Gánh hàng hoa 2
Chương 7VIẾT BÁO
Nửa tiếng sau, Liên trở về, chạy vào nhà thở hồng hộc hỏi ông
Hoạt:
− Mọi chuyện êm xuôi chứ? Thật rõ nhà tôi làm tôi khổ hết sức!
Minh thản nhiên, vừa cười vừa hỏi:
− Mình làm gì mà cuống quít lên thế?
Ông Hoạt lộ vẻ vui mừng, nói:
− May quá, cô đã về. Cô đi rồi, cậu ấy làm tôi chẳng còn hồn vía nào nữa! Hết
khóc rồi lại cười, xong lại nói nhảm nói nhí mãi!
Liên xoay qua trách chồng:
− Sao mình lại thế? Làm phiền lòng em lắm, mình biết không!
Minh ôn tồn hỏi:
− Mình đi đâu mà hấp tấp vội vàng thế?
− Thôi, đừng bắt em nhắc lại nữa cho thêm bực mình! Chỉ tại mình làm em sợ hãi
quá mới ra nông nỗi này. Em bắt đền mình đấy!
Minh vẫn tỉnh như không hỏi:
− Nông nỗi gì đấy mình?
Liên bảo ông Hoạt tiếp tục công việc làm vườn bị bỏ dở rồi thở dài bảo chồng:
− Em thấy mình định... Nhưng mình đừng dại dột thế nữa nhé! Mình có chịu hứa với
em thế không thì em mới kể đầu đuôi câu chuyện cho mà nghe.
− Nhưng mà hứa cái gì mới được chứ?
− Mình đừng để em góa bụa, một mình một thân cô đơn tội nghiệp mình nhé!
Minh tươi nét mặt ngồi suy nghĩ. Chàng đã tìm được một cách khác để tự vẫn giản
dị hơn, yên lặng và kín đáo hơn.
Không thấy chồng trả lời, Liên lại gần nắm tay, âu yếm hỏi:
− Nhé mình nhé?
Minh chẳng hiểu vợ nói những gì, chỉ đáp cho qua chuyện:
− Ừ, được rồi.
Nếu mình nói dối em thì sao?
Minh ‘thề’ rằng:
− Nếu anh mà nói dối em thì anh chết ngay tại chỗ.
Liên không chịu, lắc đầu dù Minh không nhìn thấy gì:
− Không, nếu anh nói dối em thì em chết kia!
Minh phì cười nói:
− Ai lại thề thế bao giờ!
− Em thì xin thề với anh rằng nếu anh còn tìm cách tự tử nữa thì em đập đầu chết
trước mặt anh ngay cho xem. Nếu thiếu anh thì em sống làm gì!
Minh ngồi đăm đăm suy nghĩ rồi thốt nhiên hỏi vợ:
− Đập đầu mà chết được hả mình?
Rồi chàng lại lẩm bẩm mọt mình:
− “Ừ, đập đầu... Đập đầu... Khó lòng!”.
− Mình lại nói lảm nhảm gì thế?
− Không có gì. À, mà câu chuyện của mình như thế nào, nói cho anh nghe được
chưa?
− Chỉ tại mình cả đấy!
− Dạ vâng, thì tại anh. Vậy mình thuật lại cho anh nghe đi.
− Lúc bấy giờ em thấy mình... ghê quá! Em nghĩ tới cái chén thuốc độc mà đến bây
giờ hãy còn run sợ. Nhưng thôi mình ạ! Chuyện đã qua rồi đừng bắt em nhắc lại nữa.
Mình vào giường nằm nghỉ một lát đi rồi ăn cơm. Em đi làm cơm bây giờ đây. Em
mua được mớ cá rô béo quá mình ạ! Lúc em ở nhà anh Văn về...
Minh bỗng ngắt lời:
− Mình lên nhà anh Văn làm gì vậy?
− Thì em sợ quá chẳng kịp nghĩ ngợi gì, chẳng còn biết xoay sở ra sao nên chỉ
còn biết một cách là tìm anh Văn để nhờ anh ấy đến đây khuyên can mình hộ.
− Thế hả? Nhưng anh ấy không đến có phải không?
− Nào em có gặp anh ấy đâu! Hôm qua anh ấy bảo chúng mình rằng anh ấy ở phố Cửa
Đông số 510. Đến nơi em đã toan không vào vì cái nhà ấy to và đẹp, có vườn đẹp
lắm, chẳng khác như là một căn biệt-thự ấy. Sau em liều gọi thì một ông cụ đang
đứng tỉa cành cây từ từ đi ra. Em hỏi đến anh Văn thì ông giả nhời rằng: “Không
biết! Đi đi!”. Sau đó ông ta lẩm bẩm nói một mình rồi trở vào trong nhà.
Minh cau mày, ra vẻ không bằng lòng, dửng dưng nói:
− Thì ai bảo mình đến!
− Tại mình đấy! Ai bảo làm em kinh hãi làm gì? Nhưng chắc đó không phải là nhà
anh Văn đâu mình ạ.
− Còn anh thì anh nghĩ chắc là phải. Nếu không phải thì khi nào ông cụ lại đuổi
mình một cách tàn nhẫn, sỗ sàng đến thế!
Liên ngơ ngác, vẫn không hiểu gì:
− Mình nói thế có nghĩa là sao?
− Vì ông cho là mình là... ông ta tưởng mình là nhân tình anh Văn chứ còn gì nữa!
Liên vừa giận vừa xấu hổ, nước mắt chảy ràn rụa đứng nhìn chồng tức tối. Nàng
biết Minh có tính hay ghen, và từ khi bị thong manh, cái tính ấy lại càng bộc
phát thêm dữ dội, nhiều lúc đến mức quá đáng. Nhưng thật ra lần này nàng đã hiểu
lầm chồng. Minh phân-tích chuyện này rất là bình tĩnh và sáng suốt với cả tấm
lòng ngay thẳng. Nhưng Liên lại cho đó là vì ghen tuông, và câu nói của chồng
thật là hết sức tàn nhẫn.
Thật vậy, Minh không còn ghen nữa. Câu nói của chàng hoàn toàn vô tư, nghĩ sao
nói vậy. Trước kia, những lúc ngờ vực vợ mình, chàng chỉ chôn sâu trong lòng nhữn
ý tưởng chua chát mà thôi. Cùng lắm, chàng chỉ khe khẽ chép miệng hay thở dài nếu
không hỏi những lời quanh co vớ vẩn để dò la ý tứ.
Trong khi Liên sụt sùi đứng khóc thì Minh vẫn tươi tỉnh ngồi yên. Chàng vẫn cho
là Liên khóc vì sợ chàng tự tử chứ có ngờ đâu là câu nói của chàng vừa thốt ra
bị hiểu lầm tai hại.
Liếc nhìn ra cổng, Liên thấy bóng dáng Văn đang dựng xe đạp. Nàng vội vàng xua
tay, ra dấu bảo Văn đừng vào. Sau đó nàng mới chạy ra lắc đầu nhìn Văn buồn rầu,
tâm sự:
− Nhà tôi làm tôi khở sở quá anh ạ!
− Sao, có chuyện gì vậy hả chị?
− Anh nói khẽ chứ, đừng để cho nhà tôi nghe thấy.
Minh nghiêm-nghị, dùng âm-thanh cho hai người vừa đủ nghe:
− Tôi vẫn không hiểu chuyện gì. Chị làm tôi lo sợ quá. Tôi vừa ở trường về đến
nghe cậu tôi nói có một người đàn bà đến muốn gặp tôi. Tôi biết ngay là chị nên
vội vàng phóng xe đến đây.
− Vậy ra ông cụ là cậu anh đấy à?
− Vâng, sao chị?
− Không có gì cả.
− Nhưng hình như là có việc gì nghiêm-trọng lắm phải không chị?
Liên mếu máo thuât lại câu chuyện Minh định tự tử. Văn đứng nghe mà xúc động,
luôn mồm nhắc câu: “Rõ khổ quá!”. Đợi Liên kể xong, chàng toan vào nhà cự bạn
thì Liên lại gạt đi mà rằng:
− Anh đừng vào vội.
Văn chẳng hiểu ất giáp gì bèn hỏi:
− Sao vậy?
Liên thẹn thùng cúi mặt, ấp a ấp úng:
− Vì... vì... nhà tôi tệ quá anh ạ! Nhà tôi đổ đốn... sinh ghen...
Văn gãi đầu lập lại:
− Ghen?
Liên càng thêm bẽn lẽn:
− Vâng, nhà tôi... ghen...
Văn hiểu ngay ý Liên nói là Mình ghen với mình mặc dù nàng không tài nào nói hết
câu được. Trong lòng Văn vô cùng phức-tạp. Phần thì thương hại kẻ mù vì quá yêu
vợ mà hóa ghen, phần thì giận bạn bè dám nghi ngờ lòng ngay thẳng của mình... Văn
đã quyết định không thể để chuyện này đi xa thêm nữa nên chẳng cần đắn đo suy
nghĩ gì thêm liền rảo bước đi vào trong, định bụng sẽ cho Minh một ‘bài học’.
Thấy Minh vẫn thản nhiên ngồi mỉm cười như không có chuyện gì xảy ra, Văn lấy
làm lạ. Trong một giây phút thoáng qua, chàng tự hỏi không biết bạn mình có bị
loạn trí hay không. Văn ôn tồn lịch-sự chào hỏi. Minh cũng vui mừng reo lên:
− Anh Văn đến chơi đấy hả? Có phải nhà tôi mời anh lại đó không?
Câu hỏi của Minh rất tự nhiên, không chút ẩn ý. Nhưng có lẽ vì những lời bày tỏ
khi nãy của Liên sẵn gây cho Văn một ấn-tượng không mấy gì tốt đẹp với Minh nên
chàng đâm ra nhột nhạt, ngỡ là bạn ghen với mình thật. Văn khẽ cau mày, nhưng cố
gắng điềm tĩnh đáp:
− Vâng, chị có đến. Nhưng lúc bấy giờ tôi còn ở trường chưa về.
Minh cười nói:
− Thế cái ông cụ ở nhà anh là ai vậy?
− Là cậu ruột của tôi đấy anh ạ. Sao?
Minh vẫn cười vui vẻ tự nhiên, thật thà bảo bạn:
− Thấy nhà tôi, có lẽ cụ tưởng là nhân tình của anh nên đuổi đi.
Văn chợt gắt lên:
− Ai bảo anh thế? Chỉ nói nhảm!
− Thực đấy mà. Tôi đoán không có sai đâu.
Minh phá lên cười, cho là Văn mắc cỡ. Chàng cố đùa thêm một câu:
− Với lại nhà tôi trông cũng đâu có tệ lắm. Ai biết được là gái có chồng phải
không?
Dứt lời, Minh cất tiếng cười vang cả nhà. Có ai ngờ được đây là con người định
tự tử một giờ đồng hồ trước. Tiếng cười của chàng nghe rất thoải mái cho bất cứ
một người ngoại cuộc nào nghe thấy. Nhưng đối với Văn hiện tại, mỗi tiếng cười
của Minh là một tiếng trách móc, xỉa xói châm biếm vì cay cú. Văn chép miệng, lắc
đầu nói:
− Anh Minh ơi, anh tệ lắm anh biết không?
Minh dù nghe rõ, nhưng giả vờ hỏi lại:
− Sao? Anh nói sao tôi không được hiểu!
Văn cho là bạn tìm cách chế nhạo mình nên càng giận:
− Tôi bảo là anh tệ lắm! Anh không tốt chút nào cả, nghe rõ chưa? Nếu có điều
gì uất ức hay bực tức thì sao anh không nói cho vợ anh, cho bạn anh biết mà cứ
để bụng như thế! Thật anh làm tôi buồn quá, thất vọng quá!
Minh vẫn cười, phân trần:
− Nhưng tôi có gì mà không tốt? Tôi có bực tức ai đâu? Có uất ức điều gì đâu? Tại
sao anh lại kết án tôi như vậy?
Thấy bạn như vẫn ra chiều ngoan cố không chịu phục thiện, Văn nóng giận lớn tiếng:
− Như thế thì anh lại càng không tốt, vì anh thiếu thành thật! Anh bảo anh
không có gì uất ức hay bực tức, vậy thì tôi hỏi anh vì cớ gì mà anh định uống
thuốc độc tự vẫn?
Tiếng cười của Minh bỗng im bặt. Mặt chàng trở nên nghiêm-trang hơn, ngồi ngẵm
nghĩ một hồi. Thu hết bình tĩnh, chàng chậm rãi phân bày bằng một giọng chững-chạc,
không cợt nhả hay xiên xỏ:
− Uất ức và bực tức là một chuyện. Tự tử là chuyện thứ hai. Xin anh phân-biệt
hai chuyện cho rõ ràng, đừng lầm lẫm. Tôi định chết thật, song đó hoàn toàn
không phải là vì uất ức hay bực tức.
Văn nghe nói cáu tiết gắt lên:
− Vậy thế thì vì lẽ gì? Anh nói đi!
Minh cần phải nghĩ ngợi, Minh đáp ngay:
− Vì lẽ tôi thương Liên, và tôi thương anh...
Minh chưa nói hết câu Liên đã chạy vội đến gần, ghé tai chàng nói thầm:
− Mình có im ngay không! Lại sắp sửa nói nhảm nữa rồi! Anh Văn anh ấy cười chết!
Chẳng chút lưu ý đến lời nói của vợ, Minh dõng-dạc nói tiếp từng lời. Giọng
chàng mạnh bạo, đầy cương nghị chẳng khác nào một luật-sư trước tòa án:
− Tôi thương Liên là vì Liên có làm gì nên tội mà phải uổng phí mất một đời
xuân xanh, làm vợ một thằng mù. Tôi thương anh là vì anh hết lòng vì bạn, bỏ hết
cả thì-giờ học-hành để trông nom an ủi một tên tàn tật chỉ có ăn hại. Cả hai
người phải đã hy-sinh quá nhiều cho tôi. Mà sự hy-sinh đó có mang lại được kết
quả gì? Sẽ mang lại kết quả gì cho bõ? Đúng! Đã có một thời tôi chướng, tôi
ghen, không nên không phải với cả anh và Liên. Nhưng sau đó tôi đã nhiều lần ăn
năn hối hận tự trách mình. Và khi quyết định tự tử lần này, lòng tôi sung sướng
và thoải mái bình yên hơn bao giờ hết. Những gì tôi vừa nói là sự thật. Anh tin
cũng được, mà không tin cũng xong. Tôi không còn biết phải nói gì hơn!
Liên vẫn khóc sụt sùi. Văn sau cũng đã hiểu rõ mọi chuyện. Chàng mười phầm
thương cảm, nhưng cũng tức giận vô cùng. Thương cảm vì hoàn cảnh của bạn, và vì
hiểu rõ lòng thành của bạn. Tức giận là vì bạn mình không chịu nghe mình, không
coi trọng tình bằng hữu của mình, ít nhất là theo định-nghĩa của chàng.
− Vậy ra chỉ vì có thế mà anh định tự tử đấy?
− Vâng. Chỉ có thế thôi.
− Anh có thể thề danh-dự với tôi được không?
− Tôi xin thề ngay. Nhưng..
− Ừ, có thế chứ. Lẽ gì nữa thế anh?
− Phải, còn một lẽ nữa nhưng tôi không tiện nói. Cái lẽ ấy đáng lý ra tôi định
viết cho anh trong bức thư thì nhà tôi làm lỡ hết việc của tôi...
Nghe Minh nói đến đây, Văn thoáng hiểu. Chàng quyết định phải chặn Minh lại chứ
không thể để nói hết cái điều trắng trợn kia nên nghĩ phải tìm cách ngắt lời.
Văn dằn từng tiếng, cố nói thật lớn để che đậy sự xúc động của mình, và cũng để
đánh lạc hướng Minh:
− Anh là một người tàn ác, vừa là một người hèn nhát nữa, anh biết chưa? Người
ta ngăn không để anh chết mà anh lại bảo là làm lỡ việc của anh! Không phải tôi
muốn đem những lời đạo đức suông để giảng giải phân trần cùng anh. Đã bao nhiêu
lần, tôi nhắc đi nhắc lại rằng bệnh anh sớm muộn gì cũng khỏi, cũng chữa được.
Thế nhưng anh có bao giờ chịu tin tôi, chịu nghe tôi đâu! Mà cho dẫu nếu anh có
bị mù thật đi chăng nữa, anh cũng không nên trốn nợ đời một cách ích-kỷ như thế
kia! Anh còn nhớ có một lần anh nói chuyện với một nhà điêu khắc mù tại
hàn-lâm-viện mỹ-thuật không? Ông ta chỉ sờ thôi mà biết tất cả. Đấy, anh coi...
Minh chợt cười, nói đùa cho bớt không khí căng thẳng:
− Anh chỉ khéo nói đùa, tôi ‘coi’ thế nào được!
Chính Văn cũng phải cố gắng lắm mới nhịn được cười. Chàng ngừng lại vài giây rồi
nói tiếp:
− Rõ anh trẻ con quá! Không phải tôi nhắc lại câu chuyện này để an ủi anh đâu
vì tôi đã biết thế nào anh cũng khỏi. Ý tôi muốn nói đây là khi nào ta còn hữu
ích cho xã-hội, cho đời, ta còn phải sống!
− Nhưng nếu như tôi không làm ích gì được cho xã-hội và cho đời nữa thì anh bảo
sao?
− Ấy là tại anh không muốn đó thôi. Chẳng nói đâu xa, chỉ nội chuyện anh yêu vợ
anh, vợ anh yêu anh cũng đủ là một lý-do để anh phải sống rồi đó!
Minh nghe nói bỗng phì cười:
− Nhưng đó có phải là hữu ích cho đời không, thưa anh?
− Đó là bổn phận. Nếu có chu toàn được bổn phận với vợ con, với gia-đình thì mới
có thể đóng góp được cho đời sau. Nhưng nếu anh cho là bổn phận suông chưa đủ
mà muốn giúp ích cho đời thì cũng chẳng khó. Ai cấm anh soạn sách và viết truyện?
Kìa, chưa gì tôi đã trông thấy anh cười mỉm chi rồi đó. Chắc anh cho là mù
không thể viết được phải không? Nhưng tư-tưởng nằm trong óc chứ có nằm trong mắt
đâu? Chẳng lẽ phải cần có mắt mới viết ra được tư tưởng? Sao anh không bắt chước
kịch-sĩ Racine mà soạn văn sẵn trong óc trước đi, rồi đọc để chị ấy viết ra giấy
cho. Hình như tôi cũng lý-sự với anh nhiều quá rồi! Mà tôi là người rất ghét
lý-sự, như anh đã biết. Tôi chỉ xin anh nghĩ tới câu này: “Nếu ta còn có thể
giúp ích cho đời được, dù chỉ là một lợi ích cỏn con mặc lòng thì ta không
không được phép tự hủy thân thể của ta đi”. Vả lại, xin thú thật với anh, tôi
thường đem mỹ-thuật ra bình phẩm các hành động của người đời. Việc gì ta làm mà
không có mỹ-thuật thì bao giờ cũng đáng chê, đáng khin bỉ. Và dĩ-nhiên tụ tử
thì không có một chút gì có thể gọi là mỹ-thuật được!
Minh ngồi nghe ra vẻ chú ý nhiều lắm. Khi nghe đến phần bàn đến mỹ-thuật thì
chàng không thể nhịn được cười, liền cãi một cách khôi hài:
− Pétrone tự cắt đứt mạch máu mà chết cũng mỹ-thuật lắm đấy chứ.
− Pétrone bị xử tử chứ có tự tử đâu!
− Nhưng thôi anh ạ. Anh chẳng cần phải bàn đến mỹ-thuật mà làm gì. Nội cái chuyện
viết lách thôi cũng đủ khó khăn, bận rộn lắm rồi. Anh nói thế có phải không
Liên? Em vẫn còn đứng đây chứ?
− Vâng, em vẫn đứng đây.
Minh nói như mơ màng, vẻ tràn trề hy-vọng:
− Vậy trong tương-lai anh nghĩ truyện rồi đọc cho Liên viết nhé, chịu không?
Thấy tinh-thần cuả Minh như đã dần dà lấy lại được thế quân-bình, chịu nghe
theo những lời Văn, Liên mừng quá đáp ngay không do-dự:
− Vâng, nếu thế thì còn gì hay hơn!
Văn cũng vỗ tay tán thành:
− Có thế chứ! Vậy ngay chiều nay bắt đầu viết đi nhé! Còn tôi, tôi sẽ chứng-minh
cho anh thấy là bệnh đau mắt của anh thế nào cũng khỏi.
Văn từ biệt ra về. Chàng cũng không quên dặn Liên cặn kẽ phải túc-trực luôn
luôn bên cạnh Minh chờ đến chiều chàng sẽ trở lại...
Quả y hẹn, Văn đến vào lúc sáu giờ chiều. Đi chung với chàng là một bác-sĩ
nhãn-khoa. Sau khi giới-thiệu, chào hỏi xong xuôi, ông ta bắt đầu khám mắt cho
Minh, và khám rất là kỹ-lưỡng. Ông ta bảo đó là bệnh thong manh, giải-thích tường
tận đâu ra đó cho Minh nghe:
− Ông mắc bệnh cataracte traumatique, chắc là vì ngã và bị vật gì cứng chạm phải
con ngươi. Bệnh này cứ để yên thì dần dà cũng khỏi, nhưng có khi phải đến một,
hai năm trừ khi nó biến thành bệnh thong manh chín là cataracte supramure thì
đành bó tay. Nhưng trường-hợp này rất hiếm, ít khi xảy ra. Nếu chịu mổ thì khỏi
ngay, nhưng sẽ bị cận-thị. Tôi đã phân-tích tất cả những điều lợi hại rồi. Vậy
tùy ý ông đấy. Nếu chấp-nhận bị cận-thị nhưng khỏi ngay thì mổ, bằng không chờ
một hai năm thì cũng tự động sáng mắt lại thôi, trừ khi gặp rủi ro như tôi vừa
đề-cập thì không nói đến.
Nghe bác-sĩ nói xong, Minh sung-sướng mỉm cười chẳng khác nào ‘chết đi sống lại’.
Bây giờ chàng mới tin là mình không phải là người tàn tật nữa. Trong đám mây
đen chợt loé lên một tia sáng hy-vọng. Chàng nhìn thấy được trong tia sáng đó một
con đường tương-lai rực rỡ. Chàng đã nghĩ được một cách kiếm tiền trể trả cho
cuộc giải-phẫu này.
− Bẩm, nếu mổ mắt thì mất hết bao nhiêu tiền, thưa bác-sĩ.
− Độ 100 bạc thôi.
Liên tái mặt, đưa mắt nhìn Văn như muốn nói rằng đó là một món tiền quá lớn mà
nàng khôn thể nào có nổi. Nhưng Minh trái lại, tươi hẳn nét mặt, đảo mắt khắp
nơi như mong tìm được đúng chỗ người ‘bác-sĩ cứu tinh’ để tỏ rõ lòng biết ơn.
− Thật không, thưa bác-sĩ? Chỉ có 100 thôi? Chỉ mất có 100 để có lại ánh sáng
và một tương-lai đầy hứa hẹn? Muôn vàn cảm tạ bác-sĩ!
Ông bác-sĩ cười, thân mật bắt lấy tay Minh:
− Thôi, cứ yên tâm nghỉ ngơi đi nhé! Bao giờ muốn mổ tôi sẽ cho xe lại đón đến
bệnh-viện.
Minh bỗng gọi bác-sĩ trở lại nhắc:
− Bẩm, thế còn tiền khám bệnh...
− Thôi, tôi không lấy tiền khám bệnh đâu. Bao giờ mổ hẵng hay.
Sự thật thì tiền khám bệnh Văn đã thanh-toán trước cho bác-sĩ rồi và dặn ông ta
rằng nếu Minh có hỏi đến thì cứ theo sách ấy mà trả lời.
Ngay sáng hôm sau, Minh quyết-định bắt tay ngay vào việc. Nhưng bắt đầu công việc
cũng có nghĩa là bắt đầu nghĩ ngợi, lo lắng không ít. Mặc dù hồi còn đi học Minh
vẫn luôn luôn đứng đầu lớp về môn quốc-văn, nhưng chàng thật sự chưa bao giờ
dám tự tin vào cái tài viết văn của mình. Chàng thường nghe anh em chúng bạn
nói rằng muốn viết chữ quốc-ngữ giỏi thì phải thông thạo Hán-văn. Mà Hán-văn
thì ngoài một ít chữ học được từ thân-sinh của chàng ra, chàng nào có được học
thêm bao nhiêu trong những năm đến trường!
Đột nhiên, Minh nhớ lại một vài bài do Liên đọc cho chàng nghe từ báo Văn mua
năm biếu tặng. Chàng vỗ tay đến ‘độp’ một tiếng. Phải, những bài ấy được viết bằng
một lối rất giản-dị, đôi khi có thể nói là mộc mạc nhưng không thiếu ý nghĩa mà
chàng vẫn thầm ca ngợi, cho là hay. Thế là xong bước đầu. Văn đã quyết định chọn
lối văn-chương bình-dân để viết.
Suốt hai tuần lễ, Minh sung sướng như mở cờ. Niềm hy-vọng bấy lâu nay như đánh
mất đã trở lại với tâm hồn chàng. Nếu lúc trước chàng rảnh rỗi trong âu sầu ủ dột
bao nhiêu thì bây giờ chàng bận rộn trong khoan khoái bấy nhiêu. Thấy chồng trở
thành một con người mới, vui vẻ, yêu đời, Liên cũng vui sướng lây. Nàng có biết
đâu là tâm-hồn đi đôi với thể xác tương tự như tinh-thần với vật-chất vậy. Cả
hai cùng phải có và hổ tương cho nhau thì mới có thể quân-bình được cá-nhân
trong đời sống.
Điều quan-trọng nhất đối với Minh là hiện-tại chàng không còn tự cho mình là vô
dụng nữa. Văn đã vạch đường, đã soi sáng cho chàng, và nhắc nhở cho chàng từ bổn
phận làm chồng cho đến bổn phận làm người, cho đến luôn cả bổn phận với chính bản
thân mình... Chàng thấy mình còn giúp ích được cho đời, còn có thể kiếm tiền
nuôi vợ, nuôi thân... Nghĩ tới những ngày sắp tới, Minh lại thấy náo nức. Sẽ
tươi mát hơn, sẽ tốt đẹp hơn những ngày đã qua, chàng chắc chắn như thế. Cũng
như người ta vẫn thường nói: ‘Sau cơn mưa trời lại sáng’.
Bên cạnh cái hy-vọng cũng còn một kẻ thù đáng sợ, đó là sự ngờ vực. Nhiều lúc,
Minh đã nghi ngờ chính mình, cũng như tài sức của mình. Làm được điều mình muốn
làm là một cái vui, một cái hạnh-phúc. Nhưng việc mình làm nếu không đem được một
chút thành quả nào thì bao nhiêu nỗ lực cũng chẳng khác gì như đổ ra sông, ra
biển...
Trong hai tuần, Minh đã gửi đến sáu, bảy bài nhưng vẫn chưa thấy có bài nào của
mình được đăng cả. Kèm theo bài, Minh gửi cả thư cho nhà báo và cũng nhận được
thư phúc đáp cùng những lời hòa nhã, đầy vẻ khuyến khích. Nhưng ngóng mãi mà vẫn
không thấy bài của mình được đăng.
Chàng tự hỏi rằng có phải văn của mình quá kém hay không. Nhưng chàng lại thấy
có điều gì đó phi lý vô cùng. Nhiều bài được báo đăng nói được là ‘quá dở’, hay
‘quá nghèo nàn’. Mặc dù chàng không tự cho mình là giỏi nhưng chàng nhận thấy
rõ ràng là văn của chàng cũng còn khá hơn những bài đó rất nhiều.
Buồn rầu, Minh nghĩ tới nhiều nhà văn đại tài trên khắp thế-giới mà chàng đã được
đọc qua. Trước khi nổi danh, họ đã phải trải qua không biết bao nhiêu là khổ ải.
Có nhiều người đến khi chết rồi thì tác-phẩm, công-trình mới được suy tôn, nhiều
lúc không phải vì mục-đích nghệ-thuật mà là do mục-đích thương-mại! Đời của
văn-sĩ, nhạc-sĩ, thi-sĩ, họa-sĩ..., nói chung là nghệ-sĩ vẫn thường như thế đó!
Đã dấn thân vào con đường này thì phải chấp nhận mà thôi.
Đã mấy lần, Minh định ‘bẻ bút’. Chàng thầm nghĩ rằng dù mình có lòng, có tâm-hồn
với văn-chương nhưng có lẽ là thiếu khả năng. Nhưng cứ mỗi lần Minh nêu lên ý định
bỏ cuộc, Liên đều khuyên rằng:
− Những chuyện anh viết em thấy hay lắm, và chính anh Văn cũng phải phục. Sớm
muộn gì thì rồi cũng sẽ được đăng, anh cứ vững lòng chờ đợi.
Nói thì nói vậy, nhưng thật ra chính nàng cũng thấy hy-vọng rất là mong manh vì
đã lâu ngày rồi mà vẫn không có tin-tức gì về những bài Minh đọc cho nàng viết
mà chàng có một tư tưởng hết sức là âu yếm khi ký tên tác-giả là: Minh và Liên.
Chiều hôm ấy Minh đang buồn rầu suy nghĩ. Tay chàng cầm tờ báo trên tay hết gập
ra lại gập vào, chỉ mong sao cho Liên bán hoa xong về sớm. Vừa nghe tiếng vợ ở sân,
chàng đã lên tiếng gọi vào và đưa báo. Mọi lần, Liên chưa kịp đọc thì Minh đã
náo-nức hỏi ngay xem bài của mình có được đăng chưa. Nhưng có lẽ thất vọng đã
nhiều cho nên hôm nay chàng không buồn hỏi nữa, chỉ hồi hộp ngồi chờ.
Xem chừng Liên cũng thấu hiểu tâm-sự của Minh. Nhìn vẻ bi-quan lộ ra trên nét mặt
chồng, nàng đem lòng thương hại. Trong cơn lo-lắng, nàng bỗng nhớ lại chén thuốc
độc bữa nọ mà rùng mình.
− Có chuyện gì hay đọc cho anh nghe với.
Liên giật mình. Nàng hiểu câu ấy có nghĩa là:
− Có bài của anh đăng trên báo không?
Liên khựng lại một giây, bỗng nàng nàng chợt nghĩ được một kế liền giả giọng mừng
rỡ reo lên:
− Ồ! Bài ‘Cảm Tưởng Của Một Người Mù’ của mình được đăng trên trang đầu này!
Minh luống cuống ngồi bật dậy, tay quờ quạng tươi ngay nét mặt. Trông chàng chẳng
khác gì một đứa con nít đang đòi quà.
− Đâu? Đâu mình?
− Thì mình cứ ngồi đấy để em đọc cho mà nghe.
Liên nhẹ tay mở ngăn kéo ra, lấy bản viết nháp của bài văn nàng vừa đề-cập đến
đặt lên tờ báo và nhìn vào đó thong thả đọc. Minh để hết tinh-thần, nín thở
nghe vợ đọc từ đầu đến cuối. Chàng vui mừng hớn hở, vô cùng đắc ý nói:
− Không thiếu một chữ! Họ đăng nguyên-văn không sửa một chữ mình ạ!
− Thì văn của mình đã viết ra thì còn ai có đủ tư-cách để mà sửa?
Minh sung-sướng, mặt đỏ bừng bảo vợ:
− Mình khen anh thì thật là đúng lắm.
Và chàng cao hứng cất tiếng cười vang nhà. Vừa vặn lúc ấy Văn đến chơi. Nghe bạn
cười ròn rã của Minh bèn cất tiếng hỏi:
− Có chuyện gì mà vui thế?
Nghe bạn hỏi, Minh hãnh-diện khoe:
− Anh Văn đấy à? Họ đăng bài của tôi anh ạ!
Văn vui mừng chạy lại đỡ lấy tờ báo trong tay Liên:
− Ồ, hay quá nhỉ! Đâu?
Liên lắc đầu, xua tay ra hiệu cho Văn rồi mới nói:
− Đây.
Nàng vừa nói vừa đưa cho Văn bản viết nháp nàng đang cầm trong tay. Văn đứng lẩm
nhẩm đọc, thương hại cho bạn đồng thời cảm động về cách lừa dối thông-minh của
Liên. Sự lừa dối này do lòng trắc ẩn mà có, nhưng cũng đựng đầy tình thương
trong đó. Minh hỏi:
− Anh đọc hết bài chưa?
− Vừa xong anh ạ.
− Anh biết không, họ không thêm không bớt một chữ nào của tôi đấy!
− Thế à? Thật anh tài quá!
− Không biết còn tiền nhuận-bút thì sao đây? Họ sẽ gửi cho mình hay là mình phải
đến tận nhà báo mà lãnh?
− Anh cứ để việc ấy cho tôi. Tôi sẽ đến lãnh hộ cho anh.
− Nhưng liệu người ta có chịu giao tiền cho anh không mới được chứ?
− Điều đó không hề gì. Tôi quen với chủ báo mà.
− Thế thì thật là may mắn cho tôi.
Đứng nghe cuộc đối-thoại giữa chồng mình với bạn mà Liên cảm thấy lo lắng, bẽ
bàng. Nàng không hiểu vì sao đã biết là một chuyện không có mà Văn còn dám hứa
đi ‘lãnh’ tiền nhuận-bút cho chồng! Mà Văn sau đó từ giã hai vợ chồng nói chàng
lên thẳng nhà báo.
Một tiếng đồng hồ sau khi Liên và Minh vừa ăn cơm xong, thì trời đã nhá nhem tối.
Văn trở lại đưa cho Minh ba đồng bạc và nói:
− Tiền đây rồi. Họ nói lần đầu anh tạm nhận số tiền nhỏ tượng-trưng này.
Tương-lai họ sẽ trả hậu hĩnh hơn.
Minh cầm ba tờ giấy bạc mà tay run lẩy bẩy. Chàng vui sướng quá, không sao nói
lên được lời nào cả. Đây là lần đầu tiên trong đời chàng làm được ra tiền. Thật
mỉa mai thay, chàng lại bắt đầu kiếm tiền trong lúc bị mù lòa. Ứa hai hàng lệ,
Minh bảo Liên:
− Ba đồng bạc là kỷ-niệm quý nhất đời anh. Sau này, dẫu anh có kiếm được bạc
trăm, bạc nghìn cũng không sao sung sướng bằng. Vậy mình hãy bỏ nó vào một
phong bì dán lại, bên ngoài đề ba chữ ‘Tiền mổ mắ’.
Rồi chàng cất tiếng cười ha hả. Văn thấy thế cũng vui lây, cười theo. Hai người
đều vui, mặc dù hai cái vui hoàn toàn khác nhau. Chỉ có một mình Liên là buồn.
Nàng đứng yên cúi mặt trầm tư không nói năng gì cả. Nàng thừa biết số tiền ấy ở
đâu ra. Ở trên đời làm gì có chuyện không có bài đang mà được lãnh tiền nhuận-bút
bao giờ!
Chiều hôm sau, khi bán hoa trở về, Liên chợt thở dốc. Không phải là vì nàng mệt,
mà vì nàng không biết sẽ phải trả lời sao khi Minh hỏi thăm đến bài vở đăng
trên báo. Về việc ‘bổn cũ soạn lại’ nói dối cho chồng vui thì thật quá dễ dàng.
Nhưng nghĩ đến Văn thì nàng trở nên ái ngại, thấy mình không nên không phải
chút nào cả. Nàng không thể để cho Văn làm thế nữa, dù chỉ là một lần!
Chuyện gì đến rồi vẫn phải đến. Muốn né tránh cũng không được. Liên đành để mặc
cho sự việc đưa đẩy, tới đâu thì tới. Nàng uể oải cầm tờ báo ‘Đời nay’ lên để
chuẩn-bị đọc cho chồng nghe như mọi ngày. Trước sự kinh-ngạc của Liên, ở ngay
trang nhất là bài viết mang tựa-đề: ‘Những Giấc Mộng Của Một Người Mù’, phía dưới
ký tên là Minh và Liên. Nàng sung-sướng đến nỗi ngây cả người ra, đánh rơi tờ
báo lúc nào mà không biết. Liên nghĩ thầm:
− “Mình đang lo ngại có nên nói dối lần thứ hai nữa hay không! Nếu biết thế này
thì hôm qua bịa đặt chuyện đăng báo làm gì cho khổ anh Văn!”.
− Thế nào mình? Báo hôm nay có đăng bài của anh hay không?
Liên như người vừa tỉnh mộng. Nàng cúi xuống nhặt tờ báo lên, hí-hửng mà rằng:
− Có mình ạ. Hôm nay họ bắt đầu đăng bài ‘Những Giấc Mộng Của Người Mù’ kia!
Minh thở phào nhẹ nhõm. Chàng nuốt nước bọt, giọng tự hào nói với vợ:
− Ừ! Anh biết thế nào họ cũng đăng mà! Bài này còn dài lắm. Anh sẽ bỏ hết tâm hồn
vào để viết.
Nếu Liên và Minh mà biết được những gì xảy ra tại tòa soạn của tờ báo ‘Đời Nay’
thì có lẽ Liên không phải kinh-ngạc, và Minh chắc chắn kh6ng dám tự-phụ. Thì ra
chiều hôm đó khi nói rằng lên thẳng nhà báo để đòi tiền ‘nhuận bút’ cho bạn,
Văn khẩn khoản thỉnh cầu ông chủ-nhiệm đăng những bài của Minh. Ông ta trả lời
một cách lưỡng-lự như sau:
− Nhưng bài ấy tuy hay thật, nhưng sở dĩ tôi không đăng là vì sợ không hợp với
sở thích của đại đa số độc-giả. Vả lại bạn ông cũng là tay mới ra nghề trong
làng báo chưa ai biết tiếng nên sợ có ảnh-hưởng phần nào đến việc thương-mại.
Dĩ-nhiên tờ báo nào cũng vậy. Số lượng lưu-hành phải đến một mức độ nào tương-đối
gọi là khá thì mới có thể trường tồn được.
Nhưng Văn vẫn cố nài nỉ, nằng nặc xin ông ta đăng thử. Thấy Văn không đả động
gì đến tiền nhuận-bút, ông bèn mỉm cười ra chiều thuận ý chiều chuộng một độc-giả
đắc-lực đã mua báo năm cho mình.
Nhưng khi bài ‘Những Giấc Mộng Của Một Người Mù’ đăng được ba kỳ thì số báo bán
được tăng lên một cách khủng khiếp, làm chấn động thành-phố Hà-Nội. Văn đi đâu
cũng nghe bàn tán xôn xao về những bài viết của Minh, bạn chàng. Ai cũng tỏ ý
hoan nghênh những tư-tưởng rất mới mẻ và thành thật của một người mù. Có nhiều
người hỏi Văn có biết tác-giả là ai không thì chàng chỉ cười, lắc đầu mà ‘giữ
kín bí-mật’. Có rất nhiều câu chuyện rất ngộ nghĩnh, hoặc được bịa, hoặc do sự
suy đoán của độc-giả được đồn ra khắp nơi về cuộc đời của tác-giả khiến cho
dư-luận càng thêm sôi nổi. Mà một khi dư-luận càng sôi nổi bao nhiêu thì báo
bán càng chạy bấy nhiêu.
Văn phóng xe đến nhà Minh thuật lại những tin đáng mừng cho bạn, những gì chính
chàng được ‘mắt thấy tai nghe’. Gặp lúc Minh đang đọc cho Liên viết đoạn kế tiếp,
Văn kêu lớn:
− Cứ để thong thả rồi hẵng viết, sẽ còn nhiều chuyện thú-vị lắm.
Minh cười, vui vẻ trả lời:
− Thong thả thế nào được! Tôi vừa nhận được thư của tòa soạn giục viết tiếp cho
ra kịp số ngày mai. Trong phong bì có gửi kèm theo đến chín đồng bạc đấy anh!
Văn cười lớn, gạt đi:
− Nếu thế thì lại càng nên từ tốn, thong thả.
− Sao vậy?
Minh liền giải-thích:
− Vì ba bài viết của anh đáng giá ít nhất là 30 bạc mà chỉ trả có 9 đồng thì viết
làm gì!
Liên nghe vậy bèn ‘can’ Văn rằng:
− Mỗi một kỳ họ chỉ có đăng có vài bài thôi thì tôi nghĩ cái giá ba đồng một
bài cũng là hậu lắm rồi. Nếu mình còn làm cao thì coi chừng ‘già néo đứt giây’
đó! Không nên anh ạ!
− Không phải là tôi làm cao đâu. Nếu anh chị mà nghe được những sự kiện như tôi
đã chứng kiến thì anh chị sẽ tin là tôi không ngoa một chút nào cả. Mà anh Minh
có biết rằng họ ca tụng anh đến cỡ nào không?
Minh hớn hở bảo bạn:
− Họ ca tụng thì lại càng nên viết lắm chứ!
− Đành rằng thế. Nhưng bên cạnh cái tiếng tăm lừng lẫy kia cũng phải kiếm được
chút đỉnh gọi là mới được chứ. Anh đừng quên rằng anh phải cần tiền khá nhiều để
mổ mắt đấy nhé, vì anh vẫn khăng khăng nhất định không cho tôi giúp một cái gì
cả.
Minh suy ngẫm vài giây rồi hỏi Văn:
− Thế thì anh bảo tôi nên làm gì bây giờ?
− Cái đó đã có tôi. Anh cứ vững lòng tin nơi tôi. Tôi sẽ không để cho anh thiệt
thòi đâu.
Minh ngần ngại vì chưa hiểu rõ ý định của Văn:
− Nhưng anh... anh có chủ ý gì vậy?
− Tôi chẳng cần phải nói xa xôi gì hết. Chốc nữa tôi đến bảo với chủ-nhiệm tờ
báo rằng vì anh mù nên không viết được, phải thuê một người thư-ký viết hộ. Như
thế, tốn kém thật không phải là ít. Tôi sẽ ‘hù’ ông ta rằng nếu không được ít
nhất 6 đồng một kỳ thì anh đành xin thôi chứ không thể viết tiếp được nữa.
Liên phá lên cười nắc nẻ:
− Vậy thì ra tôi là viên thư-ký của nhà tôi đấy phải không anh Văn.
Minh cười, đỡ lời bạn:
− Hẳn chứ lị.
Liên tủm tỉm cười:
− Nhưng thư-ký gì mà chữ xấu như quỷ ấy!
− Nói chi đâu xa. Hầu hết các văn-sĩ chữ đều như ‘gà bới’ cả, Liên ạ.
Rồi chàng lại nói với Văn:
− Dẫu sao thì anh cũng cứ để cho tôi đọc cho nhà tôi viết nốt cái đã.
Chợt nhớ ra Văn khoe có nhiều người tán tụng mình. Minh tò mò muốn biết xem người
ta nói gì về mình liền hỏi:
− Nhưng mà họ bình-phẩm những bài của tôi ra sao vậy anh?
Liên cười, xen lời đùa giỡn:
− Của CHÚNG TÔI mới phải chứ!
Minh bật cười đáp:
− Ừ phải, của CHÚNG TÔI. Họ phê-bình như thế nào vậy anh?
Văn đáp ngay chẳn cần nghĩ ngợi:
− Họ đều khen là hay. Họ còn nói anh có tâm hồn thi-sĩ, văn anh viết rất là cảm
động.
− Có thế thôi?
Văn cười:
− Anh còn muốn gì nữa? À, có một cô... nhưng thôi, chẳng nên nói! Chị giận chết!
Đôi má của Liên chợt đỏ hây. Nàng có chiều hơi bẽn lẽn:
− Anh cứ kể, tôi không giận đâu. Người ta khen nhà tôi thì đó là điều tốt, sao
tôi lại giận?
− Vậy thì được lắm, tôi xin nói. Có một cô rất là đẹp gái và giàu có cứ hỏi tôi
có quen anh không, và có phải là anh mù thật không. Tôi tình thực nói cho cô ta
biết rằng anh mắc bệnh thong manh nên mới viết văn để kiếm tiền mổ mắt thì cô ấy
nhanh nhẩu bảo tôi phí tổn hết bao nhiêu cô ta sẵn sàng xuất tiền ra giúp anh.
Sợ Liên ít nhiều cũng ghen tuông đôi chút nên Minh âu yếm nói một câu như để lấy
lòng vợ:
− Sao anh không nói phăng cho cô ta biết rằng tôi đã có vợ rồi, và tôi rất yêu
vợ tôi.
Liên mỉm cười vì sung-sướng, nhưng không khỏi có chút e thẹn:
− Mình chỉ được cái nói nhăng nói cuội. Không sợ anh Văn anh ấy cười cho!
Quay sang Văn, nàng ân cần hỏi han:
− Anh xơi cơm chưa?
− Chưa chị ạ. Nhưng tôi phải đến tòa soạn của nhà báo để điều đình về việc đăng
bài viết đã.
Minh hết sức cảm động nói:
− Anh tử tế với chúng tôi quá. Tôi biết lấy gì để đáp lại tấm lòng quý báu của
anh cho xứng đáng đây!
Văn thấy vậy vội gạt đi:
− Anh hay lôi thôi lắm! Thôu, chào anh chị. Mai tôi sẽ đến sớm để báo tin mừng,
yên chí đi.
Văn từ biệt ra về. Trời đã tối. Đêm đã xuống dần. Liên đi thắp đèn rồi lấy giấy
bút ra ngồi sát bên chồng. Minh bắt đầu đọc cho vợ chép...
Chương 8
TRONG VƯỜN BÁCH THẢO
Một buổi trưa mùa đông ấm-áp và khô ráo. Minh và Liên ngồi
phơi nắng trên một chiếc ghế dài trong vườn Bách-Thảo. Để thêm tài-liệu soạn-thảo
cho truyện và hồi-ký đang viết dở dang, Minh cần tả nhiều cảnh trong vườn
Bách-Thảo. Vì thế chàng nhờ Liên đưa đến đây vài lần; thứ nhất để cùng nhau ôn
lại kỷ-niệm thời thơ-ấu; đồng thời cũng là để có thêm đề-tài mà viết.
− Hôm nay hình như vườn Bách-Thảo vắng lắm phải không?
− Sao mình biết?
− Anh đoán.
− Thế thì mình đoán đúng đấy. Có lẽ vì mình tính rằng trời rét thì ai lại ra
đây làm gì đó phải không?
Minh cười:
− Thế chúng ta chẳng ra đây là gì? Nhưng chẳng qua là một công hai chuyện, vừa
để nhớ lại thời xa xưa, vừa là để làm việc. Mình có mang theo giấy bút đầy đủ đấy
chứ?
− Có mình ạ. Nhưng em đề-nghị thế này, mình thử ngẫm xem có lý hay không nhé.
Món tiền mình để dành được cũng hơn một trăm rưởi rồi, mà tiền mổ mắt theo lời
bác-sĩ thì chỉ có khoảng một trăm. Vậy sao mình không tạm gác công việc mà nghỉ
ít lâu cho khỏe để chuẩn-bị đi mổ mắt có hơn không?
Nghe vợ nói, Minh ngồi lặng yên suy nghĩ. Từ hôm Văn đến điều-đình thương-lượng
với ông chủ-nhiệm, tiền nhuận bút của Minh được tăng lên một cách đáng kể. Và
trong ba tháng nay, tháng nào chàng cũng kiếm được trên 50 bạc. Nhưng hiện nay
hình như chàng đang mê man theo đuổi một thứ khác mà chàng cho là quan-trọng
hơn, vì tiền chữa bệnh chàng đã dư, không còn phải lo nghĩ đến nữa. Cái thứ ấy,
một khi biến thành sa đọa đưa ta vào tròng còn làm ta mê muội si mê gấp trăm
nghìn lần hơn là tiền tài nữa. Đó là danh vọng.
− Mình mải nghĩ gì mà không chịu trả lời em?
− Mình ạ. Anh nghĩ rằng không biết lúc anh hết mù thì liệu còn viết hay được
như hiện-tại nữa không?
Liên cười:
− Sao mình lẩn thẩn quá! Không trông mà còn viết hay được thì khi sáng mắt tất
viết phải càng hay hơn chứ sao!
− Anh thì không dám chắc như thế. Anh cho là một khi ta được nhìn thấy ngoại vật
thì trí tưởng tượng của ta có phần kém đi. Nhiều khi nghĩ vẩn vơ, anh không còn
muốn đi mổ mắt nữa! Thà là cứ để mặc vậy, bao giờ khỏi thì khỏi, mà dẫu không
khỏi thì cũng chẳng sao nữa!
Liên nghe xong thấy lòng buồn vô hạn. Nàng nhớ có một lần Văn nói ngay mặt Minh
rằng: “Anh biết không, tôi không muốn anh nổi tiếng một tí nào!”. Hồi mới nghe
câu đó, nàng hơi buồn Văn, cho là anh ta phần nào ganh tị với chồng nàng. Mà
chính Minh cũng từng nói với vợ rằng Văn ganh với chàng vì đôi khi nói chuyện,
Văn khuyên răn nhiều câu làm Minh phải nghĩ ngợi nhiều, cho là bạn cố tìm đủ
cách để ‘dìm tài’ mình.
Nhưng mấy hôm nay, nghe Minh tán tụng yêu mến cảnh mù, Liên nghiệm lại thấy lời
nói của Văn rất là chí lý. Nhớ lại mấy tháng trước đây khi Minh cứ một hai đòi
chết cho bằng được vì không chịu đựng nổi cảnh mù mà thấy dở khóc dở cười! Nàng
nghĩ thầm: ”Chẳng lẽ ham danh-vọng đến độ sợ rằng đến khi sáng mắt rồi thì
không viết văn được nữa hay sao?”. Thấy bất nhẫn, nàng buột miệng nói:
− Chà! Không lẽ viết văn hay lại quan-trọng hơn được sáng mắt lại hay sao? Anh
Văn không muốn mình nổi tiếng thật không phải không có lý-do.
Minh nói ra vẻ kinh-ngạc:
− Thế ra mình cũng ganh với anh như anh Văn đó sao?
Liên nghe nói hết sức bực bội, giọng nàng hơi gay gắt:
− Anh nói thế thì còn giời đất nào! Sự thật thì em đồng ý với anh Văn đấy. Em
cũng bắt đầu cảm thấy khó chịu với cái tài của anh rồi đó! Trước kia em yêu mến
nó vì không những nó giúp anh kiếm được tiền để đi mổ mắt mà nó còn cứu vãn được
cả tâm-hồn anh, tạo dựng lại ý chí quyết sống của anh. Nhưng nay thì quá quắt lắm
rồi, cái tài của anh đã trở thành con dao hai lưỡi, thành một thứ thuốc phiện
khiến cho anh nghiện ngập, và thành một ngục tối để giam hãm anh mãi trong cảnh
mù.
Thấy vợ bị xúc động quá mạnh, Minh ít nhiều cũng cảm thấy hối hận. Nghĩ đến cảnh
hiện-tại, chàng tự nhận thấy mình quá ư là ích-kỷ! Lúc mới bị mù, mọi việc nhất
nhất đều phải nhờ đến vợ chăm sóc. Chàng vì thương vợ nên đâm ra buồn bực đến độ
không còn muốn sống nữa. Chàng nghĩ rằng chỉ có cái chết của chàng mới giải
thoát được cái khổ tâm, vất vả cho Liên. Lúc đó, chàng coi đó là một điều
hy-sinh. Nhưng nay nghĩ lại thì thật ra nó chỉ là một điều hết sức giả dối, giả
dối đến độ chàng không thể nào ngờ được. Thật ra, lúc đó chàng chỉ muốn giải
thoát cho chính bản thân của mình thôi chứ nào nghĩ đến Liên!
Ngay cả bây giờ, dù Minh tương đối có được đầy đủ về cả hai mặt tinh-thần lẫn vật
chất Liên cũng chưa hết vất vả vì chàng. Không lẽ chàng vì muốn viết văn cho
hay, muốn bay cao lên trên đài danh vọng nên đã biến cảnh mù từ tật-nguyền trở
thành một phương-tiện để thành công. Và những ai phải trả giá cho sự thành công
đó? Phải chăng là Liên, người vợ yêu quý của chàng? Nàng còn phải hầu hạ, trông
nom chàng cho đến bao giờ? Đó là chưa nói đến Văn, người bạn hiếm có mà Minh dẫu
có thắp đuốc đi khắp thế gian này cũng chưa tìm được một người thứ hai.
Minh chợt cất tiếng cười vang lên. Liên lo lắng hỏi:
− Mình sao vậy?
− Anh đang nghĩ tới lòng ích-kỷ và kiêu-hãnh của một đời văn-sĩ.
− Em không hiểu.
− Có gì mà không hiểu! Chỉ cần để ý đến sự thay đổi về tính tình của anh trong
mấy tháng nay là em cũng đủ hiểu lời anh nói đựng ý nghĩa gì rồi. Chẳng qua là
em không chịu nhìn nhận đó thôi!
− Nhưng anh có ích-kỷ và kiêu-hãnh bao giờ đâu?
Minh cười nhạt, nói bằng một cách như thú nhận:
− Anh chỉ biết nghĩ tới anh thôi! Chỉ vì ham thích những lời tán tụng mà quên bẵng
đi mất rằng cái tật nguyền của anh đã và đang làm phiền em biêt chừng nào! Như
thế thì chẳng phải là ích-kỷ thì là gì? Có lẽ cho tới bây giờ thì anh chưa kiêu
hãnh, nhưng biết đâu nếu thiên-hạ cứ tiếp tục ca tụng tâng bốc anh mãi thì
không chừng anh sẽ trở nên vậy đó! Nhiều lúc anh nghĩ đến sự dần dà biến cải
tâm-hồn của bản thân mà anh giật mình. Nhưng nghĩ cho cùng, con người thật nhỏ
bé quá, mình ạ. Nhưng chính cái nhỏ bé đó lại là cái trọng-đại cao quý của nó.
Nếu con người không ‘nhỏ bé’ như thế thì có lẽ sẽ sống hồn nhiên như các thực-vật
vô tri vô thức...
Liên cười ngắt lời chồng:
− Em thật chẳng hiểu mình nói gì!
Nhưng có lẽ Minh đang bị chìm đắm trong những tư tưởng của ‘triết-lý’ nên không
lưu tâm đến lời vợ. Chàng say sưa nói tiếp:
− Thực vậy em ạ. Những gì to tát chỉ là những sự kiêu-hãnh. Mà sự kiêu-hãnh đó
bao giờ cũng xui giục loài người tới những gì xấu xa!
Minh nói như vậy là vì chàng nhớ đến một sự việc mới xảy ra từ tuần trước. Một
sự cám dỗ đối với lòng tự-phụ, háo danh của chàng.
Hôm ấy trong khi Liên vắng nhà đi bán hoa như thường lệ, một thiếu-phụ hình như
đẹp lắm đích thân đến thăm chàng. Cứ nghe lời nói, bộ điệu, giọng cười lả lơi
và lối nói chuyện sành đời của cô ả, Minh đoán chắc rằng nàng là một gái
giang-hồ, có tính tình rất phóng đãng. Nàng cười nói với Minh rằng:
− Đọc văn của anh mà em cảm thấy yêu anh quá anh ạ. Em cứ tưởng là họ bịa ra
câu chuyện anh mù. Nhưng nay được nhìn thấy tận mắt anh mù thật em thấy càng hứng
thú, càng yeu anh nhiều hơn nữa.
Minh luống cuống, bẽn lẽn, ấp úng trả lời:
− Không lẽ cô muốn tôi mù mãi à?
− Không phải thế. Nhưng em thấy anh thành thật thì em yêu đó thôi. Đàn bà chúng
em yêu nhất là hạng người thành thật.
Minh tuy không được nhìn thấy nhan sắc cô kia ra sao nhưng chàng cũng cảm thấy
con tim mình rung động rồi. Từ hôm đó, một khuôn mặt xinh đẹp luôn luôn được
hình dung trong tâm trí của Minh. Nhưng chàng nào chịu hiểu, có biết đâu rằng
cái ‘yêu’ đó chẳng qua chỉ vì phát xuất từ lòng mến mộ tài năng cá-nhân giữa
con người với con người, không hơn không kém. Người đời vẫn thường lầm lẫn cho
đó là ‘yêu’, nhưng sự thật đó chỉ là lòng ái-mộ chứ không phải là ái-tình.
Hôm nay nhân cơ-hội nói đến lòng ích-kỷ và tự-ái mặc cảm của người cầm bút,
chàng chợt nhớ tới câu chuyện ấy kể cho Liên nghe. Chàng nói ra đây một phần
như để tạ lỗi với vợ, một phần như để trút bỏ một cái gì nặng nề đè lên trái
tim mình. Những tưởng Liên ít nhiều sẽ ghen tuông, khó chịu chút đỉnh nhưng trái
lại nàng không những không ghen mà còn làm ra vẻ vui mừng, sung sướng bảo
chàng:
− Làm văn-sĩ thật là thú-vị anh nhỉ! Được nhiều người yêu mình quá! Nhưng giá
mà anh mổ mắt rồi thì có phải được chiêm-ngưỡng nhan sắc cô ta không! Em chắc
là cô ta đẹp lắm.
Minh cười, âu yếm nói:
− Đẹp sao bằng em được!
Vốn dĩ là một câu nói nhiệt tình để khen ngợi, lấy lòng vợ cho vợ được vui,
nhưng Liên khi nghe câu này chợt bỗng dưng lo sợ. Mới hôm qua khi soi gương,
nàng nhận thấy mình hết sức tiều-tụy, hốc hác, xấu hẳn đi rất nhiều. Suốt nửa
năm trời luôn làm việc quá sức, ăn uống kham khổ không đủ chất dinh-dưỡng nên cả
tinh-thần lẫn thể xác của nàng đều sa sút có thể nói được là đến độ thậm tệ. Má
thì hóp lại. Đôi mắt thì lúc nào cũng lừ đừ vì thiếu ngủ. Làn da trắng mát nay
trở nên vàng vọt như người bệnh hoạn. Liên khẽ buông một tiếng thở dài. Minh tưởng
nàng buồn vì mình nên nói lẫy bèn cố gượng cười pha trò cho nàng vui.
− Em buồn vì ghen đó phải không? Thì ai bảo em không luôn luôn ở bên cạnh anh
làm chi?
Liên bật cười chữa thẹn:
− Anh cứ nói thế! Có đời nào em lại đi ghen một cách vô lý như vậy!
Thật ra, chỉ vì nghĩ đến sự suy giảm của dung nhan mình mà Liên đâm ra sợ nên mới
sinh ra chuyện đoán mò nhan sắc của cô gái kia. Rồi nàng nghĩ đến ngày Minh phục
hồi được thị-giác trông thấy nhan sắc của nàng hiện-tại thì lúc đó chàng sẽ xử
trí ra sao? Liệu chàng có còn yêu thương nàng đằm thắm được nữa không?
Nàng đã được đọc nhiều chuyện cổ-tích, nhiều anh nhà quê thi đỗ trạng-nguyên được
vua chiêu mộ làm phò-mã, hay tệ lắm thì cũng lọt vào mắt xanh những người đẹp
con tể-tướng... Những chàng Trạng-Nguyên kia sau đó liền bỏ vợ đi theo tiếng gọi
của danh-vọng giàu sang phú quý. Minh dù sẽ không cưới được công-chúa hay con tể-tướng
như trong cổ-tích, nhưng với tài năng của chàng hiện-tại thì sẽ không thiếu gì
cơ-hội gặp gỡ những người đẹp con nhà giàu. Nàng thầm nghĩ rằng mới một ả
giang-hồ mà đã làm cho chàng suýt nữa phải sa ngã thì thật không phải là chuyện
dễ cho chàng khi nói tới chuyện kềm lòng trước những ‘sắc nước hương trời’ mà
chàng sẽ được tiếp xúc trong tương-lai.
Như đọc được ý nghĩ của Liên, Minh vội ‘trấn an’:
− Liên ạ. Sau khi anh khỏi bệnh, anh sẽ miệt mài tận lực để hết tâm trí vào việc
soạn sách. Nếu gặp may mắn, biết đâu sau này mình sẽ trở nên sang trọng giàu
có. Được như vậy mới xứng đáng đáp lại với tình yêu và sự hy-sinh cao cả của em
dành cho anh.
Liên không để ý đến câu nói thật tình tri ân của Minh vì nàng bận nghĩ đến những
lời lẽ trong nhiều bức thư của các nữ độc-giả gửi cho chàng. Nàng chỉ chọn những
câu chân thật cảm động đọc cho Minh nghe thôi, còn những lời đường mật hoa bướm
thì nàng giấu nhẹm tất cả, không đọc. Mỗi lần gặp những lời lẽ mà nàng cho là cợt
nhả đó, Liên khó chịu thầm nghĩ:
− Quái lạ, sao họ bạo thế nhỉ? Ai đời con gái lại viết thư đi hỏi tuổi đàn ông
bao giờ! Hay là chỉ tại hạng gái quê mùa như mình quá nhút nhát, không ‘ăn theo
thuở, ở theo thời’ đó thôi?
Một phút im lặng trôi qua. Sau cùng, Minh là người phá vỡ bầu không khí nặng nề.
− Liên ạ, chúng ta hãy bắt đầu làm việc đi! Cứ ngồi mà tán gẫu thế này thì chỉ
mất thì-giờ vô ích thôi!
− Vậy anh bảo em phải làm gì bây giờ?
− Anh muốn viết lại, tả lại quãng đời lúc còn học lớp ba và lớp nhì (ngày nay
là lớp 4) trường Yên-Phụ. Bấy giờ em chỉ mới lên tám, lên chín mà thôi. Cứ thứ
năm với chủ nhật là chúng ta cùng nhau nô đùa chung quanh cái hồ này. Anh muốn
biểu lộ được cái tính tình ngây thơ của chúng ta thời đó, và theo thời-gian lớn
lên từ từ biến thành ái-tình. Cuốn truyện anh định viết đây dựa vào chuyện thật
của chúng mình. Cái chủ yếu anh muốn nói lên trong truyện là những tư tưởng chất-phác
và những thú vui giản-dị của tầng lớp bình dân.
Liên vỗ tay tán thành:
− Như thế thì thật là hay lắm. Nhưng mình cứ nghĩ sao viết vậy là được rồi, cần
gì phải có em dính vào!
Minh cười giải thích:
− Đừng quên em là đôi mắt của anh. Em phải giúp anh ‘trông’ và tả lại cho anh.
Những cảnh vật đẹp sẽ làm khung cho cuốn truyện đấy, em hiểu không? Trước kia
anh vẫn thích ngắm cảnh, nhưng chẳng qua là ngắm để mà ngắm đó thôi chứ có ngờ
đâu có ngày cần phải ngắm cảnh để viết truyện và soạn sách. Những vật liệu của
thiên-nhiên sẵn có đó vẫn còn in sâu trong đầu óc của anh, nhưng rất lờ mờ. Nếu
em nhắc lại, tả lại cho anh được phần nào thì anh nhớ lại ngay.
Liên ngại ngùng nói:
− Nhưng em chỉ biết trông thôi chứ nào có biết nói!
Câu trả lời ngây thơ khả-ái của vợ khiến Minh phải bật cười.
− Thì em cứ thử nói đi xem nào!
− Khổ lắm, mình cứ bảo em nói, nhưng mà nói cái gì bây giờ!
− Em trông sao cứ nói vậy. Thí-dụ em đang ngắm vật gì... Em thử tìm một vật
khác để so sánh với nó xem sao, xem nó giống cái gì...
Cực chẳng deã, Liên phải cố nhìn mà nặn ra đề tài:
− Em đang ngắm cây si bên hồ mà ngày xưa còn bé chúng ta thường cùng nhau leo
lên đó ngồi và đùa nghịch. Có một hôm, mình cỡi lên cái đám rễ cong kia và nói
với em rằng mình là ‘ông Đinh Tiên Hoàng cỡi rồng’. Ngày nay nhìn ngắm kỹ thì
nó chẳng giống rồng tí nào cả mình ạ. Cùng lắm, chỉ thấy giống như một đàn rắn
to tướng vươn cồ lên định quấn lấy nhau hay cúi đầu sát cỏ định bò xuống nước.
Minh vui mừng ra mặt nói:
− Mình chép ngay xuống cho anh kẻo chốc nữa về nhà anh lại quên mất.
Liên lại thêm một phen ngơ ngác:
− Mình bảo em chép, mà chép cái gì mới được?
− Thì chép lại những lời em vừa nói đó chứ còn gì nữa!
Liên cứ tưởng là chồng chế riễu mình. Nàng xấu hổ lặng thinh không đáp. Minh lại
hối thúc:
− Mình đã chép chưa? Ấy chính là văn đấy. Các văn hào nổi tiếng cũng chỉ làm
như chúng ta mà thôi. Nhưng sở dĩ họ hơn được chúng ta là ở chỗ họ biết ghi lại,
nói lại những điều họ trông thấy hay hơn chúng ta. Giờ đây em đã biết diễn tả
được, so sánh được những gì em trông thì em đâu có thua kém họ? Chính em cũng
là một văn-sĩ đấy, em biết không? Nếu em thích viết và chịu khó viết thì anh
cam-đoan không thua ai đâu!
Mặc dù lời khen của Minh có lẽ cũng ‘hơi quá đáng’, nhưng Liên nghe vẫn thấy
vui. Nàng sau đó chiều ý chồng, đặt quyển vở lên ghế xong ngồi xuống đất lúi
húi viết. Viết xong nàng lại hỏi:
− Bây giờ thì làm gì nữa đây?
− Em còn trông thấy cái gì nữa? Có trông thấy cây thông lá nhỏ lăn tăn hình
dáng như cái nón nhọn không?
− Có mình ạ. Nhưng em không thấy nó giống cái nón chút nào! Nón gì mà lại dài
thế! Theo mắt em trông thì có lẽ nó giống con thoi hơn.
Minh cau mày nghĩ ngợi:
− Giống con thoi?
− Vâng. Nghĩa là kể cả cái bóng của nó chiếu xuống hồ nước.
Minh vừa kinh-ngạc, vừa mừng rỡ. Chàng reo lên:
− Ồ! Hay thật! Mình có óc nhận xét thật hay! Phải rồi, giống con thoi đấy mình ạ!
Liên bỗng tỏ ra nũng nịu:
− Nhưng bây giờ thì em thấy lạnh quá rồi. Chúng ta về thôi, mình nhé!
− Ừ, mình nói phải đấy! Về đến nhà anh sẽ đọc cho mình viết một đoạn do chính
những ý tưởng của mình vừa gợi ra. Có thể nói đây là chính mình viết đấy. Anh
chỉ sắp xếp từ-ngữ, sửa đổi lại văn-chương lại chút đỉnh cho mình thôi đấy nhé!
Chương 9
ÁNH SÁNG
Hàng năm, cứ vào dịp Xuân về là khắp nơi lòng ai cũng cảm thấy
phấn khởi, vui hẳn lên. Thật sự thì trong chúng ta ai nấy đều già thêm một tuổi,
nhưng hầu hết chúng ta nào có nghĩ thế. Ngược lại, chính chúng ta còn cảm thấy
trẻ lại nữa là đàng khác. Có lẽ vì đất trời giao hòa, đem lại nguồn ấm áp, với
không khí trong lành để thay thế cho cái lạnh lẽo hững hờ của mùa đông.
Ta sung sướng. Ta muốn mọi người ai ai cũng sung sướng như ta. Một khi trái tim
ta cởi mở vì tràn ngập yêu thương, rộng lòng bác-ái thì trong lòng làm gì còn
chỗ cho hận thù và ganh ghét nữa.
Cứ đem cái cảm tưởng của ta khi gặp mùa xuân tới có lẽ ta cũng đoán được cõi
lòng của Minh như thế nào khi tìm lại được ánh-sáng trong một ngày đầu xuân...
Lúc băng mắt vừa được tháo ra, Minh ngơ-ngác nhìn quanh mình lấy làm lạ. Chàng
còn đang băn khoăn chưa rõ đây là thực hay là mộng thì Liên lo ngại, cất tiếng
run run hỏi:
- Em đây! Mình có trông thấy em không?
- Có chứ! Anh trông thấy mình rồi! Ôi, thật là sung sướng thay!
Liên mừng đến líu cả lưỡi, nước mắt tuôn ra như mưa không nói nên lời. Nàng bước
lại bên giường nắm chặt lấy tay chồng. Minh nhìn Liên thật kỹ một hồi rồi hỏi:
- Anh Văn đâu?
Liên đáp:
- Anh ấy cũng sắp đến rồi.
- Mình trông thấy mắt anh có khác trước không?
- Cũng chẳng khác gì mấy, chỉ thấy trong hơn thôi.
Rồi Minh lại đăm đăm nhìn Liên không chớp mắt. Chàng chợt khẽ buông một tiếng
thở dài. Liên thấy vậy hỏi:
- Mình sao vậy?
- Anh có sao đâu!
Sự thật thì Minh cảm khái, buồn rầu khi nhận ra rằng sắc đẹp của Liên kém xưa
nhiều lắm. Đáng lý ra chàng phải thừa hiểu lý-do là thế nào. Nhưng loài người từ
ngàn xưa vẫn đều thế cả. Khi vui thì mình bao giờ cũng muốn cuộc vui cho trọn vẹn.
Tất cả những gì chung quanh mình đều phải vui, phải đẹp cả. Chỉ cần một chút gì
không vừa ý cũng có thể làm cho mình buồn, dù là trong một thời gian ngắn.
Nhưng rồi cái cảm-giác không vui của Minh cũng mau tan biến đi. Chàng hăng hái
đứng dậy ra mở cửa sổ. Ánh sáng tràn vào làm cho Minh bỗng hoa cả mắt, cơ hồ muốn
ngã gục xuống. Liên vội chạy lại đỡ chàng đưa vào giường rồi ra đóng cửa chớp lại.
Minh vừa ngồi vừa thở, mỉm cười bảo Liên:
- Mình ơi! Anh thật sung sướng quá!
- Em cũng thế.
- Thì anh Văn đã bảo mình rằng thế nào cũng khỏi mà mình không tin.
- Bây giờ thì anh tin rồi!
- Nói chuyện!
- Này mình ạ, lại mở cửa thử ra xem.
- Hãy thong thả đã mình ạ. Ông bác-sĩ có dặn phải để cửa đóng đến ngày mai mới
được mở.
Minh nhất định không chịu nghe, nằng nặc đòi Liên phải mở cửa cho bằng được.
Hai người đang tranh luận thì một người khán-hộ bước vào can ngăn, ép Minh phải
nằm xuống giường. Minh lồng lộn lên như một người điên đòi về nhà ngay tức khắc.
Sau cùng người khán-hộ phải lên tiếng hăm dọa trói Minh vào giường chàng mới chịu
nghe lời. Minh gượng cười nói đùa:
- Trói thì tôi ngộp thở mà chết mất. Không mở cửa thì thôi, cho tôi ngồi dậy một
tí nhé.
- Ngồi cũng không được!
Quay sang Liên, người khán-hộ nghiêm nét mặt nói:
- Tôi giao thầy cho cô coi đấy nhé. Làm sao thì làm, nếu để cho thầy ấy ra mở cửa
thì nổ con ngươi mà mù lại tôi không chịu trách-nhiệm đâu đấy!
Chờ người khán-hộ đi rồi, Liên mới hết run sợ, thì thầm bảo chồng:
- Đấy, mình xem. Chuyện rất là nghiêm trọng, đến có thể nổ cả con ngươi chứ
không chơi. Mình đừng vội làm gì.
Minh phá lên cười. Mấy phút sau chàng thiếp đi vì còn mệt bởi thuốc mê. Sáng sớm
hôm sau khi thức giấc, tuy thấy trong người còn hơi mệt nhưng mắt chàng khi
trông đã thấy đỡ chói. Lúc bấy giờ cả Liên lẫn Văn chưa ai đến cả. Minh muốn xuất
viện ngay, nhưng lại sợ bị cản như hôm qua liền ôn tồn lễ phép nói khéo với người
khán hộ nhờ ‘bẩm hộ quan đốc’ 1. cho.
Ông bác-sĩ đích thân đến khám lại mắt Minh rồi vui cười xoa đầu chàng nói:
- Tốt lắm! Đây là tôi trả thị-quan lại cho văn-sĩ rồi đấy nhé!
Minh cảm động đến chảy nước mắt đứng nhìn người cứu chữa cho mình. Trông ông ta
thật từ-bi bác-ái chẳng khác nào một vị cứu tinh. Ông ta cảm nhận được ngay những
giọt lệ kia có ý nghĩa hơn bất cứ lời nói nào đến muôn vạn lần. Chính trong
lòng ông ta cũng sung sướng không khác gì bệnh-nhân của mình. Phải mấy phút
sau, Minh mới bớt đi sự xúc động. Chàng đưa khăn lên lau nước mắt, ngập ngừng
nói mấy lời, tỏ lòng biết ơn:
- Thưa bác-sĩ. Cái ơn cứu chữa của bác-sĩ tôi sẽ chẳng bao giờ quên...
Ông bác-sĩ cố giấu đi tất cả niềm kiêu-hãnh bằng một câu nhún nhường:
- Tôi mổ mắt cho ông thì tôi lấy tiền, là tôi cũng vì tiền. Đó chẳng qua là vì
sinh kế của tôi thôi chứ ơn với nghĩa gì! Vả lại nếu ông không đến tôi mà đến
người khác thì mắt ông cũng vẫn được chữa khỏi. Mà cùng lắm, cho dù ông cứ để vậy
thì sang năm mắt ông vẫn sáng lại như thường kia mà!
- Thôi, tôi xin phép bác-sĩ cho tôi về nhà.
- Được rồi. Nhưng phải nhớ đeo kính râm nhé.
Đoạn ông ta trao tặng Minh một cái kính màu tro và một cái kính trắng rồi tiễn
chàng ra tận xe tay mà ông ta sai người khán-hộ gọi giúp. Trên đường về, Minh cảm
thấy tâm-thần sảng khoái hơn bao giờ hết. Khi đi ngang qua hồ Hoàn-Kiếm, Minh bảo
anh phu xe dừng lại. Chàng trả tiền xe, thưởng thêm chút đỉnh cho người phu rồi
một mình tản bộ quanh hồ.
Trời xuân trong sáng làm tăng vẻ yêu đời của Minh đối với vạn vật. Vì đeo kính
râm, màu phong-cảnh, hoa lá cây cỏ có bị giới-hạn, không được tươi thắm hoàn
toàn, song đối với Minh chẳng có chút gì là quan-trọng. Chàng tưởng như mình
như người bị giam trong bóng tối lâu ngày nay thoát ra ngoài, được nhìn thấy
ánh mặt trời.
Tới một chiếc ghế dài, chàng ngồi xuống nghỉ chân. Đã lâu ngày không đi đứng gì
nhiều nên chàng cảm thấy hai đầu gối mỏi rời như muốn khuỵu. Sau cùng, không thể
chịu được nữa tuy vẫn nhớ tới lời hăm dọa của người khán-hộ, chàng đưa tay tháo
bỏ kính ra. Chàng cảm tưởng như ở rạp chiếu bóng đến giờ tạm nghỉ, đèn điện bật
hết lên sáng chưng. Mắt chàng chưa quen lại được với ánh sáng ban ngày nên chớp
luôn rồi nhắm nghiền lại. Vài phút sau, Minh mới thấy đỡ chói.
Nhìn xuống mặt hồ, Minh tưởng chừng như nước hồ mới nhuộm màu xanh. Bóng
Tháp-Rùa lờ mờ rung rinh giữa hồ như một bức mành thướt tha trước gió. Nhưng
khi nhìn ra xa, Minh chẳng nhìn thấy được một vật gì cả. Nhớ tới lời bác-sĩ nói
rằng mình sẽ bị cận-thị, Minh tỉnh ngộ lấy kính trắng ra đeo. Vạn vật dường như
hiện ra rõ ràng, tươi đẹp hơn bao giờ hết...
Đứng trước cảnh vật rực rỡ, Minh sung sướng như điên dại. Mặt chàng thật hồng
hào, mắt sáng quắc sau cặp kính trong. Rồi chàng quay lại nói với một người
chưa hề quen biết vừa ngồi xuống ghế bên cạnh chàng:
- Thưa ông, tôi vừa mổ mắt.
Người kia chưa kịp hiểu, Minh đã nói tiếp:
- Thưa ông, tôi sung sướng quá! Tôi bị mù đã hơn tám tháng nay. Bây giờ tôi mới
vừa trông lại được. Thưa ông, ông có đọc báo ‘Đời nay’ không? Nếu có thì ông có
đọc những bài viết của Minh Liên không? Tôi chính là Minh Liên đây?
Người kia nghe xong kinh-ngạc hỏi:
- Chính là ông? Vậy ra ông mù thật à?
- Vâng, Tôi mù thật. Tôi vừa ở bệnh-viện bác-sĩ Thiện ra thì gặp ông. Bây giờ
xin phép ông tôi về nhà.
Trên đường về nhà, gặp ai Minh cũng chào hỏi như quen biết từ lâu. Chàng cười
nói luyên-thuyên, tưởng như ai cũng chia vui, mừng chàng lấy lại được ánh sáng.
Mắt Minh đảo qua đảo lại, nhìn ngắm khắp mọi nơi. Ánh sáng như nhảy múa, đến từng
luồng trước mắt chàng. Mỗi vật trông thấy đều khiến chàng lấy làm lạ. Chàng tưởng
như lần đầu được ngắm đền Ngọc-Sơn. Chàng ngầm so sánh nó với viên kim-cương nạm
trong chiếc nhẫn bích-ngọc.
Sự so sánh ấy khiến chàng nhớ tới Liên. Tháng trước tại vườn Bách-Thảo, Liên
cũng so sánh cây thông với con thoi. Chàng muốn đến đó coi lại xem nó thật sự
có giống con thoi không.
Nhưng khi nghĩ tới Liên, Minh bỗng thấy rầu rầu, không được vui. Chàng tìm lại
được ánh sáng trong một ngày xuân vui tươi, mọi cảnh vật đều tốt đẹp huy-hoàng,
chỉ riêng một mình Liên là nhan sắc xấu đi nhiều! Hôm qua khi mới mở mắt nhìn
Liên, chàng tưởng như mình đi vắng nhiều năm mới về lại nhà. Chàng nghĩ thầm:
“Nếu như ta còn mù thì ta vẫn còn tưởng Liên đẹp lắm. Nhưng thật quái lạ, sao
chỉ mới có mấy tháng mà vợ ta già đi chóng thế!”
Minh vì quá vui mừng. Chàng thấy cái gì cũng đẹp. Hay nói đúng hơn, chàng ‘bắt
buộc’ tất cả đều ‘phải đẹp’. Vì thế, chàng quên đi những ngày cực khổ vất vả của
Liên lo cho chàng. Rồi chàng lại lo sợ, nghĩ tiếp: “Chưa biết chừng có khi
chính ta cũng già đi!”
Qua phố hàng Ngang, chàng tự ngắm mình trong một tấm gương rồi bỗng kêu lên thất
thanh: “Trời ơi!”. Nhưng khi biết đó là một tấm gương biến hình, chàng thở phào
nhẹ nhõm đi thẳng. Rồi khi được nhìn thấy chân dung của mình qua một tủ kính của
quày hàng, chàng cả mừng khi trông thấy mình vẫn như xưa. Chàng cũng không nhớ
rằng trong thời-gian qua, dù nhà nhiều lúc thiếu hụt, nhưng Liên bao giờ cũng
lo đầy đủ cho chàng, chăm cho chàng từng miếng ăn, giấc ngủ. Vì thế mà chàng vẫn
có da có thịt, không đổi khác bao nhiêu.
Về đến nhà, Minh thấy cổng khép. Liên vừa đi, chàng nghĩ vậy. Chắc nàng đến bệnh-viện
bằng đường khác nên chàng không gặp. Cây cối trong vường khẽ lung lay trước
gió. Minh thấy hoa cỏ như hớn hở vui mừng đón chàng trở về. Tuy rằng mái tranh,
hàng giậu có xơ xác tiêu điều hơn xưa, nhưng chàng nào lưu ý tới. Chàng chỉ thấy
tất cả đều mới mẻ. Những chẽ cau mới nở mơn mởn, mềm mại, lấp lánh như đúc bằng
vàng. Những hoa ngâu lấm tấm che kín những lá nhỏ lăn tăn. Minh trông như hộc
xôi vò đặt trên cái mâm bồng sơn xanh.
Một cơn gió thoảng qua. Minh ngửi thấy mùi thơm của hoa mộc. Đây là lần đầu
tiên kể từ khi chàng thấy lại được, một giác-quan khác ngoài thị-giác mới có
cơ-hội ‘làm việc’. Có lẽ luôn cả những giác-quan khác cũng mừng cho chàng nên đều
nhường chỗ lại cho thị-giác làm việc.
Trong lúc đầu óc Minh còn đang lâng lâng thì Liên và Văn từ ngoài bước vào. Văn
lớn tiếng gọi chàng:
- Tôi đến bệnh-viện gần như cùng lúc với chị. Bác-sĩ bảo anh đã xuất viện và về
nhà rồi. Tôi mừng quá... Mà này, anh làm gì mà nhìn tôi sòng sọc thế?
Minh thân mật bắt tay bạn:
- Nếu thế thì cho tôi xin lỗi nhé. Nhưng tôi mừng vì trôn thấy anh vẫn vậy.
Văn cười lớn:
- Không lẽ tôi phải đổi khác hay sao?
- Chỉ mình nhà tôi là...
Nói tới đây thấy Liên xịu mặt, Minh biết mình lỡ lời không dám nói tiếp nữa.
Minh hối hận, nhưng một lời đã nói ra không thể nào rút lại được nữa. Liên gượng
cười hỏi, mà cũng như nói tiếp hộ cho Minh:
- Em già đi nhiều, có phải vậy không mình?
Minh vội vàng nói chữa:
- Không, em vẫn trẻ mà. Nhưng gầy hơn trước một tí.
Văn nghiêm nét mặt, nói như trách bạn vô tình:
- Anh có biết tại sao không?
Lời Văn như một thùng nước lạnh tưới lên mặt người bị bất tỉnh trong giây lát.
Nhờ đó mà Minh mới thức tỉnh, mới hiểu đến sự hy-sinh của Liên trong bấy lâu
nay. Chàng nhắm mắt lại suy ngẫm. Tưởng bạn vẫn còn mệt nên Văn khuyên chàng đi
nghỉ. Còn Liên thì hình như linh-cảm thấy ngay được là chồng lãnh-đạm với mình
hơn so với hồi chàng còn bệnh.
Văn cáo từ ra về. Liên cũng muốn dành thời-gian với chồng trong lúc này nên
không giữ. Nhưng Minh nhất-định một mực ép Văn ở lại. Chiều chồng, Liên đành
lưu Văn lại, ân cần mời mọc:
- Phải đấy, anh ở lại dùng cơm xoàng với vợ chồng chúng tôi. Hôm nay lại là chủ
nhật nữa nên thật là tiện.
Văn nghe qua nhận lời ngay. Liên đi chợ mua ít đồ về nấu nướng. Văn cũng xin
ghé về nhà một lát để dặn người nhà đừng chờ cơm. Còn lại một mình ngồi ủ rũ,
Minh chẳng biết làm gì để giết thì-giờ. Chàng đã toan đứng dậy đi dạo một vòng
quanh làng để xem cảnh vật có đổi khác hay không thì bỗng nghĩ đến những bài
đăng báo nên đi tới mở ngăn kéo để tìm đọc lại.
Thư từ độc-giả gửi cho chàng thật là nhiều vô kể, để rất bề bộn. Chàng cầm thử
một tờ lên đọc, thì ra đó là thư của một nữ độc-giả.
Xem hết lá thư này đến thư nọ, Minh mới phát-giác ra là có nhiều bức thư Liên
không hề đọc cho mình nghe. Lời lẽ trong những bức thư ấy lại vô cùng cảm động.
Chàng mỉm cười khi nghĩ đến tính ghen tuông của vợ rồi lấy bút chì ‘lén lút’
ghi tên và địa-chỉ của những độc-giả đó vào một mảnh giấy. Chàng thích thú nói
một mình:
- “Thế nào rồi ra cũng phải tìm cho được cái cô đến thăm ta mới nghe!”
Nhưng nghĩ đến đây, chàng lại cảm thấy mình thật vô lý không biết đường nào mà
nói được. Chàng lại tự nhủ:
- Nhưng mà tìm để làm gì mới được chứ! Rõ mình lẩn thẩn!”.
Chợt nghe có tiếng cười khúc-khích ngoài hiên. Minh ngẩng đầu lên nhìn, tưởng
Liên mới đi chợ về. Nhưng chàng kinh-ngạc biết bao khi nhận ra người mới đến là
một thiếu-phụ chàng chưa hề quen biết hay gặp qua. Cô ta trông rất vui vẻ, bước
vào trong nhà đon đả chào hỏi rất là thân mật:
- Em đến chúc mừng anh mới khỏi. Khi vừa được tin anh đến mổ mắt ở bệnh-viện ông
bác-sĩ Thiện em liền đến thăm thì họ nói anh đã mổ xong và đã về rồi.
Minh ngây người ra đứng ngắm. Thiếu-phụ cười nói:
- Anh không nhớ em là ai à?
- Thưa cô, xin cô tha lỗi cho. Tôi nghe giọng nói thì hơi quen quen, nhưng không
tài nào nhớ nổi là đã gặp ở đâu, trong trường-hợp nào!
Thiếu-phụ cười lên một hồi rồi mới trả lời:
- Anh nói phải. Lần trước em đến đây thì anh vẫn còn đang bệnh thì nhìn thấy em
thế nào được!
Minh bỗng vỗ đùi, mừng quýnh lên:
- À, cô Nhung!
- Phải rồi, nhưng sao anh biết tên em?
- Tôi đang đọc dỏ bức thư của cô thì không ngờ cô lại đến.
Nhung cười thích thú:
- Vậy chắc hẳn là có thần-linh báo trước đây.
Minh nhớn nhác nhìn ra cổng. Nhung cũng đưa mắt nhìn theo. Nàng hỏi:
- Anh hình như có điều gì sợ hãi phải không?
- Có lẽ... nhà tôi sắp về.
- À, có phải vợ anh là cái người nhà quê ăn mặc lôi thôi lếch thếch hay gánh hoa
đi bán rong có phải không?
Minh ngẩn người ra chưa kịp phản-ứng ra sao thì Nhung lại nói tiếp. Nhưng lần
này nàng ta đổi cách xưng hô:
- Anh có hiểu tại sao tôi biết không? Có một hôm chị ấy đem hoa đến nhà mời tôi
mua. Chị ấy tính nết thật thà, ngây thơ, hay đáo để..., thường kể lể nào là chồng
mù chồng ốm, nhà lại nghèo... Chồng phải viết báo, vợ phải bán hoa để kiếm tiền
mổ mắt. Nhờ đó mà tôi mới biết đó là vợ anh.
Mặt Minh đỏ bừng. Phần thì hổ thẹn về hoàn-cảnh gia-đình của mình, phần thì
rung động vì sắc đẹp lộng lẫy của Nhung. Trong một phút, chàng tưởnh như mình
đang sống ở một nơi thần tiên nào đó mà bình thường chỉ được thấy trong giấc mộng.
Nhưng tiếng cười bỡn cợt sau câu nói mỉa mai của Nhung làm Minh vụt tỉnh. Chàng
làm mặt giận bảo Nhung:
- Nghèo đâu có gì là xấu!
Nhung cười dửng dưng:
- Thì vẫn đẹp! Có ai nói gì đâu!
Lời nói như châm chọc khiến Minh càng tức giận.
- Tôi nói thẳng cho cô biết là cô không được phép nói xấu vợ tôi trước mặt tôi!
Nhung giả vờ sợ hãi, chép miệng nói:
- Đàn ông ai cũng nói thế. Nhưng rồi thì cũng chỉ ‘cá mè một lứa’ mà thôi!
- Cô nói vậy là ý gì?
- Có nghĩa là anh đàn ông nào cũng làm ra vẻ thương vợ, bênh vực vợ nhưng rốt cuộc
thì vẫn yêu tình nhân hơn vợ nhiều.
Minh không ngờ Nhung dám tự nhận là tình-nhân của mình. Chàng vừa ngượng ngịu,
vừa lo sợ, và vừa sung sướng. Xưa nay, chàng chưa hề có dịp tiếp xúc với giới
phụ-nữ tân-thời, có tích-chất lãng-mạn và phóng đãng bao giờ. Nay bất chợt tiếp
xúc với một người khác phái mà từ cử-chỉ, cho tới ngôn-ngữ rất là tự-nhiên
không phải giữ kẻ, không chút e lệ..., lòng chàng tự dưng dâng lên một cảm-giác
mới mẻ lạ lùng. Chàng đang suy nghĩ tìm lời đáp lại người khách nửa khuê-các, nửa
giang-hồ để không bị chê cười, liệt vào hạng quê mùa cục mịch như Liên thì
Nhung đã đến cạnh bên chàng ngồi xuống ghế đồng thời đưa tay kéo chàng cùng ngồi
luôn.
Minh chợt rùng mình. Mùi nước hoa thơm nức, cộng thêm đôi mắt sáng ngời và đôi
môi tươi thắm của Nhung làm chàng mơ mơ màng màng nghĩ đến những chuyện cổ-tích
mà yêu tinh quyến rũ khách si tình. Minh lùi lại một bước. Nhung cười:
- Thú quá! Trông anh bẽn lẽn chẳng khác nào gái 16!
Minh nhớ tới Liên. Nhưng chàng có hay đâu nhớ tới nàng lúc này chỉ có thiệt cho
người vợ chất-phác hiền lành đáng thương của mình mà thôi! So sánh với cái nhan
sắc diễm-lệ của cô gái tên Nhung này, cái mặt hốc hác của Liên càng hiện ra tiều-tụy
chẳng khác nào một đóa hoa sắp tàn đặt bên cạnh một bông hoa mới nở.
- Thì anh hãy ngồi xuống đây đã! Làm như người ta ăn thịt anh không bằng!
- Quả thật tôi đang tưởng tượng cô là một nàng hồ tinh định đến ăn thịt tôi.
Nhung vỗ tay ra chiều đắc ý:
- Thú nhỉ? Nhưng tại sao vậy anh?
- Vì tôi nhớ đến truyện Liêu-Trai...
- Truyện ấy cũng là chuyện của anh đấy à?
- Không, đó là chuyện cổ của Trung-Hoa.
- Vậy thì anh nhớ dịch ra chữ quốc-ngữ cho em đọc với nhé!
- Tôi nghĩ tới tuyện ấy vì tôi không hiểu vì sao cô lại yêu được tôi! Tôi chỉ là
một người học trò nghèo, thô kệch. Mà các chuyện trong bộ Liêu-Trai phần nhiều
nhân vật đều là học trò nghèo gặp hồ tinh xinh đẹp cả.
Nhung nghe nói có vẻ hơi buồn, ngồi chống tay vào cằm nghĩ ngợi. Rồi nàng bỗng
đăm đăm nhìn Minh hỏi:
- Anh có thể đi chơi với em được không?
- Không được đâu.. cô ạ...
- Tại sao thế anh?
- Chẳng sao cả... Nhưng tôi sợ cô lắm!
- Thì thôi vậy!
Nhung đứng dậy, nheo mắt cười nói:
- Thế thì một lần nào khác nhé! Thôi chào anh tôi về không thì ngộ nhỡ vợ anh về
bắt gặp tôi ở đây thì khốn khổ cho anh!
Nhung thong thả bước ra sân. Không hiểu vì sao, Minh như cái máy tự động theo
ra. Nhìn ra vườn, Nhung reo lên:
- Trời ơi! Anh có cái vườn đẹp quá mà lần trước tới tôi không để ý tới!
Nàng bước vào vườn đi dạo. Cái áo nhung màu tím hồng; cái quần trắng thướt tha;
cái ‘san’ trắng phất phới như đùa với mái tóc mây rẽ lệch khiến nàng trở nên một
đóa hoa linh-động ở giữa các luống cúc tươi màu đang khoe sắc. Đôi tay ngà ngọc
của Nhung thoăn thoắt trên các bông hoa, rồi chỉ trong một thời gian ngắn ngủi,
một bó đầy đã nằm gọn trong tay nàng.
Nhung quay về phía Minh nhoẻn một nụ cười. Cặp môi son của nàng đỏ thắm như một
nụ hồng mới nở. Khuôn mặt nàng hết sức xinh xắn tươi vui, nước da lại hồng hào
như được tô điểm bởi trời xuân, nắng xuân, gió xuân hòa chung với bầu không khí
trong lành của mùa ấm áp. Và có lẽ nhờ thế mà nhan sắc của Nhung càng trở nên
trăm phần diễm lệ và lộng lẫy.
Minh nhìn nàng say đắm ngất ngây. Chàng cảm thấy choáng váng hết cả mặt mày,
chàng không hiểu mình thật sự đang sống ở trần gian hay đã lạc vào cõi thiên
thai. Giấc mộng buổi sáng hôm chàng mới bị mù vụt trở lại trong tâm trí...
- Anh làm gì mà đứng thừ người ra như thế?
Minh giật mình, chẳng khác một đứa trẻ trong giờ học ngồi trong lớp mơ mộng bị
cô giáo bắt gặp quả tang. Chàng thẹn thùng, ấp úng trả lời:
- Không... có gì... đâu...
Thật ra, ‘ánh sáng’ đã làm quáng mắt Minh và huyễn hoặc cả tinh-thần chàng. Vừa
ra khỏi bóng tối, chàng như bị quăng vào một nơi chói lọi. Có thể nói là chàng
từ thái-cực này chuyển ngay qua thái cực nọ. Minh nghĩ thầm:
- “Khi ta mù, ta vẫn đoái tưởng đến cảnh bình minh tươi đẹp nên tìm đủ mọi cách
nhớ đến nó rồi tưởng tượng để ghi chép xuống. Song, những cảnh này phải đích
thân được hưởng mới biết, mới cảm được chứ không giấy bút nào có thể viết lại
được. Trời ơi! Còn gì vui sướng hơn là được ngắm cái tuổi thanh-xuân kia bay lượn
giữ đám hoa xuân?”
Nhung từ vườn bước ra sân, đến trước mặt Minh đưa bó hoa ra nói:
- Có đẹp không anh?
Minh buột mồm đáp:
- Không đẹp bằng cô.
Nhung tủm tỉm cười:
- Cám ơn anh nhé.
Minh chẳng biết là Nhung cám ơn mình về bó hay bề câu khen ngợi. Mặt chàng nóng
bừng, miệng cười ngây ngất đưa hai tay ra nắm chặt lấy bàn tay của Nhung, lòng
rung động không nói được ra lời. Nhung lim di, cặp mắt, ghé sát tai Minh thì thầm:
- Đi anh, đi chơi với em một lát đi.
Như người bị ai thôi-miên hớp hồn, Minh bước chân theo Nhung. Nàng đi đâu chàng
theo đó. Cả hai từng bước một, tiến về phía vườn Bách-Thảo...
Cả hai đi được một lát thì Liên trở về, tay cắp rổ thức ăn mới mua ở chợ về,
lòng vui sướng hân hoan. Hồi nãy Liên còn bứt rứt khó chịu vì cảm thấy chồng nhạt
nhẽo với mình. Nhưng bản chất nàng trung-hậu chất-phác, có tính vị-tha nên quên
ngay những điều không vui đó, coi như chưa từng xảy ra. Vì nàng nghĩ rằng dù
mình có xấu, có già đi chăng nữa nhưng từ nay đã bớt khó nhọc, sẽ không còn phải
lam lũ ăn uống kham khổ nữa thì chẳng bao lâu sẽ được lại như xưa. Một cô gái
quê như nàng chỉ biết thật thà, thấy sao nghĩ vậy chứ nào có ý tưởng gì xa
xôi...
Người lành cho dù làm việc tạm gọi là ‘ác’ cũng vẫn không che dấu được cái tính
thật thà của mình. Những lúc nhận được nhiều tấm thư tình của nữ độc-giả gửi
cho chồng hồi chàng vẫn còn mù, nàng cũng ‘nổi máu ghen tuông’ như những người
đàn bà khác, quyết không chịu đọc cho chồng nghe. Thậm chí nhiều lúc nàng cáu
tiết muốn đốt hết những bức thư đó đi, nhưng nghĩ lại sợ rằng khi chồng sáng mắt
trở lại sẽ hỏi những bức thư đó nên sau cùng lại thôi.
Nay chồng nàng tỏi bệnh, niềm vui tràn ngập khắp cõi lòng Liên nên không còn chỗ
để cho những chuyện nào khác nữa. Cho nên, Liên không còn để ý đến những lá thư
tình đó nữa.
Về đến cổng Liên lẩm bẩm nói một mình:
- “Mình rõ hôm nay vận đỏ quá! Mua được con cá chép vừa tươi, vừa béo thế này mà
chỉ mất có hai hào. Để hỏi thử anh Văn xem có ăn được gỏi không để thết anh ấy
một bữa.”
Nghĩ tới tài làm gỏi ‘có hạng’ của mình, Liên đắc ý, cất tiếng gọi:
- Mình ơi! Mình ơi!
Không thấy tiếng đáp lại, Liên đi thẳng lên nhà nhớn nhác hỏi:
- Mình ở đâu đấy mình?
Vẫn không có tiếng trả lời. Liên lại chạy ra vườn. Thấy ông Hoạt đang vun cây xới
luống, nàng hỏi thăm luôn:
- Nhà tôi đâu rồi, ông có thấy không?
- Tôi chịu thôi! Tôi mới vừa về, chẳn thấy ai ở nhà cả.
- Lạ nhỉ!
Liên lo lắng chạy ra cổng nhìn qua nhìn lại. Thấy một người đàn bà đi ngang
qua, Liên toan hỏi thăm thì người đó chào nàng nói:
- Chào chị. Tôi có lời mừng anh chị nhé. Thật là phúc đức quá. Tôi vừa gặp anh ấy
đi với một bà nào trông chừng như bà bác-sĩ ấy. Anh ấy có bảo rằng đến gặp
bác-sĩ để ông ta xem lại mắt.
Liên nghe xong lạnh toát cả người, quay ngay vào trong nhà. Nhìn thấy cái ngăn
kéo mở toang ra, thư từ giấy má nằm tung tóe, nàng nghĩ ngay tới người nữ độc-giả
viết thư tình tứ. Liên chợt ôm lấy mặt, ngồi phệt xuống ghế khóc tức tưởi...
- Chị làm sao vậy?
Liên ngẩng đầu lên nhìn. Văn đứng ngay bên cạnh nàng. Chàng đến lúc nào mà nàng
không hay. Liên nức nở thuật lại mọi chuyện cho Văn nghe cũng như bày tỏ những
nghi ngờ về sự biến tính của Minh. Văn chỉ cười mà tìm lời an ủi:
- Chị đừng kết luận sớm như thế! Biết đâu là anh Minh nói thật thì sao!
- Nhưng sao lại đi với một người đàn bà?
- Chị rõ khéo đa nghi! Ông bác-sĩ nào mà chả có vài nữ khán-hộ (y-tá)!
Liên ngơ ngác không hiểu. Văn phải cắt nghĩa:
- Khán-hộ thường là phái nữ, là những cô làm việc dưới quyền bác-sĩ chuyên trông
trông nom bệnh-nhân.
- Sao lại dùng đàn bà con gái mà trông nom đàn ông?
- Chị rõ lẩn thẩn! Khán-hộ hầu hết thường là con gái! Nếu nói về lý-do thì đàn
bà con gái bao giờ cũng tỉ mỉ hơn đàn ông nên trông nom bệnh-nhân hũu hiệu hơn.
Nghe Văn giảng giải, Liên thấy cũng hơi yên tâm. Nàng gượng cười, đứng dậy nói:
- Thôi, tôi đi làm cơm đây. Anh ngồi chơi đợi nhà tôi về nhé!
- Vâng. Nhưng hay là để tôi đạp xe đạp tới bệnh-viện tìm ngay anh Minh về cho chị.
- Nếu anh giúp được cho như thế thế còn gì bằng!
Văn phóng vội lên xe, hối hả đạp thật lẹ. Một giờ đồng hồ sau chàng trở về thì
Liên đã bày hết các món ăn ra mâm. Phần đông đàn bà Á-Đông là vậy. Dẫu họ có buồn
bực điều gì cũng mặc lòng. Việc nhà, cơm nước họ vẫn lo đầy đủ và chu toàn. Chỉ
đến khi rảnh rỗi, họ mới lặng lẽ lui vào một xó mà than thầm, tủi thầm...
Tiếng chuông xe đạp ngoài cổng nhắc cho Liên tất cả những sự việc sáng nay. Và
hình như có linh-tính báo trước, nàng đoán rằng Văn trở về đem theo những tin-tức
không lành. Cho nên dù nghe rõ tiếng giày cồm cộp của Văn mà Liên vẫn cặm cụi ở
lỳ trong bếp. Mãi cho đến khi Văn tới nơi, nàng mới thong thả quay ra nhìn, khẽ
hỏi:
- Anh Văn đã về đấy à? Chắc là không tìm thấy nhà tôi phải không?
Giọng Liên run rẩ, Văn nghe thấy rõ ràng mặc dù nàng cố bình tĩnh lấy giọng.
Chàng đem lòng thương hại nói:
- Có chị ạ. Nhưng bác-sĩ bảo ở lại để xông mắt. Có lẽ tối mới về được.
Liên không dám nhìn Văn, vì sợ sẽ nhìn thấy nét dối trá trên mặt chàng. Đạt đĩa
cá rán (cá chiên) vào mâm, nàng hỏi:
- Thế à? Anh xem liệu có việc gì không?
- Có gì mà chị phải lo! Cứ chịu khó xông mắt vài lần thì mắt sẽ trong ra, nhìn
rõ hơn nhiều!
-Vậy mời anh lên nhà xơi cơm thôi.
- Thôi, xin cám ơn chị. Cho tôi xin phép về trước thôi.
- Chẳng lẽ mâm cơm của tôi ế sao đây?
Văn thật vô cùng khó nghĩ. Ngồi một mình ăn cơm với vợ bạn thật không tiện chút
nào, chàng không dám. Mà để Liên ở lại một mình buồn bực với bao nỗi nghi ngờ
thì thấy thương hại, chàng không nỡ. Nhưng Liên đã lẹ tay bưng mâm cơm lên nhà
đặt lên bàn và quay xuống bắc nồi cơm. Văn đứng ngây người ngắm đống tro hồng lốm
đốm. Thấy vậy, Liên hỏi:
- Anh nhìn gì thế?
- Chị cho tôi về thôi. Anh đi vắng tôi ở lại đây không tiện.
Liên chợt tỉnh ngộ. Nàng biết Văn ý tứ, nói rất đúng nên không dám cầm chân
chàng nữa.
- Vâng, thế thì anh về vậy.
Chán nản, nàng gượng cười nói:
- Được hôm thết khách thì ế cơm!
- Ế thì ăn một mình chứ sao.
Liên thở dài, buồn rầu nói:
Anh nghĩ tôi còn ăn được sao? Còn nuốt trôi được à?
Văn biết Liên đã hiểu tất cả rồi. Lời nói dối của chàng không bịp nổi nàng.
Nhưng chàng vẫn cố giả tảng:
- Sao vậy chị?
- Anh giấu tôi làm gì?
- Đâu có! Tôi có giấu chị điều gì đâu!
- Thưa anh, không khi nào mới ở bệnh-viện ra buổi sáng mà buổi trưa bác-sĩ lại
cho người đến tìm bao giờ!
- Chị làm sao biết được! Với lại mình cũng chưa trả tiền thuốc kia mà...
Liên cười ngắt lời:
- Vậy chắc nhà tôi đến để trả tiền phải không?
- Vâng, hình như thế.
- Anh xem, khi đã nói dối thì bao giờ cũng sẽ lòi đuôi ra. Thôi, anh cứ nói thật
với tôi còn hơn. Lúc tôi mới về không thấy nhà tôi đâu cả mà ngăn kéo thì bừa bộn
giấy má. Tôi ít nhiều cũng đoán được cả rồi. Nhưng dẫu có điều gì xảy ra thì
cũng đành chịu thôi chứ biết làm thế nào hơn, phải không anh?
Lời lẽ của Liên rất ôn hòa, đầy thiện-chí và nhẫn nại. Văn định tìm cách dối
nàng thêm một lần nữa nhưng khi nhìn vào cặp mắt của Liên thấy long lanh ngấn lệ
nên đành nghẹn ngào mà đứng im. Liên lại hỏi:
- Anh nghĩ tôi đoán có đúng không?
- Tôi cũng chẳng biết có đúng không! Nhưng thiết tưởng dẫu điều đó có xảy ra
cũng không đáng lo. Theo như tôi được hiểu thì những người mù khi mới nhìn lại
được ánh sáng mặt trời bao giờ cũng bị khủng hoảng tinh-thần một ít lâu. Rồi chị
xem, anh ấy sẽ tỉnh ngộ, sẽ hối hận và ngoan ngoãn trở về như đứa con hoang về
lại gia-đình mà thôi.
Câu ví-dụ của Văn khiến Liên phải bật cười. Vừa khi ấy Minh trở về. Văn và Liên
đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Văn bước cuống sân hỏi:
- Anh đi đâu về đấy?
Minh đang luống cuống chưa biết phải trả lời ra sao thì Văn lại hỏi luôn:
- Anh đến bệnh-viện phải không?
Minh e dè, khẽ đáp:
- Phải.
- Thôi, mình vào ăn cơm đi. Thức ăn nguội hết cả rồi.
Bữa cơm thật là buồn tẻ. Cả ba người đều có tư tưởng, tâm sự riêng biệt, không
ai giống ai, nên chẳng ai buồn nói với ai lời gì.
Liên thì chắc chắn rằng chồng mình đi với tình nhân về. Từ câu trả lời ú ớ gượng
gạo đến cái dáng điệu lúng túng, lại thêm cặp mắt luôn luôn nhìn vơ vẩn. Nhưng
rõ rệt hơn cả là mùi nước hoa phảng phất trên người của Minh, cái mùi mà Liên
đã ngửi thấy ở những bức thư của nữ độc-giả. Thế thì còn chối cãi vào đâu được
nữa?
Văn thì ngậm ngùi xót xa cho Liên. Gần suốt một năm trời vất vả ngược xuôi để
lo cho chồng. Những cảnh đó vẫn còn in sâu trong óc chàng. Chàng hơi giận Minh
vì thấy bạn mình mới khỏi bệnh, mới có chút danh tiếng trong ‘làng bút’ đã
‘sinh tật’ phong-lưu trưởng giả. Tuy nhiên, chàng vẫn cố tin vào sự phán đoán của
mình là vì Minh bị ánh sáng chói lọi huyễn hoặc; và cô gái giang hồ kia cũng chẳng
qua vì một lúc lãng-mạn thì vồ vập như thế, nhưng rồi sẽ chẳng bao lâu sẽ tự ý
ruồng rẫy, bỏ Minh như bao nhiêu người đàn ông trước đó mà thôi. Còn ai lạ gì
cái tình chuyên nhất của hạng gái giang-hồ!
Còn Minh thì tâm-hồn để cả lại trên cái gác dưới góc phố hẻo lánh kia, nơi có
hai cô gái xinh đẹp là Nhung và Mạc mà chàng vừa từ biệt ra về...
Chú thích:
đốc: gốc từ chữ docteur tiếng Pháp, có nghĩa là bác-sĩ. Thời
đó, hễ kính trọng ai người ta hay kèm theo chữ quan đi đầu khi đề-cập đến người
ấy; nhiều lúc ‘kính trọng’ thái quá trở thành nịnh bợ. Nói tóm lại, quan đây
chỉ có nghĩa là ‘ông’, là ‘ngài’ thôi chứ không nhất thiết là vì người đó làm
chức quan nào. |
KHỦNG HOẢNG
Ông Hoạt từ vườn bước vào, nghỉ tay hút điếu thuốc lào. Thấy Liên bơ phờ, ngồi ủ rũ mắt đỏ hoe liền cất tiếng hỏi:
− Hôm nay mợ giáo không đi bán hoa à?
Liên chua chát trả lời:
− Tôi nào có phải là ‘mợ giáo’ đâu mà ông lại gọi thế!
− Cậu Minh đỗ đạt, trở thành ông giáo thì mợ chẳng là mợ giáo thì là gì?
Liên không đáp, đăm đăm nhìn ra sân ngắm cảnh mưa phùn giá rét. Hai cây hoàng-lan cành uốn cong rũ la đà. Tuy giữa buổi quang tạnh nó vẫn cong như thế nhưng hôm nay Liên tưởng như những cành lá chịu sức nặng của hạt mưa xuân lấm tấm đè rũ xuống. Lại có lúc Liên trông như hình hai người đàn bà mặc tang-phục, đầu độ mấn, sụt sùi đứng khóc sướt mướt. Cho đến lá cây trúc đào lóng lánh dưới hạt mưa, rung rinh nhởn nhơ với luồng gió lạnh Liên cũng hình dung ra là trăm nghìn con dao sắc nhọn của kẻ bạo tàn.
Chẳng qua vì Liên buồn. Đã ròng rã ba hôm nàng ở trong cảnh cô đơn hiu quạnh. Minh mới khỏi mắt được một tháng mà đã vắng nhà hơn mười lần rồi. Mọi lần, chàng chỉ ‘đi hoang’ chừng một buổi, song vẫn về nhà ngủ. Nhưng lần này là lần đầu tiên Minh đi biệt tăm biệt tích...
Nghe lời Văn dặn, Liên chỉ dùng lời lẽ dịu dàng, âu yếm khuyên can chồng. Nhưng khi nhận thấy rằng càng can ngăn, Minh càng quá quắt làm tới, nàng đành im lặng mà dùng lòng nhẫn nại đối phó. Như đa số phụ-nữ Việt-Nam, cái nết phục tòng đã ăn sâu vào tủy não của nàng. Nó là một truyền-thống thiêng liêng của dân-tộc được truyền lại từ nghìn xưa.
Thấy Liên ngồi lo lắng suy tư, ông Hoạt không đành lòng, bước lại gần hỏi:
− Mợ có làm theo cách tôi dặn không?
− Đã làm rồi, nhưng chẳng thấy gì ông ạ!
− Mợ cho cậu ấy ăn chè đậu xanh mấy lần rồi?
− Tất cả bốn lần.
− Có cả nước cam-thảo nữa đấy chứ?
− Phải, có cả nước cam-thảo.
− Thế mà không giải được bùa mê cũng lạ!... Vậy thì chỉ còn cách này thôi. Mợ cho cậu ấy ăn bùa mê, như tôi từng đề-nghị... Mợ đã đến hỏi thầy pháp chưa?
Liên lắc đầu đáp:
− Tôi không nỡ làm thế. Ăn bùa mê vào nhỡ bị sao thì tôi sẽ ân hận. Vả lại, nếu chỉ vì bùa mê mà chồng tôi mới yêu tôi thì tôi chẳng ham đâu!
Nghĩ tới lúc mới lấy nhau, hai vợ chồng yêu thương nhau thắm thiết mặn nồng, hết lòng chiều chuộng nhau mà Liên không khỏi rơi hai hàng lệ.
Có tiếng chuông của xe đạp Văn ngoài cổng. Liên mừng rỡ, lau vội nước mắt, cố làm cho tươi nét mặt ra sân tiếp đón. Trong lúc cô đơn một mình với niềm đau khổ thì cho dù một người bình thường không quen thân đến viếng thăm cũng là đáng quý huống hồ người ấy là một người bạn thân vốn dĩ được mến phục. Đó là trường-hợp của Liên hiện tại. Đang lúc nàng buồn vì chồng vì ham vui chẳng nghĩ gì đến mình thì được một người như Văn ghé thăm thật là một niềm an ủi lớn lao.
Từ lâu Liên vẫn quý mến và kính phục Văn cùng với lòng nghĩa-hiệp của chàng. Văn luôn xả thân, hết lòng vì bạn bè. Có thể nói, chàng không những chỉ là bạn tốt, mà còn là ân nhân của hai vợ chồng Minh, Liên nữa. Dưới mắt Liên, Văn là một người quân-tử hiếm có trên đời, dù ở bất cứ thời-đại nào.
Văn vừa dựng xe đạp bên hiên đã lên tiếng hỏi ngay:
− Anh Minh về chưa chị?
− Chưa, anh ạ.
Cả hai người buồn rầu nhìn nhau. Cái nhìn thầm lặng nhưng cũng đựng đầy bao nỗi đau đớn, thương xót. Văn vỗ về, an ủi Liên:
− Chị cũng chẳng nên buồn mà nghĩ ngợi nhiều làm gì. Đấy, rồi chị coi. Nếu quả thật họ mê nhau cũng chẳng bền đâu! Các cô gái giang hồ thì còn chung tình được với ai? Mà anh Minh nhà mình cũng lấy tiền đâu mà cung phụng mãi được!
− Ấy, tôi vẫn lo điều này. Nhưng nếu nó ham tiền thì nói làm gì! Nhưng đàng này nó đã chẳng cần tiền mà còn chu cấp cho nữa kia!
Văn chép miệng:
− Chẳng lẽ anh Minh lại đổ đốn đến thế kia?... Không, chẳng lẽ nào! Tôi biết anh Minh vẫn có tính khảng khái.
− Thì anh cứ nhìn đấy! Nhà tôi bây giờ ăn mặc như Tây, sang trọng đến thế nào!
Văn cười nói:
− Vậy chị quên rằng mỗi tháng anh ấy kiếm được hơn trăm bạc ư?
− Dẫu sao thì nhà tôi cũng chẳng đủ tiền mà bao được một cô gái giang hồ.
Văn bất chợt nhìn Liên đăm đăm khiến nàng phải ngượng ngùng, quay nhìn lãng ra vườn. Văn gật đầu mấy cái rồi khẽ gọi:
− Chị ạ.
− Vâng.
− Con người ta thường chỉ mê cái hào nhoáng bên ngoài...
− Thì xưa nay vẫn thế!
− Vì sao mà người ta có mới nới cũ? Cũng chỉ vì cái hào hoáng nhòe nhoẹt đó. Tôi chắc khi nào anh Minh hiểu rõ cái tâm-hồn trống rỗng của cô ả thì anh ấy sẽ chán ngấy mà thôi!
Liên thở dài không đáp. Văn lại nói tiếp:
− Nhưng cái hào nhoáng đó khiến tôi nảy ra một ý tưởng hay hay.
Liên ngạc-nhiên hỏi:
− Ý tưởng gì thế anh?
Văn ngần ngừ vài giây rồi mỉm cười nói:
− Giá chị cũng ăn mặc như thế...
− Tôi không hiểu!
− Nghĩa là chị cũng ăn mặc theo lối tân thời.
Liên dẫy nẩy, xua tay lia lịa:
− Trời ơi! Tôi chịu thôi!
− Sao vậy?
− Ai lại ăn mặc lòe loẹt như thế bao giờ!
− Vậy người ta vẫn mặc như thế thì đã sao?
− Nhưng tôi quê mùa cục mịch, bắt chước người ta thế nào được! Mấy lại tôi nghèo khó, lấy tiền đâu mà sắm sửa!
− Đó là chị tưởng thế, nghĩ thế đó thôi, chứ một cái quần lĩnh, một cái ‘san’ mùi, một đôi giầy nhung giá có là bao. Còn như mái tóc không rẽ giữa mà rẽ lệch sang một bên, hàm răng đen cạo trắng thì có tốn gì?
− Nhưng người ta sẽ gọi tôi là ‘me tây’ mất, còn gì!
Văn cười lăn lộn. Chàng nhỏ nhẹ khuyên:
− Người ta gọi gì thì kệ người ta! Họ có sống đời chị đâu? Họ có lo gì được cho chị đâu? Tôi chắc chỉ trong vòng mười năm thôi, cả nhà quê cũng sẽ theo lối ăn mặc của thành-thị.
− Thì cứ thủng thẳng chờ mười năm nữa cũng được.
− Không được! Chị cần phải thi-hành ngay cái kế của tôi kia! Về tiền bạc, chị cũng không cần phải lo, vì tiền nhuận bút của anh ấy trên 100 đồng một tháng thì làm gì không mua nổi mấy thứ đó cho chị dùng. Được, chị cứ để đó cho tôi. Thế nào tôi cũng giúp chị. Một người tốt như chị không khi nào lại bị chồng đối đãi một cách bạc bẽo thế này.
Ngừng một lúc, Văn lại tiếp:
− Rồi chị coi! Chị trang-điểm vào thử xem có ăn đứt hết các cô gái giang hồ không!
Câu nói của Văn như có một mãnh-lực, buộc Liên suy nghĩ nhiều về những chuyện đã qua. Điều đầu tiên nàng nhớ lại là niềm thất vọng của Minh lúc trông thấy nàng khi vừa mở mắt ra. Mặc dù ngày hôm đó Minh chưa nói hết lời, nhưng ai cũng thừa hiểu rằng ngụ ý chàng muốn nói là Liên già đi, xấu đi nhiều. Điều thứ hai nàng nhớ lại làm cho đôi má nàng đỏ ửng là lần đầu tiên gặp nàng, Văn nhìn nàng bằng cặp mắt nồng nàn, thèm muốn. Chính điều đó khiến cho nàng không ít thì nhiều phải đem lòng ngờ vực bạn chồng trong ít lâu. Rồi đột nhiên một ý tưởng ‘bất chính’ vụt qua trong trí nàng trong chớp nhoáng khiến nàng phải thẹn thùng và hối hận là tại sao lại nghĩ bậy đến thế. Nàng tự hỏi: “Giá như chồng ta là anh Văn?”.
Nhìn Liên, Văn vừa buồn cười, vừa thương cảm. Chàng biết rằng ý kiến của chàng đối với Liên là hoàn toàn mới lạ nhưng ít nhiều cũng đã đánh đúng vào tâm-lý của nàng. Chàng nói như để khuyến-khích thêm vợ bạn:
− Vậy cứ thế nhé?
− Cứ thế là thế nào?
− Mặc theo lối tân thời.
Liên không trả lời. Văn nói tiếp:
− Giá mà chị đến nhà cậu tôi chơi được một chuyến thì cô Kim sẽ giúp chị việc ấy... Mà thôi, để tôi bảo cô ấy lại đây cũng được... Vậy cứ thế mà làm nhé! Thôi chào chị, tôi về.
Không để cho Liên có đủ thì-giờ nghĩ ngợi, mà cũng chẳng cần biết Liên có đồng ý hay chưa, Văn dắt xe đạp ra cổng rồi phóng luôn một mạch...
Một tuần trôi qua. Chỉ trong thời-gian ngắn ngủi đó mà Liên đã ‘thoát xác’ và trở thành một ‘người mới’. Mái tóc nàng cao lên, cái khăn nhung vận lẳm vành đã thay thế chiếc khăn vuông trùm đầu như các cô hàng hoa. Khuôn mặt hình bầu dục của Liên xinh tươi hẳn lên. Nhất là nước da nàng nhờ thoa lên một lớp phấn mỏng đã trở nên trắng trẻo hơn, mát dịu hơn và làm nổi bật vẻ đẹp của đôi mắt và cặp môi hồng.
Kim cũng khuyên Liên nên sửa sang lại cách ăn mặc. Tuy mái tóc rẽ giữa cái áo dài cài khuy, đôi giày mũi nhọn cũng chưa lấy gì gọi được là y-phục tân thời. Nhưng Liên đã bước ra ngoài vòng của hạng người gồng gánh, đầu đội vai mang và đã nghiễm nhiên trở thành một ‘bà giáo’ trong tầng lớp trung-lưu; một bà giáo xinh xắn, trẻ tuổi.
Ít lâu nay, Liên ít đụng đến gánh hàng hoa. Nàng chỉ ở nhà bán cất cho các đồng-nghiệp mà thôi. Từ ngày Minh khỏi bệnh sinh ra ham mê chơi bời, Liên buồn bã nên cũng không thiết tha mấy đến chuyện làm ăn nữa. Chỉ có đôi khi muốn giết thì giờ trong khi chờ chồng, Liên mới cầm tới cái xẻng, cái cuốc, cái xới, ra vườn làm cho có lệ.
Sự buồn bực và chán nản thường dễ làm tiêu tan nghị-lực của con người. Vả lại, giờ đây Minh đã khỏi bệnh, lại kiếm được nhiều tiền thì việc bán hoa của nàng cũng không còn cần thiết như xưa nữa. Vui thì làm kiếm thêm chút đỉnh, không thì nằm nhà rung đùi cũng chẳng việc gì.
Nhưng từ ngày Minh khỏi bệnh, Liên cảm thấy trong đời sống của nànn nàng như thiếu hẳn một thứ gì. Đó là sự yêu thương. Đối với Liên, đó là nhu-cầu tối cao, cần thiết khôn thể thiếu trong cuộc sống. Nàng không ngại hy-sinh, vất vả chạy ngược chạy xuôi, ăn uống kham khổ... Nàng không màng đến tiền tài danh vọng. Nàng không lý-tưởng hóa cuộc sống, không ước mộng xa xôi. Tóm lại, nàng chỉ muốn cho chồng vui và mình vui. Cũng như nàng lúc nào cũng yêu thương chồng, và mong được chồng yêu thương. Nếu bảo rằng Liên có lý-tưởng gì cho cuộc sống thì có lẽ đó là lý-tưởng duy nhất của nàng...
Suốt ba ngày nay, Liên trang-điểm phấn sáp, ngồi mong chồng, đợi chồng. Nàng không ưa gì lối trang-phục theo kiểu tân thời chú nào. Nhưng sở dĩ nàng nghe lời Văn, cam tâm biến đổi thế này cũng vì nàng muốn cho Minh được vui và sẽ yêu thương nàng trở lại.
Chờ chồng mãi chẳng thấy, Liên bỏ ra ngoài đi dạo một vòng cho đỡ buồn. Nhưng gặp người quen chào hỏi, ai nấy đều tỏ vẻ lạnh nhạt với nàng, lại có người còn bĩu môi, ngắm ngía nàng một cách khinh bỉ. Liên tủi thân thầm nghĩ: “Thật chồng ta làm ta khổ sở quá!”.
Ngồi soi gương, Liên nghĩ tới những cử-chỉ và ngôn-ngữ của bọn chị em hàng hoa. Nàng nhớ mang máng có người nói câu gì có kèm một chữ ‘Văn’ trong đó làm cả bọn cười ầm lên ra chiều khôi hài, thích thú lắm. Liên tự hỏi trong đầu rằng: “Không biết họ nói gì mình vậy?”.
Hồi chuông của xe đạp làm cắt ngang mọi sự thắc mắc của Liên. Nàng đặt vội chiếc gương xuống bàn đứng dậy ra sân đón chào Văn. Liên hết sức ngạc-nhiên vì thấy mặt Văn hầm hầm vì tức giận, luôn mồm nguyền rủa:
− Thế này thì chó thật, tệ thật!
Từ ngày quen biết Văn, đây có lẽ là lần thứ nhất Liên thấy Văn giận dữ và có những hành-động bất thường như thế này. Nàng lo lắng hỏi:
− Có chuyện gì làm cho anh giận dữ thế? Ai làm gì cho anh bực thế hả?
Văn bình thường nói năng rất lịch-sự và nhỏ nhẹ, nhưng lúc này thì khác hẳn. Chàng lớn tiếng, gằn giọng từng chữ như muốn trút hết lòng giận dữ ra bên ngoài.
− Còn ai trồng khoai đất này nữa! Chị xem, sáng hôm nay tôi lên nhà báo gặp anh Minh dặn về nhà gấp. Thế mà quay đi quay lại anh ấy đã trốn đi lúc nào không hay!
Liên chỉ thở dài không đáp, cúi xuống nhìn xuống giày. Văn động lòng trắc ẩn, dịu giọng:
− Tôi nghĩ mà thương chị quá!
Câu nói thẳng thắn bao dung không chút tà ý của Văn vô tình làm cho Liên nhớ tới những lời nói giễu cợt của đám chị em hàng hoa. Đây có lẽ là lần đầu tiên Liên cảm thấy thẹn thùng, bẽn lẽn khi đứng trước mặt Văn. Rồi câu nàng tự hỏi hôm nào lại hiện ra vẩn vơ bay mãi trong trí nàng, dẩu muốn quên di cũng không được...
− “Giá anh Văn là chồng ta.”.
Hôm qua ngồi một mình, nàng đã nghĩ nhiều về câu ấy. Rồi tuy không tự trả lời được, nàng tưởng tượng ra thật lẹ trong đầu cả một đời sung sướng của một cạp vợ chồng biết yêu thương nhau. Nàng tin rằng Văn là một người chồng hoàn hảo và mừng thầm cho người con gái nào lấy được chàng sau này...
Với nàng, cảnh vợ chồng hòa thuận thương yêu nhau giờ đây chỉ là một dĩ-vãng... Đó là những ngày hạnh-phúc của nàng với Minh trong hai năm qua...
Thấy Liên im lặng, thỉnh thoảng lại liếc nhìn trộm mình, Văn ngượng nghịu thở dài nhắc lại câu nói của mình:
− Tôi nghĩ mà thương chị quá!
− Thì tôi... tôi cũng thương anh vất vả khó nhọc...
Câu nói xuất phát từ đôi môi xinh xắn của vợ bạn đối với Văn tự-nhiên chứa chan ý nghĩa huyền bí... âu yếm. Hình dung tươi tắn của Liên cùng với cảm giác mới mẻ của chàng khi gặp Liên buổi ban đầu vụt trở lại trong tiềm-thức của Văn... Chàng đăm đăm nhìn Liên. Cặp má nàng hây hây đỏ dần. Chung quanh không một ai... Sự yên lặng... Sự cám dỗ... Sự khao khát... Chỉ cần một bước, một lời nói, một cái tắc lưỡi. một cái giơ tay là hai người...
Một luồng gió lạnh thoảng qua. Văn giật mình như người vừa tỉnh giấc chiêm-bao. Chàng nhìn Liên gật đầu nói:
− Đó, chị thấy tôi nói có sai đâu! Chị ăn mặc thế này trông thật hay, không chê vào đâu được!
− Thật hả anh?
− Tôi dối chị mà làm gì.
Đôi bên lại im lặng. Họ không nói gì với nhau cả, mà như nói rất nhiều... Một hồi lâu, Văn mới lên tiếng:
− Thôi tôi về đây, xin chào chị nhé.
− Làm gì mà anh vội thế?
− Tôi phải đi đàng này một lát.
Dứt lời, Văn hấp tấp ra cổng phóng lên xe đạp thật mau. Đến đoạn rẽ ra con đường vào vườn Bách-Thảo, Văn đãng trí không kịp xuống xe để suýt nữa đâm xầm vào cái bực gạch...
Ngồi một mình trên chiếc ghế dài trong vườn Bách-Thảo, Văn mới nhớ lại cuộc hội kiến của mình với vợ bạn ban nãy. Chàng tự cảm thấy mình tầm thường và... khốn nạn làm sao! Chàng giật mình và tỉnh ngộ khi hiểu được là cái tầm thường và cái khốn nạn kia chỉ cần một phút hay một giây ngắn ngủi thôi, là có thể đánh ngã gục mình như chơi! Và giây phút đó chính là sự khác biệt giữa lòng cao-thượng và hạng vô lại!
Phải, con người vẫn chỉ là con người! Con người không phải là thần thánh, dù không phải là giống ‘bốn chân’! Đứng trước sắc đẹp dịu dàng âu yếm, bất luận là ai, dù có giáo-dục, căn-bản đạo-đức đến đâu cũng không sao tránh nổi sự rung động, sự thèm muốn khao khát... Nếu cái giây phút oan-nghiệt kia là sự thử thách, xem chúng ta ‘vĩ đại’ đến bậc nào, thì chính nó cũng lại là điều nhắc nhở cho chúng ta biết rằng: ‘chúng ta vẫn chỉ là con người mà thôi!’.
Bao nhiêu tư tưởng về luân-lý, triết-lý, đạo-đức, luôn cả thất tình lục dục cứ bám xiết lấy Văn, quay cuồng mãi trong tâm trí chàng. Rồi Văn bắt đầu lo sợ... Lo sợ cho bạn, cho vợ bạn, và cho cả chính mình, và lo cho tình bằng-hữu thiêng liêng kia.
Làm sao Văn quên được cái cảm-giác dịu hiền, nhẹ nhàng êm ái kia khi chàng đứng trước mặt Liên, một thiếu-phụ trẻ tuổi ngây thơ. Cảm-giác ấy như một làn gió xuân, vẫn man mác trong tâm-hồn chàng. Chàng bỗng cúi mặt xuống, lẩm bẩm tự mắng:
− “Khốn nạn! Không ngờ mình lại khốn nạn như vậy!”.
Rồi một cảnh tượng khác hiện ra trong trí chàng. Đó là cảnh đoàn tụ êm ấm của vợ chồng bạn. Cảnh này liệu có làm cho chàng sung sướng hơn cái cảm giác đứng trước mặt ‘cô gái’ xinh đẹp dịu dàng kia không?...
Văn đi thật mau về nhà, cắp sách vở đến trường. Chàng muốn chăm chú vào việc học để quên đi cái ‘hình ảnh kia’, để quên đi sự cám dỗ đang bành trướng càng lúc càng lớn mạnh trong chàng...
Còn Liên thì sau khi Văn đi khỏi nàng vào trong nhà gục đầu xuống bàn khóc nức nở. Bao nhiêu sự việc dồn dập xảy ra quá mau lẹ trong cùng một thời gian hết sức ngắn ngủi! Nàng chỉ biết nàng yêu chồng, luyến tiếc cái chuỗi ngày hạnh-phúc cách đây không lâu. Nàng nhớ lại từng diễn biến, từng mảnh đời... Có một điều nàng lo sợ là không hiể vì sao cứ mỗi lúc nghĩ đến lòng tệ bạc của chồng thì nàng lại nhớ tới lòng hào-hiệp của Văn. Câu: ‘Giá anh Văn là chồng ta’ cứ theo đuổi, ám ảnh nàng mãi làm cho lòng nàng trở nên cực kỳ mâu-thuẫn...
Giữa lúc ấy, Liên trông thấy bóng dáng Minh ngoài cổng. Chồng về! Dẫu sao thì Liên cũng còn cảm thấy mình may mắn hơn người thiếu-phụ trong điển-tích ‘Hòn Vọng Phu’ nhiều. Liên chạy vội vào trong góc để tìm khăn lau nước mắt. Nàng không muốn chồng biết rằng nàng vừa khóc. Hơn nữa, nàng cũng muốn chồng ngắm thấy sự thay đổi về dung-nhan cũng như cách trang-phục tân thời của nàng.
Liên đon đả chạy ra sân vui vẻ đón chồng coi như không hề có chuyện gì xảy ra. Minh mỉm cười gật đầu như chào lại Liên. Nhưng cái cười của Minh khiến cho Liên trở nên nguợng nghịu và lúng túng.
Đợi mãi vẫn không thấy Minh để ý hay bình phẩm gì đến y-phục của mình, Liên bèn nhìn chồng khen:
− Mình vận tây trông thật là bảnh.
Minh khẽ cau mày đáp:
− Ra đời vận tây gọn và tiện lắm.
Rồi hình như sợ vợ sinh sự với mình, Minh thở dài ngồi phệt xuống ra vẻ mệt nhọc lắm. Nhưng trái với sự suy đoán của Minh, Liên chỉ đến gần hỏi han một cách thật nhỏ nhẹ:
− Công việc bận lắm phải không mình?
− Phải, bận lắm!
Liên chán nản vì nhận xét thấy chồng như chẳng còn chút thiết tha gì đến mình nữa, đến nỗi một lời âu yếm vui vẻ chàng cũng chẳng buồn nói. Nhưng nàng vẫn nén lòng mà giữ bộ mặt tươi tỉnh:
− Mình ăn cháo đậu xanh không, để em đi nấu.
− Không.
Minh từ lúc bước chân về tới nhà vẫn đinh ninh rằng sẽ bị vợ lôi thôi to tiếng hay tệ lắm thì cũng khóc lóc kêu van. Nhưng thấy Liên vẫn giữ thái-độ bình thường, không một lời nặng nề trách móc hay mỉa mai thì chàng cảm thấy hơi chột dạ. Rồi từ chột dạ trở thành khó chịu, bực tức vô cớ. Chờ mãi vẫn không thấy vợ ‘tra-khảo’, Minh mới kể lể:
− Bấy lâu nay tôi phải ở luôn đằng tòa soạn.
Liên vẫn bình tĩnh nói:
− Thế à! Thôi mình chịu khó một tí.
− Đây, tiền lương họ trả cho đây.
Dứt lời, Minh mở ví lấy một sấp bạc đưa cho Liên. Liên đón lấy ngồi đếm từng tờ một.
− Được đến những 50 cơ à?
− Phải, 50 đấy. Đó là lương trả cho mười ngày bận rộn đến phải ở luôn trong tòa soạn mà làm việc. Thôi, mình ở nhà. Tôi lại phải trở về tòa báo làm việc đây!
Liên đứng ngây người ra không nói được gì. Hai giọt nước mắt từ từ lăn xuống cặp má nàng. Còn Minh thì ngập ngừng, không dám nhìn thẳng vào mặt vợ, chỉ lặng lẽ mà bước ra sân.
− Mình!
Nghe vợ gọi, Minh quay lại:
− Cái gì thế mình?
Liên cầm số tiền 50 đưa trả lại cho chồng:
− Mình cầm lấy mà tiêu đi. Em không cần vì đã có tiền bán hoa.
Minh từ tốn bảo vợ:
− Tôi không muốn mình lam lũ.
− Có gì mà lam lũ? Cái nghề của cha mẹ tôi thì tôi theo chứ sợ gì lam lũ!
Minh lạnh lùng:
− À, ra thế đấy!
Dứt lời, Minh tiến bước đi thẳng ra cổng. Liên bỗng nhớ đến lời dặn của Văn là hễ Minh có về thì cứ ngọt ngào hỏi chuyện chứ đừng bao giờ nhắc đến chuyện lêu lổng của Minh. Nhưng vì quá căm phẫn nên nàng buộc lòng phải nói lên một câu đầy mỉa mai. Nhưng khi thấy Minh bỏ đi thì Liên lại hối hận ngay. Nàng chạy theo, mong giữ được chồng lại. Đang ấp úng chưa biết nói gì thì Minh quay lại hỏi:
− Lại cái gì nữa đây?
Liên cố dịu giọng bảo chồng:
− Mình ạ! Hãy ở nhà ăn cơm rồi hẵng đi.
− Tôi phải đi ngay.
− Mình sợ muộn à? Hay chúng ta đi ăn cao lâu... Đi ăn cái tiệm hôm ăn mừng mình thi đỗ ấy!
Minh thở dài ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ chàng mới để ý tới sự thay đổi đột ngột nơi vợ mình: cách ăn mặc theo lối tân thời của nàng. Chàng liếc mắt nhìn Liên, mỉm cười cất tiếng khen:
− Mình ăn mặc thế này thật dễ coi hơn trước nhiều.
Liên đỏ mặt sung sướng vì được chồng khen. Không hiểu vì sao, Minh lại so sánh Liên với Nhung. Một người đẹp kín đáo và dịu dàng còn một người lộng lẫy và rực rỡ. Nhưng suốt một tháng sống với ái tình cuồng nhiệt, Minh không còn yêu chuộng cái ngây thơ như trước nữa. Vì thế, Minh chỉ nhìn vợ bằng một ánh mắt lãnh đạm khiến cho Liên lấy làm tủi thân.
− Sao tự nhiên mình lại thay đổi cách ăn mặc như thế?
Liên ngại ngùng, không biết phải nói sao.
− Vậy chắc mình muốn em ăn mặc như xưa à?
− Không, ăn mặc thế này hay hơn nhiều chứ!
− Bởi vì mình sắp trở thành ông giáo rồi cho nên em cũng phải ráng ăn mặc cho ra ‘bà giáo’ chứ!
Minh không đáp, cũng chẳng động lòng trước lời nói của vợ. Chàng lặng lẽ ngắm ra vườn. Liên cũng nhìn theo chỉ giàn hoa móng rồng nói:
− Này mình ạ. Hễ mỗi lần ngắm cái giàn hoa móng rồng thì em lại buồn vì nghĩ tới hồi mình bị bệnh.
Nhưng lúc này, Minh chẳng còn trông thấy ai ngoài Nhung đang cúi xuống luống cúc ngắt hoa. Như cố giữ chồng ở lại thêm được phút nào hay phút đó, Liên lại kiếm chuyện khác hỏi:
− Lâu nay mình có gặp anh Văn không?
− Không!
Liên biết ngay Minh nói dối vì vừa ban nãy Văn có nói với nàng là gặp Minh ở nhà báo. Nghe Liên nhắc đến tên Văn, Minh có vẻ sợ hãi. Nét lo lắng hiện ngay ra mặt chàng. Minh chỉ sợ Văn xuất hiện bất thình lình thì chàng biết ăn nói thế nào trước mặt bạn và vợ. Chàng vội vàng đi ngay, và đi rảo bước thật nhanh trong khi Liên ngây người đứng trông theo...
Liên chép miệng thở dài, vào vườn ngắt một bó hoa. Dạo trước, khi Minh còn đang đi học, bao giờ Liên cũng trang-hoàng trên bàn học của chàng một bình hoa tươi. Phải chăng vì thói quen mà Liên nhớ tới bó hoa? Hay là vì hôm qua Văn, người bạn tốt, hào hiệp của vợ chồng nàng ngỏ ý yêu hoa?...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét