Trời cao đất dày
Bông hồng cho...
Hai người lặng lẽ vượt qua dòng suối cạn, người cao qua trước
đứng lại ngó người bạn còn ở dưới dòng nước trong vắt vẻ tần ngần, dòng nước
trong nhìn rõ những viên sỏi nằm đan dưới đáy, khoảng trời nhỏ chạy theo với
con suối, hai bờ rừng già cao những thân cây cao ngất khiến cho bầu trời trước
mắt nhìn ngước lên như một cái vòm hút sâu, mặt trời đã xế nhưng trời xanh
trong không một gợn mây, những ngọn cây đứng im trên cao đó, phía đầu nguồn
sương rừng đã xuống một màu lam mơ hồ quyện lấy những lùm cây xa, lắng trong
không gian chừng như tiếng chim rừng về chiều từ xa đang vọng lại. Người cao
nói với xuống:
- Lẹ lên thôi mình phải tới chỗ an toàn trước khi trời tối
không thì nguy đó nghe.
Người dưới dòng vẫn tần ngần ngắm những viên cuội dưới đáy suối,
ánh nước trong khiến cho những viên sỏi có những màu sắc kỳ lạ, người đó bỏ tay
xuống mặt nước khua động, vẻ thảnh thơi như không quan tâm tới người chờ đợi.
Lúc sau khi người trên bờ đã ngồi nghỉ nơi phiến đá, người dưới nước mới lên,
nước còn đọng trên mặt, trên tóc, trên chân, người đó nói:
- Tôi sợ nước độc, trời chiều hơi lạnh nếu không tắm một cái
thì mới thú…ai muốn tắm mát thì lên ngọn sông Đào, muốn ăn sim chín thì vào rừng
xanh… Rừng xanh thấy rồi mà sim chín thì không…
- Lúc nào cũng như du sơn du thủy không bằng, định ở đây chờ
cọp nó đến ăn thịt hay sao đây.
- Yên chí đi, mệnh bọn mình to lắm, người còn chưa ăn được nữa
cọp.
Người thấp vừa nói vừa cười vẻ sảng khoái, tiếng cười vang động
cả khu rừng yên tĩnh trong buổi chiều sương lam đang xuống. Người cao đứng lên
khỏi phiến đá, mùi hoa rừng hoang dại thoang thoảng trong không khí, men theo
những khe đá nhỏ, người cao lần bước không nói một tiếng, người thấp theo sau
nhưng chốc chốc ngừng lại hái những bông hoa mọc bên khe đá với vẻ trìu mến.
Lúc sau người thấp mới bắt kịp người cao :
- Chừng bao lâu nữa mới tới được chỗ ngừng chân ? Tôi nghe
đói nữa , không có gì ăn thì nguy hiểm lắm.
- Cứ thơ thẩn chút nữa đi,khỏi cần ăn để mình làm mồi cho cọp
có hơn không ?
- Sao anh biết trong khu này có cọp, khu rừng dữ gì mà dễ
thương thế, cây cao bóng cả, suối trong mát, chim kêu vượn hót, hoa cỏ kỳ diệu,
ước cho mình được sống mãi trong khung cảnh như thế này… Tiếc là xưa kia tôi
không được biết rằng trên nước non mình có những nơi kỳ thú như thế… Mình sẽ tới
đâu ?
- Tới nhà một người, tôi tin rằng tới đó anh sẽ không còn muốn
đi đâu hết, xưa kia tôi đã sống ở đây…
Hai người lặng lẽ bước, đã qua hết khoảng trời trống ven suối,
thoát khỏi những tảng đá chồng chất lên nhau, nhưng bây giờ hai người đã phải
bước vào bóng tối nhòa nhập trong khu rừng cao. Những thân cây lớn thẳng tắp
nhìn lên mỏi cổ, tất cả như có một bàn tay sắp xếp thứ tự một cách mỹ thuật,
màu mộc cũ của những thân cây chen vào nhau, không có một cành nào ngang trên lối
đi. Hai người đều cảm thấy mình nhò bé trong rừng cây. Tiếng những bước chân lạo
xạo trên lá khô tạo thành môt âm thanh vui tai. Người thấp nói:
- Tôi cảm thấy lạnh… có lẽ trong khu rừng này không hề có bước
chân người đặt đến ?
- Sao lại không, anh quên rồi sao, xưa kia đã có lúc tôi sống
ở đây, anh có muốn tôi chỉ từng cây cho anh thấy không, tôi có thể đảm bảo
trong khu rừng này, từ giữa ngọn suối nơi mình đã qua cho tới đây bao nhiêu cây
cổ thụ. Hơn thế nữa, có người còn biết rõ từng thân cây lớn bao nhiêu, cây nào
đáng được dùng vào việc gì…
- Thôi chứ...anh mà còn đùa tôi nữa ?
- Anh không tin tôi sao ? Tôi không biết mà sao dám dẫn anh
đi, anh nhớ lại xem, từ trên đó ngay từ khi mình bắt đầu tôi đã nói với anh biết
rồi, đi trong bao lâu thì hết khu đồi chè, hết bao lâu ngừng qua quốc lộ, bao
lâu tới dòng suối, từ dòng suối phải đi…
- Thôi anh khỏi nói, tôi nhớ ra rồi, nhưng tôi vẫn thắc mắc
không biết anh đang tới đâu, mình có dẫn nhau vào trong một ngôi nhà đá nào
không đó ?
- Không có ngôi nhà đá nào hết, có một ngôi nhà tranh… Thôi đừng
hỏi nữa, phải tin tôi chứ, mình sẽ tới…
Khu rừng cao ấy không có dày, chỉ trong một khoảng ngắn hai
người đã ra khỏi khu rừng, nhìn lại, những thân cao dựng đứng như một tường
thành được xây bằng đá trắng đã có rêu phong của thời gian. Trên cùng những ngọn
cây màu lá xanh dặm mỏng. Chưa bao giờ mình được thấy một khu rừng như thế, người
thấp vừa nghĩ ngợi vừa bước đi, đôi mắt vẫn không ngừng quan sát cảnh vật biến
đổi không ngừng trên đường, mũi cũng như cố gắng tận dụng mọi khả năng thở hít
cái không khí kỳ bí ngây ngất cuả thiên nhiên...Nếu được tới, được sống trong
khung cảnh như thế này, không biết tới bất cứ điều gì, không gặp, không nói với
ai… Chợt người thấp ngừng lại ngạc nhiên, cả hai người đã tới một bên sườn đồi
dốc, phía dưới một thung lũng đầy sương, những vạt sương trắng đục như mây di dộng
với những cơn gió một vẻ hư ảo, dưới đó là một thung lũng hay một vực thẳm. Cảnh
vật nhờ nhờ trong ánh chiều yếu ớt càng khiến cho khung cảnh có một vẻ vừa thơ
mộng vừa rê gợn. Người cao nói :
- Anh nghĩ dưới làn sương đục kia là gì, suối, vực hay thung
lũng…
- Tôi chịu, ở đây làm gì có người, anh có nhầm lẫn không đó,
tối rồi mà mình còn ở một nơi như thế này, tôi bắt đầu thấy lo…
- Cùng lắm thì ngủ ngoài trời này, người còn không sợ lại sợ
thú dữ sao ?
- Nhưng nếu trời mưa, đêm chắc lạnh lắm ?
- Mưa với lạnh thì ăn thua gì,anh không nhớ những ngày ở trên
đó sao, cái hồi bọn mình trong cái hang đá đó, thế mà cũng chẳng chết, chẳng lẽ
bây giờ lại chết ở đây, cứ yên đi, tối nay mình sẽ có rượu ngon uống, có thể có
thịt rừng nữa…
- Thế còn cái món mỹ nhân… bao lâu rồi không còn được thấy
bóng một giai nhân… bàn tay mềm mại, hương tóc hăng nồng…
- Nghĩ tới những điều đó chắc anh hối hận theo tôi.
- Cũng có lúc tiếc, nhưng điều đó không bao nhiêu, tôi hỏi
anh, trong những lúc như lúc này mà anh không nghĩ tới một điều nào khác sao,
không mơ mộng sao, tôi cũng có lúc nhớ nhà, tiếc cảnh cũ nhưng đâu phải vì thế
mà tôi không làm những chuyện khác, con người ta đâu chỉ có một đời sống, những
lúc hăng say trong công việc tôi chỉ thấy công việc, nhưng những lúc mình phải
trốn chui trốn nhủi, những lúc thất thế, hay những lúc như lúc này thì tôi nghĩ
đến những điều khác, chắc anh nghĩ tôi xuống tinh thần phải khộng. Chừng như
anh lúc nào cũng nghĩ tới thành công, tới lúc phất cao ngọn cờ trở về, nhưng
anh cũng biết đó, trong mưu sự đâu phải ai cũng thành công, bao nhiêu người bỏ
mình trong tù ngục, gục ngã trên biên giới, và những trở về lầm lũi…
Giọng người thấp bùi ngùi, người cao không nói đi men xuống
sườn đồi :
- Thôi anh đừng nói nữa, chúng ta phải qua bên kia thung
lũng.
Hai người đi lần xuống, mây tạt ngang qua mặt, gió lạnh buốt,
họ tưởng như lạc vào cõi u minh nào. Nhưng chỉ xuống thấp một khoảng thì họ đã ở
dưới những lớp mây trắng, thung lũng quá sâu, dưới đó những ngọn đồi thấp nằm
bên nhau trông rất ngoạn mục. Người thấp ngạc nhiên không nghĩ được rằng mình
đã từ trên rất cao đi xuống. Ánh sáng trong thung lũng có một vẻ đặc biệt, màu
trắng nhợt nhạt, như thứ ánh sáng của đêm trăng suông, mùi hoa dại đầy ắp trong
không khí lạnh, trên cỏ long lanh những hạt sương. Những ngọn đồi cỏ cao, hoa cỏ
màu gụ rung rinh theo chiều gió như mặt nước sóng sánh dưới ánh trăng. Chợt người
thấp kêu lên:
- Có người ở đây…
Người cao không nói, bước đi, họ vượt qua một khe nước nhỏ,
qua một ngọn đồi cỏ chỉ cao lưng ống chân, những hoa cỏ may vượt cao , bây giờ
nhìn lên cao bầu trời như bị úp bởi một màng lưới trắng muốt, hai người qua ngọn
đồi, vượt thêm một khe nước nhỏ thì tới ngọn đồi có một căn nhà nằm trên đỉnh
giữa mấy ngọn thông già, trông từ xa như một bức tranh Tàu cổ, nhưng lại gần
thì càng ngạc nhiên hơn, cả ngọn đồi nhỏ không có một cây cỏ nào, toàn thể là một
vườn hoa hồng bao la, một vườn hồng chỉ còn để lại một lối đi lớn vào giữa cửa
nhà và những đường nhỏ chung quanh, trên những lối đi ấy , những khoảng trống
có những chiếc bàn và ghế bằng những phiến đá lớn. Hương hồng tỏa ngát trong
không khí, thật sự người ta không thể tưởng tượng được rằng cỏ khung cảnh như vậy
ở giữa chốn rừng sâu.Hai người bước lên lối đi, một lớp cỏ rêu xanh mướt bằng
phẳng, bao nhiêu công phu để làm được một lối đi như thế, hai bên những cây hồng
đầy hoa đỏ thắm, những bông hoa lớn nhỏ tươi mướt như nhung, trông những bông hồng
đó ai cũng muốn hái nhưng tiếc rẻ nghĩ tới khi bông hoa tàn rụng… Đi hết con đường
hai người ngừng lại trước sân nhà hình vuông, sân được dát những miếng đa xanh
có gân trắng, trên những khe cỏ rêu xanh mọc, dưới gốc hai cây thông già uốn
khúc có bể nước xây bằng đá, bên đó có những phiến đá mặt phẳng để không đều
nhưng đủ là một chỗ ngồi trò chuyện cho một ít người, trước khung cảnh người ta
nghĩ tới một nơi thờ tự trang nghiêm hơn la nơi có người ở. Ngôi nhà nhỏ được
làm trên một nền cao có hiên , vách nhà bằng gỗ trông thô sơ đơn giản, những
chiếc cột được làm nguyên bằng thân cây không hề bào chỉ bóc bỏ lần vỏ ngoài,
hiên chạy chung quanh nhà, mái nhà lợp bằng lá gồi đan cẩn thận. Phía đầu nhà
bên trái có một cái hiên làm dài ra ngoài cùng với nền nhà, nơi giữa hiên có một
bàn cờ tướng, số quân cờ không đủ gây cho người nhìn thấy rõ như ván cờ đang
đánh dở. Cả hai người không nói một tiếng cùng nhau quan sát, chỉ người thấp là
nhiều lúc kêu lên ngạc nhiên. Người cao bước lên hiên nhà đẩy cửa bước vào.
Bóng tối dầy đặc ở bên trong, chừng như không còn ai ở lại trong nhà, người cao
ngừng lại nơi bậc cửa :
- Cố nhân, cố nhân, có đàn em đến tá túc…
Tiếng gọi vang lên rất lâu không nghe thấy tiếng người trả lời.
Hai người bước vào trong nhà chỉ có một mùi ẩm mục, trong bóng tối có lúc những
mạng nhện quấn vào mặt như một bàn tay vô hình nào. Người cao nói :
- Anh ấy đã không còn ở đây nữa.
- Ai vậy, sao anh biết ở đây có người ?
- Người anh cả của tôi, tôi đã có dịp ghé đây hồi trước, cũng
năm năm trời rồi…
Hai người đứng lại, người thấp thấy rợn người vì sự im lặng
và ẩm mốc bao quanh, căn nhà như một ngôi nhà mồ không có một chút sinh khí.
- Mình phải bật lửa lên.
Vừa nói người thấp vừa bật hộp diêm giơ lên cao. Căn nhà vẫn
còn nguyên như ngày nào. Một cơn gió lạnh thổi thốc từ nhà sau lên làm ngọn lửa
phụt tắt.
- Thôi đừng bật lửa, tôi đã nhìn thấy ngọn bạch lạp nơi trường
kỷ rồi.
Người cao nhắm vào hướng ngọn bạch lạp đi tới, rồi trở lại,
que diêm được bật và châm vào, ánh sáng vàng soi căn nhà. Những vách ván màu gụ,
chiếc bàn nhỏ bên tay trái với hai chiếc tràng kỷ đơn giản nhưng bằng một thứ gỗ
quý đen bóng, một cửa thông vào phía trong, trên vách bên phải treo một cây
cung có ở bên một cụm lan lớn cành lá và hoa đã khô. Người cao đứng lặng, ngó
ngàng chung quanh, vẫn còn đó những bàn ghế, đồ đạc… nhưng đã không còn người
xưa. Anh ấy đã đi đâu ? Con đường đưa lên biên giới với những mưu đồ cháy đỏ thời
trẻ ? Giấc mộng chập chờn say đắm của cuộc tình ngày trưởng thành thơ mộng ?
Con đường mòn nhỏ trong rừng thẳm với những bông la rừng diễm lệ, hay con hổ bạch
lùng kiếm ngày nào trở lại với tiếng hú rung chuyển rừng xanh đã kết cục một cuộc
sống những say đắm chết ngất như đỉnh trời cao rực rỡ một tuyệt đối…Khuôn mặt
vuông vức, chiếc cằm những chân râu cứng, đôi mắt lớn màu hạt dẻ tinh quái, mái
tóc hoa râm dấu tích những ngày tháng lận đận, tiếng nói sang sảng…Tất cả đã vắng,
đã khuất… còn Đồi Hồng đỏ thắm, suối Hoàng Mai trong vắt, hiên Ngạo Thiên đầy ắp
gió trăng… Trông bạn sững người khiến người thấp cũng không dám cất tiếng, ngọn
bạch lạp cháy bập bùng theo cơn gió lộng… Hai người bước vào nhà trong, ngọn bạch
lạp trên tay đưa về phía trước, gian phòng lạnh trống, chiếc giường làm bằng gỗ
quý rộng mênh mông nằm ép vào một bên ván, án thư không còn một cuốn sách chỉ
có vô số những hòn đá đủ màu, đủ kiểu và những khóm lan khô, cây trầm dựng nơi
góc vẫn còn nguyên vẹn. Người cao bước tới bên giá súng săn đã gỉ sét, người thấp
cầm lên tay ngắm nghía rồi bỏ lại chỗ cũ. Người cao bước tới tủ áo, mở cánh cửa,
tiếng kêu nghe khô khan. Một bộ quần áo ngủ còn treo trên giá nguyên vẹn. Mùi ẩm
mốc đầy trong gian nhà, người cao động vào bộ quần áo, với ý định gỡ ra thì vải
mục rớt xuống tan ra như một đống giẻ vụn, người thấp kêu lên, người cao sững sờ,
hai người tưởng như mình đang sống trong một giấc mơ kinh dị, hay đang ở trong
một ngôi nhà ma quái… Người cao bước tới mở hai cái chum lớn thi thấy lương khô
vẫn còn đầy…
- Anh ấy đi đâu rồi, đằng nào thì mình cũng phải ở lại đây
đêm nay, mình phải kiếm cái ăn đã, tối đến trời lạnh lắm, phải nhóm lửa lên…
Người thấp nghe theo, người cao bước tới góc nhà chất củi vào
nơi hỏa lò rồi mồi lửa, gỗ thông bắt cháy nhanh chóng, trong chốc lát căn phòng
sáng rực , hơi ấm tỏa ra đánh tan khí lạnh.Người cao kéo hai chiếc ghế dựa thấp
lại gần bên hỏa lò, trên khúc gỗ lớn vẫn còn lại chiếc bình hoa bằng sành màu gụ,
không có một bông hoa, người cao đứng lên trở ra vườn hái một bông hồng vào cắm
lên đó. Bông hồng dành cho công chúa. Người cao nhớ tới câu người xưa vẫn nói
vào mỗi buổi sớm mai khi chiếc bình được thay nước và cắm vào một bông hoa mới,
ngày nào cũng chỉ có một bông hồng độc nhất trong gian nhà. Bông hồng dành cho
công chúa. Nhớ lại điều đó khiến người cao mỉm cười. Những miếng khoai ngô được
sóc vào những chiếc que hơ lên than hồng, mùi thơm dễ chịu. Người thấp nói :
- Phải chi bây giờ có một bình rượu thì hay biết mấy, cái
chum thịt rừng khô này thật là hấp dẫn.
- Ý kiến thật hay, hy vọng rằng còn lại đâu đó một bình rượu
cúc của chủ nhân.
Vừa nói người cao vừa đứng lên tiến tới vách ván ngăn nhà
ngoài với nhà trong, nơi đó có những thân cây vừa phải ghép liền với nhau, mỗi
thân cây đều có khoét những khoảng trống, trong đó để những bình rượu bằng
sành, mở hết bình này đến bình khác đều thấy nhẵn không còn mùi rượu nữa. Người
cao nghĩ thầm chắc những bình đã được uống cạn trước khi lên đường. Sau rồi người
cao không mở bình nữa, chỉ cầm lên lắc nhẹ rồi bỏ xuống. Khi nhấc tới bình ở
trên cao nơi khoảng giữa thì người đó kêu lên vẻ hoan hỉ :
- Có vậy chứ, trong gian nhà này có bao giờ hết rượu đâu. Cón
một bình hoàng cúc đây.
Mang lại bên đống lửa, người cao mở bình rượu, mùi thơm
choáng ngợp cả gian nhà.
- Đúng là hoàng cúc, đây là thứ mà chủ nhân thường dùng.
Cầm bát sành phủi qua, người cao rót đưa cho người thấp :
- Chưa uống mà đã muốn say, anh có thấy vậy không ?
Người thấp đưa bát rượu lên môi, xuýt xoa rồi đưa lại cho người
bạn, đầu gật gật vẻ hài lòng :
- Quả là mỹ tửu… tôi có cảm tưởng rằng chính anh là chủ nhân
ngôi nhà này. Kiếm ở đâu ra mà có thứ rượu lạ vậy…
- Chưa phải là một đâu, ở đây còn nhiều thứ nữa, nhưng chừng
đều đã cạn, chủ nhân lúc trước nói với tôi có trên một trăm thứ rượu khác nhau,
nhưng đâu phải rượu nào ai uống cũng được, phải tùy tuổi tác, tùy người nữa, bọn
mình thì chỉ nên uống tới hoàng cúc , hồng ngọc, lệ lan là cùng, còn những thứ
bạch thảo, quỳnh vân thì bọn mình chưa đáng để uống…chủ nhân nói với tôi muốn
chuyện uống rượu phải được nâng lên như một thứ tửu đạo, ngày trước tôi được uống
một ly nhỏ bạch thảo mà cơn say kéo dài trong bảy ngày, một cơn say thần tiên
siêu thoát, rượu được cất bằng một thứ cỏ trắng lấy trên một ngọn núi cao phía
trong rừng sâu, chủ nhân cũng cho tôi một nắm cỏ này, mùi thơm, cọng lớn hơn
que tăm có những đốt, thân và lá trắng như ngó, bỏ vào miệng nhai có chút chất
ngọt mát, những cỏ ấy mọc dưới những khe đá, phải mất nhiều công phu mới ủ và cất
được thành rượu, điều này tôi không biết gì hết…Trong những thứ rượu dễ cất nhất
là hoàng cúc, nhưng chủ nhân cũng khó khăn trong việc chọn lựa hoa trong khi ủ
men, bỏ ngọn đồi này, qua một khe nước, qua một ngọn đồi nữa chúng ta sẽ tới một
khu đất khô cằn, khí hậu nóng hẳn, ở đó là một cánh đồng cúc vàng rộng mênh
mông, khi muốn cất rượu hoàng cúc chủ nhân chuẩn bị khi mùa nắng bắt đầu, vào
giữa mùa khi đất đã khô, vào buổi sáng tinh mơ chủ nhân tới đó chọn những bông
hoa cúc mới hé nhụy trong đêm mà hái, công việc hái cúc phải hoàn tất trước khi
có ánh nắng mặt trời, như thế hương cúc còn nguyên, ong và bướm chưa hề hút nhụy…
Anh thấy đó, cái gì mà không là công phu,thực sự tôi chưa đến tuổi, không đáng
mặt để nói về rượu, cái gì cũng có cái nghệ thuật, cái đạo của nó… Tiếc thay,
anh ấy nếu còn ở đây thì vui biết bao, cũng đáng tiếc cho riêng anh nữa.
Người thấp đưa một miếng cá khô nướng cho bạn, anh ta lắc đầu
:
- Hoàng cúc là phải uống suông, không thì nhấm chút trái cây,
hay mấy cành hoa hồng là phải phép nhất, rượu này không phải để uống với cá thịt,
có vậy mới giữ được cái hương thơm tinh khiết của nó…
- Tôi còn trần tục lắm, không thể theo anh, tôi vẫn nóng lòng
muốn biết về chủ nhân Đồi Hồng và căn nhà này ?
- Tôi biết anh thắc mắc. Thực ra thì cũng không có gì. Tôi
xin gọi người đó là anh cả. Anh ấy hơn tôi trên ba chục tuổi, như vậy tức là
mình có thể coi như một người già, nhưng thật ra thì anh ấy còn trẻ, còn hăng
hái say mê hơn chúng mình nhiều, sau những mưu toan ngày đó anh ấy trốn vào
trong này cùng với một số đồng chí, nhưng chỉ được một thời gian mọi người đều
bỏ đi vì không đồng chính kiến, anh ấy thì nói phải chờ đợi, phải tu luyện đã,
mọi người thì nóng ruột, anh ấy cho thời cơ chưa đến nên nhất định không chịu bỏ
khu rừng, trong số những người bỏ đi đó có ông thân sinh ra tôi, khi ấy ai cũng
cho anh ấy là một tên gàn dở… Nhưng cuối cùng lại những người bỏ anh ấy mà đi đều
chết chẳng còn một ai trở về, tất cả đều thất bại, mỗi lần được tin một người bạn
chết anh ấy lại nấu một vò rượu rồi hạ thổ ở ven Đồi Hồng, ông thân tôi là người
còn lại cuối cùng sau những thất bại, cha tôi quyết định trở vào trong này và
mang theo tôi, chính vì đó mà tôi được biết nơi này, nhưng sau đó cha tôi thấy
sức mình đã yếu, nghĩ tới người vợ hiền ở nhà, chết trong núi không đáng nên đã
trở về quê, một năm sau , ông thân tôi qua đời. Thu xếp công việc tôi trở lại
trong này với người bạn của cha tôi theo như lời giối giăng… Vào tới nơi ông
không cho tôi gọi là bác hay cha, ông muốn tôi là em, ông nói ông còn muốn trẻ
và muốn tôi coi ông như một người anh cả : bởi vì chúng ta phải làm việc với
nhau. Không được bao lâu anh ấy dường như quên đi những mộng tưởng ngày trẻ,
anh ấy mải vui với Đồi Hồng, với những hoa cỏ kỳ lạ, mải vui với thiên nhiên,
thú rừng khiến ông không còn nghĩ tới chuyện dời khỏi rừng sâu…Tôi chờ đợi quá
lâu, không chịu đựng được nữa nên xin pháp ra đi. Tôi còn nhớ như hôm qua đây
vào đêm cuối cùng tôi cũng ngồi với anh ấy như thế này và những vò rượu cạn.
Anh ấy đã khóc nhưng không nói gì với tôi hết… Có điều tôi hiểu phần nào những
u uẩn trong lòng anh… Những khẩu súng được lau mỗi ngày, bông hồng đó cắm trong
chiếc bình mỗi sớm mai, đôi mắt sáng lên khi nghe rừng xanh chuyển động…Tôi
cũng còn nhớ buổi chiều mưa nghe tiếng nước đổ từ trên núi xuống, chúng tôi
cùng chạy ra nhìn khối nước bứt khỏi núi tràn xuống, xối chảy trên dòng suối
soi băng đi một bên Đồi Hồng mang theo những vò rượu đã hạ thổ đánh dấu cái chết
của những người bạn… Hôm đó chúng tôi tưởng cũng bị nước cuốn trôi… Một mảng
núi lở khiến nước tràn xuống tạo thành dòng suối mới… Trong cảnh ấy anh ấy cũng
đã khóc, mọi điều đều tan, tan không để lại chút gì khi trời muốn như vậy… Chừng
như đến một lúc nào người ta cảm thông được với tuyệt đối… Tôi nghĩ có lẽ vì vậy
anh ấy đã từ chối mọi điều sau chót… mỗi lúc anh ấy một yêu hoa hồng hơn, ngọn
đồi vì thế được chăm sóc một cách đặc biệt. Khi tôi theo cha tôi vào đây thì đồi
vẫn chỉ có một ít khóm, nhưng đến khi trở lại thì đã nhiều, sau đó trong vòng mấy
năm liền anh ấy dành hết cả thì giờ cho việc đốn những cây rừng, chiết trồng những
cây hồng mới, và trước khi tôi đi một năm thì cả ngọn đồi chỉ còn lại hoa hồng
và anh ấy đặt tên là Đồi Hồng… Sau đó anh ấy ham mê theo đuổi thú rừng, trong
những cuộc săn đuổi ấy tạo thêm thú tìm lan và những loài hoa lạ, nhưng chỉ
thêm vào mà không lấy đó làm chính, hoa hồng vẫn là giống hoa anh ấy yêu quý nhất,
vì hoa hồng đối với anh ấy là một kỷ niệm không thể quên, một nàng công chúa…
Người cao nói thao thao không ngừng, giọng kể đầy say mê quyến
rũ, nhưng mỗi lúc chừng như một làm cho người bạn bị lôi cuốn vào câu chuyện
nhiều hơn, người thấp hỏi :
- Chắc chủ nhân yêu một giai nhân tên Hồng… Tôi nghĩ…
Chợt tiếng cọp hú vang lên, hai người chợt ngừng lại,người thấp
tái mặt đi, người cao nhổm người lên, tiếng hú nghe rợn như tiếng ma quỷ và mỗi
lúc một như gần lại. Hai người lặng im ngó nhau, mùi hôi thối theo gió đưa vào
trong căn nhà, người cao nói nhỏ :
- Có lẽ con hổ bạch đã trở lại thung lũng…
Giọng nói người cao hơi run, một lúc lâu người cao mới rón
rén đứng lên đi ra phía nhà ngoài, người thấp cũng theo ra, hai người đứng ép
vào khung cửa nhìn ra Đồi Hồng, ngoài đó không khí trắng như sữa, chừng như
trên lớp mây đục trắng có ánh trăng chiếu xuống, Đồi Hồng mang vẻ kỳ bí thơ mộng,
khung cảnh của một chốn non tiên cũng chỉ đến thế, cả hai người cùng như nhịn
thở khi nhận ra một bóng trắng đang nhảy giữa những luống hồng, bóng trắng có
lúc vọt cao, có lúc chúi xuống quần nát những khóm hồng cùng với tiếng hú ghê rợn…
Sau cùng tiếng hú dội vang và bóng trắng nhảy biến mất về phía con suối trả lại
sự yên tĩnh cho đêm vắng, mùi hôi thối cũng tan đi… Người cao vừa trở vào vừa
nói :
- Đúng là con hổ bạch, tiếc là anh ấy không còn lại ở đây,
trong hai năm liền khi tôi còn ở đây anh ấy đã lùng kiếm và chờ đợi nó.
Ngồi xuống bên hỏa lò, cho thêm củi, bỏ bình rượu cúc vào bên
bếp than cho nóng, người cao chỉ tay chung quanh vách :
- Hồi tôi mới trở lại chung quanh ván này đầy những đầu thú,
không thiếu một thứ gì, từ hổ, hươu, nai, rắn…anh ấy bắn được mang về lấy thịt
phơi khô, đầu và da con nào đẹp thì ướp thuốc phơi khô hoặc sấy rồi trưng làm cảnh,
ai cũng tưởng lạc giữa những thú rừng, nhưng một lần đi săn anh ấy bắt gặp một
con hổ trắng,anh ấy bắn trật, nó chạy thoát sau khi xuýt vồ được anh ấy, từ đó
anh ấy không thèm săn thú nhỏ nữa, anh ấy trở về đốt hết những đầu và da thú
trong nhà, mỗi ngày vác súng ra đi đều nói : phải hạ cho bằng được con hổ bạch
đó… Mình phải săn thú lớn, không thể phí công sức săn thú nhỏ…Nhưng sau đó có
những lần dò theo bước chân cả tuần, lùng kiếm chờ đợi anh ấy đều không gặp lại
nó. Tôi còn nhớ một đêm ngửi thấy mùi hôi thối, anh ấy bật dậy, vác súng ra
ngoài, tôi ở trong chờ đợi, anh ấy lần mò hết một đêm một ngày, nhưng sau thì
trở về thất vọng, không phải nó, anh ấy nói vậy với tất cả sự tiếc rẻ, ta gặp một
con cũng khá, hạ được nhưng thấy thật uổng công…có lần đi với anh ấy, gặp những
thú rừng khác thật ngon anh ấy cũng không thèm bắn, anh ấy nói chờ đợi cho bọn
nó lớn đã, chỉ cần hạ được con hổ trắng là ta bỏ rừng mà về, nhưng cho tới lúc
tôi đi khỏi anh ấy vẫn không gặp nó, có lẽ đây là lúc nó trở về, tiếc thay tôi
không phải là một tay súng giỏi, và có được một lòng kiêu hãnh tự tin như anh ấy…
Uống cạn bát rượu nóng, người cao ngả người ra lưng ghế, người
thấp cởi bỏ chiếc áo ngoài, hơi ấm làm cho không khí lạnh trở thành thân mật ,
khi vắt cái áo lưng ghế một tiếng động vang lên, người cao nhỏm người lên, nhíu
mày nhìn khẩu súng lục rơi trên sàn gỗ :
- Anh có khẩu súng ấy hồi nào ?
Người thấp hơi cuống, ngập ngừng nhặt khẩu súng lên tay, giọng
nói xúc động :
- Chắc anh nghĩ tại sao tôi đã hành động nhự vậy? Trước đó
tôi đã thề với trời đất rồi, nhưng thực ra cũng là tại nó đến số vậy thôi…
- Vậy anh giết nó lúc nào ?
Người thấp ngập ngừng một lúc mới nói tiếp :
- Khuya trước đêm mình lên đường, vả lại anh cũng hiểu cho
tôi, nếu không thanh toán nó thì tôi không thể đi bình yên được, thêm nữa tôi cần
vật hộ thân và một mối thù tôi phải trả, cái chết của mẹ tôi…
Người bạn thở dài không nói nữa. Ngoài vườn cây tiếng gió rít
từng hồi, trong đó nghe như cả tiếng rừng cây lay động.
- Anh có lẽ cũng không biết chuyện đó, lúc trước nó đi với giặc
hại gia đình tôi, khi cha tôi chết ông nói chính nó đã báo cho giặc biết về những
hoạt động của ông, không có bằng cớ khiến bọn nó tra tấn cho mẹ tôi đến chết.
Cách mạng nổi lên nó tự đứng vào hàng ngũ như kẻ ở hàng đầu, nó biết tôi hoạt động
chống lại nên vẫn tìm cách theo dõi, tôi nghĩ không nên chờ nếu như muốn những
người còn ở lại được yên. Tôi phải ra tay, không ngờ hắn có súng…Anh biết?
- Sao không, nó tưởng tôi ở trong đoàn thật sự nên nói với
tôi phải coi chừng anh như một tên phản động… Chuyện ấy cũng qua, có điều tôi vẫn
không muốn tay mình phải nhúng vào máu. Có lẽ đó là điều tôi chịu ảnh hưởng của
anh cả.
Vò rượu đã cạn, người cao lận mò tìm vò khác, nhưng lắc hoài
vẫn gặp những vò không, khi nhắc đến chiếc bình vuông thì người cao nghe như có
vật gì để ở trong, thực ra đây không phải là một cái bình mà như một cái phạn
vuông vức, trên được đậy lại bằng một viên gạch, mở ra người cao ngạc nhiên thấy
cuốn vở bìa cứng ở trong, cầm lên tay với tất cả vui mừng, người cao nói với bạn
:
- Cuốn sách anh cả tôi viết trong nhiều năm, hồi đó anh dành
nhiều thì giờ cho những suy ngẫm của anh, anh viết thật khó khăn, mong cuốn
sách đã được hoàn tất trong thời gian tôi đi khỏi.
Nói xong người cao mở cuốn sách ra dưới ánh lửa, nhưng mở mãi
cũng chỉ thấy những trang giấy trắng, ở một đôi trang có ép những chiếc lá màu
lạ mắt, một ít hoa và mấy cánh bướm màu sặc sỡ, cuốn vở đã bị xé đi nhiều
trang, chỉ còn lại một ít tờ. Người cao mở cuốn vở với tất cả vẻ thận trọng
nhưng không khỏi ngạc nhiên, không tìm thấy một chữ nào trên những trang giấy ấy,
bỏ tập vở xuống với vẻ thất vọng : vậy những trang đã viết bỏ đi đâu, như vậy
là công việc ấy cũng không hoàn tất được. Những cánh hoa, cánh lá, cánh bướm
khô là thế nào…
Người cao lại lục lọi, trước nhất là nơi những chiếc sạp, với
hy vọng tìm thấy một điều gì để lại, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì ngoài một
chiếc trong đó có để một hòn đá đen nhánh. Sau cùng tìm thấy một bình hồng ngọc,
mùi rượu siêu thoát, men gần như đã không còn gì, uống vào mới bắt đầu nhạt
môi, chỉ thấy thoảng mùi thơm nhưng men rượu sau đó ngấm dần, chừng như đó là
bình rượu đã được để quá lâu đã khiến mất đi vẻ rượu bình thường trần tục… Thất
vọng người cao ngồi ngả lưng ra sau ghế nhìn ánh lửa bập bùng trong hỏa lò. Men
rượu như đưa người vào một cuộc viễn du thoát tục… Người thấp nói :
- Tôi không biết gì về người anh cả của anh, nhưng qua thứ rượu
hoàng cúc và hồng lệ mà tôi được uống đây thì ông ta phải là một tay say mê men
nồng, sắc đẹp…chính những cái đó đã khiến ông bỏ cuộc…Tiếc thay một người như
thế mà không thể đổi cho mình một thứ rượu khác…
- Đổi cho mình một thứ rượu khác… Tôi không nghĩ như anh, cần
gì phải đổi một thứ rượu khác, anh cả tôi đã có lần nói với tôi. Cần gì phải rượu
mới say, có khi uống một hớp nước suối cũng nghe thấy như mình có thể say đến
muôn ngàn năm… Với cái nhìn của tôi thì ông đã uống nhiều thứ quá, với đầy những
đam mê và kiêu hãnh ông đã uống tới cùng tận, nhưng ông đã không chết được
trong những cơn say não nùng đó, trong say ông vẫn nhận biết, và chính vì thế
ông đã thất bại… Đó có khi cũng chỉ là một cái nhìn nhiều hơn là một sự thật,
vì chính lúc này đây tôi cũng như anh không biết ông còn sống hay đã chết,
trong vòng hơn năm năm qua và những giây phút này ông ra sao. Có điều ông
khuyên tôi hãy uống cho hết, cho tới tận cùng, hãy say mê cho tới chung cuộc có
thể chết đi êm đềm, nhưng phải tin ngay đó mình có thể phục sinh, sống lại
trong một say mê mới hoàn toàn tinh khôi như mình chưa bao giờ được sống…phải
tin và sống như vậy, một lúc phục sinh…Một phục sinh mới cho tôi, đó là ước mơ
của tôi, và tôi tin mình sẽ có được…
- Chừng như còn nhiều điều về cố nhân mà anh không muốn nói với
tôi, tại sao vậy ?
- Không phải thế, chính ra thì tôi cũng chẳng được biết gì.
Như tôi đã nói với anh đó, anh cả bằng tuổi với cha tôi, ông là một người hoạt
động với những mưu đồ nào đó, sau ông vào trong này, tôi sống với ông sáu năm,
tôi bỏ ông đi cho đến nay đã năm năm hơn…Ngày trở lại thì không còn người xưa nữa.
Như tôi đã kể : ông yêu hoa hồng, thích săn thú lớn, cái ám ảnh về con hổ bạch
trong những ngày sau đó cuốn hút ông. Ngoài thú cất rượu để uống, trồng hoa,
tìm lan, săn thú cũng có lúc ông ngồi đánh cờ ngoài hiên Ngạo Thiên, thua được
gì ông cũng cười, mỗi lần thế ông nói với tôi : đáng ngạo ông trời lắm, cũng muốn
lập ngôn, nhưng có lẽ công việc đó ông không hoàn thành dược, tất cả với ông chừng
như đều thất bại. Nhưng ông nói với tôi, ông hài lòng một điều…
- Điều gì ?
Người cao nói trong giọng ngà ngà ; giọng nói của người còn ở
trong cơn mơ :
- Bông hồng dành cho công chúa…
- Bông hồng cho công chúa, tôi không hiểu gì hết.
- Chính tôi cũng không được rõ. Nhưng theo như cha tôi thì đó
là một câu chuyện tình.
- Ông ấy cũng có chuyện tình nữa, thật tôi không hiểu được.
Hình dung về ông tôi nghĩ đó là một tay giang hồ, dũng mãnh, giàu nghị lực…
- Điều đó thì đúng nhưng anh nghĩ những người đó không yêu
sao, nếu anh nghĩ vậy thì anh nhầm, những kẻ như anh nói đó đã không say mê gì
thì thôi, nhưng đã say mê thì không phải chuyện chơi, xẻ núi, lấp sông, vượt biển
họ cũng không thay lòng đổi dạ được, những người đó bao giờ cũng có những ham
mê để chết…
- Tôi không hiểu chút gì.
- Tôi nhớ lại những năm sống với ông, mỗi buổi sớm mai thì thấy
ông bưng bình hoa ra ngoài, bỏ bông hồng cũ đi, tôi trông ông có vẻ gì buồn, có
lần ông nói : tiếc thay, hoa rồi phải tàn, ta thì không muốn thấy hoa tàn… Ông
thay nước trong bình, dạo quanh những cây hồng tìm một bông hàm tiếu trịnh trọng
ngắt lấy cắm vào trong bình rồi mang vào trong phòng, sau đó là buổi uống trà của
ông, vừa uống trà, vừa ngắm hoa, trông ông những lúc đó như một đạo sĩ. Theo
như cha tôi nói thì trước khi bước chân vào cuộc phiêu lưu ông đã có một mối
tình, những tưởng một mai khi trở lại cuộc sống sum họp sẽ có, nhưng sau bao
nhiêu gắn bó, chờ đợi người con gái kia chẳng được sum họp với người tình…Nàng
qua đời trong mòn mỏi, ông được tin lặng người đi cho những dòng lệ chảy trên
má, lúc đó cha tôi còn ở bên ông, sau này nhớ lại, nghĩ tới người vợ chưa chung
chăn gối ấy, như một thủy chung, ông dành bông hồng cho người khuất, ông không
dùng hoa khác vì nàng vốn yêu hoa hồng… ông chưa bao giờ thổ lộ những điều đó,
nhưng theo tôi có lẽ cũng chỉ có vậy, tôi còn nhớ một điều ông nói : trời phụ
ta, ta cười ngạo trời, bạn bè phụ ta, ta buồn ta, con đường ta đi không hết, ta
giận ta…Chỉ có một người chung thủy với ta thì ta không đền đáp được… Đó là mối
hận lớn duy nhất không biết bao giờ cho nguôi…Bông hồng dành cho công chúa. Tôi
nghĩ đó là điều ông dành cho mối hận trong lòng…và đó cũng là cái dĩ vãng duy
nhất cháy sáng trong lòng ông…Nhưng sau chót ông đã kết thúc đời ông ra sao, thật
tình ông vẫn là niềm bí ẩn…
Ngọn lửa hồng và men rượu đã ru hai người vào một giấc ngủ ngắn
ngủi lúc nữa đêm về sáng. Khi hai người thức dậy thì trời đã sáng tỏ, mây trong
thung lũng đã tan để lại một bầu trời trong xanh, hai người bước ra ngoài thay
nước rồi tìm một bông hồng hàm tiếu cắm vào chiếc bình. Hai người ngạc nhiên
nhìn những luống hồng bị quần nát bởi con hổ bạch trong đêm, những cánh hoa đỏ
giập nát đầy trên mặt đất như những giọt máu đào…
Tiếng hổ hú trong rừng trước mặt bỗng vang lên, một đàn chim
cánh lớn từ trong những ngọn cây bay lên rợp cả một vùng trời. Người cao chỉ
tay về hướng đó :
- Con hổ bạch vẫn còn quanh quẩn trong đó, sao nó không trở lại
vào những năm trước.
Nắng lên cao, hơi lạnh của rừng đã giảm, hai người đi vòng
quanh căn nhà, khu Đồi Hồng rồi theo hướng mặt trời mà đi. Khi qua những khóm hồng
đỏ thắm người cao ngắt theo một bông, lên đỉnh đồi người cao ngừng lại, vứt
bông hoa theo chiều gió xuống thung lũng… Rồi ở đó buổi chiều sẽ đưa mây về bao
phủ, và còn lại căn nhà. Đồi Hồng, suối Hoàng Mai, những bình rượu , hiên Ngạo
Thiên và một con hổ bạch...
(1969)
Chuyến trở về sau cùng
Người tài xế mở mắt nhìn lên kính xe, ánh nắng chói lòa chiếu
từ trên mái nhà tôn xuống. Tiếng động buổi sáng rì rầm trong khu trại lính. Anh
ta trở dậy, những khớp xương mỏi nhừ, với tay gấp chiếc màn nhỏ lại, mở cửa xe,
ngồi trước tay lái. Một con gà đang thơ thẩn kiếm ăn trước mũi xe bỗng đập cánh
vươn cao cổ gáy, tiếng gáy nhỏ và yếu, lạc lõng. Người tài xế xuống xe, với chiếc
khăn mặt nhỏ bẩn thỉu vắt nơi tay lái xuống, nhìn quanh quất, anh tiến lại chiếc
vòi nước nơi phía gần tường cao với những hàng dây thép bao phía dưới, chăng
phía trên, anh ta bỏ đầu vào và mở nước cho nước chảy sối sả. Anh ta háp miệng
lấy một ngụm nước đầy rồi ngửa cổ súc, tiếng nước kêu sục sục trong miệng trước
khi anh ta nhổ mạnh nước ra xa. Lau mặt, vuốt tay lên mái tóc, anh ta trở lại
leo lên lòng xe đánh thức người bạn đồng hành. Người lính nằm dài trên băng, quấn
kín người bằng chiếc màn nhỏ, quần áo và giày vẫn còn ở trên người, chiếc mũ sắt
và khẩu súng ở ngay bên cạnh.
- Dậy đi thôi.
Người lính nằm vùng dậy, dụi mắt nhìn chung quanh lơ đãng
trong khi thu màn bỏ vào chiếc ba- lô. Người tài xế kéo ngay lại chiếc quốc kỳ
xô lệch trên cỗ quan tài để giữa lòng xe, lá cờ ngắn không đủ che hết cỗ quan
tài gỗ, đứng lên, người lính đu người nhảy xuống, chiếc quần vướng vào vòng hoa
để bên kéo theo xuống, vòng hoa đã héo để phơi ra chiếc khung làm bằng dây kẽm
gai, mấy bông hoa giấy đỏ, hoa dại trắng rơi vãi trên nền đất bột.
- Mẹ, vòng hoa bằng kẽm gai nữa.
Người tài xế ngồi yên trên băng ghế lấy gói thuốc ra rút một
điếu châm hút. Người lính bỏ chiếc vòng hoa trở lên xe. Quà tặng của tiểu khu gởi
cho người chết, mỗi lần có chiến sĩ hy sinh, nơi phòng tâm lý chiến lại có một
công tác, lính được phái đi lấy về những thứ hoa tạp nhạp, bất cứ hoa gì và xúm
nhau lại cố gắng làm lấy một vòng hoa tang , những hoa dại mọc trên những bờ tường,
nơi hàng rào, mấy bông vạn thọ trong sân tiểu khu, mấy bông sứ trong sân ngôi
chùa bỏ hoang ở ngài ven thị trấn. để có được một vòng hoa không phải là một
công việc dễ dàng trong tỉnh lỵ nhỏ bé nghèo nàn.
- Đi chưa ?
Người lính đứng dưới sân hỏi lên. Người tài xế nhìn xuống
khói thuốc thở ra trên hai lỗ mũi:
- Đi cho rồi, trưa có thể về tới nơi, để kiếm chút xăng nhớt
đã chứ. Sao không táng nó trên đó cho rồi, chết là hết ,bày đặt làm gì.
- Đừng nói thế, nó nghe thấy nó buồn.
- Chết rồi còn biết buồn ?
- Sao lại không ?
- Thôi đi rửa mặt còn kiếm chút cà phê.
Người lính đi khỏi, người tài xế ngồi yên, chút sau anh ta lấy
bao nhang thắp mấy nén cắm vào chiếc ống bơ để bên cạnh chiếc quan tài. Sinh hoạt
trong tiểu khu đã rộn rịp hơn, người ra người vào mỗi lúc một đông, nơi khoảng
trống phía gần cửa sổ xe cộ đã gần kín, một vài người đi ngang qua xe ngó lên rồi
đi tiếp, mọi người như không chút ngạc nhiên với chiếc quan tài trong lòng xe.
Người lính đã trở lại với gương mặt sáng sủa hơn. Người tài xế nhảy xuống xe.
Hai người đi về phía câu lạc bộ, nơi đây ồn ào khác hẳn với không khí buổi tối
hôm trước. Người tài xế gọi một tô hủ tiếu, người lính ngần ngừ một lúc rồi kêu
một ly cà-phê sữa. Khi đứa nhỏ mang cà-phê và hủ tiếu lại, người lính giữ lấy
vai đứa nhỏ :
- Đây có bán đế không nhỏ.
- Có
Đứa nhỏ nói nhanh và như còn đang cố gắng ghi nhớ những tiếng
gọi khác đang vang lên.
- Đong cho một xị nghe.
Người lính đưa cho đức nhỏ cái chai không, đứa nhỏ chạy đi,
người tài xế bẻ thêm bánh mì nhúng vào ăn chung với hủ tiếu, người lính nhẩn
nha, chậm chạp uống từng ngụm nhỏ cà-phê trong khi hút từng hơi thuốc lá ngắn.
- Liệu chiều nay có xong không, kiếm không ra nhà thì chết bỏ
đời đó nghe.
- Rỡn hoài, có địa chỉ đường hoàng, tao biết ấp đó mà.
- Ờ, cứ yên trí đi. Cái thằng chết rồi còn làm khổ thằng sống.
Tao đã làm sẵn một chúc thư rồi, nếu chết là cứ việc đào một cái hố ngay bên cạnh
mà bỏ xuống, khỏe không, rồi báo cho gia đình biết là được, mang về làm gì cho
khổ, khóc mếu, tốn tiền bạc ma chay, mày nghĩ coi…
- Chuyện của mày thì khỏe rồi, còn của thằng khác thì mặc xác
người ta.
Sinh hoạt chộn rộn chung quanh khiến câu chuyện có những ngắt
quãng. Gõ chiếc muỗng vào thành tô, tiếng kêu lớn, đứa nhỏ tới mang theo xị đế,
nó tính tiền nhanh chóng và thu dọn bàn cho những người khác. Ra khỏi câu lạc bộ,
tới sân, người tài xế la lên :
- Xe đâu mất rồi.
Người lính nhìn quanh. Hai người rảo bước, khi ra tới ngoài mới
thấy một toán lính đang cố gắng đẩy chiếc xe ra phía sau tiểu khu.
- Đẩy đi đâu vậy, bọn nó khùng hả ?
Khi tới nơi, một người lính la :
- Mấy cha nội đi đâu bỏ cái xác này cho ai đây. Sao không
mang đi cho rồi.
- Đi đây.
Người tài xế nhẩn nha như không chút bận tâm tới những người
chung quanh. Họ cho thấy một ông lớn sắp tới tiểu khu, cái xe để không phải chỗ
nên được lệnh dời đi. Người lính ậm ừ:
- Tưởng ai tới đánh cắp chiếc quan tài thì bọn này đỡ quá.
- Đánh cắp để làm mắm à.
Người tài xế nổ máy, người lính ngồi phía sau cầm lấy súng
lên tay, báng bỏ xuống sàn xe, đội mũ sắt lên đầu. Anh ta thấy những que hương
cháy gần hết. Những lượng khói mờ nhạt loãng tan nhanh chóng vào không khí. Chiếc
xe lùi lại rồi chạy trở ra cổng tiểu khu. Người lính gác bồng súng chào nghiêm
chỉnh. Người lính ngồi trên xe mỉm cười, giơ tay vẫy thay một lời chào. Nắng
sáng trên lá quốc kỳ, bầu trời trong, con đường lớn duy nhất của tỉnh lỵ, không
có một bóng cây, những cột đèn, dây điện chạy dọc theo hai hè phố như hai bờ
cao của một con kinh. Sinh hoạt nhạt nhẽo trong buổi sáng, đường vắng, xe chạy
mỗi lúc một nhanh. Khi xe chạy tới đầu quốc lộ, người lính thấy đôi mí mắt như
trĩu xuống với cơn buồn ngủ. Gió thổi mạnh làm mép lá quốc kỳ tung bay, những
cây hương cháy nhanh hơn và gió không để lại một chút dấu vết của làn khói
nhang nhẹ mỏng .
Bây giờ nó đã chết. Thật kỳ. Nó ít nói, nó không uống rượu.
Ngồi với anh em, mọi người uống đế, uống bia, nó kêu một ly trà đá, một chai nước
ngọt, mọi người biết ý nó rồi nên không bao giờ làm phiền nó nữa. Lúc trước, có
những lần như thế, bạn bè ép nó, nó mỉm cười tỉnh bơ đứng lên đi khỏi. Có đứa
nói kiếp trước nó chết vì rượu nên kiếp này ngửi thấy rượu đã thấy kinh hoàng.
Có đứa nói : nó là ma rượu. Ai nói gì nó cũng nghe. Sau khi đi kích đêm, trên
đường trở về, một phát súng bắn sẻ từ ngực trổ ra lưng ngã nằm xoài chết ngay
trên mép cỏ xanh còn ướt sủng sương đêm. Đưa về tiểu khu nhập quan, người ta lục
lọi tìm kiếm địa chỉ của nó trước khi đưa tiễn nó lên xe trở về. Nó như trăm
nghìn những người khác ở trong cuộc chiến, đến tuổi động viên, theo lệnh gọi nhập
ngũ và ra trận. Rồi chết. Xe chạy khỏi tiểu khu lúc hơn mười giờ, trời nắng đầy
trên những ngọn cây, đáng lẽ có một tiểu đội đưa nó về nhưng tình hình không
yên, chiếc xe chỉ có một người lính, một người tài xế. Từ trên cao nguyên, theo
quốc lộ trở về, sẩm tối thì xe chạy được hai phần ba đường. người tài xế cho xe
chạy tới tiểu khu, trình giấy xin ngủ tạm chờ sáng hôm sau đi nốt đoạn đường
còn lại. Xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn, người lính bỏ băng ghế, đi lên phía
trên, ngồi xuống lòng xe, phía đầu quan tài, ngả lưng dựa vào khoảng ngăn của
thùng xe với chỗ người tài xế ngồi. Cơn buồn ngủ ập đến.
Những trạm kiểm soát dọc đường buộc chiếc xe ngừng lại, người
tài xế ngừng xe xuống trình giấy. Tới trạm trước khi xe chạy giữa khu rừng cao
su để qua một cây cầu xi măng, người tài xế chợt nhìn lên xe và không thấy người
lính. Anh ta đến bên, trèo lên, ngó vào, người lính ôm súng ngủ gật. Người tài
xế mỉm cười. Người lính quân cảnh tò mò đi theo, trèo lên ngó vào,
- Ngủ vậy mà thằng chết nó dậy thì hết đường chạy.
Người lính mở mắt, đứng vội dậy, kéo lại mũ, cầm lấy súng.
- Sướng nhỉ.
Người lính không nói, đi trở ra phía ngoài ngồi nơi đầu băng
ghế với vẻ nghiêm chỉnh.
- Mơ ngủ hay sao vậy, ngồi xuống đi, ngồi thế này có khi ăn đạn
cho xem.
- Sao vậy ?
Người tài xế vừa hỏi vừa nhìn quân cảnh :
- Xe đang chạy mà nếu thấy có người vẫy tay xin quá giang thì
đừng có ngừng lại nghe, phóng cho nhanh mà chạy dù cho có đứa nào đứng ra giữa
đường cũng vậy. Hôm trước có mấy con bị đi ngủ…
Người quân cảnh cười cười vẻ thoải mái, không bận chút lo sợ.
Người lính cười cười theo đưa một tay lên sờ ở gáy, ví dụ một viên đạn từ trong
rừng nhắm vào đó. Người lính trở lại chỗ ngồi cũ. Người tài xế nói bâng quơ :
- Chết có số, đạn tránh người.
- Thiệt không bạn ?
Người quân cảnh vừa nói vừa vỗ tay lên vai người tài xế. Anh
ta chỉ lên chiếc quan tài :
- Tên nào có phúc vậy ?
- Phúc nữa ?
- Sao không, biết mấy đứa không còn một miếng, như mắm…
- Nó đi kích về thị bị hạ.
- Thôi đi cho sớm chứ.
Người quân cảnh vỗ mạnh tay nơi vai người tài xế rồi bỏ trở
vào trạm kiểm soát. Người tài xế đứng nơi lề đường tiểu tiện rồi trở lại xe,
dáng vẻ thong dong. Con đường còn lại, cây cầu xi măng, những tên lạ mặt nào.
Anh ta nhìn theo con đường thẳng tắp trước mặt. Ngồi ngay ngắn trước tay lái,
người tài xế lấy bao thuốc châm một điếu hút, khói thuốc un đầy trong lòng xe.
Người lính ngồi phía sau chừng như nóng ruột khi không thấy xe chạy. Anh ta đứng
lên, ngoài người về phía trước nhìn vào chỗ người tài xế ngồi :
- Ngủ hả, chạy cho rồi còn cà rịch cà tàng chi nữa ?
Người tài xế cười nhe hai hàm răng vàng nghệ :
- Nghĩ ớn quá, lên đạn đi nghe.
- Sợ chết hả ?
- Tao sợ thằng nhỏ nó chết thêm lần nữa thì tội.
- Không đâu, bọn mình…
- Thôi đi cha, cho con sống với vợ con chứ…
Người tài xế mở máy, tiếng máy vang động không khí im lặng.
Người lính trở lại chỗ ngồi nhìn khói đen oằn oại phía sau xe. Vòng hoa đã héo
rũ, tất cả chỉ còn phơi ra những gai kẽm. Anh ta đứng lên cầm lấy vòng hoa vứt
xuống đường, chiếc vòng lăn đi một quãng, những cánh lá, cánh hoa vung vãi trước
khi chiếc vòng đổ xuống nằm trên mặt đường.
Người tài xế mở hết tốc độ, chiếc xe chạy nhanh trên quốc lộ
vắng. Người lính ngồi dựa lưng không yên phải nhích lưng ra và một tay giữ lấy
thành xe. Khi mặt trời lên giữa đầu thì chiếc xe vào tới thị trấn để dừng lại.
Ghé đồn quân cảnh, trình sự vụ lệnh, gửi chiếc xe để đi ăn cơm trưa nơi một
quán bên đường. người lính, người tài xế đều mang theo súng, ba lô, mũ sắt,
dáng vẻ yên tâm, mỗi người mỗi đĩa cơm, người tài xế kêu một chai bia lớn uống
chung. Uống hết người lính lêu thêm một chi nữa :
- Khỏe rồi, uống cho phấn khởi.
Người lính cười. Người tài xế không nói cắm cúi ăn. Buổi trưa
nóng bức, con đường đầy nghẹt xe cộ, khói và bụi mù mịt. Trong mắt nhìn, có lúc
người lính thấy như lửa bật cháy và những hình người lay động yếu ớt, có lúc
cong đi lung linh trong nắng lửa.
- Nắng thế này chắc nó trương lên rồi.
- Mới ba ngày ăn thua gì.
- Thôi đi, nắng thế này mà nói, có khi hơi nó phá vỡ quan tài
cho mà xem.
- Bày đặt, hồi năm trước có lần tao chở tám thằng trên một
xe, biết không, chết từ một tuần trước, thế mà chẳng sao hết. nước vàng chảy rỉ
rả, có mùi, làm tao ăn không được nôn mửa một tuần, thế mà người ta vẫn ôm lấy
mà lăn lộn khóc, ruột thịt đau đớn chừng đó, người ta chẳng biết kinh sợ nữa.
Thằng này chết vậy là có phúc lắm. một mình một ngựa trở về thảnh thơi… Chỉ khổ
cho người sống. Cái số mình như phải đóng mãi vai trò của tử thần.
- Cái gì ? Mình là tử thần ?
- Ờ rồi coi, tao biết quá rồi. Tao vốn ớn cái trò mang quan
tài về nhà, báo tin người chết… Mày tưởng tượng thử coi…
- Chết thì mang về chứ có sao, họ phải cảm ơn mình chứ.
Người tài xế cười ngất.
- Mày là cái thứ gì không biết. Nhà người ta đang vui vẻ bỗng
nhiên mình đưa đến một xác chết,hoặc đến báo tin một người chết. Như vậy không
còn là tử thần à. Lúc gặp người ta cười nói, nghe mình nói xong người ta khóc mếu
kêu gào, vậy mà thú vị lắm sao ?
Người lính uống cạn ly bia rồi nhìn bạn :
- Ừ nhỉ, nếu bây giờ mình đang ở trong nhà, cười nói, có người
tới báo tin em mình vừa chết, xác để trên xe… không được, không được…
Vừa nói vừa lắc đầu, người tài xế đập tay lên đầu người bạn :
- Say rồi hả.
- Đâu có, mình thiệt ngu.
Trở lại đồn quân cảnh, người lính và bạn ngồi lên phía trước.
Trưa nắng mỗi lúc một khó chịu :
- Đi chưa ?
Người lính hỏi bạn, giọng ngái ngủ mệt nhọc, nói hết câu anh
ta đã nhắm mắt lại :
- Trưa thế này vào nhà người ta kỳ. Thôi cho họ ngủ trưa đi
đã.
Người tài xế xuống xe, đóng cửa lại, anh ta đi về phía sau
nhìn màu lá quốc kỳ rực rỡ dưới ánh nắng. Anh ta di vào hiên nhà, nơi chỗ ghế
dài chừng như dành cho những người ngồi đợi, anh ta bỏ khuy áo, ngả người nằm
xuống.
Khi nghe tiếng còi xe vang bên tai, người tài xế trở dậy thì
nắng đã hơi nghiêng xuống. Người lính ngồi trên xe giơ tay vẫy bạn. Người tài xế
sửa lại quần áo trở lại ngồi trước tay lái :
- Định giữ của thêm đến bao giờ đây.
- Mệt quá, ngủ như chết. Thôi đi.
Người lính trở lại sau xe, nhảy lên, đội mũ sắt, cầm súng, ngồi
ngay ngắn. Xe ra khỏi đồn chạy vào đường phố. Chạy một quãng ngắn, người tài xế
ghé vào lề đường, đứng lên nói với người bạn :
- Đưa cái địa chỉ đây.
Người lính mở túi lấy ra một chiếc phong bì màu nâu trao cho
người tài xế.
- Chạy hết đường này đi, tới chỗ ngã tư quẹo tay mặt.
- Làm như là thổ công không bằng.
- Chứ sao. Nhớ là phải đi hết khu nghĩa địa rồi mới tới xóm
này. Chà, cái ấp này nhà cửa cũng lộn tùng phèo ghê lắm…
Người tài xế không nói, trở lại với tay lái, chuyến xe chạy
theo con đường lớn ven đô. Những nhà cửa hai bên không đều, có những khu mới tân
trang sầm uất, có những khu còn nguyên vẹn khung cảnh của một vùng ngoại ô, nhà
thấp, mái ngói, một vài khóm tre, những tàn vú sữa, những chiếc sân đất và những
hàng rào cây xanh thấp. Xe tới ngã tư thứ nhất, người tài xế cho xe quẹo. Con
đường rộng, hai bên trơ trụi những mái nhà tôn thấp, không có lề đường, chạy một
quãng thì qua khu nghĩa địa, một khoảng dài không có nhà cửa cho thấy hình ảnh
khu vực ngoại ô. Khi tới đầu khu dân cư thì người tài xế ngừng xe lại, tắt máy,
mở cửa xe bước xuống, anh ta ngó lên người bạn đồng hành đang đứng tì tay nơi
thành xe :
- Xóm này đây.
- Đi chút nữa đi, tới con ngõ lớn vào trong, chắc là ở trong
chứ không phải ở ngoài này.
Người tài xế lên xe cho chạy chậm, tay giữ vòng lái, mắt nhìn
vào tấm biển số nhà. Tới đầu con ngõ đưa vào xóm thì xe ngừng lại. Người tài xế
nhìn vào tấm bảng treo chi chít nơi chiếc cột cổng, đó là những biển quảng cáo,
lời rao bán nhà, những mũi tên chỉ cho thấy những địa chỉ ở phía trong. Một vài
người trong quán cóc đầu ngõ chỉ trỏ chiếc quan tài, mấy đứa nhỏ chạy ra, có đứa
nghịch leo lên bánh xe, người lính phải la lớn đuổi chúng nhưng chúng vẫn bu
quanh.
Khi người tài xế bước vào quán cóc thì những người ngồi bỗng
nhiên im lặng hết, ai cũng nhìn lên như chờ đợi điều gì. Người lính ngại ngần đứng
lại gần một người đàn ông đứng tuổi :
- Thưa bác có phải đây là ấp Tây Nhứt không ạ…
- Phải, ấp Tây Nhứt…
Con cái nhà nào đây, mọi người chung quanh bu lại, một người
đàn bà nói giọng lo âu :
- Con cái nhà ai đây ?
- Dạ Nguyễn Văn T.
- Nguyễn Văn T nào cà ?
Mọi người lặng im như cố nhớ tên một người nào đó của gia
đình, quen biết hiện đi xa.
- Nhà số mấy ?
Một người đàn bà ngồi phía trong hỏi vọng ra giọng khô. Người
lính vừa nhìn vào tờ giấy vừa đọc :
- Số 131 trên 32.
- Thế thì xóm trên kia, đây là hẻm 30. Anh làm tôi hết hồn,
thằng con tôi đi hơn tháng nay không có tin tức gì.
Người đàn ông thở ra :
- Anh làm tôi nghẹt thở, thằng Hai nhà tôi nó mới viết thư về
nói đánh hoài không về phép được.
Không khí trong quán cóc bỗng trở lại vui vẻ, mọi người nói
chuyện trở lại, câu chuyện quanh những người đi xa, những liên hệ và tỏ vẻ tội
nghiệp cho gia đình nào là thân nhân của kẻ xấu số đang nằm kia. Mọi người cũng
nhắc đi nhắc lại số nhà như cố gắng nhớ xem mình có liên hệ gì với con số đó.
Người lính sau khi hỏi han về địa chỉ trở lại xe. Khi đứng ở đầu ngõ anh thấy
những con mắt ngó nhìn. Có gia đình nào ngày nay không có con em trong quân đội.
Có gia đình nào trong suốt mười năm nay không có những cái tang đau đớn. Hôm
nào mình cũng ngã xuống, người lính bắt đầu bước lên xe, mở máy cho xe chạy về
phía trước. Xe chạy khoảng hơn trăm thước thì tới đầu con ngõ lớn, con số 32
trên tấm bảng lớn treo cao. Người tài xế cho xe chạy vào, những người hai bên
gõ thấy chiếc xe chở quan tài thì ra cửa đứng nhìn, những cánh tay giơ lên chỉ
trỏ, người lính nhìn một bên, người tài xế nhìn một bên tìm kiếm một con số. Đi
được một khoảng thì xe phải ngừng, một ngôi nhà đang xây cất chất đầy gạch nơi
đường hẻm khiến xe không đi được. Người tài xế đứng lên cao ngó lại người lính
phía sau :
- Xuống tìm chút đi, ngõ này rồi, xe không vào được.
Người lính nhảy xuống xe nhìn ngơ ngác hai bên đường. Một số
người đã bu đến xe hỏi thăm người tài xế. Không khí im lặng, đe dọa như bỗng
nhiên ập xuống con ngõ. Những mắt nhìn lo âu. Ai đó anh ? Những tiếng nhắc lại
một tên người ghi trên tờ giấy. Những thở ra nhẹ nhõm. Người lính đã đi vào tới
sâu trong ngõ. Người tài xế chợt nhận ra cánh tay vẫy của người bạn.
- Thấy rồi.
Người tài xế như nói với riêng mình. Thấy rồi, cả một gánh nặng
như được trút xuống khỏi vai. Anh ta xuống xe đi lại phía người bạn.
- Người đàn ông mặc chiếc quần cụt, áo mai-ô cáu bẩn đứng nơi
cửa chờ đợi người tài xế. người lính nói :
- Đưa giấy coi nào, đúng số nhà này phải không ?
Người tài xế vừa mở giấy vừa nhìn lên tấm bảng ghi số nhà :
- Đúng rồi, 131/32.
Từ trong nhà một người đàn bà, một cô gái chạy ra với vẻ kinh
hoàng. Người đàn bà hỏi :
- Gì vậy ông ? Thằng Út hả.
- Út chết sao ba ?
Mắt người con gái và người đàn bà đỏ lên như sắp khóc.
- Không phải, đây là con của ông chủ nhà trước.
- Trời ơi, tôi tưởng…
Người đàn bà phác một vẻ mặt thoát nạn, người đàn ông nói giọng
trầm tĩnh trước sự chờ đợi của hai người lính :
- Đúng số nhà đấy, nhưng nhà này người ta đi chỗ khác rồi, mới
được hơn tháng. Tội chưa, ông ta có hai người con, đứa trước bị gãy chân, đứa
này chết nữa…
- Bác có biết ông ta đi ở đâu không ?
- Không, chúng tôi mới mua nhà này.
Người tài xế nhìn bạn :
- Làm sao đây ?
Người lính vẻ chán nản hiện ra, không nói năng anh ta đi trở
ra khỏi ngõ, những người chung quanh ngó ngàng. Người tài xế cầm sắp giấy tờ đi
theo ra. Trong con hẻm chưa lúc nào đông người như lúc đó, họ tụm lại bàn tán với
nhau, có người tới gần xe nhìn lên cỗ quan tài phủ lá quốc kỳ với màu sắc rực rỡ.
Người tài xế đứng nơi đầu xe nhìn người bạn đồng hành :
- Thật tổ chác, cái thằng chết tiệt này nó hành mình. Làm sao
đây ?
Người lính nói :
- Thì tìm chứ làm sao ?
- Tìm ở đâu ?
Người lính không nói thêm, anh ta trèo lên xe thò tay lấy xị
đế để ở dưới chỗ ngồi mở ra tu một hơi dài…
Người tài xế văng tục một mình, lấy bao thuốc ra châm hút,
lúc sau anh ta trở lên chỗ ngồi mở máy cho xe lùi ra khỏi ngõ, hai bên hẻm nhiều
người vẫn tụ tập, đám trẻ bám quanh xe khiến người tài xế phải bấm còi liên hồi…
Uống hết xị đế người lính đứng lên vứt vỏ chai không xuống đường, tiếng vỡ khô
sắc...Xe đã ra khỏi con ngõ, đậu sát vào lề, người tài xế mở cửa nói về phía
sau :
- Bây giờ làm sao ?
Người lính nói lớn :
- Muốn sao thì muốn, không biết.
Người tài xế văng tục, nhìn bạn hơi mỉm cười :
- Kiếm chỗ nào cho họ vùi cả bọn cho xong....
(1972)
Trở về và nhớ
Trực nhìn xuống những ruộng lúa bị cháy đen và xăng chảy từ
những ống ra ngoài, vết đen lớn tàn phá lúa. Ngày xa cũ thưa thớt vài bóng cây,
xe chạy ngược vào thị trấn dần dần xa khỏi những đồi cỏ để vào đường phố với
hàng thông cao ướt nước, đường phố đầy bùn đỏ dơ bẩn và chỉ những chiếc xe nhà
binh ướt sũng không ngừng, những dãy phố thấp, những hè phố không đều và những
đường dốc. Xe ngừng lại nơi cửa nhà thờ, Trực bước xuống đeo ba lô trên vai,
bây giờ hãy kiếm một tô mì, môt ly cà phê cho buổi sáng của mình.
Bờ lề cao, ngôi quán Tàu mái nhà thấp, những thân cột sơn đỏ,
trần thấp ám khói, tủ kính ngoài quầy hàng treo thịt quay, xá xíu người đàn bà
Tàu cắt tóc ngắn ngồi từ trên cao nhìn xuống, những bàn vuông và tròn với ống
đũa, những chai nước mắm, bình ớt đỏ… Cho một tô hủ tiếu, một phế nại. Đứa con
gái không nói bước đi. Trực bỏ ba lô xuống một chiếc ghế, mặt bàn cáu bẩn và ấm
nước như đã mốc. Nơi nào cũng chỉ có Tàu, Tàu… dù một thành phố lớn, một thị trấn
có người ở, ở đó có hủ tiếu, cà phê dớ, từ đó những ngôi nhà lớn mọc lên và những
cửa tiệm luộm thuộm. Thực tôi cũng không hiểu được. Chú tôi nói trong quân đội
mấy lính Ba Tàu làm hỏa đầu quân thì ông quan nào cũng khoái hết, họ khôn ngoan
, chịu khó và sợ chết nữa, nhưng nhà bếp thì họ không e sợ gì cả… Tôi đã gặp những
lính Tàu… Bữa ăn sáng, hơi thuốc lá ngọt, đâu phải lúc nào mình cũng được sống
hạnh phúc như thế, nhưng nếu mình được sống hoài như thế đã chắc gì mình thấy
mình hạnh phúc. Mình sẽ qua những ngày phép trong căn nhà nhỏ, những đường phố
dơ bẩn, những bữa ăn sáng và quanh quẩn ít người bạn…Cuộc sống hình như không
còn gì lôi kéo về phía trước mặt mình. Trực bải hoải với những ý nghĩ buồn nản
vô cớ. Mình sẽ hưởng những gì và ngay từ trong cùng tận của cuộc sống, một kêu
gọi thẳm sâu nào… Và Trực như thấy mình sống lại…
… Chiếc trực thăng vượt lên cao mãi theo với những ngọn núi kế
tiếp và bầu trời xanh những lớp mây vươn lên chất ngất, len giữa những ngọn núi
có lúc mây che khuất ngọn, gió lạnh buốt, qua khỏi những lớp trường thành thiên
nhiên hùng vĩ đó trực thăng xuống thấp dần ngang qua những ngọn núi rừng cây với
những ngọn cây trải thành thảm lá mướt êm đềm. một khoảng trống hiện ra với những
đồn biên phòng nằm gọn trong thung lũng : nơi tôi sống những ngày cô quạnh. Trực
thăng lượn một vòng, xuống thấp dần và Trực nhìn thấy bóng một vài người trong
chiếc sân trống giữa những lớp hàng rào kẽm gai, giữa những công sự chiến đấu,
có những cánh tay giơ cao vẫy chào đón đợi…trực thăng sà xuống và đậu giữa sân
của tiền đồn, cánh quạt ngừng quay và Trực bước xuống với ba lô, chiếc thùng sắt,
tất cả những gì chàng có. Tôi hiểu những gì tôi sắp bắt đầu được sống : những
người bạn chưa quen, núi rừng xa lạ, mưa gió, thiên nhiên, những kẻ lạ không
tên gọi đang ẩn hiện đâu đó và cái chết rình chờ bên những hẻm núi, nơi những gốc
cây, lùm bụi hờm sẵn những họng súng, những mũi dao nhọn hoắt đã được mài giũa
bằng những lời hô hào , những quyết tâm những lời thề sinh bắc tử nam …Chúng
tôi có tám đứa được đưa tới tăng phái cho tiền đồn, người thượng sĩ đứng đón
cách phi cơ khoảng mười thước mỉm cười nhìn chúng tôi. Trực thăng ngừng cánh, một
thành viên bỏ phi cơ đi vào trại mang theo một bao đỏ những thư từ của gia đình
những binh sĩ trấn đóng nơi đây. Sau khi vào trại chúng tôi được dẫn tới gian
nhà phía tay trái của trại, chúng tôi được chỉ cho nơi mình được sống, một số bạn
mới của chúng tôi bu lại có người ngó nhìn, có người cười nói hỏi chuyện chúng
tôi, ở đâu tới, bây giờ cuộc sống ở Sài-gòn, ở Pleiku, ở Kontum ra sao. Chúng
tôi làm quen với nhau. Sau đó chúng tôi trình diện trưởng trại.
Trong căn phòng được chất đầy những thùng đạn dựng đất vây lấy
những bức tường, viên sĩ quan lặng lẽ nhìn chúng tôi từ đầu tới chân như một
người ngắm nhìn những gì mới lạ. Đại úy N. tiến đến bên Hùng đặt tay lên vai người
lính mới, mỉm cười :
- Chú em giết người rồi hả ?
Nét mặt măng trẻ của Hùng như muốn đỏ lên, hắn lúng túng một
lúc lâu, Đại úy N. hỏi tiếp :
- Sao, nhiều hả ?
Hùng, giọng mất tự nhiên, nhỏ :
- Dạ, thưa đại úy không có…
- Thôi mà, xạo hoài, cái sẹo nào đây ?
Ngón tay trỏ của đại úy N. chạy dài trên vết sẹo từ nơi mang
tai xuống cổ, vết sẹo còn để lại những dấu vằn như vết khâu trên da mặt. Vết sẹo
làm cho khuôn mặt Hùng có một vẻ đặc biệt vừa dữ tợn vừa dịu dàng. Đôi mắt lớn
cuống quýt, dáng ẻo lả. Trực không hiểu được Hùng, sao hắn có thể vào lính sớm
như vậy. Trông thấy Hùng trong toán tăng phái, Trực ngạc nhiên không ít. Đại úy
N. nói tiếp :
- Cái huy chương này đáng giá lắm…
- Thưa đại úy, một tai nạn, bọn nó hiểu lầm em…
Giọng cười khô khan :
- Không sao, hiểu lầm hay không chẳng sao, nhưng ở đây thì bỏ
máu anh chị đi nghe, đây không có chuyện đâm thuê chém mướn đâu nghe, mấy tuổi
rồi ?
- Dạ, mười chín.
- Một hiệp sĩ mù, được lắm…
Bỏ Hùng lại, Đại úy N. đến bên Thiện cầm lấy cánh tay đưa
lên, hình một người con gái khỏa thân xâm trên cánh tay đầy những lông đen
quăn, Đại úy N. cười cười bỏ xuống không nói, ông đi tới những người khác. Tới
Trực ông chậm chạp nhìn ngắm. Đôi mắt sâu hút, lông mày rậm, nước da đen, đôi
môi đỏ, ống mũi nhẹ nhàng. Tôi không thấy nơi ông một vẻ gì hung dữ, Trực đứng
im. Đại úy N. :
- Tóc tai tài tử quá hả, vợ con gì chưa ?
- Dạ chưa.
Đại úy N. mỉm cười nhưng nét mặt vẫn có một vẻ nghiêm nghị một
cách khôi hài :
- Sao chưa biết hả ?
- Dạ biết…
Trực ngượng ngùng nhìn xuống, tiếng cười trong cổ họng vị sĩ
quan, ông đi trở lại phía sau bàn giấy, ngồi xuống lấy thuốc châm hút :
- Rồi, các chú tới đây bọn tôi mừng lắm, ở đây thì đường
hoàng nghe, giang hồ với nhau, không có quan với lính mẹ gì hết, sống đường
hoàng, xuống dưới đó nhận tiểu đội, kiếm rượu uống, có tiền không, đây phát cho
mỗi chú một ngàn, cho mượn chờ tháng lĩnh lương trả, trừ đứa nào được bạc thì
trả ngay. Rồi, cảm ơn mấy chú.
Cả đám rời khỏi phòng, trở lại với những bạn mới, Trực thấy
yên tâm phần nào với đại úy N. ông mang đến cho mọi người sự thân mật cần thiết,
đáng ra Trực không cần tiền nhưng thấy dáng vẻ của Đại úy N. Trực thích số tiền
đó. Trực bỏ đồ đạc vào nơi đầu chiếc giường được chỉ định, chàng nhận thấy căn
phòng có một vẻ hỗn độn đặc biệt, những hình khỏa thân lấy ra từ trong một tập
báo Mỹ dán đấy nơi những vách ván, bên đó treo những mũ, súng, những cành cây
khô, nơi đầu giường gần nơi cửa của phòng có một khóm lan rừng treo từ vách rũ
xuống ở bên một cây đàn. Trực nghĩ : một tay nghệ sĩ giang hồ. Trong phòng có
mười chiếc giường, Trực là một trong hai người được bổ sung cho toán này. Trong
phòng, lúc đó chỉ còn lại hai người, Lịnh và Mãnh, những người vắng mặt đang ở
trong một chuyến công tác vắng mặt đã ba ngày, Lịnh nói :
- Tháng trước có hai con đi ngủ, bọn tôi chờ mấy anh. Tôi
cũng sắp được về, sáu tháng rồi.
- Rách hai con hồi nào ?
- Tháng trước, mới đầu tưởng thất lạc, sau thấy bị treo trên
một cành cây.
Giọng Lịnh bình thản. Mãnh đứng bên, tựa người vào vách nhà
nhìn chúng tôi, tôi lo trải giường rồi nằm xuống cho những thớ thịt doãi ra.
Sáu tháng là ít nhất tôi sống ở đây và có thể chết ở đây. Mãnh nói :
- Tôi muốn đổi về Lôi Hổ, ở đây buồn quá, ngày đêm lúc nào
cũng như bị tù, chẳng có nơi nào là hậu cứ cho mình, thiếu mọi điền cần thiết,
sống hết nổi, có lúc muốn phát điên, anh tưởng tượng : sáu tháng không đàn bà…
Mãnh cười cung cúc như tiếng cười của môt người đàn bà thô kệch
không còn duyên dáng của một người nữ. Trực cười theo lặng lẽ. Thời loạn, những
đòi hỏi thực tế con người. Mình cũng đã chọn một đời sống đã chết. Sao mình
không làm khác ? Làm gì ? Trực lại nhớ tới người con của ông chú, thi xong tú
tài nó học cầm chừng và chơi bời, la nó, nó nói nhẹ nhàng: đằng nào rồi cũng
vào lính, chỉ có chờ, chỉ có trước hay sau… Trực nghĩ tới vô số những người
khác cùng lứa tuổi với mình, chỉ có một nơi chờ họ tới : Trại binh , sau đó là
chiến trường ...Tương lai sáng lên những u tối của một thời đại liên tiếp những
biến đổi, liên tiếp kéo tới những số kiếp đồng dạng bi thảm nhoa nhếch những
máu và nước mắt. Trực cầm trong chiếc ba lô ra tờ nhật báo cũ bỏ lên giường.
Mãnh cúi xuống cầm lên đọc:
- Ở đây bọn tôi chỉ có la dô, tờ báo cũng trở thành kỳ lạ.
Nghĩ thấy những cái này cũng chẳng cần gì. Thực nhiều khi tôi không còn muốn biết
gì nữa, mọi điều ở ngoài nơi đây tôi không cần biết tới. Anh cũng đã biết ?
- Tôi biết, ở trong lính được hơn một năm rồi.
- Như vậy là thọ.
- Anh thích Lôi Hổ ?
- Không phải thích, nhưng trong những thứ buộc phải lựa chọn
thì mình chọn cái nào khá hơn, chẳng lẽ chọn đời sống của một tên trốn chui trốn
nhủi hay một tên lính gác cửa, anh thấy vậy không ?
- Anh tưởng vậy, tìm một chỗ làm lính gác cửa đâu phải dễ gì
tiền bạc không đó ?
- Thật là thằng ngu mới lựa chọn như thế, nhiều chuyện không
hiểu nổi, thật bọn heo…
- Có lần tôi xin đi làm chuyên viên chất nổ mà không được,
tim đập ghê quá.
Mãnh cười, hắn lật trang báo tới chỗ này chỗ khác, Lịnh nằm
dài nơi chiếc giường mé bên kia. Hùng đã trải xong và thu xếp mọi thứ cần thiết.
Trực nhìn Hùng lúc lâu, vết sẹo nơi mang tai. Nghĩ tới ngón tay của Đại úy N.
và câu chuyện ngắn ngủi khiến Trực bật cười và bỗng thắc mắc về Hùng :
- Trông cậu như tên tội phạm khi đứng trước đại úy.
- Phạm tội, rỡn hoài…
- Thế sao xanh mướt, run và mồ hôi chảy nhép trên mang tai, cậu
cũng anh chị nhỉ, lịch sử một vết sẹo đâu phải cứt gì, cũng đâm chém đấy chứ…
- Thôi đi, một tai nạn xe cộ, một tai nạn hồi nhỏ tuổi không
thể có à ?
- Không tin, trông mặt cậu ta không tin, lại nữa, bước chân
vào một nơi như thế này, cậu không phải như thế, khai đi cho anh em nghe chơi
và ngưỡng mộ.
Hùng lặng thinh không nói, Mãnh ngó Hùng không chớp mắt, Lịnh
cũng nhìn Hùng như muốn biết rõ về người bạn đồng đội mới của mình. Không khí
im lặng như chờ đợi. Hùng nhìn Trực :
- Thế còn cậu, không có một lịch sử nào cho cậu sao ? thất
tình phải không ? một nàng tiên nào đó đã đá cậu một cú song phi ?
- Lại chuyện tình nữa, có thể lắm, chết vì tình là nhất.
- Đó là lịch sử của cậu ?
- Nàng tặng ta khổ đau
Ta không nhận nhưng cầm
Mang về để dưới gối…
- Chà một nghệ sĩ giang hồ.
Cả đám cùng cười rộ. Trực tự hỏi : tại sao không có một lịch
sử nào cho mình, tại sao mình lại thấy phải bước vào con đường này : một mơ ước
phiêu lưu ? một lựa chọn vô lý ? một thự tế cùng quẫn ? một vô vọng lười biếng
? Một chuyện tình cho mình có để bỏ đi như hành lý cần thiết là một hạnh phúc
mà mình cũng không có. Tôi chỉ có những nàng tiên trong ổ đĩ, chỉ có những
thoáng nhìn tội nghiệp, chỉ có một đời sống mồ côi và thực tế cơm áo, tôi không
có gì khác ngoài một thực tế tầm thường. Trực như nói với mình :
- Nếu có một chuyện tình như mình nhớ.
- Thôi đừng mơ mộng chứ…
Hùng bỏ ra ngoài phòng. Trực ngả người xuống giường. Nơi đây
tôi sẽ sống những ngày sắp tới. Không khí những người chung quanh mang đến cho
Trực một niềm vui, ở đâu cũng thế, trong những năm trôi nổi chàng chỉ thấy có
tình bạn. Những bên nhau, đi bên nhau, chiến đấu bên nhau thân thiết như chân
tay. Đôi mắt một người bạn cũ mở không ngừng trong trí nhớ Trực. Hai đứa vừa vượt
lên khỏi hầm lao đầu về phía trước thì một loạt đại liên nổ xối xả, hắn ngả xuống
với tiếng kêu thất thanh. Trực không tiến lên, nằm rạp xuống, quay đấu trở lại,
người bạn đang quằn quại với vết thương trên ngực. Quên những làn đạn trên đầu,
Trực bế vội người bạn quay trở lại hầm trú ẩn. Người bạn không nói được, máu chảy
ướt sang người Trực. Đôi mắt hắn mở lớn không chớp. Lúc sau giữa những tiếng đạn
nổ nhức nhối tiếng người bạn thều thào : tao chết mất mày. Và hắn chết, đôi mắt
mở lớn như tìm kiếm cái gì. Trực nghĩ tới những người thân của hắn. Trực nhớ tới
câu chuyện một ngày nào đó đã xa lắm hắn nói hắn bỏ gia đình mà đi, hắn chỉ
thương mẹ hắn. Đôi mắt mở trợn trừng, tiếng kêu thất thanh nơi tuyến đầu vẫn
như còn đó với hình ảnh khắc ghi. Trực đã lấy bàn tay dính máu vuốt mắt người bạn
mà trước đó không lâu còn cười nói bên mình. Chính trong chiếc hầm đó, Trực đã
rã người đi với xác người bạn lạnh dần trên tay. Khi trở lại sau trận chiến với
máu đầy trên người, những đồng đội đã nhìn thấy Trực như một người chết hiện về.
Cuộc sống ngắn ngủi, cái chết tình cờ dễ dàng nhanh chóng đã nhiều lúc khiến Trực
bàng hoàng. Bây giờ ở đây, những bạn bè mới gặp, những ngày tháng gai lửa trước
mặt, Trực tự nghĩ, biết đâu một hôm nào đó Trực sẽ trút hơi thở bên một người đồng
đội . Cái chết mang theo mọi điều đã có trên đời sống, những điều chẳng liên
can đến ai. Chiếc ba lô, chiếc thùng sắt, một ít vật dụng, một số tiền chết
cũng không ai nhận lãnh, và chàng nằm xuống lòng đất rã tan…
Trực trở dậy theo Mãnh đi thăm căn trại. Những bạn mới, những
căn nhà như hầm với những vỏ đạn, bao đất, thùng đất chất chồng từ nơi này tới
nơi khác, những công sự chiến đấu kiên cố, Mãnh nói :
- Hồi cách đây ba tháng bọn này bị đói mất mấy ngày, bọn nó
làm dữ, trời thì mưa không sao tiếp tế được, tức phát chết là đồ thả dù lại rơi
vào bọn nó hết, tức cười nhất là một thùng đồ rơi phía ngoài vòng trại một khoảng,
cả hai bên cùng tìm cách chiếm, thằng ở trong bò ra thì bị bắn, thằng ở ngoài định
lấy cũng không được, mấy thằng bị chết vì kiện lương thực đó, nghĩ đến tức cười
giữa hai làn đạn, sau những ngày cầm cự đến lúc ra lấy được kiện hàng thì chẳng
phải lương thực gì hết mà toàn là quân trang, chẳng hiểu là họ nhầm hay không,
nhưng quân trang đầy những vết đạn và chẳng đứa nào thèm lãnh hết. Nghĩ thực tức
cười.
- Nhưng cậu thì mong ở trong đó một thứ gì ?
- Một người đàn bà được bọc trong một thùng bằng thép.
Trực cười ngất, Mãnh nghiêm giọng :
- Ngó bộ cậu nghĩ đó là chuyện bậy bạ sao ? Một chuyện nghiêm
trang đó chứ.
- Đâu có, mình tưởng cậu nghĩ tới lương thực.
- Lương thực cũng cần, nhưng đàn bà cũng cần.
- Bọn đàn ông ở chung lại với nhau, ở trong tù, ở trong trại
lính trước hết nghĩ tới ăn đã, trước là cần có cái ăn, sau là ăn ngon và đủ,
sau đó mới tới chuyện đàn bà. Ăn đã…
Hai người tiếp tục đi vòng quanh khu trại, Mãnh chỉ nói tới
nhà nào lương thực, chỗ nào súng đạn, tới căn nhà nhỏ nằm riêng phía góc của trại,
ngoài phía sân bay trực thăng, kế đó phía ngoài hàng rào có một sân bay nhỏ trải
đá đỏ dùng cho các chuyến bay tiếp tế, đường bay ngắn có nhiều hố đạn chưa được
lấp phẳng, dấu tích của những trận pháo kích của địch quân. Mãnh nói :
- Đó là nhà Vĩnh biệt, và đó cũng là nhà chứa bộ quần áo cho
bọn mình diện lần cuối nếu có may mắn…
- May mắn ?
- Chứ sao ...
- Cậu còn yêu đời lắm, nghĩ tới cả lúc chết thì tuyệt thật.
Cái kho áo quan ấy trước không có, sau này mới có vì bọn này đã bị một lần cực
vì cái ông bạn mình chết ở đó.
- Sao vậy ?
- Cậu thử tưởng tượng bây giờ có người chết, kéo dài hàng nửa
tháng để trong trại này, mùi hôi thối có làm cho cậu chết không ? Bọn này đã bị
rồi… Nửa tháng máy bay không xuống được, mưa, sương mù và đạn thù làm cho bọn sống,
bọn chết, người bị thương ở chung với nhau .Phải sống qua mới biết thế nào là
mùi tử khí . Sau này trại xin cho quan tài bọc kẽm mang xuống, anh nào tịch bỏ
vào liền, gắn chì lại, để cả năm cũng không sao…
Trực rùng mình nghĩ tới cảnh đó nơi chàng vừa bắt đầu thời
gian mới của đời mình. Thức ăn, súng đạn và mơ ước . Một nỗi cay đắng buồn phiền
xâm chiếm Trực… Những ngày tháng mới, những chuyến đi toán, rừng cao lớp lớp
không ánh mặt trời, không một con đường mòn, chỉ có lá rừng dưới chân, những cạm
bẫy chờ đợi, những họng súng đâu đó.Trực cũng đã có lần ngây ngất với hương lan
hoang dại giữa rừng sâu, những con suối trong vắt chảy dài như con rắn hiền
lành. Giữa rừng sâu, giữa những hoang vu đầy mùi thảo mộc đó có lúc Trực nghĩ tới
một viên đạn nổ vào đầu, ghim vào ngực và Trực nằm xuống không còn thở nữa.
Chàng muốn được nằm đó và thân xác tan rữa. … Trực nhớ tới những điều đó, những
ý nghĩ quanh quẩn lâu lâu với hoàn cảnh lại thức dậy… Nhưng chàng đã không chết,
chàng đã sống và dời khỏi tiền đồn, chia tay với bạn bè, từ biệt những con đường
ngắn ngủi chạy quanh khu trại, từ biệt chiếc giường sắt, những cái ghế trong
câu lạc bộ, từ biệt những họng súng chờ đợi nhìn xuống từ những sườn núi, từ biệt
những kẻ lạ mặt trì chí trong rừng sâu nhưng có hẹn ngày trở về ?
… Những ý nghĩ miên man đến với Trực, cơn mưa ở đâu ập xuống
xối xả, buổi sáng như được kéo dài theo với cơn mưa và không khí ẩm lạnh của thị
trấn trên cao. Trực kêu thêm cho mình một ly cà phê, thứ cà phê đất bùn này dù
sao cũng còn khá hơn thứ cà phê của bọn Mỹ bỏ trong những chiếc bao chua lòm
khó chịu. Cửa tiệm gần như không còn sinh hoạt nào khác, Trực ngồi một mình
trong đó giữa những bàn ghế bỏ trống. Người đàn bà ngồi nơi quầy có lúc vào nhà
trong bỏ lại khoảng trống, ngoài đường, thỉnh thoảng một người ngang qua với áo
mưa ướt bóng. Những chiếc xe nhà binh chạy nhanh xuống dốc vời tiếng máy khó chịu.
Mưa như thế này ở trong thung lũng thì coi như buổi tối đã bắt đầu và mọi người
nằm ngồi trong ánh sáng vàng của những ngọn điện treo trên cao. Tấm lịch chàng
có đã phải được gạch đi từng ngày để biết thời gian trôi, những ngày hành quân
trong rừng, có lần trở về Trực không còn biết rõ ngày tháng. Chừng như thời
gian trong những ngày tháng ấy dài hơn những ngày tháng khác. Trong ngôi trại,
mùa mưa có những giấc ngủ kéo dài khi thức dậy chàng không còn trí nhớ để xem
mình đang ở trong đêm mình đã ngủ, ngày hôm sau hay là một đêm khác đã bắt đầu,
những ngày tháng vô vị lãng đãng đó như một cảm giác vô vị nhạt nhẽo lềnh bềnh
trôi và Trực thả mình trong lười biếng cùng trí óc cùn nhụt…
Hai đứa nhỏ đánh giày ướt át đi vào, đứng nơi cửa ngó ngang
quán ăn tìm kiếm những khách hàng. Một đứa đến bên Trực :
- Đánh giày anh hai…
Không kịp nghe trả lời đứa nhỏ đã ngồi ngay xuống kéo giày của
Trực định đánh, Trực kéo chân lại, ngó xuống :
- Mưa gió mà đánh gì chú bé.
Đứa nhỏ tay vẫn cố lôi chân Trực, mắt nhìn lên nhìn Trực với
vẻ tội nghiệp khó chịu, đôi mắt thơ ngây, khuôn mặt khô lại, những giọt nước
còn chảy nhoa nhếch trên mặt, chiếc áo cánh mỏng ướt nhép, chiếc quần ngắn, hắn
ngồi bỏ cao hai đầu gối trần ra ngoài đầy bùn đỏ. Trực nhìn vào mặt bàn :
- Thôi không đánh đâu em.
Đứa nhỏ đứng lên ra cửa ngồi xuống bên đứa bạn nhìn ra ngoài
đường cơn mưa đang xối xả đổ xuống. Một đứa đang hút một điếu thuốc, khói bay
lên chậm chạp trong bầu khí lạnh đặc.
Cơn mưa làm bầu trời thấp và tối, những thân cây và những căn
nhà bên kia đường nhòe đi trong mắt nhìn.
(1972)
Cánh đồng mùa xuân
1
Chú tôi ngồi dựa lưng vào tường , hai tay cầm lấy hai mép của
chiếc bao tải căng rộng ra đưa xuống dưới chân, hai chân co lên rồi lồng vào
chiếc bao tải và duỗi thẳng, chiếc bao tải quá khổ nhờ thím tôi tháo đáy một
cái rồi khâu nối lại với nhau, miệng chiếc bao tải kéo lên ngang ngực, chú kéo
hai đầu dây buộc lại, bây giờ chú đã gọn gàng trong chiếc bao,hai tay bỏ xuống
dưới, ngả người vào vách nhà. Tôi cởi chiếc khăn quàng ra chùm lên đầu còn lại
quấn một vòng cổ và buộc lại :
- Năm nay sao rét ngọt quá, rét từ trong bụng mà ra, cháu làm
cái ổ rơm dưới hầm cẩn thận không ?
- Ở dưới ẩm quá, chắc hầm ở dưới mực nước ao.
Thím tôi ngồi ở chiếc ghế đẩu phía ngoài đang hơ những ngón
chân lên những nùi giẻ cháy khét và khói mù, có lúc nhăn mặt vì đau đớn với những
khe chân nước ăn bị nứt ra. Chú tôi cầm chiếc điếu cày hít một hơi thuốc dài,
hãm khói rồi thở khói thuốc lên cao. Chú bỏ chiếc điếu xuống bên, ghếch lên
vách nói lơ đãng :
- Chú muốn cháu ở hẳn ngoài ấy, cháu không nên ở nhà nữa, mặt
trận mỗi lúc một thít lại, bom đạn thì vô chừng...
Thím tôi ở phía ngoài ngẩng lên nhìn tôi rồi lại cúi xuống,
tôi nhìn chú tôi :
- Cháu muốn đưa bố cháu đi, không thể để ông dưới hầm mãi như
thế.
- Làm sao đi ? Lên tới huyện là có thể bị bắt giam rồi. Giải
thích làm sao đây ?
- Để bố cháu chết ở dưới hầm đó sao ?
Chú tôi ngồi im, tôi thấy hai ngón chân cái chú động đậy
trong chiếc bao tải. Ngọn đèn nhỏ như hạt đậu xanh đứng im trên ngọn bấc, gian
nhà chìm vào trong một thứ ánh sáng vàng nhờ nhờ bệnh hoạn. Tôi nghe như những ngọn
gió lẻn vào trong vách vào trong nhà, hơi gió buốt có lúc len vào cổ, luồn vào
trong chiếc áo bông ngắn ngủn trên người. Chú tôi thở dài, cúi xuống với hai
tay khoanh trước ngực :
- Chú cũng tính đưa thím ra ngoài kiếm ăn, ở nhà không yên,
nhưng cháu thấy, bây giờ mình đi thì như chim chích vào rừng làm sao nuôi sống
được nhau, ruộng nương ở nhà giao cho ai, bán thì không có ai mua, mình chỉ có
thể sống được ở quê nhà, riêng phần cháu thì được, chính thế chú muốn cháu hoặc
trở ra ngoài đó hoặc trở vào với bác. Chuyện của bố cháu để chú thím lo, cháu
còn nhỏ… bây giờ ở quê mỗi lúc một bất ổn, cháu thấy đó, mới đêm qua ông Trùm bị
giết.
- Ông Trùm bị giết ?
- Chú mới nghe tin hồi chiều, tính xuống dưới thăm nhưng rồi
chú không dám đi, từ đây xuống Bãi Bồi chiều tối là không còn bóng người. Đêm
qua họ họp ở dưới đó, ông Trùm bị mang ra xử và bị bắn ngay ở cửa nhà thờ…
- Tội gì, họ nói tội gì ? Ông Trùm già và hiền…
- Chó săn cho Tây.
- Thực sao ? thế chú gì đó con ông Trùm là du kích sao không
cứu cha ?
- Tây nó bắn chết hồi năm ngoái rồi.
- À phải rồi…
Tôi ngồi yên với những ý nghĩ miên man, bây giờ thì thực sự
chú thím tôi đã không muốn cho tôi ở nhà nữa, dù chỉ là những thời gian ngắn ngủi,
những tuần lễ học hành ở ngoài tỉnh không cho tôi yên tâm mỗi khi nhớ tới cha
tôi đang nằm dưới hầm và quê nhà thân yêu, chú thím tôi phải sống trong vòng lửa
đạn[1]. Có lúc tôi muốn trở lại Nha Trang với
bác tôi, nhưng tôi đã không thể quyết định được giữa vô số những giằng co không
đâu, mà tôi nghĩ những người cùng trang lứa chắc không nghĩ đến. Khi nghĩ tới
chuyện đưa cha tôi ra khỏi hầm, đưa cha tôi ra tỉnh, tôi hiểu ngay rằng tôi
chưa đủ lớn để làm một điều gì.
Đêm càng khuya tôi càng cảm thấy lạnh buốt nơi hai bàn chân
không, mùa đông trở lại, ở quê không có chăn, thím tôi đã mua được mấy cái bao
tải và đêm lại mỗi người chui vào trong cho qua giấc ngủ trên ổ rơm khô. Những
buổi sáng thức dậy bỏ tay vào chậu nước cảm giác tê buốt chạy khắp cơ thể, trên
những mặt ao tù chừng như hơi nước còn đọng lại và tôi chờ nắng lên ra ngồi
ngoài sân gạch cởi chiếc áo len cũ ra lần bắt những con rận nằm nép bên những
đường đan gấp lại, những con rận khô bên những chiếc trứng trắng tươi như hạt vừng
nhỏ đã sát vỏ. Và mỗi ngày tôi mang xuống hầm cho cha tôi môt ấm đất nước nóng.
Có những buổi sáng tôi thấy cha tôi vẫn ngủ say nằm co quắp trong chiếc bao tải,
có buổi tôi tưởng như cha tôi đã chết.
Lúc bấy giờ mùa đông, tôi nhớ rõ thế, trong một tình thế khó
khăn bất ổn, chú tôi đã không muốn cho tôi ở lại nhà, tôi thì muốn đưa cha tôi
lên khỏi hầm, đưa ông ra tỉnh sống, nhưng chú tôi không thể giúp tôi thực hiện
điều đó, chú tôi cho tôi thấy tất cả những khó khăn, tôi ra tỉnh và tìm kiếm, hỏi
han một số người quen biết giúp cho, sau chót tôi có một người đằng ngoại nói với
tôi là nên nói chuyện đó với Cha sở, nhờ ông nói với Tây và ông Quận rồi đưa
cha tôi đi. Thực ra lúc đó chuyện cha tôi trốn dưới hầm vẫn không ai rõ, tôi
thì nói cho người ta hiểu mập mờ như là cha tôi ở ngoài khu muốn về tề. Và tôi
mang chuyện đó ra nói với cha tôi.
Đúng như chú tôi tiên liệu, vài ngày sau khi ông Trùm bị xử bắn
thì Tây hành quân càn quét một cách hung bạo, đêm họ lại bắn moóc- chê vào làng
nữa. Cha tôi ở dưới hầm mà cũng run. Nhưng ngay khi Tây đi khỏi, đêm lại, du
kích về đốt sạch cả xóm Bãi Bồi, lửa cháy sáng cả một góc trời, tôi ra đứng nơi
sân ngó về hướng bên kia bờ đê mà kinh hoàng. Nhưng cũng may phần lớn những người
ở đây đã bỏ xóm mà lên tá túc trên huyện cả. Tôi kể lại sự kiện này cho cha tôi
nghe, ông thở dài và buồn khi nhắc tới ông Trùm, một người bà con xa với gia
đình. Tôi nói :
- Con muốn cha ra tỉnh, con không muốn thấy cha chết ở dưới hầm.
Cha tôi lắc đầu nhìn tôi, tôi thấy những ngọn tóc bạc lay động.
- Vậy cha chịu chết ở dưới này sao ?
- Không cha tin ở một đổi thay.
2
Người lớn tuổi im lặng cúi nhìn xuống khoảng đất bột phẳng mà
người trẻ tuổi đang dùng chiếc que vẽ một tràng pháo đài với những chiếc pháo đều
đặn. Người trẻ ngửng lên nhìn bạn, người lớn tuổi giọng mơ hồ :
- Lại hồi tưởng, thời ấy đã xa rồi… Anh lại đang…
- Tôi nhớ lại một cái Tết hồi còn ở lại ngoài Bắc, cái Tết cuối
cùng nơi quê hương, và có lẽ là cái Tết cuối cùng trong đời, dù là Tết trong thời
loạn, từ đó mình không còn là Tết nữa, anh có vậy không ?
Người lớn tuổi phác một nụ cười trễ biếng trên môi :
- Người ta bao giờ cũng gắn bó với quá khứ, chính quá khứ đã
khiến anh không sống được gì, đó là một thiệt thòi, lỗi một phần ở anh.
- Lỗi ở tôi ?
- Một phần, đừng cáu giận chứ.
Người trẻ im lặng cầm cái que trên tay vứt ra xa, lấy chân
chùi bỏ hình vẽ trên mặt đất. Người lớn tuổi nhìn vẻ ái ngại :
- Nhiều lúc tôi không hiểu gì nơi anh hết, anh thật gần với
tôi, nhưng có lúc tôi thấy anh lạ quá, những điều anh nói với tôi cũng vậy, có
lúc tôi nghĩ anh sắp làm sáng tỏ một điều gì, thì ngay đó tôi thấy anh đã xóa bỏ
nó không giải đáp, và ngay đó anh lại mở ra một vấn đề khác không ăn nhập gì…
- Không phải thế, chính nó vẫn ở trong câu chuyện mà tôi đang
nói với anh, muốn anh giúp, tôi thấy tôi không thể giải thích được một cách thỏa
đáng, để sau đó có thể chết thanh thản.
- Không phải thế, không phải là cái chết,chính là sự sống…
- Tôi đã lại thấy đau đầu, chừng như có một hạt sạn nào đó lọt
vào trong đầu tôi.
- Không phải đâu, tôi biết một chuyện khác.
- Cái gì ?
- Một cái cây đang mọc ở trong đó.
Người trẻ vẻ mặt nghiêm, người lớn mỉm cười tinh quái :
- Tôi biết, hồi nhỏ, anh ăn ổi, ăn cam, ăn nhãn rồi anh nuốt
hột vào trong bụng, phải không, bây giờ những hạt đó đã mọc mầm và đâm lên đỉnh
đầu.
Người trẻ tuổi phá lên cười, người lớn cười theo, tiếng cười
hồn nhiên giòn tan trong không khí yên lặng của khu bệnh viện. Người trẻ gật đầu
vẻ tươi tắn trên nét mặt xanh xao :
- Anh làm như tôi còn con nít, điều ấy hồi nhỏ tôi vẫn sợ mỗi
lần ăn quả gì mà vô tình nuốt cả hột, nhất là khi ăn nhót, anh biết không ?
- Thôi đừng nói, chảy cả nước miếng, tôi nhớ nó hồi được ra
Hà-nội học, những trái gì mà mọng đỏ, với phấn và mình cầm từng trái sát vào áo
len và áo dạ… Ơ nhưng mà hình như anh đang nói với tôi chuyện gì kia mà, đâu phải
là những trái nhót nhỉ ?
Người trẻ tuổi lặng yên, người lớn nhìn mông ra khu sân cỏ của
bệnh viện, người trẻ tuổi tư lự, người lớn tuổi ngó bạn thương hại :
- Điều tôi muốn biết là : cha anh sau đó có được cứu sống
không ?
- Thong thả anh để cho tôi nhớ lại, vâng…
Người trẻ lấy một điếu thuốc châm hút, người lớn tuổi lấy một
viên kẹo ngậm, chút giấy bông nhỏ vê tròn trong lòng tay.
Người lớn tuổi đứng lên đi về phía bên kia nhà nguyện, buổi
chiều đã xuống, trên con đường từ cổng bệnh viện đi vào số người vào thăm bắt đầu
đông hơn, những bước đi vội vàng, những gói quà trên tay, trong giỏ xách. Người
trẻ tuổi vẫn ngồi im nhìn người bạn bước đi chậm, người lớn tuổi quay lại nói :
- Đứng lên, đi một chút cho nó khỏe chứ.
Người trẻ vừa đi đến vừa nói :
- Đã què rồi còn ham đi, nếu còn chân chắc lúc nào anh cũng
chạy, phải thế không ?
Người lớn tuổi cười, gõ tay vào chiếc nạng :
- Chưa chừng rồi tôi trở thành một hiệp sĩ độc cước.
Người trẻ nhìn bạn ngậm ngùi :
- Bây giờ chỉ toàn là những hiệp sĩ, hiệp sĩ mù, hiệp sĩ độc
thủ, hiệp sĩ cụt, có điều toàn là hiệp sĩ không có kiếm.
- Anh nghĩ tôi khuya cái nạng này lên mà không mệt à.
- Thôi, cũng không xong đâu, anh không thấy là mình thua đấy
sao, thua rồi, hỏng rồi… Tôi , tôi mất hết cả tin tưởng. Chúng ta ở trong một
cái vòng siết rồi. và đau lòng hơn hết khi tôi thầy chúng ta đứng ở hai phía của
Tây phương lại vẫn cứ tưởng rằng mình là dân tộc…
Người trẻ tuổi dừng lại với cơn ho rũ rượi, người trẻ rũ người
xuống như một tàu lá, người lớn đi vội lại bên cho người trẻ tựa lấy, cơn ho
nghẹn ngào, khi cơn ho dứt, người trẻ ngửng mặt lên với khuôn mặt nhòe nhoẹt những
nước mắt, da tái nhợt, hơi thở gấp gáp cồn cào :
- Nói cho cố, nghe bệnh anh không khá được, mình lại kia đi,
ngồi một chút cho khỏe lại. Anh bi quan quá.
- Bi quan, bác sĩ bảo tôi không chết vì bệnh mà chết vì những
điều nhảm nhí trong đầu. Nhảm nhí, cái tiếng ấy nghe hay thật.
- Anh không thấy là thời tiết đang chuyển đó sao, cuối đông rồi,
mùa xuân sẽ đến…
- Anh đừng an ủi tôi, mùa xuân. Tôi đâu đã được sống.
Trời đã tối hẳn, buổi chiều đã tan, những ngọn đèn đã bật
sáng, hai người trở lại phòng.
3
Khi chuồi người được vào trong hầm, tôi ngừng lại một lúc để
làm quen với bóng tối vây quanh, trong ánh sáng lờ mờ tôi nhìn vào góc tối quen
thuộc nơi cha tôi vẫn ngồi, tôi thót người hốt hoảng trong giây phút, tim đập mạnh,
chỉ còn một ổ rơm bỏ trống với dấu vết của một chỗ ngồi. Cha tôi đã biến đi đâu
? Tôi tưởng tượng tới chuyện cha tôi đã rời khỏi hầm và biến vào một thế giới
nào đấy, biết đâu, trong đêm trước mặt một người nào đó, người bạn cũ chẳng hạn,
đã đến đây với mũi nhọn trong người mang cha tôi đi, rồi một bản án ghim trên
ngực, hay một viên đạn xuyên mang tai… Tôi run lên với những lo sợ. Tôi đứng im
lắng nghe, với những cố gắng tột cùng tôi tìm kiếm cha tôi… vách hầm phía trước
mặt, lỗ thông hơi với ánh sáng, bên trái tôi và bên phải, tôi giật mình, cha
tôi đang đứng ép người vào một vách hẩm ngay bên người tôi. Tôi thở ra, lấy lại
bình tĩnh : cha, cha làm gì vậy ? Tôi nghe thấy tiếng cha tôi thở dài, bỏ chỗ đứng
và ngồi xuống nơi ổ rơm : tệ quá, thời gian làm cho cha mất khả năng chịu đựng,
cha đứng thẳng xem mình còn sức khỏe không, tệ lắm rồi, đứng đã thấy mỏi, đầu gối
đã thấy run và hơi thở không đều nữa… cha tôi cười thành tiếng. Tôi đã quen với
bóng tối đi tới ngồi xuống bên cha tôi. Như một thói quen cha tôi nói : con hãy
kể những chuyện con biết cho cha nghe… Tôi ngồi và nói cho ông biết những chuyện
đang diễn ra trên mặt hầm, những trận càn quét, những sinh hoạt của mọi người,
trong đó có chuyện một thanh niên trong làng đã dẫn Tây từ đồn về khui lên một
cái hầm của du kích, bắn chết hai người, bắt đi một người và đốt ngôi nhà có hầm…
Anh ta bị bắt cách đây một tuần, hôm nay trở về với vẻ vàng vọt, chú nói Tây nó
đánh dã man anh ta không chịu được nên khai, anh ta là con bà nhiêu gì dưới xóm
dưới, ngay sau khi Tây dẫn người con về khui hầm thì ông bà ấy vội vàng ôm quần
áo lên huyện vừa đi vừa khóc, họ sợ đêm du kích về thì khó sống. Cha tôi thở
dài : e rồi cũng có ngày Tây nó khui được hầm của cha cho mà coi, con bị đánh
có khai cho cha là Việt Minh không ? Một cảm giác lạnh buốt chạy suốt sống lưng
tôi. Tôi hình dung tới khi mình bị treo lên sà nhà, bị côt điện vào chân tay, bị
ngâm vào trong bể nước dơ bẩn, bị đổ nước sà phòng vào miệng rồi người ta dùng
một tấm ván đè lên bụng mà nhảy lên cho ói hết mật xanh mật vàng…có khi lúc ấy
tôi sẽ khai cha tôi là Việt Minh…
Cha đang đào hầm cho sâu hơn một chút nữa… Vừa nói cha tôi vừa
trở lại nơi cha tôi vừa đứng, ông cầm lấy chiếc bát và đào đất lên, tôi thấy ở
chỗ đó đất đã sâu hơn xuống một chút. Nhờ đất dưới hầm và dưới sâu nên mềm, với
chiếc bát cha tôi có thể đào được một cách không khó khăn nhưng chậm chạp. Ông
cắm cúi làm việc như quên tôi có mặt ở bên, trong bóng tối nhờ nhờ tôi nhìn thấy
những cố gắng nơi ông dồn vào một bên tay ra sức đào sâu thêm chiếc hầm của
mình, trên thái dương những nếp gân như cũng nổi lên với những cố gắng của cha
tôi, nơi đó tôi tưởng như mồ hôi đang vã ra. Con đã thấy một người giãy chết ở
trước mặt bao giờ chưa ? Chưa. Cha đã thấy một người giãy chết trước mặt, biết
ông ta chết mà không sao cứu được, người ta cắt cổ ông ấy, máu phọt ra nơi cổ
như người ta cắt tiết một con gà, sau đó là những bọt, chân tay thì giãy giãy
nhẹ nhẹ, có cái lạ là người đó không chết nhanh chóng, anh ta vẫn cố gắng thở
như bám chặt lấy sự sống…bây giờ hình ảnh đó như vẫn còn hiển hiện, lúc bấy giờ
người ta như thế nào nhỉ… Trước đó với con người đó, anh ta đã nhìn thấy một
con người khác, hắn là kẻ cầm con mã tấu từ từ cứa lên cổ kẻ được coi là thù địch
kia, nào đâu có phải là một nhát chém mạnh cho xong ngay, hắn không muốn thế, hắn
nói : phải bắt nó chết từ từ, chết trong đau đớn, xưa kia vua chúa trị vì phạm
nhân còn đặt ra lệnh “tùng xẻo” thì đủ biết, môt tiếng trống đánh lên, một miếng
thịt được cắt khỏi cơ thể, cho tới lúc kẻ kia chỉ còn một bộ xương… Kẻ ấy phải
chết vì bị kết tội Việt gian, trong người mang cờ tam tài, một miếng vá nơi lẩn
trong chiếc áo khoác, còn để làm gì nữa, chính là dùng để ra hiệu cho máy bay
Pháp dội bom xuống bộ đội…Cha đã sống giữa một phiên tòa, một phiên tòa được
coi là của nhân dân kết án kẻ kia, người ta la thét, chửi bới, lớn tiếng như một
bầy thú điên cuồng, trong cuồng nộ của đám đông kẻ bị mang ra xét xử chỉ còn có
cái chết chờ đợi, hắn không được bào chữa, tiếng nói của bị tước đoạt, giành giật,
hắn xanh như tàu lá giữa đám đông và tiếng nói của hắn biến mất, với đôi mắt thất
thần nhìn quanh nhìn quất như chẳng còn ai có thể cứu được hắn… Hắn chết trong
cơn cuồng nộ của kẻ khác và trong sự u tối, ngu xuẩn của đám đông bị dẫn dắt
lôi kéo với những mưu toan… Cho đến ngày nay cha vẫn không quên được sự việc…
Cha tôi bỏ chiếc bát xuống, đứng lên, dựa lưng vào vách hầm,
ông đứng thật thẳng, hai chân bỏ cuống hố mới đào thêm, ông giơ tay lên khỏi đấu
: chưa được. Ông vừa đụng tay lên trần hầm vừa nói ngắn gọn, phải đào thêm nữa,
như thế này chưa đủ để treo cổ mình lên. Tôi nói nhanh trong hốt hoảng : cha định
chết – Có lẽ chỉ có cái chết cho cha, cha không muốn chết một cách khổ sở.
Tôi ngồi im nhìn cha tôi đứng dán lưng vào vách hầm, mái tóc
dài vuốt về phía sau, những sợi râu dài, đôi mắt nhắm lại, đôi má sị xuống như
da mặt một người bị phù thủng… Trong bóng tôi nhờ nhờ tôi thấy cha tôi như đã
chết bao giờ. Có phải tôi đang ở một bên người chết, có khi không phải là cha
tôi nữa mà là một con ma nào đấy ? Tôi nghĩ tới một người bị căng lên vách ván
và những cái đinh dài đóng khắp thân thể, hình ảnh của Chúa Cứu Thế trên thập tự
giá…
Tôi không hiểu được rằng chúng tôi đã đứng im như vậy trong
bao lâu, mãi cho tới lúc tiếng cha tôi nói mới đưa tôi ra khỏi cơn mê chập chờn
nhòa lẫn, những u tối chờn vờn quanh quất mù đục như bầu trời lúc gần tối trong
những ngày mùa đông lạnh giá.
Cha tôi ngồi trở xuống, ông lấy ra một cái bao, trong bóng tối
nhưng tôi cũng nhận thấy một màu xanh thiên lý đã cũ, tôi nhận ra đó là một cái
ruột tượng, cái bao dành cho đàn bà thắt lưng trong để tiền… Cha tôi vuốt thẳng
cái bao trên hai tay dang ra : đây là cái ruột tượng của mẹ con lúc còn sống,
cha dùng để giấy tờ, con thấy không, nó có thể giúp cha chết được một cách êm
ái. Vừa nói ông vừa quàng lên cổ, khoanh một vòng, cha tôi cầm lấy hai đầu và
nói tiếp : kể ra thì mình cũng có thể thắt cho chặt lại, nhưng cha sợ tới lúc
mình thấy thương mình quá mà không đang tay. Cha thương cha nhiều hơn, cha muốn
đào cho cái hầm nó sâu thêm. Con nghĩ thế nào khi thấy xác cha lạnh ?
Tôi ngồi im, lúc sau mới nói : con không trông đợi điều đó…
Nhưng con nghĩ thế nào, cha ví dụ thế, khi con trở lại quê mà chung quanh, mọi
người thân yêu đều đã chết hết, không ai còn biết tới con – con không tưởng tượng
cho mình sống, con chờ đợi và sống với thực tại…
Giọng cha tôi chợt như bị lôi cuốn vào một dĩ vãng : cái lần
vượt ngục ấy cha không thể quên, khi nhớ lại cha không hiểu sao mình đã thoát
chết, làm cách nào mà mình lại có sức mạnh để nhảy qua được những chướng ngại vật,
cha nghĩ, giá lúc đó mình chết thì thật tuyệt diệu, nhưng lúc ấy cha không nghĩ
tới chết, cha nghĩ tới sống.
4
Người lớn tuổi nằm dài xuống chiếc ghế đá nhìn lên bầu trời,
vầng trăng non thấp thoáng trên cành lá, người trẻ ngồi hút thuốc lá nhìn suốt
theo con đường ra ngoài cổng bệnh viện, những đường kẻ trắng, hai bờ cây xanh
thấp thoáng ngoài xa, không khí hoàn toàn im vắng.
- Anh có trông đợi cha anh chết không ?Tôi biết có người
trông cho người thân yêu chết, không phải là vô nhân đạo, chính là vì yêu
thương quá mà không thể giúp đỡ được gì cho người đó. Như trường hợp anh…
- Không, tôi không trông đợi điều đó, thực tình tôi muốn có một
ông cha bình thường như mọi người, ông làm đồ chơi cho con cái, trong nom cho
con học hành… anh có ước như tôi vậy không ? Tôi mong ước một cuộc sống bình
yên giữa cha mẹ, anh em, anh nhớ không, không khí như trong sách Quốc văn giáo
khoa thư vẫn tả với vẻ êm ấm của gia đình sum họp dưới ánh đèn…
- Sau đó, cha anh treo cổ chết ?
- Không, ông tiếp tục đào cái hầm cho sâu thêm.
Thời gian, tôi muốn nói tới thời gian. Tôi đã không nói lại với
anh một cách mạch lạc, cái đầu tôi nó nhiều khi cũng không còn thứ tự nữa.
- Tại sao anh không đưa cha anh lên khỏi hầm ?
- Sau này tôi cũng hỏi tôi như thế, nhưng khi tôi nhớ lại thì
thực ra lúc đó, với những điều cha tôi nói về chính ông, và những điều chung
quanh đã khiến tôi không thể làm điều đó. Anh hãy nhớ tới sự rình rập của du
kích, sự có mặt của lính Tây. Như anh biết, cha tôi không muốn bị giết, nghĩa
là không có nơi nào cho ông trừ cái hầm…
- Ông có nghĩ là ông sẽ chết ở dưới đó không ?
- Có lúc tôi nghĩ ông chọn cái chết cho ông, như anh đã thấy,
nhưng đồng thời cha tôi cũng tin tưởng một cách mơ hồ rằng rồi cha tôi sẽ có
hoàn cảnh để ra khỏi hầm, ông tin có những đổi thay, đổi thay khiến không có mặt
cả hai phe mà ông đã không chấp nhận.
- Thực tôi không thể tưởng tượng được.
Người lớn tuổi ngừng lại, chừng như có tiếng thở dài, trăng mỗi
lúc một sáng hơn trong khu vườn cây xanh, không khí của một cõi sống êm ả,
trăng mướt như một giải lụa huyền ảo. Người trẻ tuổi chống hai tay về phía sau,
ngửa mặt lên trời :
- Trăng đẹp quá…
Người lớn tuổi ngối trở dậy. Người trẻ tuổi đốt một điếu thuốc,
mùi diêm sinh ngầy ngật, ánh lửa đỏ bệnh hoạn…
- Tôi muốn được chết.
Điếu thuốc cầm ra tay, ngụm khói thả lên bầu trời :
- Tại sao người ta không tự tử ?
- Tôi muốn nói cách khác : tại sao người ta sống ?
- Anh thì có thể trả lời được, tôi thì không.
- Anh đừng bắt tôi làm việc đó. Nhưng còn cha anh ?
- Cha tôi không còn có thì giờ nữa. Anh hãy nhớ lại, như tôi
đã nói, dù tuổi anh nhỏ hơn tuổi cha tôi, nhưng anh thực sự thuộc về thế hệ cha
tôi, anh đã sống như cha tôi, lựa chọn như cha tôi, trô nổi từng ấy năm với những
biến cố không ngừng, anh đã sống, hành động như mình nghĩ, tin tưởng, phải vậy
không, cho đến nay anh vẫn còn muốn được sống, vậy thì anh, hơn ai hết có thể
trả lời : tại sao anh sống ?
- Tôi sống. Vậy thôi, tôi không giải thích được.
- Tôi không hiểu gì cả.
- Vì anh không chịu sống.
- Tôi mệt rồi, anh chẳng chịu nhìn thấy chúng tôi, những kẻ
đang lang thang thất thểu đi tìm các anh, đi tìm các anh để hỏi các anh một điều…
Người trẻ tuổi gập người xuống với cơn ho dữ dội, người lớn
tuổi, một tay đỡ lấy ngực một tay giữ lấy lưng và vuốt ngực cho người bạn trẻ,
điếu thuốc cầm trên tay rung theo với nhịp ho. Lúc người trẻ ngửng mặt lên, người
lớn tuổi nhìn thấy đôi mắt ràn rụa những lệ, những giọt nước mắt như không ngừng
lại với nhịp thở hối hả, trong ánh trăng xanh những giọt lệ long lanh chảy xuống
theo hai gò má, da mặt nhợt nhạt hẳn đi, trong giây phút ấy người lớn tuổi cầm
chặt tay người bạn trẻ. Giọng người trẻ yếu ớt :
- Anh quên những điều lẩm cẩm đó đi, những điều vô nghĩa… Có
điều, anh có hối hận không ?
- Hối hận cái gì ?
Người trẻ tuổi phác một nụ cười buồn như một nét vẻ nhoa nhếch
trên chân dung một ông già bệnh hoạn :
- Xin lỗi anh, tôi muốn nói : anh có hối hận là được sinh ra
không
- Không, tôi không hối hận.
- Tôi thì có. Tôi ân hận.
- Tôi chỉ ân hận mình đã không được sống như mình mong ước…
Người trẻ tuổi đứng lên, bước ra xa một quãng, dang rộng hai
tay, mặt nhìn lên trời, ánh trăng sáng chan hòa trên những giọt nước mắt ràn rụa,
tiếng nói như lạc đi xa lạ :
- Nhân danh Đấng tối cao ta ban phép lành cho nhà ngươi…
Trong ánh sáng xanh đục, người trẻ tuổi đứng im như một pho
tượng đá, đầu ngả sang một bên, hai tay dang rộng, người lớn tuổi ngồi im nhìn
lên, mỗi lúc kẻ đứng như một trôi xa thêm , tiếng nói một lúc như một vang vào
trong cõi hư không, tiếng vang không ngừng va đi va lại như tiếng sóng rì rầm vỗ
không ngừng vào một vách đá. Tôi nhìn thấy tôi như một pho tượng cát đang
rã tan và loãng dần vào những lớp sóng đưa tôi vào trong lòng biển mênh mông…
5
Hai người cùng nhau bước dọc theo con đường chạy sát với bờ
hiên cao, hành lang vắng người, buổi sáng đã bắt đầu, những đợt nắng mới lóng
lánh trên những mặt lá ướt nhẫy sương đêm, trên thảm cỏ xanh, dưới gốc cây hoa
sứ, mấy cánh hoa còn trắng tươi nằm rải rác. Tiếng sỏi kêu nhẹ dưới bước chân.
Người trẻ nói :
- Trong đời có khi nào anh nghĩ là mình đã được trao tặng một
bông hoa của hạnh phúc và ơn huệ.
Người lớn tuổi ngửng lên, đôi mắt nhìn cười :
- Sau một chiến thắng tôi đã được trao tặng vòng hoa trên cổ.
- Anh thấy hạnh phúc không ?
Người lớn tuổi cười lớn :
- Hạnh phúc, thực ra anh mới là người lạc quan…
- Sao vậy ?
- Tôi chưa biết hạnh phúc nghĩa là gì.
Tiếng thở dài, cơn gió lạnh thổi suốt qua đường hầm tối ám,
tiếng rên rỉ một kẻ hấp hối trên cánh đồng mùa đông băng giá.
- Chẳng lẽ anh đã không có một niềm vui riêng nào.
- Chắc là có, nhưng nào nó có ý nghĩa gì nữa, nó như hột muối
nhỏ. Tôi mơ hồ tưởng tới một cái gì, một… điều này khó nói. Được trao tặng một
bông hoa, tôi chưa bao giờ biết tới. suốt bao thời gian, có lúc tôi thử tưởng
tượng, hãy bám vào một cái gì đó, chẳng hạn như kỷ niệm để có thể nói đó là hạnh
phúc đã mất, nhưng tôi cũng không thấy đó là hạnh phúc nữa, anh nghĩ coi, như
thời thơ ấu của mỗi người, có phải, chính anh cũng đã từng tìm thấy bóng dáng của
hạnh phúc một thời nào đó, sống với hạnh phúc đã mất, tôi không có. Kỷ niệm anh
có thấy đó là một thứ đồ hộp không, nếu không thì cũng là một món ăn nguội, một
thứ ướp nước đá… Tôi không muốn ăn những thực phẩm đó…
Người lớn tuổi ngừng lại, chống chiếc nạng, cúi xuống bên
hàng cây thấp ngăn lối đi với thảm cỏ, ngắt lên tay một cây nhỏ, người trẻ nói
:
- Cây gì đó ?
- Cây chua me.
Người lớn tuổi đứng lên, giơ cây nhỏ lên tầm nhìn :
- Cây này nấu canh với cá rô nướng ngon lắm, anh được ăn bao
giờ chưa, ở nhà quê có cái món rau tập tàng tôi thú lắm, lâu không còn được ăn
nữa.
- Tôi chỉ nhớ lá cây bánh khúc, anh biết không ?
- Biết, nhưng ở đây đào đâu ra…
- Tôi bỗng nhớ tới cánh đồng mùa xuân, rau khúc có vào mùa
đó, anh nhớ không, ăn Tết xong, trời còn lạnh, những cánh đồng trơ gốc rạ, đất
nứt nẻ, những cơn mưa bụi dịu dàng, rau khúc mọc trên những mặt đất nâu ẩm.
Chính cha tôi đã nói cho tôi biết về thứ rau đó, tôi cũng ăn miếng bánh khúc thứ
nhất trong đời đó với cha tôi, lúc bấy giờ mùa xuân…
Giọng nói xa vắng, cánh đồng bát ngát, những chân rạ, từng
cơn mưa bụi trắng, trong bếp lửa hồng, trong hầm tối ẩm, tiếng than thở của một
dĩ vãng…
Hai người bước tới phía trước, người lớn tuổi xoe cây chua me
trên hai ngón tay, tới cuối dãy nhà, họ ngồi xuống bờ hiên, thỏng hai chân xuống
sân. Giọng người trẻ ngậm ngùi :
- Tôi mong ông đã chết êm đềm như một giấc mơ…
6
Anh muốn nghe, vậy thì tôi kể tiếp cho anh nghe, thực ra tôi
vẫn đang cố gắng dò tìm lại từ trong quá khứ một vài điều, những điều mà tôi
nghĩ có thể giúp tôi tìm lại cho mình… tìm lại, anh có thấy là thảm không ? Một
thứ đồ hộp, một món ăn nguội tích trữ, để dành, không, tôi không nghĩ như anh,
quả thực quá khứ đối với tôi là một kho tàng. Làm sao để cho người ta sống
không có quá khứ, cũng như làm sao để một người không có tâm sự. Quá khứ, cái
nôi hồng của tuổi thơ, tôi được nó nuôi dưỡng. Ngày xưa, gần Tết tôi trở về nhà.
Trở về, anh có thấy đó là một hạnh phúc không. Bây giờ thì chúng ta không có
nơi để trở về nữa. Từ trên đường cái quan, tôi băng qua cánh đồng sau mùa gặt
chỉ còn trơ những gốc rạ, con đường ruộng nhỏ ngoằn ngoèo, những búp cỏ non, những
cánh chim bỗng vỗ cánh bay lên. Tôi nhớ vào buổi chiều, gió lạnh buốt, cánh đồng
không có bóng người, chiếc quán nước giữa đồng với gốc cây đa cao quạnh hiu.
Tôi nhìn về lũy tre xanh trước mặt, cây đa đầu làng, tôi hình dung tới ngôi nhà
thân yêu nơi chú thím tôi đang sống, và ở đó cha tôi… phải nói cha đang sống
hay đang chết ? Có lẽ không thể nói như thế. Ở đó cha tôi đang thở, ông đang thở,
sau này tôi nghĩ chỉ có thế, ông không còn được sống như một người nữa, ông chỉ
còn biết thở mà thôi. Tôi, lúc bấy giờ mơ tưởng, nếu như không có chiến tranh,
mẹ tôi còn sống, hẳn trên đường về ấy tôi đã chạy thật nhanh, chạy băng trên những
ruộng khô để sớm được ngồi trong bếp lửa ấm áp. Nhưng không, tôi buồn rầu bước
từng bước ngắn nghe mình rời rã. Mong ước được trở về, nhưng sao tôi không thấy
trọn vẹn. Anh thấy đó, có phải tôi tham lam không ? Trở về mái nhà xưa ngày cuối
năm, chờ đón mùa xuân đến, có trở về nào hạnh phúc hơn thế, nhưng thực thế làm
tôi đau lòng. Tôi lắng nghe tôi. Tôi đi hết con đường đất, hết cánh đồng khô,
bước qua cổng làng để về tới ngôi nhà nơi tôi đã được sinh ra và ít năm thơ ấu
ngắn ngủi mờ nhạt.
Tôi nhớ tới những cái Tết ngày xưa. Tất cả đã được sửa soạn,
cổng nhà quét môt nước vôi trắng mới, bàn thờ đã được lau chùi sạch sẽ, mấy đôi
câu đối bằng giấy đỏ dán nơi cổng nhà, nơi cột hiên. Nơi bàn thờ đã có một đôi
mía cao, có bình hoa và một mâm bồng đầy chuối, quít và bưởi… Anh nhớ không,
cái không khí trong ngôi nhà thờ, vào một buổi trưa nào đó, anh ngồi trong ngôi
nhà thờ một mình, dù không thắp hương, không đèn nến, nhưng anh vẫn thấy môt
không khí thơm ngát và trang nghiêm thành kính, nơi chúng ta không dám động mạnh.
Ngày cuối năm, chờ xuân đến, trong ngôi nhà thờ tôi càng cảm thấy một cái gì
thiêng liêng, ấm cúng. Có phải những người chết quanh quẩn nơi đó. Từ chiếc sập
gụ, từ cây đèn trét những sáp, tấm màn… tất cả như đều được ủ trong một hương
thơm và thời gian đã mang đến cho nó những tâm sự. Tôi tưởng tượng nếu những vật
kia nói với chúng ta, chúng ta sẽ được che lại cả một lịch sử. Tôi thấy thân
thiết gắn bó với những đồ vật đó. Có phải vì chúng có bàn tay của mẹ tôi, bố
tôi, ông bà tôi cầm vào, nhìn tới. Mẹ tôi cũng được thờ nơi đó, và cha tôi chết
cũng sẽ được thờ nơi ấy, tôi nữa…những ngày giỗ tết, cỗ bàn dọn lên, thắp hai
ngọn nến, đốt ba nén hương, lời khấn nguyện của con cháu. Nghĩ thế tôi cảm động.
Kể lại cho anh về không khí trong nhà thờ để anh hiểu vì sao tôi mong ước trở về
đó… Cha tôi vẫn ở dưới hầm, vâng, tôi đâu có quên, nhưng đâu có phải lúc nào
tôi muốn gặp cũng được. Tôi phải chờ đợi…
Tôi trở về, vâng, làng quê với những cây nêu cao, thấp thoáng
những vuông giấy đỏ và những dọn dẹp trên đường đi, lối cổng vào nhà… Mọi người
đón chờ, và có lẽ cũng như tôi, chúng tôi đón chờ một hy vọng vào đầu mùa xuân
sẽ tới…
Tôi đang nói tới ngày tết ở quê nhà, mùa xuân cuối cùng trên
quê hương. Tất cả, bây giờ đã xa, đã khuất, đã chỉ còn là kỷ niệm, không phải
là một món ăn nguội, thứ đồ hộp. Không phải thế. Chính là một thứ rượu, rượu
càng lâu năm càng đậm, càng nồng. Đậm và nồng của một thứ rượu ngon nhưng cũng
trở thành cay đắng. Phải, nhiều đêm không ngủ, liếm môi khô tôi tưởng như vị đắng
và chát của quá khứ còn đọng trên đó, nhưng không phải, đó là nước mắt, tôi đã
khóc thầm khi nhớ lại những gì của thơ ấu, ngày cha tôi và tôi còn ở trên quê hương.
Tôi nói : con định đưa cha đi, không thể chờ được nữa. Cha tôi lặng đi. Tôi nói
tiếp : cha không còn đào thêm cái hầm nữa. Cha tôi không nói. Ngày đầu năm ấy,
mùa xuân cuối cùng ấy, tôi và cha tôi đã im lặng nhìn nhau… không có một tiếng
nói nào thốt ra. Và đến bây giờ tôi vẫn còn im lặng lắng nghe…
7
Người trẻ tuổi đứng lên vươn vai thở mạnh, người lớn tuổi lặng
thinh, nắng đã đầy trên khoảng sân cỏ hẹp, trời xanh và cao vút.
- Lúc bấy giờ mùa xuân, tôi phân vân trăm ngả. Hết Tết, tôi
băng qua cánh đồng trơ những gốc rạ, tất cả một màu trắng đục của mưa xuân, con
đường đất trơn nhẵn,tôi nhìn chung quanh, chỉ có màu trắng đục mênh mông, nỗi
cô quạnh và buồn rầu. Giữa gió lạnh, không khí giá buốt, tôi tự hỏi : mùa xuân
đó sao ? Bây giờ tôi còn nhớ nhu in cái cảm giác ngày hôm dời quê với những băn
khoăn về người cha. Có phải ông đang sống không ?
Người lớn tuổi mồi một điếu thuốc. Người trẻ nhìn khói thuốc
hay tản mạn…
- Nhiều khi người ta chọn để trở thành người thất bại… Tôi muốn
biết sau đó cha anh ra sao ?
- Cha tôi ở lại dưới hầm tối đó. Một cái hầm tối trong một
vùng dĩ vãng thăm thẳm.
(1968)
Giọt nắng
Sau khi gặp tôi , người mà cô tìm kiếm , cô gái ngượng ngùng
ngồi xuống chiếc ghế ở bên, vạt áo dài trắng được kéo lên phía trước, chiếc xắc
tay bỏ trong lòng. Cô gái nói cám ơn tôi về bức thư đã nhận được. Cô giải thích
về người quen của cô làm trong bệnh viện nơi tôi đang được điều trị, cô cũng
cho tôi biết là cô vẫn thường vào trong này thăm người quen và có một lần theo
những bạn bè vào đây ủy lạo những thương bệnh binh. Cô cũng không quên hỏi thăm
tôi về gia đình, chừng như cô gái muốn biết tôi có người thăm nom hay không :
- Nhiều khi vào bệnh viện về tôi buồn mấy ngày, nhiều hoàn cảnh
thật thương tâm, với lại, có bạn nói tôi giàu tình cảm.
Tôi cười nói :
- Cô bạn của tôi cũng thế, cô ấy nhìn mọi người rồi nói với
tôi sự ngạc nhiên, đây là phòng của những bệnh nhân nhẹ, chắc cô rõ.
- Vâng, ở bên kia tiếng kêu khóc làm cho tôi phải bước đi thật
nhanh, còn ở san bên kia, ông biết không, thuộc về khoa thần kinh. Tôi có biết
một ông ở bên kia kìa, ông ta bị bom và thành câm.
Cô gái nói và chỉ sang phía bên kia, dãy nhà cách một khoảng
sân hẹp. Tôi cũng đã được nghe nói về những người bệnh ở đó. Thực có nhiều trường
hợp không thể tưởng tượng được.
Cô gái ngồi im nhìn quanh quất cả phòng bệnh những người nằm
đứng, kẻ ngồi, tôi thấy có lúc cô gái ngừng lại rất lâu khi nhìn ra ngoài cửa sổ,
qua đó khoảng sân bệnh viện với nền cỏ xanh tươi. Cô gái quay trở lại, chợt cô
nhìn về phía cuối :
- Kìa, ông hãy nhìn kìa. Ông đã thấy rõ ông ta chưa, trông
cái miệng của ông ta kìa, đang máy máy, ông ta lại đang nói với ông ta đó, chỉ
ông ta nghe thấy, hôm trước ông ấy mới cào mặt đó,còn những vết xước, thật tội
nghiệp, ông ta đỏ mặt lên đầy tức tối, chân tay múa may rồi đập tay lên đầu và
cuối cùng lại ông ta cào lên mặt như một người điên, nước mắt ràn rụa… Ông bác
sĩ đã phải cùng với người y tá giữ ông ta lại, chích thuốc cho ông ấy ngủ… Đây
là lần thứ sáu rồi, người ta tìm cách cho ông ta nói được, nhưng vô hiệu, lần
trước người ta đã chích thuốc, ông ta cầm một cái chai ở bên đánh vào đầu đến
chảy máu, ông ầy bị bom… vâng bị bom, đã sáu tháng nay rồi, người hoàn toàn khỏe
mạnh nhưng không nói được , người ta cố gắng giúp ông ta tìm lại tiếng nói
nhưng chưa có kết quả… Ông bác sĩ vẫn hy vọng, bây giờ ông ta viết, nghe được
mà nói không được, ông thấy không, trời thường sinh điếc và câm với nhau, ở đây
câm mà không điếc mới tội chứ…
Người đàn ông vẫn ngồi im chỉ có miệng mấp máy, đôi mắt ông
nhìn mông ra khoảng sân cỏ ngoài cửa sổ, tôi nhìn thấy những vết xước trên mặt
ông và mấy miếng băng keo dán nơi gò má, ông ta có một dáng hình khỏe mạnh, hai
cánh tay trần với làn da trắng mịn và đẫy. Cô gái nói :
- Ông thử tượng tượng nếu ông cũng mất tiếng nói như ông ta ?
Tôi nhìn cô gái, những sợi tóc mai dài, lông măng còn mượt nơi mang tai, nơi cổ
:
- Nếu phải chọn tai họa không chống được có lẽ tôi ưng điếc
hơn câm. Thế còn cô ? hỏi có vẻ dại dột…
- Tôi không ưng gì cả, tàn tật là oan nghiệt. Thế giữa điếc
và mù ông chọn cái nào ?
- Điếc.
- Thế giữa mù và câm điếc thì ông ưng cái nào ?
- Câm và điếc, không chịu được mù…
Cô gái bỗng cười ngặt nghẽo, đôi má ửng đỏ với lúm đồng tiền
duyên dáng, tôi thấy hai chiếc răng khểnh của cô gái. Chợt cô gái nghiêm nét mặt,
giọng dịu dàng :
- Xin lỗi ông, tôi nghĩ lẩn thẩn quá, thế ông bị thương ở đâu
vậy ?
- Ở chân đây, viên đạn nó nằm nơi hông,không hiểu sao nó lại
lọt vào trong khớp xương mà không chịu ra ngoài…
- Tôi biết rồi, tôi muốn hỏi ông bị thương ở mặt trận nào ?
- À, Khe Gió.
- Cái tên nghe hay qua, Khe Gió.
Cô gái nhắc lại hai tiếng Khe Gió với vẻ hài lòng, cô với tay
cầm lấy trái cam nơi mặt bàn và cầm lấy con dao nhỏ gọt vỏ vẻ nhẹ nhàng khéo léo,
đôi mắt nhìn xuống trái cam chăm chú :
- Anh tôi ở ngoài quân y viện đó đã hai năm, mới về phép được
một lần, anh tôi ít chịu viết thư, thường anh ấy chỉ nhắn miệng hoặc gửi thư
tay, lâu lâu anh ấy ghé bưu điện đánh điện tín về nhà với vài chữ vắn tắt : vẫn
mạnh khỏe,, hỏi thăm, đã được thư… Anh tôi lười viết thư lắm… Lần đầu tôi nhận
được thư của anh ấy dài được nửa trang giấy. Thật vui. Tôi còn cơ hội gặp ông.
Khe Gió, chắc anh tôi biết chỗ đó, gần nơi anh tôi phải không ?
- Khe Gió xa, có lẽ anh cô chưa tới đó, nó ở gần biên giới
Ai-lao, nơi thượng nguồn của sông Ô Lâu, xa lắm, ít ai lên đó, chỉ có bọn tôi
đi hành quân, nơi đó núi non hùng vĩ, nước độc và pháo kích không kể ngày đêm,
mưa xuống thì bốn bề mênh mông như giữa đại dương, có lẽ chẳng bao giờ tôi còn
trở lại đó nữa…
Cô gái lắng nghe chăm chú, cô bóc từng múi cam đưa sang tôi vẻ
tự nhiên thân thuộc, tôi nói cám ơn và ăn từng múi cam từ tay cô đưa sang, tôi
mới cô cùng ăn nhưng cô nói không thích ăn cam. Lúc sau cô gái mở ví ra lấy một
gói ô mai đưa mời tôi và tự nhiên lấy ăn, cô nói của bạn, tôi cười nói của người
vị hôn phu phải không. Cô gái mỉm cười gật đầu vẻ ngượng ngùng, tôi nói cám ơn
cô tôi không thích của chua, tôi cũng có người vợ chưa cưới thích ô mai, thích
mặc áo lụa.
- Ông ta lại đỏ mặt và đang múa may kìa.
Giọng cô gái chợt như hốt hoảng, tôi nhìn người đàn ông, ông
ta đang có vẻ cuống quít với chính mình, ông ta ôm lấy mặt và gục đầu xuống hai
đầu gối vẻ tội nghiệp. Cô gái ngồi lặng thinh nhìn xuống, cô với tay cầm lấy
chiếc máy thu thanh nhỏ nơi đầu giường tôi và, tiếng hát vọng lên, em đến
thăm anh một chiều mưa… cô gái ngồi im như lắng nghe, mắt nhìn ra ngoài
sân nắng, cô gái nói :
- Ông có thích giọng ca Thái Thanh không ?
- Tôi mê giọng hát đó hai mươi năm rồi mà tiếng hát vẫn chưa
già, từ những năm đầu trung học cho tới nay, đã già rồi mà tôi vẫn mê Thái
Thanh, thật là tuyệt diệu…
- Ông mới độ hơn ba mươi, đã già gì, tôi cũng mê tiếng hát ấy.
Cô gái nhìn tôi vẻ thân thiết :
- Hôm nào lành ông rủ cô bạn đến tôi chơi…
- Cô bạn tôi cũng mê Thái Thanh…
Cô gái ngồi im, tôi nhìn ra khoảng sân nắng.
- Tôi thích nghe hát, không thích xem hát, tôi chỉ thích nghe
một mình…
Tôi nói với cô gái câu chuyện đã cũ, đó là câu chuyện hồi
cách đây hơn một năm, tôi đã cùng một người bạn lớn tuổi ghé lại Đêm Màu Hồng
có Thái Thanh hát. Buổi chiều tôi ra phố một mình và gặp anh Nguyễn ngoài phố,
anh cũng đi một mình, đó là thời gian anh Nguyễn sắp lập gia đình. Anh rủ tôi
đi nghe nhạc, chúng tôi ngồi trong phòng sớm hơn mọi người, mỗi chúng tôi kêu một
ly trà nóng, với gian phòng ấm cúng, ánh đèn đỏ và mờ, khoảng cách giữa những
người ngồi nghe và những người đứng trên bục gỗ không xa cách nhau bao nhiêu,
có thể nói đây là một khung cảnh, một không khí thân mật. Được nghe Thái Thanh
hát, tôi nghĩ, với người nghe là môt hạnh phúc, đó là tiếng hát bắt được của trời
đất,chừng như nó khơi nguồn từ những mạch nước tinh khôi trong suốt và thanh
thoát… Cách đây gần hai mươi năm khi đang học những năm đầu bậc trung học Hà-nội
tôi đã có lần được nhìn và nghe Thái Thanh hát trong rạp Bắc Đô Hà-nội nơi gần
với nhà tôi ở. Từ bấy đến nay tiếng hát Thái Thanh vẫn không thay đổi, tiếng
hát ấy vẫn tiếng hát từ một cõi nào, tiếng hát làm não lòng người trong nỗi
thanh thoát. Nhưng đến khi tôi thấy Thái Thanh cùng với những người anh cất tiếng
với những bài hát thời trang, với dáng vẻ nhún nhẩy làm duyên cho thích hợp với
thời đại thì tôi không muốn nhìn lên phía tiếng hát phát ra, một cảm giác nhột
nhạt chạy khắp cơ thể. Tôi nói với anh Nguyễn nỗi ngậm ngùi của mình. Tiếng hát
đó đâu đáng để hát lên từ một phòng trà như thế này, tôi nghĩ tới một thính đường
quốc gia với hàng vạn con dân ngồi im lắng nghe tiếng hát Thái Thanh cất lên.
Tôi nghĩ thế. Nhưng có lẽ với Thái Thanh điều đó đâu đáng quan tâm, với người
tài tử đó có lẽ chỉ có cất tiếng hát cho người nghe là cần thiết, nào có kể tới
nơi tới chốn… những người khóc lẻ loi một mình
- Tôi thấy buồn khi nghĩ đến cảnh một người nghệ sĩ khi về
già mà vẫn phải trình diễn. Cô có nghĩ đến lúc Thái Thanh sáu mươi tuổi mà còn
bước lên bục gỗ một phòng trà không?
Cô gái cười thành tiếng :
- Tôi nghe tiến hát chứ không coi hát. Các con của Thái Thanh
thật sung sướng nhỉ, tha hồ nghe mẹ hát, mẹ tôi nói bà tôi ru cháu rất hay đến
thời tôi, tôi không còn được nghe hát ru.
- Tôi thuộc ca dao nhờ bà ngoại và mẹ tôi.
- Ông hạnh phúc hơn chúng tôi, chúng tôi chẳng còn được nghe
hát ru.
Tôi cười thành tiếng :
- Cô có biết khiêu vũ không ?
Cô gái ngượng ngùng, cô nói nhanh như khỏa lấp :
- Không, tôi không có cả áo đầm, tôi thích áo lụa trắng nên
phải giữ cho mình khỏi mập.
Không khí trong phòng im lặng môt cách dễ chịu, một vài bệnh
nhân rời khỏi phòng ra đi dạo ngoài sân cỏ, có những người được dìu bởi những
người thân, có người ngồi trên giường co chân co tay tập cử động cho bình thường
trở lại. Cô gái nói :
- Cái chân ông bao giờ thì có thể lành ?
- Bác sĩ nói với tôi là sáu tháng.
- Sáu tháng…
Cô gái hơi rụt cổ lại, đôi mày hơi nhíu vẻ nghịch ngợm trẻ
thơ, hai tay giữ lấy chiếc ví trong lòng với dáng ngồi của một thiếu nữ còn nhiều
e dè và chưa quen với sinh hoạt của giao thiệp, tôi hình dung tới không khí gia
đình của cô bé, một gia đình trung lưu và nếp sống thu kín nhẹ nhàng.
- Sáu tháng ông phải nằm trên giường, thấy sợ quá.
- Đâu đến nỗi thế – tôi cười. – Hôm qua, bác sĩ đã lôi tôi xuống
khỏi giường bắt bước đi, tôi suýt nữa ngã vì đau…
- Trời ơi, bác sĩ gì kỳ vậy.
- Ông ấy thử.
Cô gái nhìn cái chân tôi trắng toát, bó bột suốt từ dưới lên
tới trên bỏ ngay đơ trên giường.
- Ông có chân của một người khổng lồ, có chân ai lớn và trắng
như thế này không nhỉ, một người như vậy mà đi chơi với mình thì chỉ có nước chạy.
Một người khổng lồ, ông thích không ?
- Không, có một cái chân khổng lồ đã mệt rồi, có một người khổng
lồ thì… thì…
Tôi bỏ dở câu nói. Tôi chợt nhớ đến một chuyện thương tâm, đó
là câu chuyện đã được diễn tả trên màn ảnh, một người bị thương trầm trọng, tất
cả người bị băng, nằm dài trên chiếc giường, anh ta đã nhờ một người bạn hạ mũi
nhọn của lưỡi tê xuống trúng tim. Mẩu đối thoại chậm chạp, bàn tay sờ lên ngực
và cái chết… tôi rùng mình. Chính ở trong bệnh viện này, ngày tôi vừa vào, tôi
cũng thấy một cảnh thương tâm, một người cụt hẳn hai chân và một tay, còn lại một
tay thì cụt mất bàn tay chỉ còn lại như que củi, trông con người ấy ngồi trên
giường quờ quạng mẩu tay cụt còn lại tôi ngậm ngùi…
- Ông nghĩ gì vậy ?
Tôi mỉm cười nói không và lặng đi. Cô gái nói những chuyện
bình thường trong đời sống của cô, lúc sau cô đứng lên và chào tôi để trở về.
Tôi nói :
- Khi lành bệnh và xuất viện tôi sẽ ghé thăm cô, chắc không
phiền.
- Tôi mong lắm. ông nhớ dẫn cô bạn gái lại nghe.
Tiếng nghe sau câu nói được kéo dài và ngọt ngào lạ.
Cô gái mỉm cười đi ra khỏi phòng. Tôi nhìn theo cho đến khi cô gái khuất ngoài
cửa. Tôi quay nhìn ra ngoài sân cỏ, nắng lên đầy ở ngoài đó, tôi để nguyên cuốn
sách úp trên ngực, đôi mắt nhìn chiếc quạt trần quay chậm chạp trên mặt, buổi
trưa nóng chừng như đã bắt đầu.
Một phần băng bột nơi chân đã cược cắt đi, tôi bắt đầu lần
hai bên thành giường tập đi như đứa trẻ qua giai đoạn biết bò và đứng lên được.
Tôi mải miết với công việc tập đi hằng ngày cho tới khi mệt thì lên giường. Buổi
chiều khi tôi đang tập đi thì có cảm tưởng như có một người nào đó đang đứng
ngó mình phía sau lưng, tôi lần ra phía cuối chân giường và sang tới phía bên
kia. Tôi nhận ra cô gái đang đứng mãi ở tận ngoài cửa. Mái tóc buộc lơi, áo lụa
màu hoa lý nhạt, cô gái mỉm cười đi về phía tôi như một người vội vàng, tôi đứng
im.
- Ông khá rồi hả, đi được rồi, tôi tưởng còn lâu.
Cô gái đến bên và nói không cho tôi kịp tỏ dấu chào. Tôi ngồi
lên giường và cười với cô như một lời chào và cảm ơn. Không đợi tôi nói cô kéo
vạt áo rồi ngồi xuống chiếc ghế để phía ngoài :
- Tôi được thư của anh tôi, anh tôi sắp về, độ bao giờ thì
ông xuất viện.
- Có lẽ ít ngày nữa.
- Thế cô bạn của ông có lên thăm không, hôm nay chủ nhật mà,
tôi tưởng ghé hôm nay thì gặp cô bạn của ông.
- Có, tại cô ghé trễ quá, cô bạn tôi bận về vì ở xa.
Cô gái mắt mở lớn nhìn tôi, đầu gúc gúc ra ý hài lòng và đùa
nghịch. Cô gái mở xắc tay đưa cho tôi gói giấy nhỏ màu hồng :
- Tôi nghĩ ông nằm một chỗ chắc buồn, ăn ô mai chắc thích, thứ
này không có chua đâu, ô mai cam thảo mà.
Tôi đón lấy gói giấy, mở ra, tự lấy một trái bỏ vào miệng và
đưa gói giấy về phía cô gái. Cô ngần ngại một chút rồi nhón lấy một trái nhỏ cầm
ra tay rồi bỏ vào miệng, sau cô lấy chiếc khăn trắng lau nhẹ nơi miệng và ngón
tay. Tôi ngạc nhiên và mỉm cười khi tôi nhận thấy nơi tay của cô gái đeo một
chiếc nhẫn lớn đối với ngón tay nhỏ búp măng. Cô gái nhận ra cái nhìn của tôi,
cô gái cười, đồng thời cô bỏ thẳng bàn tay trên đùi :
- Ông thấy cái nhẫn có gì lạ không, quà tặng của bạn tôi.
Cô gái để bàn tay ngửa lên, tay kia thì mân mê cái nhẫn xoay
tròn nghịch ngợm. Cái nhẫn có mặt vuông. Cô gái nói tiếp :
- Ông thấy đẹp không – cô gái giơ tay về phía trước – người bạn
tôi đã tự làm lấy đó, anh ấy kể lại với tôi hồi cách đây hơn bốn năm, khi đang
thụ huấn trong quân trường, anh ấy buồn quá, dùng thì giờ mài chiếc nhẫn này,
nó là cái vòng cổ của trái lựu đạn, một thứ quà tặng của chiến tranh, anh ấy
nói khi mài nó anh nghĩ tới khi cưới vợ, chắc đây là cái nhẫn duy nhất có được
trên trái đất…
- Cô có thích không ?
Cô gái mỉm cười :
- Thích lắm.
- Tôi không phân biệt được thế nào thứ thiệt thứ giả, tôi
chưa rõ thế nào là vàng, là kim cương. Xưa kia mẹ tôi có đánh cho tôi một cái
khánh bạc, khi chiến tranh thì thất lạc, cái khánh đeo trước ngực khi còn để đầu
trái đào, cô biết không ? Thứ ấy ngày nay không ai còn đeo nữa, thời xưa rồi.
- Người bạn tôi có mặc cảm nhà nghèo, anh ấy có vẻ giống ông,
vàng, kim cương tôi cũng không biết gì cả, có người khổ sở với nó…
- Tôi không có một bảo vật nào, cuộc sống của tôi cũng không
có gì là kỷ niệm, cô có người bạn dễ thương nhỉ. Bạn cô đã thất tình bao giờ
chưa.
Cô gái ngừng lại một chút, tay mân mê chiếc nhẫn, mặt hơi
cúi.
- Có, anh ấy nói, anh ấy cũng kể cho tôi nghe nữa, bạn tôi lắm
khi cay đắng, tôi thương anh ấy, tôi nghĩ chẳng ai muốn như thế, anh ấy như một
người lơ đễnh với đời. Anh ấy bảo tôi : đời sống không cho phép mơ mộng, ông có
nghĩ vậy không ?
- Làm sao để người ta không mơ mộng ?
Cô gái ngồi im, lúc sau cô lục lọi trong xắc tay lấy ra một
cái ống nhôm như một thứ ống kem tí hon, cô gái giơ lên :
- Ông có biết gì không ?
- Không, gì mà lạ vậy.
- Xưa kia ông có bao giờ thổi bọt sà phòng không ?
- Có, hồi nhỏ, trò chơi cũng vui nhỉ, một cọng cỏ thẳng, có
lúc quên thổi ra lại hút vào…
Cô gái chăm chú mở chiếc ống nhỏ, bóp thuốc, một chút nhựa đỏ
chảy ra, cô gái lấy chiếc ống quệt lên đầu ống nhựa rồi nhẹ nhàng đưa lên miệng
chăm chú thổi nhè nhẹ, một trái bóng màu xuất hiện và lớn dần, nó có hình như
những bong bóng sà phòng thời nhỏ, màu sắc kỳ diệu, có điều nó lớn hơn và nó
không tan ngay. Cô gái để nguyên trái bóng rực rỡ nơi đầu ống nhựa, cô dùng tay
nhỏ khéo léo làm trái bóng tách ra khỏi đầu ống rồi thả ra khoảng không, trái
bóng lờ đờ ngang mặt rồi sà xuống dưới đất, tôi trông chờ nó vỡ nhưng nó đứng
im một chỗ.
- Đẹp không, người ta bán nhiều màu lắm, ông thích thổi không
?
Không chờ tôi trả lời, cô gái đưa cho tôi ống nhựa hỏ và ống
thuốc. Tôi cầm lấy làm theo cô gái, nhưng ngay khi thổi, một tiếng nổ nhỏ vang
lên, chiếc bóng vỡ từ ngay khi vừa nhú ra. Cô gái cười, tiếng cười giòn tan.
Tôi thấy mùi thuốc thơm một cách khó chịu, chút nhựa dính ra tay cạ khôn ghết.
Tôi nhớ tới mùi thơm nhẹ nhàng của ống cỏ và vẻ lun glinh của bong bóng sà
phòng khi thoát ra bay lên và vỡ tan không để lại dấu vết. Tôi nhìn cuống trái
bóng màu còn là là nơi mặt đất, nó đã tóp lại với một hình thù xấu xí. Tôi đưa
trả đồ chơi cho cô gái :
- Tôi mơ mộng hơn tôi tưởng.
Tôi mỉm cười, cô gái nói:
- Hôm rồi ngồi trong lớp học các bạn tôi đã thổi những trái
bóng này trong lớp, nhưng chơi lâu rồi chán. Ông thích không ?
- Không. Tôi có nhớ tới bài thơ của Tagore, bài thơ là một
truyện kể, một người gặp người ăn xin ngồi bên vệ đường chìa tay ra xin, một kẻ
đi qua có túi ngô trên vai đã cho người ăn xin một hột ngô, khi về nhà bỏ ngô
ra thấy có một hột ngô bằng vàng… kẻ đó nhớ lại chuyện thấn thoại, ông tiên
thành người ăn mày và trả công bằng vàng cho người bố thí, kẻ đó ân hận sao
không đổ cho người ăn mày kia cả túi ngô… Lúc nhỏ tôi cũng mong những người ăn
xin biến thành bà tiên, nay nghĩ lại, nếu bà tiên hiện ra thật có lẽ mình sẽ thất
vọng…
- Tôi vẫn mong một bà tiên.
Tôi bỏ chân xuống đất và vịn theo thành giường bước đi. Cô
gái nói :
- Ông có thích ra ngoài một chút không ?
Cô gái với cho tôi chiếc nạng, giữ tay cho tôi thăng bằng và
giúp tôi ra ngoài sân cỏ, buổi chiều đang cuống, tiếng cô gái hát nhỏ bài Ngày
trở về của Phạm Duy : Ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ…
- Người bạn tôi trẻ con hơn ông, anh ấy nhút nhát và có những
lúc buồn bất chợt, tôi trông cho tới lúc tôi trưởng thành thì anh ấy cũng đã ra
khỏi quân ngũ, không còn chiến tranh, ông có mong vậy không ?
- Tôi đang trông mong điều đó.
Tôi thấy lòng mình trùng xuống ngậm ngùi. Bao giờ cho tàn cuộc
chiến…
Chúng tôi đi một quãng ngắn trên sân cỏ rồi đến ngồi nơi băng
ghế bất chợt nhìn thấy nơi cuối sân một cô bé cột tóc ngắn, dáng nhỏ bước đi
tung tăng, tôi nhớ tới hình ảnh người vợ sắp cưới ngày đầu tiên đã gặp, khu vườn
cây xanh, chiếc áo thảm cỏ hoa, tiếng cười nhẹ…
(11-1970)
Một nơi có người
1
Tiếng động khô vang lên, trái bã đậu vỡ tung trên mặt bàn gỗ,
mấy khía bắn xuống nền gạch nâu cũ mỗi khía một ngả, trên mặt bàn còn hai khía
dính lại với nhau nằm trơ trọi bên cạnh chiếc ly trắng nhỏ và xị đế đã vơi hai
phần ba chai.Tư cầm lấy hai khía trái bã đậu, vỏ ngoài khía bã đậu màu gỗ hơi
nhám, phía trong đen láng bóng, một đầu lớn một đầu nhỏ uốn cong. Sau khi đốt
cháy hai cạnh sắc bọn trẻ gài lên hai lỗ mũi làm thành một bộ râu mép ngỗ ngược
để đóng một nhân vật dữ tợn nhưng có vẻ khôi hài nào đó. Bộ râu biến đứa trẻ
thành một người già. Có đứa la lên: ta là ông già vợ của mày. Có đứa lấy giọng
lụ khụ: ta là Trần Minh khố chuối đây. Ta là ...Tư mỉm cười với những hình ảnh
hiện ra trong trí nhớ...
Tư cầm xị rượu dơ lên cao nhìn áng chừng ngấn nước, rồi lắc
cho sủi bọt trươc khi giót đầy chiếc ly để trên mặt bàn. Để chai rươu xuống, Tư
cầm lấy chiếc ly đưa lên môi ngửa cổ hớp cạn ...Hơi sương đục ở bên kia sông
làm mờ nhạt những lùm cây xanh. Buổi chiều đang xuống chậm. Tư cầm lên tay hai
khía của trái bã đậu liệng ra phía có đàn chim đang nhảy lên nhảy xuống nơi đống
cỏ khô. Đàn chim hốt hoảng bay túa lên và mất hút. Nhìn ra phía ngã ba sông,
con đường đất như một cái hầm được làm bởi hai hàng cây bã đậu với lá đầy kín
chụm lại với nhau. Trong bóng tối của vòm cây tưởng như trên mặt đường sương bắt
đầu đọng lại, những thân cây nhỏ lẩn vào vách nhà, những hàng rào thưa và những
mái nhà thấp lợp lá, lợp tôn chen lẫn vào nhau. Tiếng một mái chèo khua động
trên mặt nước, tiếng một người nào đó như vang lên từ bên kia sông. Ánh sáng yếu
ớt của buổi chiều để lại những khoảng sáng trên mặt nước. Chừng như ở đó Tư nhận
ra những vệt sáng mơ hồ của đàn muỗi đang di chuyển, đó là những con muỗi non với
thân mềm nhệu màu xanh non...Tư moi từ trong túi áo ra một điếu thuốc ngậm lên
môi rồi thò tay vào trong túi quần tìm hộp quẹt, lần hết túi này sang túi khác
vẫn không thấy, đầu điếu thuốc đã ướt nước, Tư cầm điếu thuốc để xuống mặt bàn.
Chiếc hộp quẹt đã bỏ đâu rồi: trong túi áo trận, trong ba lô, hay đứa nào đó đã
cầm? Chắc cái thằng Năm Ngựa, cái thằng chỉ chờ người ta hở ra là chộp. Nó cầm
nhưng có ai nhận ra thì hắn trả ngay, miệng cười hề hề: tao đâu có lấy, tao giữ
hộ, không có tao thì mất rồi, đó là bài học cẩn thận cho bọn mày...Hay là mình
đã bỏ ở một nơi nào khác, chưa chừng từ hôm qua ở nhà Lan, hay lúc hái dừa cho
bác Thắm...Tư cầm xị đế dốc ngược, rươu tràn miệng ly, Tư vội ngừng lại, cúi xuống
hớp cho ly rươu vơi đi rồi giót tiếp chút rượu còn lại. Ông già nói: mỗi giọt
rượu là một giọt máu của tao, biết không? Chừng như với ông già thì mỗi giọt rượu
làm cho ông thêm một giọt máu. Mỗi khi thiếu rượu trông ông thiểu não, da tái
nhợt, nói không ra hơi, đi không vững. Ông thường nói: khi tao chết rồi cúng giỗ
chỉ cần xị đế là đủ, không cần cá thịt gì hết, không lẽ giỗ cha mà không kiếm nổi
một xị đế. Tợp hết ly rượu Tư đứng lên đặt mạnh chiếc ly xuống bàn, cầm lấy điếu
thuốc ngậm lên môi, Tư bước vào trong quán:
- Tính tiền chị Năm ...cho mồi chút lửa.
Chị Năm nhìn lên:
- Hôm nay ở nhà sao Tư ?
- Cháu mới đi kích đêm qua...
Tư đưa tiền cho chị Năm, con Son đứng phía trong cầm ra cho
Tư chiếc đèn hoa-kỳ. Ngọn lửa nhỏ xanh như hạt đậu đứng im trong chiếc bóng ố
vàng rạn nứt. Tư cầm đèn đưa đầu điếu thuốc đang ngậm trên môi vào trong bóng
đèn .
- Coi chừng tắt nghe.
Tư nhíu mắt hít hơi thuốc dài, bỏ ngọn đèn xuống, thở ra một
cụm khói trắng đục, vẻ khoan khoái hiện rõ trên mặt. Tư đứng im nhìn con Son cầm
ngọn đèn để lên kệ góc quầy hàng, có một khoảng nhỏ ánh sáng vàng vọt. Chị Năm
nói vừa đủ nghe:
- Tư mày có nghe thấy tin gì về thằng So và thằng Trà không,
bọn nó còn mắc tiền thuốc.
- Không nghe gì hết.
- Vậy bọn nó đi đâu?
- Ai mà biết ...
- Chẳng lẽ mấy đứa dám cả gan mà ...
- Sao biết được chị ơi, chết rồi cũng nên, chưa chừng ít bữa
nữa xác bọn nó nổi trên mặt sông cho mà xem. Ở đây đi đâu cho thoát được, nếu
thoát dễ thì ...
- Mấy đồng tiền thuốc có đáng bao nhiêu, đừng nói gở cho bọn
nó chứ. Nghe thằng So nói nó còn vợ với mấy đứa con, coi hình thấy mấy đứa nhỏ
ngộ lắm ...
Tư quay trở ra đi về phía đồn. Qua cây cầu nhỏ Tư nghe có tiếng
người gọi và dừng lại. Chợt từ dưới ruộng thằng Ty rẽ bụi cỏ cao đi lên, nó
nhìn trước nhìn sau vẻ lo lắng. Tư đứng im chờ đợi, thằng Ty cúi mặt không nói.
- Chuyện gì đó Ty?
- Chị Lan nhắn anh đừng xuống dưới nhà.
Thằng Ty đứng im tay bứt những ngọn cỏ cao trong tiếng nói rụt
rè như dấu một điều gì đó đã xẩy ra.
- Có chuyện gì vậy?
Im lặng một lúc Ty mới nói :
- Anh Hai về hồi đêm.
Tư rời mắt nhìn khỏi những váng nước trên mặt ruộng. Thằng Ty
nhìn vào mắt Tư vẻ sợ hãi. Thằng Hai về. Khuôn mặt lặng lẽ, nước da ngăm đen, nụ
cười kín đáo, tiếng nói nhỏ sắc, đôi mắt ti hí bí mật, dáng người nhanh nhẹn
lúc nào cũng như sắp lao về phía trước, lẩn vào trong bóng đêm. Mày muốn lấy em
gái tao hả, mày không xứng đáng, mày không còn là thằng Tư bạn tao, mày bây giờ
là một thằng khác...Hãy nằm im không có cựa, mày chưa thấy mũi dao nơi cạnh sườn
đó sao? Lan cầm ngọn đèn từ nhà trong ra để trên mặt bàn giữa nhà, ngọn đèn
vàng tù mù không ai nhìn rõ mặt ai. Giọng thằng Hai khô khan: mày muốn lấy con
Lan, cũng được, mày muốn vậy thì nghe đây: mày phải bảo đảm an toàn cho gia
đình tao...Tao muốn đưa mấy đứa vào dân vệ, mày phải bảo vệ cho bọn tao, mày
nghe không? Tư vụt vùng dậy, thằng Hai té xuống, Tư xô đổ cái bàn làm tắt ngọn
đèn, phóng ra khỏi nhà, vượt qua khoảng sân hẹp, nhảy qua bờ lạch nhỏ, chúi đầu
chạy rồi rúc vào một bụi rậm ngồi im nghe ngóng. Không có tiếng động, trời tối
đen. Tư ướt sũng ngồi im chờ sáng. Buổi chiều Lan lên ngồi ở quán chị Năm chờ
Tư. Tư lặng lẽ, Lan lo âu. Lúc chị Năm vào trong Lan nói :em khổ lắm anh ơi. Tư
nhìn thấy những giọt nước mắt lăn xuống. Tư thở dài nhìn mông ra cánh đồng trước
mặt. Từng ly rượu được giốc cạn, Lan lấy ngón tay út vẽ những vòng tròn nước
trên mặt bàn...Tư bước lại gần thằng Ty soa nhẹ tay lên đầu nó.
- Nghe rồi, về đi.
Tư bước về phía đồn, đi được một quãng khi nhìn lại đã không
còn thấy Ty trên con đường đất. Hình ảnh ngôi nhà tranh thấp nhỏ giữa cánh đồng
dựa lưng vào vườn chuối với những tàu lá xanh biếc của gia đình Lan hiện ra
trong đầu Tư...
2
Chị Năm nhìn ra con đường vắng lạnh đầy bóng tối. Son đứng
lên cầm ngọn đèn xuống nhà bếp nhóm lửa nấu bữa cơm tối. Một chút nữa thằng Tố
sẽ từ trường học theo con đường ven sông trở về. Chỉ còn con Son, thằng Tố, chị
Năm chẳng còn gì nữa. Tang anh Năm đã qua hơn hai năm. Hồi bấy giờ chị đã muốn
về dưới quê, nhưng rồi chị đã không về. Người em ở quê được đưa tới bổ xung cho
tiểu đoàn nói: anh hai đã bỏ quê đi rồi, vứt lại hết nhà cửa ruộng vườn lên làm
ăn trên tỉnh vì thằng con lớn bị lùa vào du kích khi chưa được 16 tuổi, mấy
tháng sau nhận được tin báo đã chết, không biết ở đâu, vì sao. Thằng con sau mới
12 tuổi bị đạn gẫy chân trong một đêm có giao chiến nơi ven quốc lộ. Ở quê nay
còn ai nữa mà về. Chị Năm chẳng còn biết đi đâu ngoài cái quận lỵ nhỏ bé bị cô
lập này. Chị theo chồng cùng đơn vị tới đây đã hơn năm năm, chồng tử trận, chị
gây dựng cái quán nhỏ bán rượu, tạp hóa và nhận sửa quần áo để có tiền nuôi
con. Có một hồi người ta nói chị tằng tịu với một người bạn của chồng nhưng về
sau không có gì khác, chị vẫn sống như một cái bóng lầm lũi nuôi hai đứa con.
Đi đâu thì cũng phải làm mà sống. Từ khi chị nghĩ thế chị không còn tính tới
chuyện về quê hay một nơi nào khác. Một hôm nào đó yên ổn hết không còn bom đạn
chị sẽ đi tìm anh Hai để gửi hai đứa con, chồng chị đã không còn, chị muốn
trông cậy vào một ngươi có thể thay ba chúng dạy hai đứa nhỏ thành người. Đó là
điều mong ước của chị…
3
Không khí trong quán chú Chín ồn ào náo nhiệt hẳn lên khi ba
anh dân vệ từ ngoài bước vào, bốn chiếc bàn phía trong không còn chỗ, chiếc bàn
ngoài hiên cũng đầy người. Những ly cà phê đen, những tô hủ tiếu, mì bốc khói,
những cái đầu cúi xuống. Thằng Ri, con trai lớn của chú Chín, cổ tay vắt cái
khăn lau chạy ra chạy vào có khi cả hai tay đều có ly cà phê hoặc tô mì, miệng
nó kêu lớn liên hồi nước sôi, nước sôi...Chú Chín mồ hôi nhễ nhại trên cổ, trên
ngực, cơ thể luôn chuyển động với những thao tác lập đi lập lại: xúc mì, múc nước,
bày những miếng thịt đã thái mỏng, bỏ hành...Ba anh dân vệ vào tận trong cùng
thì đứng lại đưa mắt nhìn những bàn đầy khách, họ đứng yên một lúc: quần áo
nhàu nhượi, súng khoác trên vai, lựu đạn móc trễ nơi thắt lưng, vẻ ngái ngủ
trên gương mặt mệt mỏi. Thằng Ri chạy tới:
- Anh Ba...vào trong nhà trong đi, ngoài này hết chỗ rồi....
Ba anh dân vệ quay vào, đi tới, bước qua cửa vào nhà trong.
Gian phòng hẹp có kê một cái giường, phía ngoài kê một cái bàn thấp. Ba dân vệ
bỏ súng lên cái giường rồi kéo ghế ngồi quanh cái bàn, từ đây họ có thể nhìn thấy
trong khoảng sân hẹp con Xinh đang rưởa những cái tô trong một cái chậu nhôm lớn
đầy nước. Quán chú Chín có mặt trong phố quận từ hồi nào không còn ai nhớ nữa,
có một điều chắc chắn khi rời quận tới đây thì đã có quán chú Chín rồi, mới đầu
còn vắng, nay đông hẳn. Đó là quán ăn độc nhất nằm ở bên trái của con đường nếu
đi từ ngã ba sông để tới quận đường. Bọn nó ra quán chú Chín rồi. Hẹn nhau ở
quám chú Chín. Quán chú Chín đã trở thành quen thuộc với người sống ở thị trấn.
Chú Chín đã trở thành tên quán, trong khi đó, trên cửa quán, người ta có thể đọc
thấy bốn chữ Hồng Ký Trà Gia trên một tấm bảng màu đỏ với nét chữ đen, tất cả
đã cũ. Trên tấm bảng có treo một tấm gương soi và một tấm gương vẽ hình bát
quái. Bên cạnh có dán mấy tờ giấy đỏ với những chữ Tàu không còn rõ nét trên mặt
giấy nhoa nhuếch cũ nát.
Đa số khách hàng tới quán, chú Chín đều quen mặt thuộc tên, chú
có thể dễ dàng nhận ra một người khách mới. Khi quận lỵ được thiết lập số quân
nhân tăng lên đã làm chú khó sử trong một số trường hợp: nào ăn chịu, uống thiếu,
uống rượu say la lối, gây lộn...với những khách hàng có sẵn súng, dao găm, lựu
đạn này thực chú Chín không biết phải làm sao. Có lúc chú Chín đã nghĩ tới đóng
cửa hàng, nhưng với lợi nhuận thu được đã giữ chân chú lại. Và từ đó chú cũng tỏ
ra khôn khéo hơn trong giao tiếp với khách. Sự cố chú Chín nhớ nhất là vụ thằng
Mười Đen. Bữa đó khi từ trong quán bước ra thấy Mười Đen đang ngồi nhậu với đám
bạn, chú Chín tới bên bảo nó trả tiền còn thiếu từ tháng trước, Mười Đen mặt đỏ
gay đứng lên khỏi ghế la lối, văng tục và bảo chú Chín làm nhục nó trước mặt bạn
bè, chú Chín không nhịn, Mười Đen liền rút lựu đạn tung vào trong quán, lựu đạn
không nổ vì chưa rút chốt. Chú Chín đi thưa trong quận, Mười Đen bị phạt giam
sau đó bị đổi đi đơn vị khác đâu trong giữa rừng tràm. Có mấy người nói: nó
không phải đứa xấu, nó làm vậy để được đi nơi khác. Mười Đen đi rồi thì một
ngươi bạn của nó tới nói: thằng Mười nó gửi tôi tiền nó thiếu chú. Sự việc làm
chú nghĩ ngợi. Sau đó trong một lần tới quán, ông quận vui vẻ nói với chú Chín:
chớ cho bọn nó ăn thiếu uống chịu, tôi không đi đòi nợ cho chú được đâu nghe,
nhưng đứa nào quậy phá thì cho tôi hay...Ông quận còn trẻ, ông là sỹ quan của
tiểu đoàn đóng ở quận. Thỉnh thoảng ông đi bộ trên con phố duy nhất của quận,
ghé nhà này, nhà kia...Ông cũng ghé quán chú Chín uống cà phê, ăn hủ tiếu hoặc
mì chưa bao giờ thấy ông uống bia rượu bao giờ. Chú Chín nhớ lần đầu ông quận
vào quán kêu một ca phê đen, uống xong ông kêu tính tiền, chú Chín không nhận,
ông quận nét mặt nghiêm lại: chú là cộng sản hả, hay chú hối lộ đây...chú Chín
ngượng ngùng nói vội vàng: dạ không, dạ không...Từ đó chú Chín coi ông quận chỉ
là một người khách đặc biệt, mỗi lần ông quận ghé chú lược một ly ca phê mới,
tô hủ tiếu thì nhiều bánh, nhiều thịt hơn. Quán chú Chín mở cửa suốt ngày nhưng
buổi sáng bao giờ cũng đông nhất, số khách này kéo dài cho tới khi mặt trời lên
cao mới vãn. Còn ngồi lại thường là những người lớn tuổi rảnh rỗi ngồi nhâm nhi
ly ca phê nói chuyện gẫu. Trong những lúc đó chú Chín có thể rời xa cái xe có
thùng nước lèo của mình ngồi xuống một bàn nào đó góp chuyện: tin tức về những
trận đánh xẩy ra trong vùng, tin về tiểu đoàn cơ động đang mở rộng vùng an
ninh, tin tức từ Cà Mâu, trên Sài gòn...Thỉnh thoảng có chuyến tàu thường lệ nối
Cà Mâu với thị trấn bị đứt, quán chú Chín không có ca phê và nước đá bán khiến
khách hàng chửi đổng và lo âu...Những lần như thế mọi người lại bàn tán xem có
phải đang có giao tranh khiến tàu không chạy, hay là du kích ngăn không cho tàu
chạy dù chủ tàu đã đóng thuế kháng chiến. Có một lần dân vệ đã xuống nằm trong
tàu chờ du kích ra lấy tiền và hàng thì nổ súng. Sau vụ đó tàu hàng liên tiếp bị
tấn công và cả những thuyền nhỏ cũng không dám chạy trên con đường thủy huyết mạch
đó. Quận lỵ gần như bị cô lập cho mãi tới khi những chuyến hàng được quân đội
áp tải.
4
Tối đó không như thường lệ, Tư thấy trong đơn vị không có
toán nào đi kích đêm, tất cả được lệnh chuẩn bị hành quân vào sớm mai. Ngay từ
đầu đêm đã nghe tiếng trọng pháo hướng về vùng pháo kích tự do ở bên kia sông.
Trời hừng sáng Tư và đồng đội đã vượt qua sông khá xa rồi ngừng lại. Trên trời
một chiếc trực thăng đang bay là là cùng tiếng loa: Đồng bào hãy rời khỏi khu vực
này, đây là vùng pháo kích tự do, đồng bào hãy về vùng an ninh, chính phủ sẽ
giúp đỡ đồng bào xây dựng cuộc sống mới...Phía trước mặt: cánh đồng hoang trải
rộng. Mặt trời đã lên cao. Tư kéo đổ khóm cỏ cao xuống và ngồi lên trên, súng vẫn
cầm tay hướng về phía trước. Ở đâu đó những hình ảnh lại hiện ra. (Có buổi
sáng: một đám đông, phần lớn đàn bà, trẻ con, người già nối đuôi nhau qua sông
tụ tập gần cửa quận được đưa vào miếng đất trống là sân đá bóng, họ lặng lẽ
không nói ngoài lá đơn nguyện vọng cầm trên tay, gần chiều đám đông tan dần, một
số ngừơi xin ở lại, họ được hướng dẫn tới khu nhà dành cho những người tỵ nạn.
Có một buổi trưa nắng tiếng khóc, tiếng gào vang lên ở phía ngã ba sông, người
lính gác ở gần đó chạy lại thấy mấy người đang khiêng một người bị thương để nằm
trên một tấm ván...Có buổi sớm tinh mơ, một đám người vượt qua sông đứng nhìn
ngơ ngác, họ đã đi suốt đêm để tới đây, có giọng ai đó: tại sao lại phải bỏ nhà
cửa ruộng vườn mà đi thế này...). Những bóng người lay động mơ hồ đang hiện ra
dần dần trước mắt Tư. Tư đứng lên, một tay dơ cao vẫy ra dấu cho đám người bước
tới: người đi đầu là một đứa bé tay cầm một cành tre trên treo một tấm vải trắng
được phất đi phất lại, phía sau là hai người đàn bà, một cụ già và hai cô gái.
Tư khoác khẩu súng lên vai. Cầm lấy cành tre trên tay đứa bé vứt xuống ruộng cỏ
rồi nắm lấy bàn tay đứa bé: một bàn tay sần sùi những vết sước, khô và nhám.
Đôi mắt hóm sâu, nước da sạm cháy, những nếp nhăn chồng chất, da sát xương: một
đứa bé già. Cầm tay đứa bé, nhìn mông về phía chân trời: hình ảnh đứa bé lang
thang trên cánh đồng bỏ hoang tìm kiếm những con cá, con cua, con chuột, những
ngọn lúa ma...Có thể lúc đó trên đầu một máy bay đang lượn hoặc một trái trọng
pháo nổ không xa.
...Một người nói: du kích bảo ra ngoài này họ lột da đầu, ở
trong này ít bữa nữa độc lập sung sướng vô cùng...Bọn tôi chỉ muốn tới chỗ nào
không có bom đạn...Một người nói: từ cái hồi còn giặc Pháp, tôi và gia đình đã
từng chạy lung tung hết, lúc ở bên nội, lúc ở bên ngoại, khi lên nhà bác...cứ
chạy quanh, vì thế cũng sống đủ kiểu: lúc làm ruộng tát mương, khi chăn bò lấy
củi. Cứ chỗ nào yên mình tới , ai điên gì chạy tới chỗ bom đạn mà chịu chết...Không
thể quên đi những hình ảnh chồng chất lên nhau. Những ngọn dừa xơ xác không còn
một tàu lá, những cánh đồng cỏ dại mọc cao hơn đầu người, những mái nhà nghiêng
đổ, những cây cầu gẫy...Dọc đường đâu đó có khi còn gặp xác người nằm phơi dưới
nắng lửa...Một người nói: hồi đó ở trong Cái Tắc tôi đã thấy một cảnh kinh
hoàng: một toán lính ba-ti-giăng từ dưới đồn đi lên tới gần đầu chợ thì dừng lại,
một thanh niên gánh rau đi tới, một tên lính chặn lại, một tên khác đá tung một
rổ rau, người thanh niên vụt bỏ chạy xuống cánh đồng lúa ven đường. Một tràng đạn
nổ vang động. Những người đang đi trên đường, những người đang mua bán nơi đầu
chợ bỏ chạy tán loạn, người chạy xuôi kẻ chạy ngược. Người ta thấy một ông già
tay cầm cái phảng chạy về phía người thanh niên bị bắn ngã miệng kê liên hồi:
thằng con tui, thằng con tui ...ông già cúi xuống đưa tay lay lay xác người
thanh niên một lúc rồi đứng thẳng im lặng. Toán lính tiến lại gần chỗ ông già.
Bỗng ông già rống lên: trời ơi, con tôi...ông già thét lên, tiếng thét như xé
rách bầu trời, tay vung cái phảng lên chém những tên lính đang đứng vây quanh.
Quá bất ngờ khiến mấy tên lính đứng gần bị chém ngã, mấy tên khác bỏ chạy, có
tên đã kịp nhả đạn nhưng ông già còn kịp chém thêm mấy tên khác rồi mới ngã vật
xuống đất, cái phảng vẫn còn nắm trong tay...Một người nói: cái hồi tôi tới đây
lập đồn, tối đến mọi người vào trong lô cốt, trong hầm, con đường đưa tới ngã
ba sông hai bên cỏ cao ngập đầu chẳng ai dám lai vãng. Có lần một anh mới tới,
tối ra đứng tiểu bên hàng rào bị bắn tỉa vừa chạy vừa la tụt mất cả quần...
Cho mãi tới gần trưa số người rời khỏi vùng oanh kích tự do
lên tới khoảng hơn hai chục người. Tư tới bên một người đàn ông gầy guộc:
- Chú Hai thấy ở trong còn ai không?
Người đàn ông mắt nhìn về phía chân trời lắc đầu:
- Chắc hết rồi, từ mấy hôm nay tôi đã thấy lác đác có người
đi, du kích làm dữ nhưng người ta cũng tìm ra cách thoát. Sống gì nổi mà ở –
người đàn ông thở dài quay người lại , giọng nhỏ như nói thầm – chỉ còn cánh đồng
..
Chuyến vượt đồng nhọc nhằn và lo âu làm mọi người mệt nhoài
nên đều tìm chỗ khô ráo ngồi xuống nghỉ chân, đôi chân nào bùn cũng lên đến tận
đầu gối, mấy trẻ nhỏ bùn đất nhem nhuốc cả trên mặt, trên đầu. Sau ít phút nghỉ
ngơi, từng toán người kéo nhau đi về phía quận lỵ.
Xế chiều Tư theo đơn vị trở về, tiếng trọng pháo bắt đầu nổ về
phía bên kia sông. Khi đi ngang qua quán chị Năm, Tư nghe có tiếng gọi vội quay
nhìn, thằng Ty từ trong quán chạy ra:
- Chị Lan bị thương ở chân...nằm trong trạm xá.
- Tại sao?
- Anh Hai về bắt chị đi theo, chị không nghe, dằng co mãi anh
Hai nổi nóng chĩa súng bắn xuống đất, sau khi súng nổ, anh Hai vội vàng bỏ đi.
Chờ tới sáng ba má đưa chi Lan lên đây...
Tư không nói gì lặng lẽ bước theo đồng đội về trại ...
5
Chú Chín xếp cái bàn tròn lại cho gọn, bỏ những cái ghế đẩu
vào bên trong rồi đứng nhìn mông ra hướng ngã ba sông: mấy cái lều, mấy cái sạp
không mái che bãi đất trống của khu chợ không còn một bóng người. Lùi lại bên
này, khoảng đường rộng trước khu gia binh có mấy đứa nhỏ đang đá banh bằng một
cái lon sắt, xa hơn cây cầu sơn trắng nổi bật giữa những lùm cây xanh và cỏ dại.
Xa xa mấy ngọn dừa in trên nền trời đang dần dần tối đi.
Từ khu gia binh có bóng mấy người lính đi về phía quận ly, chỉ
trong chốc lát bóng họ đã mất hút...
(1970)
Cõi sóng lạnh
Tôi bước qua khung cổng tre , hai chiếc cột xiêu vẹo, trời
nhá nhem tối lờ mờ hình dáng những viên gạch không đều xếp thành hàng dưới mặt
sân đất đưa từ cổng vào tới hiên nhà, trên sân còn những vũng nước nhỏ ánh lên,
trận mưa từ bao giờ còn để lại, gian nhà nhỏ, hàng hiên thấp hẹp với mấy cột
tre nhòa lẫn. Ngọn đèn nhỏ trong căn nhà, nơi gian giữa, cửa mở rộng. Trong ánh
sáng vàng vọt, nhoa nhuếch tôi nhận thấy bác Tư ngồi nơi chiếc giường bên phía
tay mặt, Thịnh nằm trên giường gối đầu về phía ngọn đèn nhỏ nơi bàn thờ, trên
đó, bát hương có một nén đang cháy với đốm đỏ hồng. Bác Tư nhìn lên :
- Hưng hả ?
- Dạ.
- Cháu về hồi nào ?
- Con vừa về tới nhà, đi chuyến xe chót…
- Con ngồi xuống đây.
Tôi ngồi xuống bên, tiếng nói bác Tư nhẹ nhàng bình thản đủ
cho tôi nghe trong không khí hoàn toàn im lặng của gian nhà. Chung quanh tôi
không có gì đổi khác, vẫn là gian nhà những lần tôi trở lại, những lần ngồi tâm
sự với Thịnh. Ba gian nhà nhỏ với mái và vách lá, những chiếc cột nhỏ khẳng
khiu, chiếc bàn thờ sơ sài thường có những bông thọ, bông phượng khô héo được cắm
vào những ngày rằm mồng một mỗi tháng, đôi khi là một đĩa trái cây, mỗi bên của
ngôi nhà kê một chiếc giường, bên trái chiếc giường của Thịnh, nơi chúng tôi
thường nằm với nhau còn có một giá sách đóng bằng những tấm ván thô sơ, nơi ấy
Thịnh để đủ những thứ lặt vặt, từ những thư từ, những tờ báo và những cuốn vở
thời còn đi học mà Thịnh vẫn lưu giữ, trên ngăn cao nhất có một khung ảnh lớn
trong đó Thịnh để nhiều những tấm ảnh nhỏ : hình Thịnh hồi đi học, hình gia
đình, hình bè bạn, có những tấm hình đã ố vàng. Vẫn đây gian nhà cũ, thiếu
chăng tiếng cười nói của Thịnh.
- Thưa bác, người ta đưa Thịnh về hồi nào ?
- Hồi quá trưa cháu, nó thật tệ, nào nó có nghe bác…
Tiếng nói nhỏ như sợ đánh thức Thịnh trở dậy. Tôi nghĩ tới Mị,
tới Thanh, những em của Thịnh, không hiểu chúng nó đi đâu, và nữa, những họ
hàng và bà con trong ấp. Không khí chung quanh khiến tôi có cảm tưởng như nơi
đây vẫn là cuộc sống thường nhật. Bác Tư đứng lên kéo tay tôi theo đến bên Thịnh.
- Cháu coi, nó đang ngủ ngon đấy, ngủ ngon mà nghe lời bác nữa,
thưở nhỏ nó ngủ thì nằm nghiêng hoặc co người, bác không chịu cho nó nằm như thế,
nhưng cứ sửa lại cho nó đâu vào đó rồi thì nó lại nằm như cũ, bác vẫn nói nằm
như vậy về sau không có khá được, nằm gì mà trông như con tôm khô không đẹp mắt
chút nào, đứa nào yêu nó mà nhìn thấy nó thì cũng đến bỏ nó.
Bác Tư nói nhỏ nhẹ đều đều, bác dừng lại mở tấm vải trắng ra,
khuôn mặt Thịnh bình yên nhẹ nhàng.
Tôi nhìn Thịnh nhìn bác Tư, tôi không biết có phải bác Tư
đang mỉm cười hay không nhưng trong ánh sáng vàng tôi thấy khuôn mặt bác như hiền
từ hẳn đi, khuôn mặt hôm nào tôi nhìn thấy khi chúng tôi trở lại nhà sau nhiều
ngày vắng mặt. Nét mặt tươi sáng lặng lẽ sau nhiều ngày dấu kín. Thịnh đã được
đưa trở lại nhà. Bác Tư vạch nơi cạnh vai ra, luồn tay vào trong lớp áo. Giọng
đều :
- Bác thấy còn dấu những vết đạn nơi này cháu, chắc còn nằm lại
trong người, là người chứ mình đồng da sắt gì phải không cháu. Chắc là nó hài
lòng lắm.
Giọng nói như chợt đổi. Bác Tư phủ lại tấm vải lên mặt Thịnh
rồi quay ra ngoài, tôi không nhìn thấy khuôn mặt, tôi chỉ thấy đôi vai bác như
rung lên. Tôi đứng im. Lúc sau giọng bác Tư trở lại bình thường :
- Hôm rồi dì Ba trên Châu Đốc xuống mang cho ít mắm ruột, cả
nhà đợi nó về, cháu có thích mắm không, mắm ruột Châu Đốc không đâu bằng, hồi
trước mỗi năm lên núi Sam lễ bao giờ bác cũng nhớ món đó. Cháu có thích mắm
không, có người không ăn được, có người lại thích…
Bác Tư nói miên man sang những chuyện khác như quên Thịnh
đang nằm bên. Ngọn đèn nhỏ không bị tắt, một cơn gió lùa vào trong gian nhà trống
trải, tôi nhìn thấy những vũng nước lờ mờ ngoài sân đất, bên cạnh, tấm vải trắng
nhờ nhờ trên người Thịnh. Bác Tư vẫn đứng im.
- Bác định tháng tới này cưới vợ cho nó, cháu có về được
không đó, con Điệp thương nó, nó cũng lớn rồi, bác thì muốn có cháu bế, cái thằng
nó lông bông, ai đời hôm nó về dẫn nó qua bên nhà ông bà sui nó cười nói như ở
nhà, nó sục cả vào bếp nhà người ta, rồi khi nói chuyện gia đình, nó bảo với
ông già con Điệp là lấy lính bây giờ không biết thế nào, nay sống mai chết nên
nó không tính lấy vợ, trời ơi, cháu ngó coi vậy có kỳ không. Nó ngồi nói đủ thứ
chuyện với ông già, nó nói cả những chuyện tầm phào giữa những bạn bè lính
tráng của nó rồi nó cười hô hố… cái thằng nó…
Bác Tư quay trở lại nơi bàn thờ, sờ tay lên mép lấy hộp quẹt
và bật lửa, ánh lửa bùng sáng, bác Tư châm lửa vào ngọn đèn, vứt cây quẹt xuống
nền đất, đốm lửa đỏ lẻ loi, bác Tư bỏ hộp quẹt trở lại chỗ cũ.
Thịnh cười hắc hắc một cách khoái trá, nó nói một cách nghiêm
trang khi nhìn tôi chăm chăm : Cậu có nghĩ rằng người đang nói đây là một con
ma không, nó chết rồi mà, thật đó khi đứng trước gương cậu không thấy hình của
ta ở trong gương đâu. Một cảm giác rờn rợn đến với tôi. Tôi đưa tay ra cầm lấy
tay Thịnh, cái thằng thật là đùa rỡn, vẫn lớp lông tay mềm, vẫn hơi nóng. Thịnh
gặp lại tôi trong thời gian dưỡng thương. Trước đó một tháng tôi trở về, bàn thờ
của Thịnh còn khói hương, bác Tư khóc hai mắt còn sưng húp. Một buổi sáng chiếc
xe vận tải trở về tìm kiếm và đậu trước nhà Thịnh, những ngưới lính nói với bác
Tư, Thịnh đã tử trận, rồi họ cùng nhau khiêng chiếc quan tài bọc kẽm phủ quốc kỳ
vào trong nhà, cùng với chiếc gối trên đó có gắn một cái huy chương, một vòng
hoa đã héo được làm bằng những vòng kẽm gai, phía trên cài hoa, vòng hoa của những
người lính cùng đơn vị Thịnh làm cho. Hàng xóm bu lại chua buồn. Bác Tư ôm quan
tài khóc, kể những lời ai oán về đứa con bạc phước. Tôi thấy mình chao đi chao
lại với cái chết của người bạn thân mà chính tôi không ngờ tới. Nhưng sau đó Thịnh
trở về với vết thương nơi chân mặt. Trở lại nhà nhìn thấy ảnh mình trên bàn thờ
nó cười ngất. Thịnh không chết. Thịnh bị thương nơi mặt trận, giữa vô số những
người chết tan xác Thịnh còn sống trong cơn hôn mê một chiếc trực thăng đã đưa
Thịnh tới một chiến hạm ngoài khơi, và Thịnh tỉnh lại trong một gian phòng xa lạ
và những người không gặp một lần. Thịnh nói lại những ý nghĩ của mình : Không
hiểu mình đã tới từ bao giờ; mãi sau trong trí nhớ trận đánh mới đến và Thịnh cảm
thấy mình cô quạnh với những nhớ mong ngày trở về mái nhà xưa. Ba tháng sau Thịnh
có mặt trong gia đình giữa những ngỡ ngàng cảm động. Vậy ai chết trong quan tài
bọc kẽm đó.
Thịnh nói : Cậu thử tưởng chuyện cậu bị cúng bái, bị làm ma
chay rồi, một phần mình đối với những người thân là đã bỏ vào một cái áo quan
mà chôn xuống ba thước đất, rồi những ông thầy pháp làm trò này khác, còn gọi hồn
gọi vía mình nữa… thật là lạ. Mình sống mà đã chết rồi, có lẽ là từ tiền kiếp
gì đó. Sống mà đã chết, bọn mình thế cả, nghĩ mà khiếp…
Ba lần coi như khó sống, một lần được làm ma, nhiều lần bác
Tư vào nhà thương với hy vọng đứa con trai bị mất đi một cánh tay, một cái chân
gì đó cho nó khỏi phải trở ra mặt trận. Bác Tư mong có một đứa con bị cụt, bị
què gì đó nhưng sống lại bên mình. Thịnh nói : Bà cụ vào tới nơi thấy mình nằm
ngay đơ với một bên chân bó bột thì khóc, nhưng ngay đó hỏi bị thương ở đâu
con, mình nói nơi chân, bà cụ hết khóc hỏi một cách vội vàng như mừng rỡ, có bị
cưa không con, mình nói không, bị gãy nhẹ thôi. Bà cụ mình im lặng không hỏi nữa.
Lúc đó mình thấy nôn nao cả lòng. Mình hiểu bà cụ đang nghĩ gì : Bà mong cho
mình không thể đi đánh nhau được nữa.
Thịnh trầm xuống : Tao muốn chết cho rồi. Bọn mình ở những lựa
chọn khắc nghiệt, chẳng ra thế nào… Giọng Thịnh chùng thấp buồn bã, ở trong những
ngày sôi sục lửa bỏng với Thịnh những giây phút rã rời. Thịnh nói : Hồi xưa có
lẽ người ta sung sướng hơn bọn mình, đời sống đơn giản phải trái phân biệt, trắng
đen rõ ràng, cái nền tảng phán xét không có gì phải nghi ngờ. Sướng thật. Nay
thì không rồi nhỉ, chuyện gì cũng có thể biện minh. Ăn cướp, hiếp dâm, giết người
cũng có những lý lẽ của nó… Thôi không nói nữa, thảm quá. Chỉ tội bà má. Ở những
thời buổi khác, cha mẹ mong cho con cái thành tài, khỏe mạnh, nào đâu bây giờ,
mong cho con bị cụt chân cụt tay mà ở lại bên mình, làm một tên què có lẽ lại
xong, nhưng số mình không què, chắc là chết non, kể cũng là một thứ ma chê quỷ
hờn ghê lắm bọn mình mới còn sống đấy nhỉ, nếu không thì có lẽ cũng đã thành bụi
cả rồi…
Bác Tư đi ra cửa, tiếng dép kéo lê buồn chậm, tới hiên bác dừng
lại như nhớ tới tôi :
- Cháu xuống dưới này ăn cơm với bác.
Giọng nói ngọt nhẹ, tôi bước ra khỏi nhà, bác Tư đi xuống nhà
ngang, gian nhà đầy ánh sáng, mâm cơm để trên chiếc bàn nhỏ giữa nhà phủ tấm
khăn nhựa đỏ với những ô vuông, bác Tư mở chiếc tủ ăn nhỏ lấy thêm chén đũa rồi
ngồi vào ghế, bác nhẹ nhàng im lặng xới cơm ra chén cho tôi :
- Ăn với bác chén cơm cho vui, Thịnh nó ít muốn bị quấy rầy,
nó đang ngủ thì đừng khua nó dậy, nó ngủ cho đã thì trở dậy kiếm ăn, cái thằng
nó chẳng bao giờ chịu để cho ai chìu chuộng, ai lấy nó thiệt phước…, thịt kho
nước dừa đấy cháu, Thịnh nó ưa món đó lắm…
Tôi bưng chén cơm ăn, tôi thấy gai lên với một cảm giác ớn lạnh.
Có thật Thịnh đã chết ? Buổi chiều xuống, hai chúng tôi dời nhà đi dọc theo bờ
kênh đào, con kênh rộng như một dòng sông nhỏ, qua cây cầu chúng tôi ngừng lại
trước trường tiểu học, Thịnh đi xuống mé kênh, trèo lên một thân cây dừa đổ ngồi
lên, thả chân xuống dòng nước, ngôi trường học là một dãy nhà ngói thấp nằm mãi
sâu trong, bỏ lại phía ngoài khoảng sân đất rộng với những khoảng cỏ mọc không
đều, trên đó những lối đi mòn, chiếc trống treo nơi cuối dãy hiên dài, tất cả đều
vắng lặng, sân trường cách với con đường đất bởi một con lạch nhỏ trên đó đọt cỏ
cao vòng hẳn lên, Thịnh lấy thuốc ra hút, Thịnh nói tới những ngày nhỏ học tại
ngôi trường thân yêu này : Mau thiệt, mới hồi nào đùa nghịch, chơi rỡn, mới
ngày nào mới cao hơn mấy đọt cỏ, thế mà bây giờ bọn mình đã thành người lớn, cầm
súng, đánh nhau và vô số những chuyện tầm phào chẳng ra thế nào. Có hôm hành
quân vào một làng nhỏ, mình đứng dưới một gốc ổi hái một trái ổi nhỏ vừa chín bỏ
vào miệng, thật là tuyêt diệu, mình sung sướng chảy nước mắt, những ngày thơ ấu
nơi quê hương, hái một chiếc lá ổi vò nát trong lòng tay, mùi thơm tha thiết mộc
mạc… Thịnh chỉ sang những ngọn dừa cao phía bên kia con kênh : hồi xưa những ngọn
dừa còn thấp, bọn này tước những chiếc lá dừa non tết thành con châu chấu, tết
những cái kèn, mới đó mà đã xa mù.
Bác Tư chợt òa khóc, bát cơm cầm trên tay, hai tay run lên,
tiếng khóc tấm tức, bác phải bỏ bác cơm xuống hai tay ôm mặt, chừng như tiếng
khóc bị giữ kín lại khiến hai vai bác Tư rung lên từng nhịp liên tiếp. Tôi muốn
nói vài lời an ủi nhưng tôi không biết nói sao. Lúc sau bác Tư kéo vạt áo lau mắt
rồi bưng cơm ăn tiếp. Tôi nghe thấy tiếng những con muỗi bay vo ve.
Quả là cái số tao. Này, mày thấy không, thời mình đâu phải
không có những anh hùng, thế mà chẳng ai chịu nói tới những anh hùng ấy, mới đầu
tao nghĩ mãi về điều đó, sau rồi tao mới thấy là có lẽ thời mình không có anh
hùng với mọi người, chỉ có những anh hùng một mình, không có những anh hùng cho
người khác, thời buổi của cuộc chiến này như một cái gì kỳ cục, tạo nên những
anh hùng buồn rầu, ngơ ngác và không ai muốn ca tụng hay nói đến. Mà ai còn
lòng dạ đâu dể mà muốn trở thành anh hùng, toàn là những anh hùng bất đắc dĩ,
nghĩ mà thảm. Mình cũng là kẻ anh hùng đấy chứ. Thịnh cười vang lên, tiếng cười
như lan theo với dòng nước của mặt kênh đào phẳng lặng. Mình mong sống sót sau
cuộc chiếc này, nhưng nếu thế cũng thảm thiết không kém, khi ấy mình chẳng còn
bạn bè, chẳng còn những người thân thiết đã chia sẻ với mình những gì đã trải
qua, và thật là bất hạnh cho ai còn sống, phải vậy không ? Nghĩ mãi thì đến
phát điên lên được. Thịnh vụt đứng lên thân cây dừa và lao mình xuống lòng
kênh, tiếng nước vang động và Thịnh mất tăm trong lòng kênh. Tôi kêu lên : Thịnh,
Thịnh… không có tiếng đáp lại, lúc lâu Thịnh nhô đấu lên mãi đằng xa nhìn tôi,
hai tay vuốt nước trên mặt và cười vang động : Hóa sức mình cũng còn mạnh gớm đấy
nhỉ, cũng bơi đi được một quãng xa. Tôi nói : Ta tưởng cậu định tự tử. Thịnh cười
: Định tự tử nhưng chót rồi quên không mang theo thẻ căn cước – tiếng cười ngạo
nghễ – cậu tưởng tự tử dễ lắm hả ? Thịnh bơi trở lại chỗ tôi ngang qua cây dừa
rồi tiếp tục bơi nữa về phía gần cửa nhà, tôi đi trên bờ theo với Thịnh, về tới
gần nhà Thịnh mới bơi vào bờ rồi lên đi bên tôi với quần áo ướt sũng, nước nhỏ
giọt theo với bước đi. Tôi trông Thịnh nhợt nhạt như một người sắp chết. Thịnh
kêu : Lạnh quá, cho điếu thuốc đi. Tôi châm cho Thịnh điếu thuốc để lên môi.
Chúng tôi trở lại nhà không nói điều gì.
Bác Tư đã trở lại bình lặng xếp những chén bát lên kệ rồi bác
trở lại bên tôi :
- Cái con Mị nó điên rồi, cháu biết không, nó kêu lên là anh
Thịnh chết rồi, nó điên thật mà, nó khóc, nó kêu than như mụ điên vậy, bác bảo
sao nó cũng không im cho thằng Thịnh nó ngủ, bác đã nhốt lại ở trong chiếc tủ rồi,
mình xuống xem nó đã hết điên chưa. Thịnh nó thương các em nó hết sức, nó chìu
em nó đến bác cũng bực mình.
Bác Tư dắt tay tôi lên buồng, tôi nghe tiếng khóc tấm tức ở
đâu đó vang lên cùng với tiếng kêu : anh Thịnh ơi, anh Thịnh ơi, sao anh bỏ các
em… Đứng trước cửa buồng tôi nghe rõ tiếng Mị kêu khóc. Bác Tư gắt lên :
- Con nhỏ này mày không im đi hả, im cho anh mà ngủ.
Bác tư mở cửa buồng ra, tôi giật mình nhìn thấy con heo trắng
lớn thò đầu ra. Tôi xuýt kêu lên thành tiếng. Bác Tư đóng cửa lại đi sang phòng
bên cạnh :
- Bác nhốt con Mị bên này.
Cánh cửa mở ra, bác Tư bước vào, tôi đi theo, Mị ngồi nơi chiếc
giường nhỏ đang ôm mặt khóc, tiếng khóc nhỏ nghẹn ngào. Tôi đến bên :
- Em nín đi…
Mị ngẩng mặt nhòe nước mắt nhìn tôi ngỡ ngàng :
- Anh Thịnh chết rồi anh ơi…
Bác Tư giọng nghiêm khắc :
- Cái con khỉ này, im cho anh mày ngủ…
Bác Tư cầm ngọn đèn đi ra, tôi dắt Mị đi theo. Cơn gió nhẹ
làm ngọn đèn bốc cao rồi phụt tắt bỏ lại chúng tôi trong bóng tối bít bùng.
Chúng tôi mất nhau. Tôi cầm lấy cổ tay Mị lạnh ngắt. Tôi nghĩ tới cõi âm của đời
sống Thịnh…
(1970)
Đôi mắt
Tôi đếm rõ ràng trên mặt đường sỏi trắng có bốn cánh lá màu
vàng úa, một cánh khô bị rách nhiều mảnh như sâu đã ăn đi từ lúc còn ở trên
cành, chiếc lá sau cùng mới hơi úa một chút phía ngọn và cuống lá còn gắn vào
chiếc cành nhỏ màu nâu dài hơn gang tay. Chiếc lá này chưa đáng rụng khỏi cành,
ít ra nó còn có thể chịu đựng có khi vài ba ngày nữa, và biết đâu có khi nó khô
luôn ở trên cành vì nó đâu phải lá già mà rụng xuống – “ Sao lá xanh lại rụng
trước lá già, con chết đi ai khóc và chôn cất mẹ.” Hai con mắt mở thao láo đỏ
như rớm máu. Sao chiếc lá xanh kia đã rơi theo chiếc cành, cơn gió nào đã thổi
qua. Không có cơn gió nào từ lúc đó tới giờ. Một con chim sâu màu hạt dẻ, hai
móng chân màu chì đã đậu xuống vì một con sâu xanh. Con sâu cuối cùng của cây
bàng, con sâu không kiếm tìm ra được một chiếc lá xanh, một búp non của những
cành cây mùa thu. Con chim đậu xuống và chiếc cành rơi mang theo cánh lá mà cuống
còn đủ nhựa sống chưa rời rã. Ai rồi không chết. Con chim hốt hoảng kêu thành
tiếng rồi cố sức liệng lấy sức bay lên một cành khô ngó xuống ngỡ ngàng, không
còn một cánh lá. Tôi tìm kiếm trên làn sỏi bóng dáng một con sâu bị văng ra đó.
Nó còn sống được chăng. Nó bò đi đâu. Nó bị dập không. Có đàn kiến vàng nào đã
tìm ra một kho lương thực đặc biệt. Con sâu màu xanh, màu nâu, màu đen, màu
vàng lông sù như chiếc áo len Quyên mặc vào mùa đông ấp cao lên quá cổ. Quyên
tươi cười không tiếng động, đôi má lúm đồng tiền, đôi mắt to đen và những đợt
lông tơ mướt trên làn má hồng ửng. Không thể có một con sâu. Chiếc lá lay động,
vẻ kiêu ngạo của một ngọn cỏ may vào mùa đông. Trong một khu rừng lá chưa bao
giờ rụng hết một lần ở trong đó còn nhiều cành lá xanh. Bốn mươi tuổi, một người
cha bảy mươi tuổi, cánh lá là đứa con kia vẫn mang nghĩa một cánh lá xanh. Tại
sao đã chết ? Mỗi người đều chết. Trong đám tang, một người chín mươi, đứa chắt
chít khăn vàng đi chân đất nhảy choi choi cười. Không bao giờ có tiếng khóc cho
tuổi già. Có những người chết đi không ai khóc, ở đó có niềm vui. “ Ai khóc và
chôn cất mẹ, con ơi !” Tiếng kêu ngân lên vang dội, dật dờ, va đi va lại vào những
bức tường thực tại rồi cuống quít trà trộn, tràn lan… những giọt nước mắt ứa xuống.
“ Ai khóc và chôn cất mẹ, con ơi.”
Thêm hai cánh lá vừa rụng xuống lặng lẽ, cánh lá xanh vẫn lay
động. Một cơn bão sẽ đến chẳng hạn. Thân cây mục khô của mùa hè trước được hạ
xuống làm ghế ngồi vẫn nằm im nếu bây giờ động nó, đi ra nơi khác có khi gãy ra
từng khúc. Thân thể đã khô cứng ướt đẫm nước sông. Từ bên kia bờ đê chú Tâm vác
trên vai xác người anh ruột từ sông Cái trở về, bộ quấn áo màu nâu còn ướt sũng
nước thấm xuống người em ướt từ vai xuống tới chân như vừa lội dưới ao lên. Chiếc
xác đã cứng đơ như khúc gỗ. Chú Tâm tĩnh táo đi về một cách thông thả và chắc
chắn, đôi mắt đỏ khô ráo, mọi người đứng lại mở mắt nhìn ngạc nhiên. Chú qua cổng
đi vào nhà đặt xác người anh xuống ngay chiếc sập gụ : “ Anh ấy chết rồi.”
Chết rồi, chết thực rồi. Thân gỗ không còn động đậy. Tôi chạy
đến kêu lên : “Bố ơi, bố ơi”. Rồi tôi bỏ chạy ra một khoảng ôm lấy chiếc cột
nhà. Nước từ bộ quần áo vẫn rỉ ra loang trên mặt gỗ như một thứ máu đen. Tóc rối
bù, hai mắt trợn, chú Tâm để người anh nằm giữa sập kéo hai chân ruỗi ra .Chú
giữ lấy mạn sườn đẩy cho xác chết nằm nghiêng và thò tay cởi sợi dây thừng, chiếc
dây thừng buộc trâu mỗi ngày tôi vẫn thường cầm để dắt trâu ra sông tắm, thứ thừng
cuộn tròn lại làm một thứ bàn chải đủ cho làn da đen của con trâu kéo mật bóng
lên. Chúng đã buộc chéo hai tay bố tôi bằng thứ thừng chắc chắn đó. Chú Tâm
loay hoay mãi vẫn không sao gỡ được thắt nút. Chú kêu lên : “Kiếm cho con dao
đây”. Với mũi nhọn chú Tâm lách mũi và cắt đứt sợi thừng một cách khó khăn. Chú
cầm sợi thừng bị đứt làm nhiều đoạn vứt ra ngoài sân, con chó vàng ở đâu nhảy sổ
ra vồ rồi cắp chạy.. Hai cổ tay bắt chéo chừng như đã cứng vẫn nằm nguyên, chú
kéo cánh tay trái ra, lật xác trở lại và kéo nốt cánh tay phải để lên bụng.
Cánh tay như một que củi, chú cố vuốt và uốn cho cánh tay nằm trên bụng và ở
trên nhau. Bây giờ tôi nhìn rõ hơn hai đường hằn bầm tím trên cổ tay đã đen,
lõm vào trong thịt và làm mất cả một làn da đen. Một người bị treo lên cành cây
đu đi đu lại với những chiếc roi quất ngang và thân hình oằn lên, hai chân dãy
đạp vào không khí, chiếc đầu ngoẹo đi ngoẹo lại cà tiếng la thét trở thành rên
rỉ rồi rũ ra như một con sâu. Chúng nó đã làm như vậy sao ?
Một cơn gió thổi mạnh, nhựng cánh lá bị thổi bay lên cùng ít
bụi đất, cơn gió mang những cánh lá dạt vào thân cây khô. Cánh lá xanh còn ở lại
đó. Chiếc cành nhỏ chỉ nghiêng đi một chút và cánh lá nằm xuống mặt sỏi không
còn động đậy. Sao không có ai tới thăm giờ này, rủ mình đi dạo một chút trong
khu bệnh viện và những câu chuyện rất riêng tư về vợ con, anh em họ, hoặc một
câu chuyện vui mà ai cũng có để kể cho những người bệnh nghe rồi cười như cuộc
sống có rất nhiều hạnh phúc mà ai nấy cùng được hưởng. Đứa con gái của Nhâm đã
tám tuổi, nó biết đòi mẹ nó đánh móng tay đỏ, chải đầu thắt nơ xuống mái tóc ngắn
xõa, đòi xức nước hoa và mặc chiếc váy xòe trắng mỏng có thêu một con nai màu
xanh đứng bên một cụm hoa nhỏ màu vàng, những hoa tròn lớn thật rực rỡ ở đó có
một con bướm xòe cánh đậu. Tên cháu là gì nhỉ. Nhâm cười cười, thế là mình
không làm sui gia với hắn được rồi. Có khi bây giờ Nhâm còn bận lắm, Nhâm đang
cầm tay đứa nhỏ bắt viết trên cuốn tập đồ nếu không hắn sẽ vào đây và như thường
lệ hỏi : cậu có ngủ ngon không, hôm nay ăn được mấy chén cơm, cô y tá hôm nay
có đánh phấn không ?
Bây giờ có được một chiếc ghế dựa đong đưa để dưới bồn cỏ
kia, một chiếc bàn con với ấm trà nóng…mình sẽ nghe tiếng nói một người rất
quen nói, chốc chốc ngừng lại nhấm trà xuýt xoa vì nóng và khen một câu bâng
quơ : trời đẹp quá, nước hôm nay mới đúng để uống trà đây, thiếu mất một thỏi kẹo
lạc với những mảnh lạc màu nâu bóng nhẫy vì lớp đường. Một màu nâu không có ở
thân gỗ, sao thân gỗ với lớp vỏ mốc vẫn chưa rã ra.
Chú Tâm kêu lên : “Dã man”. Dã man là thế nào. Chết mất rồi,
bà nội ôm chầm lấy xác người con cả mà khóc, mà la, rồi khóc không được, tiếng
nói đã biến mất chỉ còn lại một giọng khàn khàn, và miệng méo sẹo trên khuôn mặt
nhăn nhúm như một mớ giẻ rách lâu ngày trong chiếc bị, những giẻ rách được cất
đi từ trong những chiếc áo chiếc quần tơi tả không còn miếng nào bằng được bàn
tay, nhưng nó vẫn được lưu giữ để lâu lâu lôi ra và tìm kiếm khắp lượt lựa lấy
miếng nào còn lớn nhất trong đám đó. Khuôn mặt nhăn nhúm căng ra rồi co lại và
môt âm thanh phều phào ướt át. Chú Tâm phải kêu lên : mang bà nội ra gian bên.
Chú kiếm chiếc gối mây cũ để lên đều xác chết, vuốt mớ tóc ngược về phía sau một
cách phẳng phiu, chú xoay trần lấy áo lau khuôn mặt nhợt nhạt, chú lau cả xuống
cổ. Khuôn mặt tái xanh đôi mắt trợn ngược như một pho tượng đá. Chú đưa tay vuốt
mắt lại khi chú buông tay ra thì máu tím ở trong mắt ứa ra ràn rụa, đôi mắt vẫn
chưa chịu nhắm, chú vuốt lại và giữ tay lại đó một lúc, chừng như máu ứa ra đã
đọng lại gắn đôi mi mắt lại với nhau và khuôn mặt trở thành hiền từ. làn máu chảy
xuống đọng thành hai hàng dài bên sống mũi như hai con giun đất đã bị kiến đốt
chết không còn oằn oại.
Bà nội mang từ buồng bên ra một tờ giấy bản, chiếc đũa mộc,
bà đổ vào tay chú Tâm mấy đồng tiền trinh. Chú Tâm đưa tay cạy hàm răng ra, nước
trắng ứa tràn xuống cổ, chú nghiêng đầu cho nước chảy xuống mặt ghế, nước trắng
ra hết, sau cùng là một vốc bùn đen với dãi nhớt, chú Tâm còn moi ra cả một mớ
cỏ rác. Chú lau miệng rồi bỏ mấy đồng trinh vào đó, hai hàm răng cứng chú banh
ra và ngáng chiếc đũa mộc vào. Chú quay ra bảo : “Cháu nhìn mặt bố đi.”
Bố tôi với khuôn mặt sáp trắng bệch, mắt nhắm nghiền như ngủ,
và hai hàm răng cắn lấy chiếc đũa chắn ngang không động đậy. Rồi tờ giấy bản trắng
được phủ lên …
Chú tôi đứng lên, đôi mắt đỏ và khô ráo, bỗng chú lại cúi xuống,
nghiêng người nhìn xuống mang tai bố tôi, chú đưa tay sờ vào đó rồi kêu lên : “
Chưa hết, chưa hết, một chiếc đinh nữa đây”.
Chú đứng thẳng lên nói lẩm bẩm : “Dã man, dã man, đồ chó má…”
Tôi đứng lại gần và đưa tay vào làn da lạnh, dưới lỗ tai một
chút tôi sờ thấy rõ mũ một chiếc đinh mười phân còn trồi ra đó. Bố tôi không
kêu thành tiếng, ngậm miệng với mớ cỏ rác trong họng, nhắm mắt với búng máu ứa,
tay chắp với sợi thừng buộc trâu không cựa và chết với chiếc đinh mười phân
đóng sâu vào đầu. Một thân gỗ với nhiều vết đinh, với nhiều làn đạn, với gió
bão đã đủ để gục chưa ? Tôi nhìn chú Tâm một lúc, sao không thể nhổ chiếc đinh
này ra xem có phải là mười phân không, nhổ ra bố tôi có thức dậy và ông sẽ cười
nói. Câu chuyện của một người trong đêm kia có một toán người lạ mặt đến dẫn
qua một con đường rất lạ, để đi đến một bờ sông rộng, tối đen không nhìn thấy bờ
bên kia, mọi người đứng lại ở một bến đò chen chúc, không khí gây lạnh, rồi ngưới
đó không được sang sông, bị đuổi về. Mỗi thế giới cách nhau một bờ sông đen. Nếu
đã sang bên kia dòng sông. Chắc bố sẽ cười lớn và kêu : “ Thật chiêm bao”.
Rồi tôi đến bên một bờ sông đen và xuống thuyền không quay trở
lại nữa.
Vị bác sĩ thường trực hôm nay là người trẻ nhất của bệnh viện
này, ông đang đi từ phía cầu thang lên, có cả cô y tá với chiếc răng khểnh,
không rõ cô tên gì. Tôi muốn nhớ lại, và nhớ thật lâu tên cô, nhớ không bao giờ
quên. Hai người đang đi vào sân thăm các bệnh nhân. Người gác cửa đang đi bách
bộ nơi cổng sắt, ông ta nhìn thấy mình rồi đó, ông ra dấu cái gì, sao ông chỉ
chỏ chi vậy, à ông ta báo cho mình về việc vị bác sĩ thăm bệnh nhân. Tôi gật đầu
liên tiếp mấy cái. Cổ họng tôi ngứa và muốn bật ho. Tôi ứa nước mắt. Sẩm tối
hôm đó có bốn người lạ đến, bằng đường tắt, nhảy qua hàng rào gai. Bố tôi đang
ăn cơm, ông ngồi lặng thinh, ông nói gì đó với mấy người, ông có vẻ bực bội, phản
đối, nhưng sau cùng cầm lấy chiếc tăm và theo họ đi ra bằng cổng xép. Tôi chẳng
hiểu bố tôi đã đi tới đâu, sau đó ông thế nào suốt trong một tuần lễ và sau
chót với xác chết của ông nằm trên một bờ sông. Họ đã làm gì với bố tôi trong
suốt tuần lễ. Sau này tôi mơ hồ được rõ bố tôi ở về phía những người chống lại
họ. Sao bố tôi không theo họ để phải nhận một chiếc đinh lớn cỡ đó. Thật không
thể nào hiểu được. Trên chiếc xập đó chú Tâm đã mặc cho bố tôi chiếc áo dài the
tươm tất, đội khăn xép. Và cỗ ghế ngựa được phá ra đóng chiếc quan tài. Chiếc
quan tài đóng vội bằng chiếc đinh lớn cỡ chiếc đinh đóng vào đầu bố tôi, với thớ
gỗ sù sì bố tôi được bỏ vào đó và đậy kín. Bà tôi khóc vật vã, chú tôi lầm lì.
Bố tôi được chôn ngay gần với chỗ mẹ tôi đã được chôn cách đó hơn một năm, đám
ma mẹ tôi khác hẳn, mẹ tôi chết sau khi ở rừng về, bị sốt rét không có thuốc.
Chiếc quan tài sơn đỏ mua dưới chợ, chiếc áo quan mỏng mảnh nhưng đẹp đẽ hơn và
được đặt lên vai bốn người đàn ông. Bố tôi được khiêng với những sợi thừng lớn
trên hai chiếc đòn ống… Những hòn đất khô rất lớn đã được đổ xuống huyệt một
cách vội vàng làm át đi tiếng khóc yếu ớt của bà tôi. Và mãi khi đó tôi mới
khóc vì biết bố chết thật, ông không bao giờ còn nói cười nữa. Mỗi người đều chết.
Khi mẹ tôi sắp chết, mẹ tôi gọi tôi đến bên không nói gì rồi tắt thở. Nay bố tôi
chết cũng không nói lại điều gì. Mọi người đều lặng lẽ. Sao họ giết ông. Họ là
ai vậy, họ mang quyền lực gì. Họ thử đến cho tôi nhớ mặt. Tôi không biết ai. Tiếng
huýt sáo của người gác cổng, tiếng chân của vị bác sĩ và cô y tá. Tôi quay lại
và mỉm cười.
- Hôm nay ông thấy thế nào, có khá không ?
- Cám ơn bác sĩ.
- Sao ông không nằm nghỉ cho khỏe ?
- Chắc ông mong người nhà – lời cô y tá – . Hôm nay không có
ai vào thăm sao. Hết giờ rồi không ai vào nữa đâu, ông nên nghỉ. Tối nay có một
nhạc sĩ ngoại quốc sẽ đến đây trình bày sau bữa cơm giúp vui cho các bệnh nhân.
Tôi chắc ông sẽ thích.
- Vâng ông đừng buồn, ông phải yên tâm mới mau lành được.
- Tôi sắp chết.
- Không đâu, ông cứ yên tâm, bệnh gì cũng có thể chạy chữa được
hết, rồi ông coi. Trước hết phải ở ông đã. Ông nên vào nghỉ, tôi đi thăm bệnh
nhân nghe.
Cô y tá mỉm cười, vị bác sĩ đã bước nhanh.
- Ông muốn tôi dẫn đi dạo không.
- Cám ơn cô, không.
- Chắc cô bạn của ông bận việc gì.
Mỗi người nằm trên một chiếc giường sắt có phủ vải trắng, một
chiếc màn, mỗi đầu giường treo một chiếc bảng ghi chép những con số, bốn bức tường
xanh, mỗi người nằm ngửa thở ra với lồng ngực lên xuống đều đặn, rồi có người
bước ra cổng sắt, có người được khiêng xuống nhà xác mãi góc vườn phía xa sát bờ
tường và được bỏ vào quan tài.
Cơn gió lớn ở đâu thổi ngược trở lại, mấy chiếc lá lại bay
tung ra ngòai mặt sỏi, chiếc lá xanh lại dựng cao lên và lay đông. Quyên lấp ló
ngoài cửa phòng và tủm tỉm cười trong không khí gây lạnh và màu sắc nhợt nhạt.
Một căn nhà nhỏ với mảnh vườn có trồng cây vú sữa. – Em hãy đừng đến đây nữa.
Anh không yêu em đâu. Bây giờ đã quá giờ tan học chưa, có lẽ bây giờ Quyên còn
đang trên đường trở về, nàng đã tới ngõ, đẩy cửa, chiếc cửa ai cài then vậy,
nàng cầm nón và cặp sách sang tay trái, tay phải luồn vào trong mở then rồi đẩy
ra, vào tới lối đi nàng khép cửa lại. Nàng nhảy choi choi trên bậc cửa, vào nhà
liệng bỏ cặp vào bàn cầm nón xuống dưới, tiếng nói của mẹ và con rồi nàng cởi
áo dài, hai cánh tay trắng nõn tròn trặn và đôi vai nhỏ. Chiếc cổ với những sợi
tóc dài quấn ngang. Thân thể nàng nhòa dần và tan vào bóng tối. Anh không yêu
em, không yêu em nữa.
Bóng tối trở xuống làm nhòa tan những chiếc lá, lớp sỏi trắng
trên nền sân đã mờ đi. Tôi leo người ngồi lên bao lơn dựa vào chiếc cột gạch.
Ngọn đèn dầu soi rõ khuôn mặt Lịch, người bạn độc nhất nhớ tôi đến thăm lần cuối
trước khi lên đường đi giữ một đồn ở ngoài biên giới. Khi vừa gặp hắn văng tục.
À lâu quá tôi không được nghe ai văng tục nữa :
- Bạn bè đứa nào cũng khá cả, chỉ có cậu là tồi, ngần ấy năm
cậu làm được gì. Mấy cuốn sách nát, một mớ ý nghĩ lộn xộn trong đầu rồi đi đến
đâu ?
- Chết.
- Không tưởng, không tưởng…
- Cậu tưởng tượng hộ tôi khi cậu bị một chiếc đinh đóng vào đầu
chẳng hạn, hay một mũi tên ghim vào ngực chẳng hạn, khi đó cậu nói với tôi thế
nào.
- Nói khỉ gì nữa.
- Cho nên tôi hỏng.
- Tiếng súng ở đâu vọng về có lúc tôi nghe tiếng súng nổ
trong óc tôi, trong đầu tôi giữa đêm thanh vắng. Tôi biết chắc chung quanh
không có tiếng súng nào, một đôi khi nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng súng, và cả
một mớ lửa cũng đốt lên nữa, ngọn lửa mà không có gì làm tắt đi được. Trong lửa
đỏ tôi nghe tiếng cười và đầu óc loãng tan. Tôi muốn có một con dao tiện lấy cổ
mình một cách ngọt ngào, tôi để đầu xuống mặt bàn rồi bửa ra làm hai mảnh để
tôi dò tìm dấu vết của viên đạn, của mũi đinh, của một tàn lửa, nhưng chừng như
trong khối óc tôi chỉ thấy toàn sạn đen lổn nhổn, những sạn đen không đủ để làm
một viên đá kỳ lưng sau khi trộn với xi-măng. Đó là điều làm tôi buồn. Tại sao
trong đầu mình lại không có một quả ô mai mặn để mình ngậm ho.
Lịch dẫn tôi về thăm gia đình, bố mẹ đều già, ông cụ tóc đã
hoa râm vẫn còn đi làm, bà cụ trông nom nhà cửa, hắn có hai người em gái, vợ hắn
có một khuôn mặt tròn, má có gò cao và nước da ngăm đen, tiếng cười rất giòn. Đứa
con đầu lòng là trai mới được hai tháng còn để trong chiếc nôi mây có phủ màn
trắng, đứa nhỏ ôm trên ngực bình sữa đã cạn và nhắm mắt ngủ. Lịch bảo :
- Con mình nó kỳ lắm, bỏ chai sữa ra nó khóc và thức dậy đó.
Cậu trông nó thế nào ?
- Giống cậu.
- Con mà không giống bố còn giống ai ?
Và tôi cũng sẽ bị đóng một cây đinh vào đầu, nước lan trên mặt
sập, mắt ứa máu, một mũi tên đen bay đến cắm vào ngực tôi rất sâu không sao rút
ra được.
Cây bàng trơ lá mọc thêm những cánh tay khô, một kẻ nào đó
mang búa rìu đến hạ xuống. Lịch bực tức :
- Cậu đã sống ngần ấy năm ra sao ?
- Không nhớ được.
- Bây giờ ?
- Sắp chết.
Tôi nhói nơi ngực và ho, cô y tá trở lại, tôi nhìn ra môt người
trắng toát. Cô đưa tay đỡ tôi xuống và dẫn vào giường.
- Ông không thấy hôm nay gió nhiều sao, ông nghỉ một chút, ăn
cơm, tôi sẽ tới dẫn ông cuống nghe âm nhạc, ông nhạc sĩ này còn làm cả trò hài
hước nữa.
Tôi nằm xuống, tôi nghĩ đến một căn nhà, những người chừng như
tôi chưa gặp bao giờ. Những chiếc đinh. Những thân cây. Những chiếc lá vàng bay
rồi rơi vào một miệng hầm đào vội. Tiếng ồn ào đang vang dội từ dưới hội trường
của bệnh viện. Những màu trắng ngồi dậy, đứng lên và bước đi lờ đờ. Tiếng chân
bước mơ hồ. Một cánh tay trần màu sáp hồng, một đứa nhỏ mặc áo rộng có hoa đỏ với
con nai con.
Đã bao nhiêu năm, đã đi qua những đâu, sống thế nào, gặp ai,
người khóc, cười, tiếng súng…không nhớ nữa.
Một bóng trắng tiến tới :
- Ông vẫn chưa ăn sao, tôi giúp ông nhé, người nhạc sĩ tới rồi,
ông ta vừa gảy đàn vừa hát, vui lắm, ông xuống không. Họ xuống hết cả rồi.
Tôi trở dậy theo cô y tá xuống thang gác. Trong phòng đầy người.
Người nhạc sĩ đang gảy đàn, mặt nhăn nhó… Tiếng vỗ tay. Tôi cầm tay một người
ngồi bên hỏi :
- Anh ta đang làm gì đó. Hắn khóc phải không. Sao không vỗ
tay đi.
Giữa những tiếng vỗ tay, tôi lần ra hành lang, và đi xuống
con đường trải sỏi ra ngồi nơi thân cây mục. Gió thổi ào ào tôi lê ngồi xuống
thảm cỏ và nằm xuống. Trên trời đầy sao với nền trời mỏng và phẳng. Sao không
trông thấy mặt mình. Mặt mình ở đâu. Mỗi ngôi sao đều sống nhiều năm, có thể rụng
xuống và ánh sáng tắt. Chiếc quan tài sơn đỏ bỏ tấm ván thiên, người thầy cúng
ê a, những người thân đứng ngoài, từ nơi chiếc quan tài một chiếc thang làm bằng
hai dọc chuối được dựng lên dựa vào mái tranh, ông thầy cúng khua cành phan,
chiếc áo cũ của người chết, người đàn ông đứng trên mái nhà hét lên : ba hồn
chín vía… ở đâu thì về nhà mà nhập hồn quan. Mũi dao nhọn đượcdùng viết vào
thành ván, và chiếc thang bị chặt đứt làm đôi… người chết không bao giờ trở về
nữa. Mình sẽ như thế, sẽ không có một chiếc thang bằng tàu chuối được chặt đứt.
Sẽ không có tiếng hú hồn, sẽ không được nằm xuống một chiếc huyệt mùi bùn hăng
và huyệt mộ sẽ nằm trong một dãy dài những kẻ chết đi không có ai ngó đến… Sao
mình đã nhớ quá nhiều. Sao mình không nghĩ đến một, hai, gì đó… Một chiếc thuyền
lướt đi nhẹ nhàng rồi bỗng chốc chìm xuống khỏi mặt nước không để lại một dấu vết
nào, dòng nước vẫn lặng lờ chảy. Một hòn đá từ đâu rơi xuống. Tiếng vỗ tay vang
lên. Tôi trở mình nằm sấp xuống nền cỏ, mùi đất nhẹ nhàng và mùi cỏ tươi, tôi
nhai trong miệng một ngọn cỏ tươi vị đắng nhẹ, hơi đất ẩm vây quanh, trong giây
phút đầu tôi rỗng không. Khi trở mình nằm ngửa trở lại, tiếng động vang lên từ
những lối đi. Cuộc vui đã dứt. Đèn tắt. Tiếng sỏi động chung quanh, tiếng xe nổ
máy, tiếng khóa ngoài cửa sắt. Tôi mở mắt và tôi nhìn thấy một đôi mắt trìu mến
nhìn tôi, đôi mắt dại và yếu đuồi trên nền trời mỏng đều…
(1965)
Ngày đốn cây vú sữa
Bên kia bờ sông của quận lỵ là một xóm nhỏ, những căn nhà thưa
rải rác trên những khoảng đất trống không đều, có khoảng đất được canh tác, có
khoảng bỏ cỏ hoang, những cây ăn trái và ít gốc dừa nước rải rác theo với mép
sông nước ròng, có mấy con kênh nhỏ đưa nước vào sâu trong xóm. Trong khu xóm
có một ngôi nhà ngói cũ, ba gian, một sân gạch nay đã hư nát, ngôi nhà ở phía
ngoài đường liên tỉnh để tới đầu cầu đưa vào thị trấn. Trong khoảng vườn rộng của
ngôi nhà có trồng một cây hoàng lan lớn. Ngôi nhà có một khoảng mái bị đạn nay
được vá lại bằng một tấm tôn sáng bóng. Cách với ngôi nhà không xa, bám vào con
đường liên tỉnh có một ngôi trường học nay bỏ hoang với mái ngói sụp đổ và là
nơi những toán quân ngang qua vẫn coi chừng bằng cách nổ những loạt đạn bâng
quơ vào trong tường gạch đã cũ vì mưa nắng và um tùm những cỏ dại. Một người
đàn ông đứng tuổi đạp chiếc xe đạp cũ vào thẳng trong sân ngôi nhà, trời đã chiều,
toán dân vệ từ đồn nơi đầu cầu đi hàng một dọc theo con đường khởi đầu chuyến
kích đêm ngoài vòng đai bảo vệ huyện lỵ. Người đàn ông chậm chạp ngừng xe lại
trước cửa nhà, nhẹ nhàng bước xuống rồi nhấc chiếc xe lên hiên, đẩy cửa bằng
bánh xe trước vào trong căn nhà đầy bóng tối. Tiếng người đàn bà :
- Ai đó ?
- Không có, tôi đây, sao bà không đốt đèn lên một chút…
Tiếng bước chân nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Người đàn ông
lúi húi mở dây chiếc bao đèo phía sau chiếc xe. Người đàn bà già yếu, da xanh đứng
tựa nơi cửa vào nhà trong :
- Thằng hai nó gửi cho bà ký bôm, thằng nhỏ mới sinh thật ngộ,
nó đen, khỏe như cha nó vậy, đôi mắt tròn quay dễ thương hết sức, thằng hai nói
sẽ đón bà lên ở với bọn nó, nó la tôi quá trời đất, bọn nó đâu có hiểu gì…
Người đàn bà lặng lẽ đón lấy những trái bôm tím ngon lành,
hơi thở mệt nhọc, người đàn ông bật hộp quẹt châm lửa vào ngọn đèn huê kỳ nhỏ để
trên bàn thờ, ánh sáng vàng úa lan ra căn nhà trống :
- Bà ăn gì chưa.
- Ông ăn cơm với bọn nó rồi hả.
- Ừa, ăn cơm sớm, thằng hai còn bận vào trại, tội nghiệp con
vợ, người làm không có, trông vào con gái lớn một chút, cái hôm nó sinh may nhờ
có người hàng xóm người ta giúp cho không thì đẻ ra nhà , rồi ngày ngày thằng
hai phải về mà bới cơm cho vợ, bọn nhỏ thì không có ai coi hết, mình mà ở trên
đó được thì đỡ cho bọn nhỏ, thật cực hết sức…
- Tội nghiệp…
Người đàn bà nói buông thõng, người đàn ông cầm chiếc mũ vải
đập đập trên tay rồi móc lên chiếc đinh đóng nơi tường mé gần chiếc bàn lớn dài
bằng gỗ đã cũ. Người đàn bà đi ra ngồi xuống ghế :
- Ông có nói chuyện hồi hôm cho hai thằng nó biết không ?
- Có…
- Nó nói sao ?
- Nó nói mình lên trên đó ở với bọn nó.
- Thế còn nhà cửa, còn thằng tư…
- Thì tôi cũng nói vậy, nhưng nó nói nhà cửa mà làm gì, còn
người còn của, chuyện thằng tư thì… coi như nó chết rồi.
- Chết rồi, nó rủa em nó như vậy được sao, đằng nào thì cũng
là em nó, tôi thương nó…
Giọng nói chùng thấp nhợt nhạt, tiếng thở dài của người đàn
ông. Thấp thoáng ngoài cửa bóng ngọn dừa lay động mơ hồ.
- Thằng hai nói, chuyện ở trong quận người ta hỏi mình, làm rộn
mình một chút là chuyện không thể tránh được, mình ở ngay chẳng hơi đâu mà sợ,
nhưng tôi nói, tôi lo cho thằng tư, hồi này đã lâu rồi không thấy nó về, chắc
là khó khăn, bà thấy đó, tối đến lính họ nằm ngoài đường lộ, tối không còn nghe
thấy chó sủa, không biết hồi này nó thế nào, tôi lo nó chết bờ chết bụi mất
xác…
- Thời buổi loạn lạc…
Người đàn bà đi vào nhà trong, người đàn ông ngồi im một lúc
rồi lấy ra hộp thuốc vấn hút, ngụm khói đục trắng lờ lững không muốn tan. Nghe
từ xa, ngoài sân có tiếng gà gọi nhau lên chuồng. Đêm đang xuống…
Người đàn bà lấy chiếc tô lớn múc cháo từ trong chiếc soong
nhôm ra, màu gạo đỏ lờ, ngọn đèn nhỏ leo lét trên mặt chiếc bàn cũ đã đen lại,
gian nhà rộng mênh mông mịt mù trong ánh sáng nhờ nhờ đau yếu… Người đàn ông
cài cửa nhà ngoài trở vào nằm trên bộ ngựa lớn nơi góc phòng. Tiếng nhai của
người đàn bà chậm chạp rời rã.
- Thế bà có tính lên trên đó với thằng hai không ?
Không khí im lặng kéo dài, tiếng con muỗi bay quấn vào gần
vành tai khó chịu. Người đàn bà ngừng lại, nhìn vào ngọn đèn. Chiếc bóng thủy
tinh có những bọt không đều nhau, phía trên khói đã bám đen thành một vòng đều.
Người đàn ông bắt tay phải lên trán che hết ánh sáng trên đôi mắt vẫn còn mở lớn
không động đậy :
- Tùy bà, tôi sao cũng được, thật lòng tôi cũng không còn ruột
gan nào mà nghĩ, bà tính coi…
Người đàn bà theo dõi mấy con muỗi cỏ đang bay quanh ngọn
đèn, có lúc chúng đạp vào bóng đèn nóng loạng quạng một lúc rồi lại tiếp tục
bay vòng quanh…
Người đàn ông kéo chiếc ghế dài lùi xa chiếc bàn một chút, rồi
ngồi xuống, người thanh niên mặc quần màu lục sẫm cắm cúi đọc tờ giấy bỏ trên
bàn lúc lâu mới ngẩng lên người đàn ông trước mặt, tóc cắt cao không chải, có
những ngọn tóc dựng đứng, hai bên tóc mai những sợi bạc, nước da xám, những vết
nhăn, đôi mắt kèm nhèm, chiếc áo bà ba đen đã cũ, chiếc khăn ca rô vắt trên vai
nhàu nhượi, hai bàn tay khẳng khiu bỏ trên mặt bàn và cái nhìn lơ đãng :
- Bác còn cậu con đi theo Giải phóng phải không ?
- Dạ, nó là thằng tư, thằng con trai út của tôi.
- Anh ấy đi hồi nào vậy ?
- Có hơn hai năm, hồi quận chưa có.
- Lâu nay có về nhà không ?
- Dạ không.
- Bác cứ nói thật đi, không sao đâu, tôi muốn bác nói anh ấy
nên về chiêu hồi đi, về làm ăn không sao cả…
- Dạ, lúc trước nó về tôi có nói, nhưng không được, vô chồng
tôi coi nó cũng như chết rồi…
- Sao bà con lối xóm nói mới đây anh ấy có về thu thuế mà,
tôi hỏi thật bác, nếu anh ấy có trốn trong nhà thì bác không nên giấu chúng
tôi…
- Chết, đâu có, lúc trước cũng có đôi lần nó về, về ban đêm
chốc lát rồi đi, khổ lắm ,về thì chỉ thấy xin tiền bạc mà vợ chồng tôi thì có
gì nữa, ruộng vườn bỏ cả, vợ chồng tôi cũng tính lên hẳn trên quận ở với thằng
hai trên đó, nó làm việc trên quận, chắc ông biết…
- Dạ, chúng tôi có biết bác có người con cả làm việc ở trên.
- Hồi trước nó xuýt chết vậy đó ông, trước đây nó về thăm
tôi, vừa ra khỏi nhà thì mấy ông du kích ập vào bắt nói nó làm mật thám cho đế
quốc, mấy ông ấy cũng bắt chúng tôi phải kêu nó về với nhân dân, với giải
phóng… vợ chồng tôi thì già, sinh con ra lớn lên bọn nó làm gì thì làm chúng
tôi nào có biết, ông nghĩ coi, rồi sau đó tôi được biết giải phóng kết án tử
hình nó, từ đó tôi đâu có dám cho nó về, ông tính… (đó là những khuôn mặt dữ dằn,
tiếng nói quen thuộc, quần áo nhem nhuốc, bất chợt có mặt và mất đi thật nhanh
trong đêm tối thanh vắng, kẻ bị bắt được nói cho đi học tập, hoặc được mang ra
ngoài vườn sau và một mũi dao nhọn thích vào bụng hoặc một tràn đạn nổ vào ngực,
con ông Năm trong xóm được mời đi học tập, hai hôm sau thấy xác nổi trôi tấp
vào bờ sông hai tay bị trói giật sau lưng…)
- Bác nên khuyên anh ấy về, không thì e khó sống được nếu còn
quanh quất ở đây, bác biết tên xã ủy không, hắn bị hạ rồi, hôm đó bọn tôi nhanh
thì con bác cũng bị hạ, may thoát. Bác biết chúng tôi về đây để giữ cho làng ấp
được yên, bác coi hồi này đâu có bị phá rối, thu thuế, thu thóc như trước.
- Dạ, cũng nhờ mấy ông…
- Mong bác ráng khuyên anh ấy, nếu không được khi nào anh ấy
về bác mật báo cho chúng tôi.
- Dạ, nhưng tôi chắc nó cũng chết rồi.
- Không đâu anh ấy còn sống, người ta còn nhận được mặt anh ấy
mà, bác không nên che chở đứa con hư ấy nữa. Và bác cũng đừng tiếp tế cho họ, nếu
không bác cũng liên lụy, chúng tôi biết bác là người làm ăn lương thiện, chúng
tôi cũng biết con lớn của bác mà.
- Dạ, cám ơn mấy ông hiểu dùm cho vợ chồng tôi.
Người thanh niên mở xấp giấy lấy ra một bức hình đưa về phía
người đàn ông :
- Bác có nhận thấy mặt con trai bác không, đó, anh ta vác khẩu
súng nơi vai, người đứng giữa là tên xã ủy chúng tôi mới hạ được, còn tên này nữa,
nó là bí thư xã, nó đã bắn mấy người ở trong xã, chúng tôi đang tìm hắn, bác nhận
mặt rõ chưa, nếu gặp hắn thì bác báo ngay cho chúng tôi và đừng bao giờ chứa hắn,
hắn đã giết người.
- Dạ… (thằng tư mặc đồ bà ba đen, đầu trần, vai khoác khẩu
súng ngắn gọn, nó đang tươi cười bá lên vai tên bí thư, tên giết người, sao
hình này hồi nào mà trông nó khỏe và trẻ quá, sau này nó gầy đi nhiều mà có thấy
nó mang súng như vậy bao giờ đâu ).
Người đàn ông ra khỏi nhà hội đồng lúc mặt trời đã đứng bóng.
Nhấc chiếc xe đạp quay đầu ra ngoài rồi nhẹ nhàng leo lên và đạp ra con đường đất
để ra con đường liên tỉnh. Khi chiếc xe vào đến sân, ngừng lại dưới hiên để nhấc
chiếc xe vào nhà, người đàn ông nhận thấy hai chân hơi run và ù nơi hai mang
tai, những giọt mồ hôi chảy ròng ròng xuống cổ. Buổi trưa im vắng và nồng…
Người cha ngồi hút những hơi thuốc đầy, nhìn lơ đãng vào khoảng
không. Người con ăn, nhai vội vã, bàn chỉ còn một mình người con với chén bát
ngổn ngang của những người đã xong bữa.
- Thôi ba đừng nghĩ gì cả coi như không có thằng tư…Nào đâu mọi
người không nghĩ đến nó.
- Nhưng đằng nào thì nó cũng là em mày…
- Vậy bây giờ bảo con phải làm sao ? Thời buổi mà anh em phải
bịt mặt mà giết nhau. Hồi về nhà may mà con không bị bắt, nếu không thì ba
tính… bây giờ con muốn ba lên ở luôn trên này với bọn con, thế là xong, nhà cửa
thì nhờ bà con đưới vậy…
- Nhưng má con không muốn đi, bà ấy thương nó…
Người con bỏ chén bát đứng lên khỏi bàn ăn. Người cha vẫn ngồi
im nhìn lơ đãng trên mặt bàn. Người con đi xuống nhà mang lên hai ly nước trà,
một ly cầm nơi tay, một ly để trước mặt người cha. ( Khi đi làm trở về người
nhà đưa cho một lá thư, nét chữ quen của người em ruột : Mặt trận đã tuyên án xử
anh, mong anh hồi tâm trở về thì sẽ được khoan dung, nếu không thì em cũng
không thể cứu được anh. Cùng với phong thư có kèm theo trái lựu đạn đã thối ).
- Con nghĩ chắc thằng tư cũng không còn ở trong vùng nữa, bây
giờ đâu có dễ gì mà lọt được trở lại vùng bình định, ba má còn ở lại cũng không
giúp được gì cho nó đâu, mà ba má thì già rồi, mình lên trên này hồi nào yên hẳn
thì về, nhà cửa ruộng cườn còn đó chứ ai lấy đi được mà lo.
- Thôi được rồi, để ba thu xếp, nhưng con có cách nào gọi nó
về được không ?
- Cách nào, biết nó ở đâu mà tìm, mà gặp nói nó nó chịu về
không, thì ba má cũng đã nói với nó rồi. Nhà mình ba má được hai đứa, giá yên
bình thì con cũng ở nhà làm ăn chứ có sao, nào đâu phải con xung phong đi lính,
lệnh thì đi, cũng may là con chưa phải cầm súng mà đi kiếm nó, nó có số phần của
nó… Con chỉ lo nó quanh quẩn đâu đó
Người cha uống một ngụm nước, đứng lên dời khỏi bàn ăn, tới
ngả lưng xuống chiếc ghế vải ở bên cạnh tường. Người con vặn máy thu thanh, tiếng
hát vang lên đầy căn nhà rộng… Người con ngồi xuống chiếc ghế thấp cầm lấy tờ
báo đọc. Đứa trẻ sáu tuổi từ trong nhà chạy ra lăn vào lòng người con. Người
con bỏ tờ báo xuống :
- Thôi mà, làm nũng gì đây nữa, lại chơi với nội đi, thôi mai
theo nội về vườn mà ăn trái cây, mùa này có vú sữa rồi đó.
Đứa trẻ nằm im mở mắt nhìn nghiêng tới ông nội nó đang trầm
ngâm hút thuốc. Người con vuốt tay lên đầu đứa trẻ… Người đàn bà từ trong nhà
đi ra :
- Ba vào trong giường nghỉ trưa cho khỏe.
- Thôi ba nằm ngoài này cũng được, chút ba về rồi.
- Mai ba lên ?
- Ừa để xem đã, còn nhà cửa ở đưới…
- Hay để mai con xuống đón ba má luôn thể, mình kiếm một chuyến
xe lam, còn đồ đạc lếch thếch, má thì yếu…
- Con khỏi lo, con đi về rồi ai coi bọn nhỏ cho, ba khỏe mà
lo chi.
Người đàn bà bế đứa nhỏ dỗ nó đi ngủ, người đàn ông vuốt tay
lên má nựng nó giọng ngọt ngào. Đứa nhỏ bị nhột cười khích khích khi người đàn
bà bế nó vào trong nhà. Không khí căn nhà trở lại im vắng.
Buổi chiều người đàn ông đạp chiếc xe chậm chạp vượt qua cây
cầu chiếc xe không chạy thẳng, vòng xuống phía dưới, gần với bờ sông, chiếc xe
chạy chậm chạp, người đàn ông chú ý tới những băng vải viết chữ căng ngang, những
tờ truyền đơn rải bay trên đường đi, và những bích chương màu dán nơi thân cây
bờ tường gần nơi hội đồng xã, nơi đó có một vài người qua lại. Người đàn ông
ghé lại nhà một người quen, khoảng sân đất rộng, ngôi nhà tôn thấp. Một người
đàn bà từ trong nhà đi ra :
- Chú lại chơi.
- Anh có nhà không thím.
- Nhà tôi xuống dưới xóm, người ta tìm thấy xác vợ ông hội đồng
hồi trưa, thật tội nghiệp…
- Ở đâu vậy ?
- Ở ấp bên, nhà của ông gì đó, trong vườn, dưới một cái hố,
trời ơi, nhà tôi nói trông mà phát khiếp vậy đó chú, họ cho ngồi xuống rồi đập
đầu cho vỡ và đậy lên trên mấy miếng gạch xi măng, sao chết đã lâu mà chưa gì hết,
còn chân thì xơ ra và quần thì bị rách lên tận thắt lưng, thật là tội…
- Sao mà tìm được vậy ?
- Nghe đâu có người hồi chánh ở đâu đó nghe chuyện biết được
nên chỉ cho quận, quận liền theo đó mà tìm. ( Trong đêm tối môt tốp người vào
nhà gọi cửa bắt đi, bà ta không chịu đi, họ lôi đi, hai người mỗi người giữ một
tay kéo đi, mặc tiếng kêu khóc vang lên cả ấp không ai dám mở cửa ra ngoài, rồi
mất tích…)
- May mà còn tìm được xác, ông bà ấy từ xưa đến nay ăn ở cũng
đường hoàng có gì đâu, chẳng biết có thù oán gì với ai không ? Ông bà ấy chỉ có
một người con đâu ở trên Sài-gòn.
Người đàn ông như nhớ ra mình vẫn còn đứng dưới sân với chiếc
xe đạp, ông từ từ đẩy chiếc xe vào gần nhà dựa vào tường rồi bước lên hiên :
- Tôi tính sang nhờ anh chị coi giúp cho cái nhà, tôi đưa bà ấy
lên trên với thằng hai,
- Bao giờ chú đi.
- Thủng thẳng ít bữa, đồ đạc thì cũng không có gì, nhưng cái
nhà thì ráng giữ cho nay mai yên ổn thì về có chỗ mà ở, thằng hai nó nói quá chứ
tôi không muốn đi.
- Dạ.
Người đàn ông đứng yên ngó nhìn những ngọn dừa xanh vượt lên
trên bầu trời cao, buổi chiều êm ả không có gió. Một chiếc máy bay xuất hiện ở
trên cao. Lúc sau người đàn ông xuống hiên đi vòng quanh khoảng sân ngó lên những
ngọn cây ăn trái, những luống rau trồng ngoài vườn, khi trời đã sẫm người đàn
ông đạp xe trở ra những con lộ về nơi ngôi nhà mái ngói. Bóng tối xuống chậm…
Khu vực ngoài thị trấn lúc trước có một thời rất đông dân cư,
đời sống khá sung túc, vườn tược sau thời gian chiến tranh canh tác trở lại, những
ruộng bỏ hoang bắt đầu những vụ lúa mới, nhưng thời gian ấy kéo dài không lâu,
chiến tranh trở lại, có lúc khu vực như hoàn toàn kiểm soát của thế lục mới,
dân chúng không chịu được chiến tranh kéo sát bên mình một cách thường trực nên
bỏ đi làm ăn xa tùy theo phương tiện và hoàn cảnh cho phép, tuy nhiên có một số
người chỉ biết ruộng vườn thì buộc phải giữ lấy cuộc sống vẫn có, có người đã dời
gia đình ra nơi căn nhà làm bằng đất ngoài đồng trống để tránh tai họa. Chậm
rãi theo thời gian, số người sống mỗi lúc một hao mòn, số người đi xa cũng nhiều
thêm, những trẻ nhỏ tha thẩn ngoài ruộng bùn với những bàn tay chai cứng, trong
căn nhà tối chật hẹp chỉ còn những người già cả… Thôn xóm mang theo khuôn mặt
buồn hiu. Có lúc người ta dửng dưng không còn xúc động với những cái chết. Những
cuộc hành quân mở ra với từng đoàn xe nối nhau trên con đường liên tỉnh thỉnh
thoảng xáo trộn đời sống bình thường của dân chúng, những trẻ nhỏ đứng ra dọc
bên đường với những người lính lạ… Dần dần an ninh được vãn hồi, dân chúng lại
làm ăn, một đôi người ở xa trở lại thăm nhà cũ, và đã có một hai chuyến xe lam
chạy nối khu vực với quận ly ở trong, và những phiên chợ bắt đầu đông hơn xưa…
Nhưng ban đêm tới vẫn là những lời đe dọa không chừng, có những tiếng súng đánh
thức người dân đang ngủ với nỗi lo âu bứt rứt thường trực…
Buổi sáng bắt đầu với vẻ nhạt nhòa, người chồng ra sân đứng
nhìn toán nghĩa quân đi lích trở về chậm chạp ngái ngủ mang theo ba lô, ít bó
rau, ít trái cây, họ đi dọc theo mép con lộ về phía cây cầu, bóng chiếc trực
thăng, đang bay vòng quanh ở phía nam, tiếng động nghe xa rời. Chiếc xe bò chở
lá dừa chậm chạp lăn bánh với tiếng kêu khô khan và ngắn. Một người đàn bà gánh
rau đang đi xuống phía nhà hội đồng. Nắng sáng trong nhảy nhót trên những cành
lá xanh. Người chồng thở dài ngồi xuống nhìn cây vú sữa trụi lá giơ những cành
khô lên trên trời… Mấy tháng trước hai vợ chồng già chợt ngỡ ngàng nhìn nhau
khi thấy những cành lá trên hầy hết những cây ăn trái trong vườn bỗng vàng và đổ
xuống không đúng mùa. Người ta nói bị ảnh hưởng bởi thuốc khai quang từ vùng
trong theo gió trở ra. Sau đó, mùa mưa trở lại, cây cối phần lớn hồi phục với vẻ
èo oặt, chỉ có cây vú sữa là không ra lá cành khô đen , mỗi ngày người chồng ra
bấm vào vỏ cây thăm dò và sau chót thì người chồng lắc đầu nói với người vợ :
nó chết rồi…
Người chồng đi vào nhà mang ra cây dựa lớn và bắt đầu đốn cây
vú sữa, thân cây cũng không lấy gì làm lớn, người vợ từ trong nhà đi ra, ngồi
xuống hiên mát nhìn người chồng bổ từng nhát chốc chốc ngừng lại nghỉ :
- Ông còn đốn làm gì nữa, khô rồi , mặc nó, sức đâu…
- Trông cái cây khô tôi khó chịu, đốn nó đi cho những cây
chung quanh nó lớn, thế là nhà mình không còn vây vú sữa nào nữa, tôi còn tiếc
cái cây năm trước bị bão…
- Để mình trồng mấy cây khác, thứ này không chịu được thuốc
khai quang, chỉ một chút cũng khó sống… Nhưng trồng rồi có được ăn trái không ?
- Mình không ăn thì con cháu nó hưởng, bà thì thật…
- Thế ông tính bao giờ mình lên với thằng hai…
- Bây giờ bà giục tôi, thì để vài bữa nữa, sao tôi cứ thấy bứt
rứt không yên…
Người đàn ông tiếp tục đốn cây vú sữa, mỗi lần chiếc dựa ăn
vào thân cây, cây vú sữa lại khô lại rung lên, một vài cành nhỏ mục rụng xuống
lần đất ẩm… Người đàn bà cầm chổi quét khoảng hiên nhỏ hẹp, bầy gà con quanh quẩn
dưới chân chạy theo sau người đàn bà vẻ quấn quýt. Nắng còn bỏ lại khoảng mát lớn
trên chiếc sân vuông vức. Liên tiếp những nhát dựa chặt vào thân cây, cho tới
khi đã mệt người đàn ông nhận thấy chỉ mới được nửa thân cây. Ông ta dùng hai
tay cố sức rung nhưng thấy vẫn còn chắc, ông ta bỏ vào lấy nước uống và ngồi
nơi hiên vấn thuốc hút. Người vợ đứng ngoài sân :
- Ông viết thư cho thằng tư ra sao ?
- Tôi gửi cho nó ít tiền, nói nó về, tôi cũng gửi cho nó giấy
thông hành nữa.tôi đã hỏi kỹ người ta rồi, có một thằng bạn nó cũng mới bỏ
ngoài ấy về trình diện đây…
- Chết, rồi nếu người đưa thư ấy không kín…
- Người tôi gửi tín cẩn lắm, bà khỏi lo, nhưng thật tôi không
hy vọng, nó là thằng cứng đầu…
- Tôi lo cho nó…
Người đàn bà quay mặt đi, không khí đã rời rã, người đàn ông
nghỉ ngơi một lúc rồi ra đốn tiếp cây vú sữa, lúc cây khô ngã xuống thì bóng
mát trên sân cũng đã thu hẹp lại. Một người đàn bà từ ngoài hớt hải đi vào gặp
ông :
- Bác ơi, bác đi theo cháu coi…
Người đàn ông ngó lên, nhăn mày :
- Gì vậy cháu ?
- Bác đi theo cháu coi xem có phải thật không, người ta vớt
được một cái xác chết, có ngưới nói trông như anh tư nhà bác…
Người đàn ông đứng bật dậy, người đàn bà từ trong nhà đi ra.
Người đàn bà đứng dưới sân nói :
- Có lẽ người ta nhìn lầm…
- Thằng tư…
Người đàn ông vội vã đi xuống sân ra phía cổng, người đàn bà
đi theo, người đàn ông quay trở vào lấy chiếc xe đạp ra hiên, nhưng lại dựa chiếc
xe vào tường rồi vội vã đi :
- Bà ở nhà, tôi ra coi, thằng tư…
Người đàn bà ngồi xuống hiên nhà ôm mặt khóc. Người đàn ông vừa
đi vừa chạy. người đàn bà theo sau tức tưởi. Đám đông tụ lại nơi bờ sông, gần
nơi nhà hội đồng, toán nghĩa quân lố nhố ở bên, người đàn ông rẽ đám đông vào
trong, một xác chết ướt sũng nằm trên bờ cỏ, tờ giấy báo phủ lên mặt, bộ quần
áo đen ướt nhép, bàn chân cứng chỉ lên trời đã chương. Người đàn ông cầm tờ báo
bỏ ra, đầu tóc bù xù, miệng há lớn phơi ra hàm răng trắng hếu, dấu đạn khoan thủng
một miếng nơi bả vai bên trái gần với cổ, người đàn ông đây vội tờ báo lại. Người
đàn bà đứng sau, đám người im lặng , người đàn bà nói nhỏ :
- Phải anh tư không ?
- Thằng tư nhà tôi…
- Trời ơi tội nghiệp…
Người đàn ông không nói, mặt bình thản chậm chạp quay ra đi
trở lại con đường về nhà.
(1970)
Truy tìm kẻ mất tích
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét