Những vĩ nhân thay đổi thế giới
TỰA
Thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ khoa học trổ hoa, nhưng cũng là
thế kỷ suy đồi nhất của loài người. Sự độc ác, ích kỷ, tham lam của con người
lên đến tột độ. Thế kỷ hai mươi sản xuất ra nhiều tên đồ tể hơn là những vĩ
nhân. Xã hội loài người sẽ đi về đâu nếu không có một tư tưởng gia vĩ đại xuất
hiện làm ngọn đuốc soi đường?Những Vĩ Nhân Thay Đổi Thế Giới sẽ phô diễn một sự thực
khách quan những tư tưởng gia vĩ đại của nhân loại như Phật Thích Ca, Đức Khổng
Tử, Socrates, Aristotle, Mohammed, Martin Luther, Galilei, Newton, Rousseau,
Darwin, Karl Marx và Gandhi, cũng như sẽ phác hoạ hành trình tư tưởng con người
từ Đông sang Tây và từ Cổ đến Cận Đại. Và chúng ta nhận thức rằng, đuốc văn
minh luân chuyển từ Đông sang Tây và dường như sắp trở về Đông theo định luật
tuần hoàn của vũ trụ.Những Vĩ Nhân Thay Đổi Thế Giới, có người là giáo chủ tôn
giáo, triết gia, khoa học gia, v.v… nhưng tất cả đều có chung một tiêu chuẩn, định
nghĩa và giải thích vũ trụ, nhân sinh theo sự khám phá, sáng tạo của họ để hướng
dẫn, mở mắt cho loài người đến những chân trời mới mẻ huy hoàng hơn.Thám hiểm vào Những Vĩ Nhân Thay Đổi Thế Giới chúng ta thấy rằng,
có một tư tưởng vĩ đại là một chuyện khó, đúc kết tư tưởng trở thành hệ thống lại
càng khó khăn hơn, nhưng thực hiện tư tưởng là cả một vấn đề. Vĩ nhân là gì? Đó
là người có sức mạnh tinh thần vô địch và sự đam mê tràn đầy. Họ chỉ là những
con người như những con người tầm thường, nhưng khác hơn là họ vượt lên trên mọi
cái tầm thường của con người để trở nên bất diệt với thời gian.Triết gia người Đức, Nietzsche qua nhân vật Zarathoustra có
nói “Đừng bao giờ giấu mặt vào cát của sự vật trên trời, mà phải ngạo mạn ngẩng
đầu lên, một cái đầu trần gian sẽ sáng tạo các ý nghĩa trần gian”.Phải chăng, Những Vĩ Nhân Thay Đổi Thế Giới đáng là
một quyển sách gối đầu chờ các bạn Sinh Viên Học Sinh?.ĐỖ CHÂU HUYỀNHOÀNG TRÍ ĐỨC1. PHẬT THÍCH CA(560–480 TTL)Trên thế giới ngày nay, hai tôn giáo lớn nhất là, Thiên Chúa
giáo với gần 900 triệu con chiên và Phật giáo với hơn 500 triệu tín đồ.Chúng ta nhận thấy hai tôn giáo này khác biệt nhau trên đạo
lý và đối chiếu nhau giữa hai đức tin. Hai vị giáo chủ Jesus và Phật Thích Ca
cũng không giống nhau.Tuy nhiên, tình thương của Thiên Chúa giáo và nhân sinh quan
của Phật giáo đều đặt trên căn bản tình yêu thương vô bờ bến đối với chúng sinh
cũng như cứu rỗi nhân loại bằng chính sự chịu đựng và hi sinh cao cả của hai vị
giáo chủ.Trong thế giới loài người rộng lớn và sống quây quần nhau, có
nhiều điểm tương quan và tình thân hữu giữa con người với con người. Do đó,
nhìn vào kinh Phật, chúng ta biết về đạo lý Phật Thích Ca, và dường như chúng
ta cũng có thể nhận ra dễ dàng vài nét thấp thoáng của cá nhân Jesus. Phật là
người đầu tiên và Chúa là người tiếp tục làm nảy nở thêm sự toàn mỹ của nhân loại.Phật Thích Ca là con trai của tiểu vương dòng Sakya, thuộc
giai cấp quý tộc, xếp thứ hai trong bốn giai cấp ở xã hội Ấn Độ. Phật Thích Ca
có lẽ sinh vào khoảng 560 trước Thiên Chúa, và được nuôi nấng trong một gia
đình quyền quý, sống trong nhung lụa suốt cả thời thơ ấu cho đến lúc trưởng
thành.Chúng ta không thể nào nói vào thời kỳ nào mà ông bắt đầu lo
nghĩ, khi lần đầu tiên, ông nhận thấy sự rỗng tuếch của thú vui ăn chơi vật chất
và thắc mắc với một vấn đề về sự khổ của kiếp người. Nhưng có một điều chắc chắn
là khi đứa con trai ông chào đời, Phật lúc đó vừa 29 tuổi, quyết định thay đổi
tất cả lối sống của mình, và cuối cùng mang theo bên mình tư tưởng cách mạng
tôn giáo ở phương Đông.Ngày hôm đó, tự nhiên Phật khám phá ra là phải từ giả gia
đình êm ấm, vợ đẹp, con ngoan, dứt bỏ tất cả những công danh sự nghiệp, đền đài
cung diện, cũng như những tài sản của cuộc đời này, dồn hết tâm trí trong việc
đi tìm một chân lý đích thực của cuộc đời. Phật đã đạt được quyết định này với
thật nhiều ý chí vĩ đại, vì phải dứt bỏ trong giây phút những ràng buộc với gia
đình khỏng phải là chuyện dễ dàng.Thức dậy trong đêm khuya thanh vắng, tư tưởng đã chuẩn bị sẵn
sàng, nhưng Phật không thể nào cưỡng lại ý muốn nhìn vợ con lần cuối cùng. Khi
nhìn vợ con yên giấc giữa những bông hoa la liệt, quà tặng của những người đến
dự lễ sinh nhật, lòng Phật bừng lên ý muốn siết chặt đứa con trai thân yêu lần
cuối. Nhưng Phật dằn lòng được, vì sợ vợ thức dậy, và rồi chiến thắng được sự
ham muốn của mình, Phật rón rén bước ra, leo lên ngựa và băng mình trong đêm tối.Đi xa khỏi quê hương đất tổ, sau khi băng qua những cánh đồng
phì nhiêu ở thung lũng sông Ganges, Phật đến dãy đồi Vindhya, vùng ranh giới
cây cối um tùm, tách rời Ấn Độ khỏi vùng đất cao khô khan của Decan, miền đất
phía Nam. Phật sống tại đây sáu năm, tìm đạo lý bằng sự hành xác ghê gớm của
người tu khổ hạnh.Ông cạo râu, tóc, mặc quần áo màu vàng của các tăng và lang
thang đi khất thực cũng như chịu đựng sự hành xác bằng cách hạn chế ăn.Phật sống cô độc trong một khu rừng già với năm môn đồ. Phật
cố gắng tự ép mình trong giới luật và đày đoạ thể xác để tinh thần đạt đến một
sự thanh tịnh hoàn toàn.Phật trở nên nổi tiếng, được khắp nơi tán tụng như một con
người thánh thiện trong sạch, nhưng chân lý mà Phật muốn tìm kiếm vẫn còn xa lắc.
Cho đến một hôm, sau một cơn mê mang bất tỉnh vì đã hành xác quá độ, Phật tỉnh
dậy và một tia sáng lóe lên trong trí. Tất cả những sự nhịn ăn và kiềm hãm con
người ra khỏi những điều kiện tiên quyết của đời sống bình thường, như sự hành
xác không chăm sóc đến sức khoẻ sẽ không mang lại kết quả gì, mà chỉ làm gia
tăng sự suy nhược về tinh thần cũng như thể xác. Để có thể giữ gìn lý trí được
vững bền, sự suy tư được hoàn mỹ, quan sát được sự diễn biến của tư tưởng và để
có một cái nhìn sáng suốt, thấu đoạt được kết quả tốt đẹp, con người phải ăn thức
ăn tinh khiết và giữ một đời sống khỏe mạnh. Rùng mình trước sự khám phá, Phật
vội vàng chia sẻ sự xúc động đó với năm môn đồ. Nhưng khi nghe vị thầy tôn kính
của họ từ bỏ cuộc sống khổ hạnh và đòi ăn trở lại, họ vô cùng sửng sốt và khiếp
đảm trước đề nghị có vẽ nổi loạn ngoài sức tưởng tượng của họ, cho nên họ bỏ
rơi Phật.Những ngày kế tiếp thật đã gây nhiều hậu quả cho thế giới
phương Đông. Bị bỏ rơi trơ trọi, Phật lang thang khắp các khu rừng ở Gaya, ngày
nay gọi là Bihar. Khi đến bờ sông Neranjara, Phật mới an toạ dưới tán cây bồ đề
hay cây sung rừng. Một người đàn bà đến dâng cho Phật một cốc sữa, Phật nhận lấy
và uống để bồi bổ sức khỏe, tiếp tục kiên tâm theo đuổi khám phá chân lý.Và tại nơi đó, sau những giờ triền miên trong suy tư mãnh liệt
cũng như sự khổ não của tinh thần. Phật đã trải qua tất cả những xúc động của một
con người, từ sự tuyệt vọng đen tối nhất đến niềm hy vọng tuyệt hảo, cuối cùng
Phật đã tìm được sự bình thản của tâm hồn, và khám phá ra chân lý, ông trở
thành Phật Thích Ca, một vị Phật rực rỡ sáng chói.Lúc đầu, quá đỗi vui mừng với sự khám phá của mình, Phật bị
cám dỗ giữ niềm vui đó một mình và sống nốt quãng đời còn lại trong niềm hạnh
phúc cô đơn. Phật không muốn san sẻ với ai niềm hạnh phúc vĩ đại mà Phật đã tìm
ra được bằng một giá rất đắt. Nhưng ý muốn quá ích kỷ đó không thể tồn tại
trong quả tim của một người như Phật, đã đạt đến chân lý bằng sự thăng hoa của
con người, là phải vượt lên trên tất cả những ham muốn tầm thường. Vì thế chẳng
bao lâu, Phật Thích Ca lại lên đường đến Benares phổ biến cho tất cả mọi người
chân lý đã ngự trị Phật.Tại thành phố, Phật tìm được những môn đồ cũ. Họ mau mắn trở
lại làm đệ tử trung thành của Phật, vì Phật đã nói chuyện với họ, với tất cả phẩm
cách cao cả và lòng tự tin. Sự bình tĩnh điềm đạm, sáng suốt của Phật Thích Ca
đã trấn an họ, dẹp tan tất cả mọi nghi ngờ ngần ngại. Cả nhóm họp lại tự xây cất
chỗ ở trong công viên Deer, tạo thành một làng của những người hiền triết ở
Benares, và tại đó Phật Thích Ca đã giảng cho tất cả mọi người nghe chân lý mà
Phật khám phá được.Phật Thích Ca nói “có bốn điều chân lý cao xa mà ta phải thấu
đáo. Thứ nhất là chân lý của sự khổ. Sự khổ ở thế gian và kéo dài suốt cuộc đời.
Sinh, lão, bịnh, tử đều là khổ. Không được thương yêu cũng là sự khổ. Bị chia sớt
tình yêu cũng là sự khổ. Không đạt được ý muốn cũng là sự khổ. Nói tóm lại, những
điều căn bản của cá tính con người là sự khổ”.Chân lý đó đã được khẳng định trong giáo lý nhà Phật. Phật dạy
rằng, nằm sâu trong sự ham muốn của con người là được trường sinh bất tử kèm
theo bằng dục vọng và sự khao khát lúc nào cũng đòi hỏi để thỏa mãn, thèm khát
sống, thèm khát quyền lợi. Đây là chân lý thứ hai được khám phá ra là những
nguyên nhân của sự khổ.Chân lý thứ ba là dạy cách tiêu diệt nỗi đau khổ, dập tắt ngọn
lửa tham, sân, si, và xua đuổi không cho nó có nơi sinh tồn.Chân lý thứ tư là bát chánh đạo, giải thích phương thức giải
thoát con người bằng cái nhìn xác đáng, trong ý nghĩ, ngôn ngữ, hành động,
trong đời sống, trong sự nỗ lực làm việc, cẩn thận và chú tâm. Những điều đó
bao trùm ba con đường sinh hoạt chính yếu của con người là, thân xác, trí não
và ngôn ngữ.Ông tự xưng là Phật Thích Ca, vì đã nghiền ngẫm và thông suốt
được bốn điều chân lý cao quý ấy, đã đạt tới bực thánh, một bực chân tu toàn mỹ
nhất của nhân loại.Bây giờ, Phật đã lĩnh hội được cách giải thoát, được mệnh
danh là con đường trung dung giữa cực đoan, sự hưởng thụ vật chất quá đáng,
cũng như sự hành xác thái quá. Do đó, Phật Thích Ca đã đạt tới con đường đưa đến
cõi Niết Bàn, trên cả sự chết, nơi con người được cứu rỗi hoàn toàn, thoát ra
khỏi lòng ham muốn vị kỷ, và mỗi linh hồn đều hợp nhất quây quần trong hoà bình
thân ái của cõi vô vi.Chủ thuyết của Phật Thích Ca, trong lúc chiếm ưu thế tốt đẹp,
đã phải đương đầu chống lại với khuôn khổ đời sống cũng như ý nghĩ của Ấn Độ
đương thời, trước khi chúng ta có thể xác định tầm quan trọng của đạo Phật. Tôn
giáo ngự trị miền Bắc Ấn Độ vào thời Phật Thích Ca là Ấn Độ giáo, được người Bà
La Môn truyền bá đầu tiên hay những giáo sĩ. Đối với họ, đời sống căn bản là
nghi lễ, chỉ biết trung thành tuân theo lời phát nguyện, những luật lệ và quy
chế mới có thể bảo đảm được đạo đức và thể chất của con người. Đời sống được giảm
thiểu trong một phương thức máy móc, không thay đổi, không tiến bộ, giữ gìn đời
sống khắc khổ theo kinh Dharma. Xã hội bị chia ra làm bốn giai cấp, và sự phân
chia được ấn định từ thuở lọt lòng. Cho nên địa vị con người đóng khung bất di
bất dịch, từ khi mới sinh ra cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Sự cứng rắn phân
chia giai cấp trong xã hội Ấn Độ đã tạo nên, khiến cho giới quý tộc luôn luôn cố
gắng thống trị giai cấp bần cùng. Giai cấp hạ tiện này không có cơ hội để tự
bày tỏ tư tưởng. Bổn phận của họ là phải phục vụ và lệ thuộc hoàn toàn vào giai
cấp được đặc quyền, do đó chủ nghĩa định mạng đã được an bày. Chủ nghĩa này là
một thiệt thòi quá lớn, không mang lại cho đám đông dân chúng bất hạnh, nghèo
khổ, và ngăn cản không cho một tư tưởng tự do nào được dịp phát triển. Tín điều
chính của họ là lòng tin tưởng một cách mù quáng, và hoàn toàn nô lệ theo ý muốn
của các thần linh. Trong khi đó, tư tưởng tôn giáo bắt nhịp cầu thông cảm giữa
con người với con người, không phân biệt giai cấp, làm phát triển tình tương
giao của nhân loại lại không được biết đến.Một bức tranh u tối của đời sống thấp kém, tuyệt vọng bị bỏ
rơi của đại đa số quần chúng được phơi bày ra, khi Phật Thích Ca đi giảng đạo
lý cho dân chúng nghe. Phật Thích Ca đến với họ, không kêu gọi sự cảm động của
mọi người, nhưng Phật đến với họ bằng chính ngôn ngữ của họ, và những điều giảng
dạy của Phật đều đặt trên căn bản tình yêu thương, cũng như ôn hoà trong lời
nói, ý nghĩ hay trong hành động. Cá tính nhân từ vượt bực của Phật đã hấp dẫn tất
cả mọi người, già cũng như trẻ, giàu cũng như nghèo, có quyền thế cũng như kẻ hạ
lưu.Phật Thích Ca thừa nhận thuyết luân hồi với sự tái sinh không
ngừng nghỉ của kiếp người, nhưng Phật cũng đã tìm ra cách để thoát ra khỏi vòng
sinh tử ấy. Thấu suốt được bốn chân lý cao xa để đạt đến cõi Niết Bàn, con người
có thể tự giải thoát mình ra khỏi cá tính một con người, và không còn vướng
trong vòng sinh, lão, bệnh, tử. Những lời giảng dạy của đức Phật mang lại kết
quả khả quan đối với những đệ tử nhà Phật. Triết lý này chỉ có thể đạt được bằng
những tâm hồn đầy nghị lực và nhiệt tâm, và phải ép mình trong đạo lý cũng như
tự răn mình. Bát chánh đạo đặt ra một đạo pháp thật cao làm phương châm cho con
người đến cõi Niết Bàn.Phật Thích Ca bỏ đi tư tưởng phân chia giai cấp. Đối với Phật,
tất cả mọi người đều bình đẳng, và tất cả đều được đối đãi như anh em bạn bè.
Không sinh vật nào bị giết vì tất cả mọi đời sống đều linh thiêng, Phật cấm các
đệ tử không được nói dối, không được trộm cắp, thông dâm, không được chìm đắm
trong men rượu hay đòi hỏi những quyền lực vượt quá con người.Để truyền bá đạo lý và giúp ích cũng như cải thiện đa số quần
chúng có một đời sống khả dĩ hơn, Phật Thích Ca thiết lập quy chế cấp bực cho
các tu sĩ. Các luật lệ này rất nghiêm khắc, những người xuất gia đều bị bắt buộc
phải từ bỏ thế giới bên ngoài, mọi liên hệ với gia đình, sống một cuộc đời
trong sạch, tuyệt đối cự tuyệt với tất cả những đòi hỏi của chính mình. Các tu
sĩ phải mặc áo vàng, mang bình bát đi khất thực, rồi chia nhau đi khắp các ngả
đường để truyền bá đạo lý nhà Phật.Những tín đồ được thu nhận, bổn phận họ là phải tiếp tục nghe
lời giảng dạy của các tu sĩ và gìn giữ giới luật nhà Phật. Trong số tín đồ này
có nhiều Hoàng Tử cũng như con nhà quý tộc. Sau đó, Phật Thích Ca còn cho phép
phái nữ có thể theo tu học, thay vì trước kia xã hội Ấn Độ tin rằng, đàn ông là
sinh vật vượt trên đàn bà. Phật Thích Ca không đồng ý với quan niệm chung cho rằng,
tài năng người đàn bà chỉ có giới hạn. Hơn nữa, Phật Thích Ca còn làm cho phụ nữ
ý thức được uy quyền cũng như sức mạnh tiềm ẩn của họ.Đức Phật tự mình làm một tấm gương cho các môn đồ, bằng cách
tự trở thành một khất sĩ rày đây mai đó trong suốt khoảng đời còn lại. Rất ít
chi tiết được biết về bước đường lang thang phiêu bạt của Phật đến miền Bắc Ấn
Độ và trong các quận Oudh, Bihar, nhưng trong bốn mươi lăm năm trời, đức Phật
tiếp tục giảng đạo và truyền giáo.Suốt mùa mưa, Phật lui về một tỉnh hay làng nào đó, và trong
suốt thời kỳ gió mùa lạnh lẽo, Đức Phật lang thang khắp nơi khất thực và xin
trú mưa như một tu sĩ bần cùng nhất.Vua chúa tiếp đón Phật nồng hậu, người giàu có cũng niềm nở
và dành riêng các khu vườn cho Phật và các tín đồ của Phật, vì các khu vườn rộng
rãi, mới thích hợp cho đám đông dân chúng mộ đạo xin yết kiến Phật Thích Ca mỗi
ngày, và trong các khu vườn mát mẻ tịch mịch, Phật và các môn đồ có thể thiền tịnh.Nhưng không phải những hoa viên của các Hoàng Tử và dinh cơ đồ
sộ của người giàu có lúc nào cũng là nơi mà Đức Phật và các đệ tử của Phật chọn
lựa. Vì câu chuyện dưới đây sẽ tiết lộ rõ ràng sự thanh cao trong sạch vĩ đại của
bậc đại thánh, đại sư này.Một ngày kia, một người dân cư ngụ tại tỉnh Alavi trong khu rừng
Sinsapa, tình cờ gặp Đức Phật đang tĩnh toạ bên vệ đường dành cho súc vật đi.
Tiến gần đến Đức Phật với sự tôn kính, người kia hỏi “Thưa Thầy, kẻ phẩm cách
vượt bực như thầy có sống hạnh phúc không?”“Có chứ, hỡi chàng tuổi trẻ. Ta sống rất hạnh phúc. Ta là một
trong những người sống hạnh phúc ở thế gian này”.Người kia hỏi tiếp “Thưa thầy, cái lạnh lẽo của đêm đông,
sương lạnh lại sắp đến, mặt đất thì lòi lõm gồ ghề vì dấu chân súc vật dẫm lên,
lá dùng làm chiếu ngủ lại quá mỏng, áo vàng của tu sĩ lại quá mong manh, trong
khi gió đông rét buốt như cắt da nữa?”Với sự trầm tĩnh siêu phàm, Đức Phật Thích Ca trả lời “Hỡi
người trẻ tuổi, quả đúng như vậy, ta sống rất hạnh phúc. Ta là một trong những
người sống hạnh phúc ở thế gian này”.Suốt nhiều năm lang thang đây đó, thu được biết bao kinh nghiệm
khác nhau, Đức Phật đã đạt được sự thanh khiết vĩ đại của tâm hồn và lòng tin
to lớn vào chủ đích cứu rỗi chúng sinh của Phật.Đối với các giáo sĩ Bà La Môn và các giáo phái khác, Đức Phật
hay tổ chức các cuộc tranh luận và không bao giờ sợ bị đánh bại trong khi tranh
luận, Đức Phật tuyên bố “Trong cuộc tranh luận với bất cứ ai, tôi có thể bị dồn
vào những vấn đề rắc rối khó khăn, nhưng điều đó không thể có được, và chính vì
tôi biết rằng không bao giờ việc đó có thể xảy ra nên tôi giữ im lặng và tin tưởng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét