng nơi ẩn nhiều tiên
Chín mươi chín chóp trông lên tận trời.
Trên núi Hồng Lĩnh, ngoài những ngọn cao chót vót như
ngọn Am, ngọn Sư Tử, ngọn Thiên Tượng…, Hồng Lĩnh có nhiều hang động và suối
trong. “Dục Tiên Kiều” (Cầu tiên tắm) là một cảnh đẹp. Chùa Hương Tích xưa kia,
theo Đại Nam nhất thống chí, là một “danh lam thứ nhất ở Nghệ Tĩnh”. Trước
chùa có khe nước chảy qua, cành thông xanh tốt.
Trình Quang Phú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét