Tình trong dòng thơ tiền chiến
Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
(Cảm Xúc - Xuân Diệu)
Tiền chiến là thời kỳ đánh dấu bằng những sự thay đổi lớn trong văn học Việt Nam. Từ bao đời, thi ca Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn học Nho giáo và sự ràng buộc khắt khe của chế độ phong kiến. Nói đến thơ Việt, người ta chỉ nghĩ ngay đến thể thơ Đường Luật thất ngôn bát cú mà từ giới thượng lưu quan quyền, vua chúa đến các bậc nho sĩ đều chuyên dùng. Học sinh đến trường phải thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh, Tam Tự Kinh, được giáo dục Thi, Thư, Lễ, Nhạc và chịu gò bó tư tưởng, đạo đức, tinh thần, cảm xúc của mình trong một khuôn khổ nhất định theo triết lý Khổng - Mạnh: Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức…
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
(Cảm Xúc - Xuân Diệu)
Tiền chiến là thời kỳ đánh dấu bằng những sự thay đổi lớn trong văn học Việt Nam. Từ bao đời, thi ca Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn học Nho giáo và sự ràng buộc khắt khe của chế độ phong kiến. Nói đến thơ Việt, người ta chỉ nghĩ ngay đến thể thơ Đường Luật thất ngôn bát cú mà từ giới thượng lưu quan quyền, vua chúa đến các bậc nho sĩ đều chuyên dùng. Học sinh đến trường phải thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh, Tam Tự Kinh, được giáo dục Thi, Thư, Lễ, Nhạc và chịu gò bó tư tưởng, đạo đức, tinh thần, cảm xúc của mình trong một khuôn khổ nhất định theo triết lý Khổng - Mạnh: Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức…
Đầu thế
kỷ 20, sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam cùng với chủ nghĩa tư bản và văn hóa
phương Tây đã gây ra những xáo trộn lớn trong xã hội. Giới thượng lưu Việt Nam
hình thành một giai cấp mới, gọi là tư sản với lối sinh hoạt thành thị mới theo
văn minh Phương Tây. Giới trí thức trẻ được đi học trường Tây, được học chữ
Pháp, được tiếp thu nền văn hóa lãng mạn Pháp và nhanh chóng nhận thấy sự gò bó
khắt khe của vần luật, niêm luật và đối ngẫu trong thơ Đường Luật đã hạn chế
tiếng nói tự nhiên của con tim: “Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó
cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời,
song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ
bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường
luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề
thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy… " (Trịnh
Đình Rư - Phụ Nữ Tân Văn 1929). Thanh niên thời bấy giờ, không còn như giới hũ
nho, chỉ biết hễ mở miệng là xổ Nho hay đặt bút xuống là kê Nho, mà bắt đầu yêu
chuộng những vần điệu nhẹ nhàng phát xuất từ cảm xúc sâu xa của tâm hồn trước
cái đẹp của vạn vật, cuộc đời, sự sống, con người và tình yêu. Và thơ Mới lúc
ấy đã ra đời, chấm dứt một thuở vàng son thịnh trị của thơ Đường:
Ta gặp
Nàng trên một vì sao nhỏ
Ta hôn
Nàng trong bóng núi mây cao
Ta ôm Nàng
trong những nguồn trăng đổ
Ta ghì
Nàng trong những suối trăng sao
(Ngủ
trong sao - Chế Lan Viên)
Từ khi
tôi mới bước vào lứa tuổi ô mai, biết mơ mộng, biết làm thơ thì dòng thơ tiền
chiến đã luôn lôi cuốn và thu hút tôi cho đến bây giờ. Với tôi, thơ tiền chiến
là thơ của một thời thanh bình, lãng mạn, thơ của tình yêu, của mộng mơ, mà
từng lời thơ đều gọt giũa trau chuốt đẹp đẽ. Có lẽ vì ảnh hưởng bởi dòng thơ
lãng mạn của Rimbaud, Beaudelaire, Verlaine, cho nên các nhà thơ tiêu biểu cho
thời kỳ này như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn
Bính, Hồ Dzếnh… đã làm nên cuộc cách mạng lớn trong thi ca Việt Nam:
Tay
anh em hãy tựa đầu
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
(Ngậm ngùi - Huy Cận)
Tình yêu muôn đời là nguồn cảm hứng không bến bờ của mỗi người trong chúng
ta. Tôi còn nhớ, ngày ấy, cũng như bao nữ sinh đồng trang lứa, tôi thường tìm
tòi sao chép vào những cuốn vở có ép hoa ép bướm, nắn nót bằng mực tím những
dòng thơ tình tiền chiến:
Em đi rồi then khóa cả chiêm bao
Gầy vóc mộng gói tròn manh áo nhớ
(Đinh Hùng)
Gầy vóc mộng gói tròn manh áo nhớ
(Đinh Hùng)
Tôi
thấy, trong phong trào thơ Mới, tư tưởng tự do lãng mạn thiệt phóng khoáng và
huyền diệu vô cùng. Thế giới nội tâm được diễn đạt qua những vần điệu chuyên
chở đầy cảm xúc, nói lên đời sống tình cảm, yêu và hận, cô đơn và u sầu, xa
cách và nổi loạn…
Để chăn gối im nằm chỗ cũ
Hãy lịm
người trong thú đau thương
Giờ đây ta
đốt nén hương
Trên tay
ta buộc giải tang cho tình
(Thú
đau thương - Lưu Trọng Lư)
Chữ
tình trong cõi thơ đã không còn biên giới. Có tình yêu nồng nàn mãnh liệt của
tuổi đôi mươi, có tình mộc mạc thơ ngây của tuổi học trò, có tình não nề thê
thiết của ly biệt, có thứ tình đằm thắm dịu dàng của vạn vật thiên nhiên…
Hôm nay có
một nửa trăng thôi
Một nửa
trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ
mình xa thương đứt ruột
Gió làm
nên tội buổi chia phôi
(Hàn
Mặc Tử)
Trong
số các nhà thơ vang bóng thời bấy giờ, tôi yêu thích nhất là thơ Xuân Diệu rồi
đến Nguyễn Bính và Hoàng Cầm. Người ta ví Xuân Diệu như “vua” của thơ tình hiện
đại, quả không sai. Trong dòng thơ của ông, tôi có thể cảm nhận được ngọn lửa
rạo rực, thiết tha, nồng cháy, niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, khao khát
yêu thương và giao cảm với đời. Tình yêu được ông dùng bút phát họa nên một bức
tranh muôn màu, có sắc, có hương và âm quyện vào nhau một cách hài hòa mỹ miều.
Bài thơ mà tôi thấy rung động nhất là bài “Nguyệt Cầm”:
Trăng nhập
vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng
thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn,
đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt
rơi tàn như lệ ngân
Đối với
tôi bài thơ này diễn tả mức độ cao nhất của cảm xúc con người. Xuân Diệu trong
một đêm thu trăng sáng lạnh lùng, đã nghe vang vọng tiếng đàn sầu não. Cái hay
sâu sắc trong bài thơ này, là nhà thơ đã nhìn thấy sự tương giao hài hòa giữa
thiên nhiên, màu sắc, âm thanh và cảm xúc… Trăng và đàn hình như bỗng có linh
hồn quyện chặt vào nhau. Trăng phổ nhạc cho đàn, để tiếng đàn ai oán xoáy vào
trong cõi lòng lạnh giá làm bừng nở từng đóa hoa thơ:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê
như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh
tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ
Tầm Dương, nhạc nhớ người...
Bốn bề ánh
nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo
hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc
làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu
âm nhạc đến sao Khuê.
Trong
thơ Xuân Diệu, chữ tình khoác một chiếc áo muôn màu muôn vẻ. Vườn hoa thơ của
Xuân Diệu trồng một cây tình yêu luôn mãi xinh tươi và ngát hương. Cây tình yêu
của ông được vun trồng, chăm bón bằng cái tình nảy sinh từ yêu thiên nhiên vạn
vật:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh
duyên.
Cây me ríu
rít cặp chim chuyền
Đổ trời
xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến
nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ
Duyên - Xuân Diệu)
Từ tâm
hồn thiết tha yêu cuộc sống:
Ta muốn ôm
Cả sự sống
mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn
riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn
say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu
trong một cái hôn nhiều
Và non
nước và cây và cỏ rạng
Cho chếch
choáng mùi thơm cho đã đấy ánh sáng
Cho no nê
thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân
hồng ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội
vàng - Xuân Diệu)
Từ cuộc
đời thật, giữa tình yêu đôi lứa cuồng nhiệt khát khao:
Hãy sát
đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn
nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh
tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng
cả tình yêu lên sóng mắt!
(Xa
Cách - Xuân Diệu)
Giữa
tình yêu vợ chồng thương yêu trìu mến:
Nằm đêm anh cứ thương em
Rơi
nghiêng nước mắt một đêm gối nằm
Thế này
cho hết trăm năm
Đến muôn
năm vẫn âm thầm thương em.
(Nằm
đêm anh cứ thương em - Xuân Diệu)
Từ
những nỗi đau âm ỉ:
Rễ ăn huyết lệ từ sâu
Màu hoa
mới được bền lâu thế này.
Lệ thường
yêu dấu xưa nay.
Gai đâm
rách toạc tim này - chớ than!
(Trăm
ba mươi đó - Xuân Diệu)
Yêu
người đến tương tư, vì khi chỉ có yêu thực sự con người mới cảm nhận hết thế
nào là nỗi nhớ tương tư khắc khoải đến một người...
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh
nhớ ảnh.
Anh nhớ
em, anh nhớ lắm! Em ơi!
(Tương
tư chiều - Xuân Diệu)
Nhà thơ
Nguyễn Bính cũng tương tư khi yêu. Nhưng nỗi tương tư của Nguyễn Bính thì dịu
dàng như hương đồng gió nội, mộc mạc đơn sơ như mối tình chân quê, ngọt ngào
như câu ca dao ru hời của Mẹ…
Ví chăng
nhớ có như tơ nhỉ
Em thử
quay xem được mấy vòng
Ví chăng
nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào
xem được mấy thưng!
(Nhớ -
Nguyễn Bính)
Tôi yêu
thích thơ Nguyễn Bính vì thơ ông mang nét đẹp duyên dáng, đáng yêu của thôn
làng Việt Nam. Thơ Nguyễn Bính gắn bó và thu hút những tinh hoa vàng ngọc của
ca dao… Những dòng lục bát của ông như chiếc thuyền bềng bồng trên sóng nước,
chở nặng chữ tình, và thuần cảm xúc. Thơ ông biểu hiện cảnh quê, thắm được tình
quê, hồn quê nước Việt với một sắc thái lãng mạn. Qua thơ của Nguyễn Bính, tôi
tìm lại những hình ảnh bình dị quen thuộc của làng quê Việt Nam với những hàng
cau, giàn trầu, rặng mùng tơi, thôn Đoài, thôn Đông, mái nhà tranh, giàn trúc
thưa…
Nhà em có
một giàn giầu,
Nhà anh có
một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài
thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn
Đoài nhớ giầu không thôn nào?
(Tương
tư - Nguyễn Bính)
Những
mối tình chân quê nam nữ hồn nhiên, chất phác, yêu đời:
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em
đi lễ chùa
Cứ ăn mặc
thế cho vừa lòng anh!
Hoa chanh
nở giữa vườn chanh
Thầy u
mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em
đi tỉnh về
Hương đồng
gió nội bay đi ít nhiều
(Chân
Quê - Nguyễn Bính)
Những
chuyện tình buồn trắc trở, chua xót, phải 'lỡ bước sang ngang':
Ai đem rắc bướm lên hoa
Rắc bèo
xuống giếng, rắc ta vào nàng?
Ai đem
nhuộm lá cho vàng?
Nhuộm đời
cho bạc, cho nàng phụ ta?
(Rắc
bướm lên hoa - Nguyễn Bính)
Tôi còn
nhớ khi tôi vừa vào độ tuổi trăng rằm, bài thơ đầu tiên của Nguyễn Bính mà tôi
biết đến là bài thơ “Bảy Chữ”… Bài thơ này tôi đã nắn nót chép vào trang lưu
bút thời trung học. Nét độc đáo ở đây gói trọn trong bảy chữ “Vạn lý tương tư,
vũ trụ tình”… Còn nỗi nhớ thương nào dài hơn ngoài vạn dặm và còn cái tình nào
bao la bát ngát sâu rộng hơn vũ trụ… Thật tuyệt! Có lẽ vì thế mà các nam sinh
trong trường tôi trong những năm cuối trung học thường hay viết tặng người yêu,
bảy chữ này như một hiến chương tình yêu, một lời tỏ tình đậm đà nhất… để khi
người yêu
Đọc
xong bảy chữ thì thương lắm:
“Vạn lý tương tư, vũ trụ tình”
(Bảy
Chữ - Nguyễn Bính)
Thơ của
nhà thơ Hoàng Cầm đến với tôi muộn màng nhưng những vần thơ của ông đã để lại
trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc… Có lẽ vì qua thơ ông tôi tìm lại được hình
dáng mỹ miều lãng mạn của quê Nột trong tôi. Thơ ông mượt mà, quyến rũ, mang
nhiều thi tính, giàu nhạc điệu, rất tình tứ… có lẽ vì ông biết kết đọng đến
tinh túy nền văn hóa quan họ của người dân Kinh Bắc, ngay cả nghệ thuật ông
dùng bút để phát họa cái đẹp lãng mạn đa tình của người con gái Bắc Ninh cũng
thật tài…
Chân em
dài đi không biết mỏi
Má hồng em
lại nổi
đồng mùa
nước lụt mênh mông
Lưng thon
thon cắm sào em đợi
Đào giếng
sâu rồi
đừng lấp
vội đầu xanh
Lúng liếng
ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi
quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo
tắm bao giờ hở em.
(Theo
đuổi - Hoàng Cầm)
Trong
thơ ông đậm nỗi khát khao yêu đời… Ngọn lửa tình trong ông lúc nào cũng rực
cháy nóng bỏng nun đúc thành những dòng thơ da diết. Nhà thơ Hoầng Cầm biết yêu
khi mới lên tám, suốt cả mấy mươi năm quá trình sáng tác của ông, có nhiều bóng
hồng đã là nguồn cảm xúc thiết tha của ông…Tôi yêu thích bài thơ “Lá Diêu Bông”
của ông, vì bài thơ này nói lên mối tình si đầu tiên của ông dành cho một người
con gái lớn hơn ông 7 tuổi. Một mối tình trong sáng, nhẹ nhàng, cho dù kết cuộc
mang một nỗi buồn man mác thương đau…
Váy Đình
Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn
thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào
tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta
gọi là chồng…
… Từ thuở
ấy
Em cầm
chiếc Lá
đi đầu non
cuối bể
Gió quê vi
vút gọi
Diêu bông
hời...
... Ới
Diêu bông...!
Trong
thơ Hoàng Cầm có nhiều khi tôi cảm nhận nét si mê hưng phấn trong ái tình của
ông. Ông lồng nhục cảm trong những vần thơ đầy hương sắc và thi vị, đẹp trau
chuốt đến quyến rũ lạ thường…
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp tròn căng nuột ấy... ơi!...
… Hương ngát em lồng kín cõi anh
Yếm đào trút lại phía vô linh
Đung đưa gác lửng nghênh xuân ấy
Đôi núm hồng em nở hết mình
(Hội yếm bay - Hoàng Cầm)
Dòng giống Tiên Rồng, bốn ngàn năm văn hiến là một giống nòi tình cho nên mỗi người dân Việt thường yêu chuộng những dòng thơ nghiêng về cảm xúc và nặng chữ tình. Cũng có lẽ vì thế mà dòng tình tiền chiến đã nở những đóa hoa thơ ngát hương rực rỡ muôn màu muôn sắc mà qua bao nhiêu thập niên hương sắc vẫn không phai tàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam:
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai
(Vũ Hoàng Chương)
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp tròn căng nuột ấy... ơi!...
… Hương ngát em lồng kín cõi anh
Yếm đào trút lại phía vô linh
Đung đưa gác lửng nghênh xuân ấy
Đôi núm hồng em nở hết mình
(Hội yếm bay - Hoàng Cầm)
Dòng giống Tiên Rồng, bốn ngàn năm văn hiến là một giống nòi tình cho nên mỗi người dân Việt thường yêu chuộng những dòng thơ nghiêng về cảm xúc và nặng chữ tình. Cũng có lẽ vì thế mà dòng tình tiền chiến đã nở những đóa hoa thơ ngát hương rực rỡ muôn màu muôn sắc mà qua bao nhiêu thập niên hương sắc vẫn không phai tàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam:
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai
(Vũ Hoàng Chương)
28/08/2007
Bích Phượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét