Việt sử giai thoại
Nguyễn Quang Thắng sưu tầm và giới thiệu
Tựa
Người ta gọi "giai thoại" là việc tốt, chuyện hay
thường truyền tụng ở dân gian. Sách làm ngày xưa cũng có một quyển đề là
"Tùy Đường giai thoại", chép những chuyện hay trong đời Tùy Đường.
Theo nghĩa chữ Pháp thì "giai thoại" (anecdote) là chuyện vặt, chuyện
dật sử, có cái không đáng tin.
Nhưng quyển này thì đáng tin, tác giả thuật theo chuyện cổ nước
nhà, độc giả không tốn công mà thích đọc, lại biết được nhiều chuyện hay. Đoạn
thì dẫn sách ta, đoạn thì dẫn sách Tàu, sách Tây, đủ cả, y như một bài khảo cứu.
Lời văn lại lưu loát, câu văn có thú vị, không đến nỗi khô khan như văn khảo cứu.
Xưa nay tôi vẫn ước ao rằng, những nhà lưu tâm đến sử học, mà
có tài văn chương nên đến những chuyện hay trong sử nước ta, viết thành sách
như quyển giai thoại này. Ở bên Pháp, nhờ có loại sách như thế mà có người nhân
đấy xem rộng, rồi cũng làm sách, nổi tiếng sử học, hỏi ra cũng vì lúc đầu xem một
quyển giai thoại, rồi sinh ra ham sử học.
Biết đâu quyển giai thoại này lại chẳng thế, rồi cũng có người
xem đến, nhân đó cũng thành ra một nhà sử học văn chương.
Ngay trang đầu tập này thấy chép chuyện Huyền Trân công chúa,
tác giả đề vào mục "mở mang cõi đất miền Nam buổi đầu": lời văn giản
dị, khác hẳn với lối văn chép sử, là lối văn đã nhạt nhẽo, lại rườm rà, phải
chú thích xuất xứ nhiều chỗ.
Tôi theo ba quyển sử chữ nho, thuật sau đây để độc giả so
sánh thì biết rằng tác giả đã tốn công phu mới viết được như thế.
"Tháng 3 năm Tân Sửu (1301), hiệu Hưng Long thứ 9, đời
vua Trần Anh Tôn. Khi ấy đức thượng hoàng (là Trần Nhân Tôn) đã truyền ngôi cho
con, ra tu ở núi Yên Tử, thường muốn lịch lãm khắp sông núi trong thiên hạ nên
mới du phương, rồi sang Chiêm Thành (Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
quyển 8, tờ 38b).
Trong khi ở Chiêm, hẹn gả Công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân
(Jaya Simhavarman III). Chế Mân mới sai bầy tôi là Chế Bồ Đài (Khâm định Việt sử,
quyển 8, tờ 43b) và bộ đảng hơn một trăm người (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển
sau, tờ 20a) dâng biểu tiến vàng bạc, hương quý vật lạ làm lễ cầu hôn. Triều thần
nước ta đều nói là không nên, duy một mình Văn túc Vương là Đạo Tái chủ trương
việc gả ấy. Trần Khắc Chung thì tán thành.
Đến tháng Sáu năm Bính Ngọ (1306), hiệu Hưng Long thứ 14, vua
Chiêm Thành là Chế Mân dâng châu Ô và châu Lý làm sính lễ. Vua Anh Tôn bèn quyết
định gả em gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Lúc bấy giờ văn nhân trong
nước phần nhiều mượn chuyện Chiêu Quân cống Hồ đặt làm thơ nôm để chế giễu.
Khi Chế Mân đã dâng hai châu cho nước ta, thì có những dân ở
thôn La Thủy, Tác Hồng và Đã Bồng không phục, cho nên đến tháng giêng năm Đinh
Mùi (1307) vua Anh Tôn đổi tên hai châu là Thuận và Hóa, sai quan hành khiển là
Đoàn Nhữ Hài đến hiểu dụ ân đức, chọn người giỏi trong mấy thôn ấy cho làm
quan, cấp cho ruộng đất cày cấy, tha thuế ba năm (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ
43, 44b).
Đến mùa hạ tháng 5 năm ấy (1307) vua Chiêm Thành là Chế Mân mất
(Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 6, tờ 242b).
Tháng Chín năm ấy, thái tử Chiêm Thành là Chế Đa Da
(Harijitâtmaja) sai bầy tôi là Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và cáo về việc
tang (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ 45b).
Tục nước Chiêm, vua mất thì chúa hậu (Việt Nam phong sử chép
là cung phi) phải vào hỏa đàn để tuẫn táng. Vua Trần Anh Tôn biết thế, sợ công
chúa bị hại, mới sai quan nhập nội hành khiển Thượng thư tả bộc sạ là Trần Khắc
Chung và an phủ sứ là Đặng Văn sang Chiêm Thành nói thác là điếu tang (Đại Việt
sử ký toàn thư, quyển 6, tờ 22b).
Vua lại dặn bày mưu kế để đem công chúa về. Trần Khắc Chung
sang đến nơi, nói với thế tử Chiêm Thành rằng: ‘Bản triều (tức Trần triều) sở
dĩ kết hiếu với Vương quốc (tức Chiêm Thành) vì vua trước là Hoàn vương, người ở
Tượng Lâm, thành Điển Xung, là đất Việt Thường: hai bên cõi đất liền nhau thì
nên yên phận, để cùng hưởng hạnh phúc thái bình, cho nên gả Công chúa cho Quốc
vương. Gả như thế là vì thương dân, chứ không phải mượn má phấn để giữ trường
thành đâu. Nay hai nước đã kết hiếu thì nên tập lấy phong tục tốt. Quốc vương
đây mất, nếu đem Công chúa tuẫn táng ngay, thì việc tu trai không người chủ
trương. Chi bằng theo lễ tục bản quốc (nước Nam) trước hẵng ra bãi bể chiêu hồn
ở bên giời, đón linh hồn cùng về, rồi mới vào hỏa đàn’.
Lúc bấy giờ các cung nữ của Huyền Trân biết rằng Công chúa sẽ
bị hỏa táng, nhưng không biết làm thế nào, nhân thấy sứ nhà Trần là Khắc Chung
tới, mới hát một câu rằng:
‘Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai đem công chúa lên thang mà ngồi’.
Thang tức là hỏa đàn, có ý nói cho sứ ta biết (Việt Nam phong
sử, tờ 42a, 42b).
Người Chiêm Thành nghe theo như lời Trần Khắc Chung... Khi
thuyền công chúa ra đến giữa bể, Trần Khắc Chung đem một chiếc thuyền nhẹ cướp
công chúa đem về, rồi cùng công chúa tư thông, quanh quất trên bể đi hơn một
năm mới về đến kinh sư. Hưng Nhượng vương là Quốc Tảng rất ghét về chuyện ấy, hễ
trông thấy Khắc Chung thì mắng rằng: ‘Họ tên người này không tốt, có lẽ nhà Trần
mất vì người này chăng!’ cho nên Khắc Chung, hễ trông thấy Quốc Tảng đâu thì
tránh mặt (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ 45b).
Vì Huyền Trân công chúa trước gả cho Chế Mân là việc bất đắc
dĩ, nay lại bị Khắc Chung tư thông nên dân bấy giờ có câu ca dao rằng:
‘Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm’.
Gạo trắng ví vào công chúa, nước đục ví Chế Mân, lửa rơm ví
Khắc Chung (Việt Nam phong sử, tờ 43a)".
Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố
Việc chúa Nguyễn mở mang miền Nam buổi đầu. Hai quan đại tướng
Việt Nam bị cách chức vì nàng Chiêm Rao Luật - một thiếu nữ Chân Lạp có tài ngoại
giao rất cám dỗ.
Không khác gì phụ nữ Tây phương, tài hoa và nhan sắc của gái
Việt Nam ngày xưa đã từng có lúc làm vẻ vang hoặc ích lợi cho nước nhà về mặt
ngoại giao.
Có một vài chuyện lý thú đáng kể.
Trước hết là người con gái ở đời Trần đã đổi mình lấy đất về
cho nước nhà, ai nhớ lịch sử cũng đoán ngay ra công chúa Huyền Trân.
Một nhà thơ vịnh sử, đã tả thân thế nàng bằng hai câu này,
người ta cho là có giọng khinh bạc:
Hai châu Ô, Rí vuông nghìn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi.
Kỳ thật, gái Huyền Trân có thân giá to, chẳng gì cũng to bằng
cả khu vực hai châu mà vua Chiêm Thành đã dâng làm lễ cưới. Nên biết gang tấc
má hồng của nàng đủ "dán" thêm vào bản đồ nước Nam đất vuông ngàn dặm;
ví phỏng đương thời muốn lấy võ lực kinh doanh dù có thiên binh vạn mã, chưa được
dễ dàng như thế.
Sử chép năm 1301, vua Nhân Tôn nhà Trần truyền ngôi cho con
(Anh Tôn) rồi bỏ đi tu, nghe tiếng nước Chiêm Thành láng giềng có nhiều danh
sơn cổ tự, cho nên không ngại đường sá nguy hiểm, lần mò qua xem.
Chế Mân, vua Chiêm Thành nhân biết người du khách mang áo cà
sa ấy là Thượng hoàng nước Nam, bèn lấy lễ địa chủ và tinh bang giao, tiếp đãi
chắc hẳn trọng hậu. Không hiểu lúc bấy giờ Thượng hoàng vân du là có chủ ý tìm
chồng cho con, mở đất cho nước hay chăng, nhưng cảm cái tình Chế Mân ân cần hậu
đãi, ngài hứa gả Huyền Trân công chúa cho.
Song từ lời hứa đến khi được vợ, vua Chiêm Thành phải đợi 5
năm và mất 2 châu.
Ban đầu, Chế Mân sai đem vàng bạc thổ sản sang cống và xin cưới
nhân thể, nhiều triều thần ta can ngăn nhà vua, vì thấy cuộc nhân duyên ấy
không có lợi ích gì cả. Có lẽ ngay công chúa cũng không ưng. Đời đó, một công
chúa nước Nam phải về nhà chồng là nước Chiêm Thành xa xôi và khác phong tục,
tình cảnh cũng đau thương như Chiêu Quân, Thái Diệm đời Hán bị gả cho vua chúa
Ô Tôn Thiềm Vu vậy.
Muốn cưới công chúa Huyền Trân cho kỳ được, ý chừng nàng có
nhan sắc, sau Chế Mân đem địa đồ hai châu Ô, Rí sang làm sính lễ, lúc ấy triều
đình ta mới thuận:
- Ừ, lễ đón dâu có thế mới coi được chứ!
Công chúa trả lời Thượng hoàng:
- Nếu có lợi ích cho quốc gia như thế, con cũng chẳng tiếc gì
thân.
Năm 1306 vua Trần sai Đoàn Nhữ Hài đưa Công chúa vu quy Chiêm
Thành, nhân tiện nhận đất hai châu, đổi tên là Thuận và Hóa, đặt quan cai trị.
Có thể nói công chúa Huyền Trân, chẳng những là người đàn bà
số một quan hệ về lịch sử ngoại giao của ta, lại cũng là người mở ra chặng đường
thứ nhất cho dân tộc mình Nam tiến vậy.
° ° °
Đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn trấn thủ Đàng Trong, họ Trịnh
xưng hùng xứ Bắc, hai bên cừu thù và dự bị đánh nhau, cùng tìm cách thân thiện
với bọn ngoại thương lui tới xứ mình, nhất là người Hòa Lan, người Bồ Đào Nha,
rồi đến các lái buôn Tàu và Nhật, để họ chuyên chở quân nhu khí giới ở ngoài về
cho.
Năm 1602, chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên; 1613 - 1635) gả quận
chúa cho một thương gia Nhật, tên là Hoàng Mộc Tôn Thái Lang (Araki
Sôtarô) vừa có thuyền đi về hải ngoại, vừa làm chủ một cửa hiệu buôn to ở
thành phố Hội An. Ngài lại ban quốc tính cho Hoàng Mộc và đặt tên là Nguyễn Đại
Lương.
Do bà quận chúa, Hoàng Mộc tận tâm với Sãi Vương, bất cứ ngài
cần dùng sắt, đồng, diêm tiêu, hay các món gì thuộc về quân dụng, chàng đều có
thể mua hộ ở Áo Môn, ở Quảng Đông và Trường Kỳ chở sang.
Ông Dumoutier, người Pháp, một nhà khảo cứu Đông phương cổ điển
có tiếng, thuật rằng quận chúa tên là Amô. Sau theo chồng về bên Nhật chơi được
ít lâu, vừa gặp nghiêm lệnh của Mạc phủ Đức Xuyên cấm dân Nhật đi thông thương
hải ngoại, thành ra hai vợ chồng không trở lại Hội An được nữa. Bà mất tại Trường
Kỳ năm 1645 và táng ở chùa Dainonji. Con cháu còn giữ kỷ niệm một cái gương soi
của bà đem từ nước Nam qua, bề ngang ba tấc rưỡi, bề cao ngót 4 tấc, chung
quanh chạm trổ và mạ vàng y như kiểu Tây, chắc là mua của người Hòa Lan, Bồ Đào
Nha đưa sang Hội An đời đó.
° ° °
Câu chuyện sắp kể dưới đây cũng về triều Lê.
Từ nhà Đinh lập ra lệ quen cống sứ và thụ phong nước Tàu trở
đi, triều vua nào cũng vậy, cách độ ít năm lại có sứ thần Trung Quốc nghênh
ngang qua nước ta một lần hoặc đem sắc phong cho vua mới, hoặc có việc tranh chấp
về đất cát biên thùy.
Chúng tôi viết "nghênh ngang" chính là sự thật.
Không phải Bắc sứ nào cũng phong nhã và biết giữ lễ độ như Trạm Nhược Thủy,
Phan Hy Tăng đời Minh (ông trên là bạn thiết của Vương Dương Minh, người xướng
lên học thuyết Trí Lương tri). Phần nhiều quan chức họ chẳng qua Bố chánh
án sát và tài học cũng không lỗi lạc gì, nhưng chỉ ỷ mình là bầy tôi thiên triều,
là quan sứ thượng quốc, một khi bước chân sang đây họ vênh váo hạch sách và xem
người nước mình bằng nửa con mắt.
Vì thế, ở triều Lê, mỗi dịp có Bắc sứ đến, nhà đương cuộc ta
thường phải sắp đặt khoe khoang nhân tài, cốt làm cho các vị thiên sứ phải để ý
mà nhụt bớt kiêu khí đi.
Sách "Lịch triều Hiến chương" của ông
Phan Huy Chú về đoạn "bang giao", chép rằng "đời vua Lê Hiển
Tôn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 (1761) có sứ nhà Thanh là Đức Thận và Cố Nhữ Tu
sang phong cho vua ta. Nhà vua muốn khoe nhân tài bản quốc thịnh đến thế nào,
phàm là phần việc đón đưa tiếp rước, đều chọn những người có tài học và giỏi ứng
đối dự vào. Ví dụ sai ông Ngô Thời Sĩ lấy danh nghĩa là cử nhân lại mừng sứ Tàu:
còn hai ông Nguyễn Phi Sảng và Nguyễn Trọng Hoàn làm đầu bọn phu chèo đò chở sứ
qua sông. Thời Sĩ học rộng, đối đáp lanh lẹ cứng cáp, bọn Đức Thận đem lòng
kính nể".
Trước đấy cũng đã có một chuyện làm lác mắt sứ Tàu, mà người
đóng vai trọng yếu chính là một cô thiếu nữ.
Theo sách "Tạp biên", năm Quý Mão đời Lê Dụ
Tôn (1723) có sứ Tàu sang, vua sai Nguyễn Quỳnh, một tay danh sĩ đương thời giả
làm chú lái đò trên sông Nhị Hà; Đoàn thị Điểm thì làm cô hàng nước để khoe tài
lạ của người nước mình cho sứ Tàu thấy.
Chủ ý sắp đặt ấy muốn phô trương văn vật nước ta với sứ thần
Trung Quốc thời đó, đến chú lái đò và cô hàng nước cũng văn hay học giỏi, huống
gì những bậc đỗ đạt có danh vị ở chốn triều đình.
Tất nhiên cô Điểm có biết ít nhiều tiếng Tàu, lúc chánh sứ phó
sứ dưới đò lên, cô nhí nhảnh chào mời "xếng xáng nhậm xà" sao
đó, cho nên một trong hai quan sứ mới thốt ra câu này có ý mỉa mai chua chát:
"An Nam nhất thốn địa, bất tri kỷ nhân canh"
Nghĩa là: "Một tấc đất An Nam mấy người cày không biết?".
Họ lấy tấc đất để ám chỉ vào cô hàng nước xinh xắn thế kia, chắc hẳn vô số người
có thể chọc ghẹo.
Cô trả đũa ngay, nếu không té ra mình bị nhục, mà mình nhục tức
là quốc thể bị nhục.
"Bắc triều lưỡng đại phu, giai do thử đồ xuất"
Nghĩa là: "Hai quan lớn triều Bắc, cũng chui ngõ ấy mà
ra".
Hai vị thiên sứ biết mình mắc hợm, không nói gì cả, nhưng từ
lúc ấy đem lòng kiêng sợ nhân vật nước Nam.
Sách "Nam thiên trân dị" lại để câu chuyện
vừa kể trên vào đời vua Lê Thuần Tôn (1732 - 1735).
Nếu chuyện quả có, thì câu cô Điểm đối đáp thật đáng kể là một
cuộc thắng lợi về từ lệnh ở trên trường ngoại giao nước nhà.
Song thiên đạo hiếu hoàn, việc đời vẫn thế, cái ngón mình thường
đem ra dùng cho được lợi mình ăn người, cũng có kẻ khác dùng nó để ăn lại mình.
Ấy là chuyện về cuối thế kỷ XVII, giữa lúc chúa Nguyễn đang
kinh doanh vùng Chân Lạp, mở cuộc Nam tiến, trong "Đại Nam thực lục" có
chép rõ ràng. Vả lại, nhiều ông già bà lão ở xứ có chùa Đế Thiên còn nhớ sự
tích, người con gái tài hoa của họ đến nay họ vẫn truyền làm giai thoại.
Nguyên hồi năm 1679, có bốn viên cựu tướng nhà Minh là Dương
Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình nổi lên ở Long Môn chống
lại Thanh triều bị thất bại, đem năm chục chiếc thuyền cùng mấy nghìn bộ hạ chạy
sang Quảng Nam, xin quy thuận làm dân nước ta. Lúc ấy chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần,
1648 - 1687) đang có chính sách trồng dâu mở ruộng ở xứ Chân Lạp, bèn cấp lương
thực cày bừa cho họ vào Đông Phố (tức Gia Định sau này) làm việc khai khẩn.
Bọn Dương Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Dã, Ban Lân (thuộc
Biên Hòa) và ở Mỹ Tho cày ruộng làm nhà, lập lên chợ búa phố phường, có người
Tây phương, người Mã Lai, người Nhật, người Tàu đến tụ họp buôn bán vui vẻ.
Hồi đó toàn cõi Nam Kỳ còn là đất bỏ hoang xứ Chân Lạp, nhưng
họ thần phục chúa Nguyễn mấy năm một lần nạp cống ta, cũng như ta phải nạp cống
Trung Quốc vậy. Chúa Nguyễn bênh vực họ mỗi khi trong nước có việc nội loạn hay
ngoại xâm, nhất là chống với Xiêm La thường hay tràn sang uy hiếp Chân Lạp.
Đánh đổi lại công ơn ấy, Chân Lạp vui lòng cho người nước ta đến trú ngụ khai
khẩn tự do, vì xứ này còn bỏ hoang vu nhiều lắm. Đất rộng đến nỗi, năm 1674,
chúa Nguyễn phong cho hai vua: Nặc Thu là dòng đích trưởng, phong làm vua nhất,
đóng đô ở Long Áo, Nặc Nộn làm vua nhì, đóng ở Sài Gòn cũng trông coi việc nước.
Ta nên biết qua tình hình về trước như thế, cho được hiểu rõ
việc xảy đến về sau.
Tháng 6 năm Mậu Thìn (1687) Hoàng Tiến làm phản, giết chủ tướng
Dương Ngạn Địch ở cửa bể Mỹ Tho, rồi tự xưng là Phấn dũng hổ uy tướng quân,
đem bộ hạ dời qua Nam Khê, đắp lũy giữ các chỗ hiểm yếu, lại đúc súng đại bác
và đóng chiến thuyền, tính cuộc xưng hùng độc lập. Tiến thả quân lính đi gian
dâm cướp bóc tứ tung, dân tình Chân Lạp rất khổ.
Vì thế, Nặc Thu (vua nhất) sinh oán, tưởng là chúa Nguyễn -
lúc này là chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) - ngầm xui Hoàng Tiến làm
vậy để lấy cớ đánh mình. Nặc Thu cùng bầy tôi là Ốc Nha Công Sa mưu tính bỏ lễ
xưng thần nạp cống và đắp ba đồn lũy Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang, đặt lưới sắt
khóa chặt cửa sông, làm cách cố thủ, chống nhau với cả Hoàng Tiến và chúa Nguyễn.
Nặc Nộn (vua nhì) nghe rõ mưu ấy, sợ không nói ra thì sau này
vạ lây đến mình, lật đật tới dinh Trấn Biên (đóng ở Biên Hòa), tố giác mọi sự với
phó tướng Mai Vạn Long và tình nguyện hợp binh với Nam triều cùng trừ kẻ nghịch.
Mai Vạn Long sai chạy ngựa lưu tinh, đem thư ra Huế cáo cấp.
Chúa Nghĩa giận lắm, lập tức họp triều thần bàn định việc dẹp
loạn. Quan Chưởng Dinh Tống Đức Minh can không nên:
- Tâu chúa công! Nặc Thu hèn mọn, không đáng làm nhọc hơi sức
một viên đại tướng của triều đình. Chức cai cơ Trấn Biên, Nguyễn Thắng Sơn, là
người khôn ngoan thao lược, từng quen thủy thổ vùng này, có thể sai làm Thống
binh, đem ngay quân đóng ở Trấn Biên đi dẹp giặc cũng được. Hoàng Tiến tự tiện
giết chết chủ tướng, đồn binh ở Nam Khê, lòng hắn giáo dở thế nào cũng khó dò
xét. Vậy xin chúa công hạ lệnh sai ngay Tiến làm tiên phong, để xem hắn quay ra
mặt nào cho biết. Nếu quả lòng hắn trù trừ thoái thác, thì quân ta ập tới đánh
ngay. Nặc Thu chận mặt trước, đại binh ta phía sau đánh tới, thế nào Tiến cũng
bị bắt sống. Khi đã trừ Tiến xong rồi, ta thừa thế đánh thốc vào sào huyệt địch,
ấy là kế vạn toàn vậy.
Chúa Nghĩa cho là phải, đã toan cắt đặt y theo kế ấy. Nhưng
có viên đội trưởng tên là Trương Thiêm Lộc, cháu của Mai Vạn Long, vốn người
tham lợi, biết xứ này sẵn bạc vàng châu báu, nếu ông cậu được cầm quân đánh giặc
và mình đi theo, chính là một dịp tha hồ vơ vét; bỏ dịp ấy qua mất, chẳng uổng
lắm sao? Thiêm Lộc bèn tức tốc vào chầu, kiếm chuyện tâu bày lợi hại, một hai
xin triều đình phong Vạn Long làm tướng và cho mình là Thiêm Lộc tòng quân giúp
sức, cam đoan chắc chắn thành công.
Chúa Nghĩa nói:
- Nhưng Vạn Long đã già rồi, ta không muốn lấy việc quân làm
phiền y nữa.
- Tâu chúa công: Ngày xưa Mã Viện ngoài 70 tuổi còn có thể mặc
áo giáp múa đao, nhảy ngựa ra trận; huống chi Vạn Long ngày nay tuổi chưa đến lục
tuần, chỉ mong quốc gia có việc dùng đến, để mà tận trung sức lực, nay triều
đình lại cất nhắc một viên tướng cạnh Vạn Long lên làm Thống binh mà bỏ Vạn Lượng
không dùng, chẳng hóa ra tủi phận cho người trung thần lão tướng ấy biết bao?
Chúa nghe bùi tai, liền sai thảo sắc phong Mai Vạn Long làm
Thống binh, Nguyễn Thắng Sơn, Nguyễn Tân Lễ làm tả hữu vệ trận, Văn Vị làm tham
mưu, đem binh đi dẹp loạn. Đồng thời giáng chỉ sai Hoàng Tiến làm tiên phong,
dưới quyền Mai Vạn Long tiết chế.
Qua tháng Giêng năm sau, đại quân của Vạn Long đến cửa bể Mỹ
Tho, đóng ở Sầm Khê, sai người đem cờ lệnh đi vời tiên phong Hoàng Tiến.
Nặc Thu - vua Nhất - nghe báo tin quân ta đã rầm rộ tiến vào
bờ cõi, lo sợ tái mặt, cùng mưu thần Ốc Nha Gia Trình bàn kế hoãn binh; trước hết
làm sao hoãn được đại binh Hoàng Tiến, vì Hoàng Tiến là tiên phong lại có tiếng
là danh tướng.
Vua tôi bàn nhau, lựa chọn một người mỹ nữ, sai đem lễ vật đi
thuyết họ Hoàng.
Nàng tên là Chiêm Rao Luật, tuổi trẻ, sắc đẹp, thạo cả tiếng
khách lẫn tiếng Nam và có khẩu tài, tự biết nhà vua giao phó việc này cho mình,
quan hệ đến cuộc an nguy nhà nước, thế nào mình cũng phải làm thành công mới được.
Ngay sau khi phụng mạng đi sứ, nàng chỉ đem vài tên gia nhân
đi theo để tải lễ vật, xuống thuyền thẳng đến Nam Khê vào giữa đại dinh Hoàng
Tiến.
Lúc thấy một người thiếu nữ bản xứ ung dung bước vào, Hoàng
nghiêm sắc mặt thét hỏi:
- Con bé kia đi đâu?
Chiêm Rao Luật tươi cười tự nhiên:
- Tướng quân trông thì biết, giữa lúc đụng binh mà có một người
con gái ngang nhiên đến đây với lễ vật thế này, thì chỉ có một việc đến làm
thuyết khách, chứ còn đi đâu!.. Vả lại tôi dám đường đột mạo hiểm, phần nhiều
chính là vì tướng quân, vậy mà chưa chi đã nạt nộ mày tao, con bé, con nhớn,
sao tướng quân khinh người quá thế?
Hoàng nghe chột dạ, liền đổi nét mặt hòa nhã, niềm nở mời ngồi.
Nhưng nàng từ tạ:
- Chẳng nói tướng quân cũng biết tình cảnh nước tôi đang nguy
ngập như lửa cháy bên mày, kẻ làm con dân phỏng còn nhàn hạ đâu mà ngồi ấm chỗ
cho đành? Tôi vâng mệnh quân vương đến dâng tướng quân mấy món quà mọn, trước
là để tỏ lòng kính mến, sau là phần riêng tôi muốn được hiểu rõ hai điều, mong
rằng tướng quân sẵn lòng chỉ bảo...
- Được!... Được!... Có điều chi cô cứ việc hỏi, đừng ngại gì
cả! - Hoàng nói.
- Tướng quân ở Trung Quốc sang có phải không nhỉ?- Chiêm Rao
Luật hỏi.
- Chính thế! - Hoàng nói.
- Xin hỏi tướng quân, bởi ai tướng quân được chỗ dung thân an
lạc vinh hiển ở đây bấy lâu?
- Nhờ ơn chúa Nguyễn chứ còn ai!
- Nhưng đất này là đất nào thưa tướng quân?
- Ồ! Đất nước của cô, rõ cô làm bộ thật thà khéo quá.
Hoàng nói và cười có vẻ mơn trớn. Chiêm Rao Luật cũng cười,
nhưng cái cười của nàng có phần chua chát:
- Không! Tôi ngỡ tướng quân quên lãng đi chăng, nên tôi muốn
hỏi gạn thế đấy. Này tướng quân ở đất nước chúng tôi có mười năm rồi, chứ không
phải mới. Cổ nhân dù là một bữa cơm cũng nhớ báo đáp ấy là điển tích phong hóa
rất hay bên Tàu, tướng quân không lạ. Hôm nay nghe tướng quân đã thụ mệnh đánh
nước tôi, tôi trộm nghĩ việc ấy đối với tướng quân thật là không nên.
Hoàng Tiến nghe mấy lời trách thiện của người thiếu nữ bản xứ,
bất giác động lòng, suy nghĩ thân mình ngày nào thất thời lưu lạc, may nhờ tiên
vương họ Nguyễn (trỏ vào Chúa Hiền) cho ở đất này, cái ơn bao dung cứu vớt ấy
mình quên sao phải. Chiêm Rao Luật trách ta đúng lắm, Hoàng Tiến lại nghĩ:
"Cho ta đến ở đây vẫn là chúa Nguyễn, nhưng bấy lâu ta với vợ con ta, bộ hạ
ta đều được áo ấm cơm no, phong lưu sung sướng, nhất nhất nhờ xứ này cung cấp,
nay ta đem binh đánh lại, té ra bất nghĩa. Mà vì xứ này chống lại mệnh vua thì
ta bất trung. Thật là tới lui đều khó, chi bằng cứ án binh bất động, đợi xem cuộc
thế xoay trở ra sao, bấy giờ sẽ liệu".
Hoàng nghĩ vậy rồi nói với Chiêm Rao Luật:
- Vạn Long vời ta, chẳng phải lòng thành đâu. Ý hắn muốn trừ
ta trước, rồi diệt Nặc Thu sau đấy thôi, khi nào ta bị hắn lừa gạt. Phiền cô về
nói lại với nhà vua không phải lo ngại.
Thế là Chiêm Rao Luật đã dùng ba tấc lưỡi ngăn trở được một đạo
binh đừng tiến.
Nhưng rồi Vạn Long sai người nói khéo, đánh lừa được Hoàng Tiến
đi thuyền đến chỗ tương hội. Lúc Hoàng vừa bước chân lên bờ, phục binh bốn mặt
đổ ra đánh, Hoàng chạy ra cửa bể Lôi Lạp trốn thoát. Vạn Long vào đồn lũy, bắt
vợ con Hoàng đem chém và chiêu tập dư đảng Long Môn, giao cho Trần Thượng Xuyên
quản lĩnh tiên phong.
Thừa thắng, Vạn Long tiến binh đánh Nặc Thu, đốt cháy cả những
cừ đóng ngang sông, lại hãm luôn các thành Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang.
Nặc Thu lùi về giữ thành Long Áo. Một viên bộ tướng ta là cai
đội Nguyễn Thắng Quyền khinh thường quân địch và tham lập công, bị Nặc Thu đánh
thua. May nhờ cai cơ Nguyễn Thắng Sơn dẫn binh đến cứu, công kích rát quá, Nặc
Thu phải rút vào trong thành, đóng chặt cửa lại cố thủ.
Vừa gặp mưa gió sấm sét nổi lên rầm rầm quân ta không tiến được,
Vạn Long muốn đóng trại ở bên bờ sông Cái. Nguyễn Thắng Sơn vào trướng can
ngăn:
- Bẩm quan Thống binh, xứ này nhiều rừng rậm, nước sông lại
chảy mạnh như thác đổ, ta dồn binh ở đây, nếu quân địch đóng bè từ thượng lưu
đánh xuống thì ta lấy gì mà chống? Sao bằng hãy rút về bản dinh, cho tướng sĩ
nghỉ ngơi dưỡng sức; quân địch thấy ta lui binh, chắc tự sinh ra trễ nải, không
lo phòng bị, bấy giờ ta thừa cơ đánh tới, chỉ một trận là diệt được Chân Lạp.
Vạn Long nghe theo liền hạ lệnh kéo quân trở về đại trại Sầm
Khê.
Nặc Thu thấy quân ta lui rồi, cùng các tướng bàn định, sai
người đem lễ vật đến kêu nài Vạn Long hoãn binh, đừng đánh thúc bách quá để xin
hàng. Vạn Long biết là mưu kế Nặc Thu muốn gỡ nước cờ bí một lúc thế thôi,
không phải thật bụng; chẳng qua cầu ta hoãn binh cho họ có ngày giờ sắp đặt
binh lực, rồi lại chống cự như cũ. Tức thời, Vạn Long bỏ tù sứ thần giặc và đuổi
kẻ tùy tùng đem lễ vật về, không nhận.
Nặc Thu sợ quá lại họp chư tướng hỏi bây giờ làm thế nào ngăn
được Nam quân đừng tiến. Một tướng dâng kế mỹ nhân:
- Việc này lại phải nhờ đến tài hoa Chiêm Rao Luật mới xong
- Phải đấy! Xin chúa công sai nàng đi!
Ai nấy đều tán thành mượn tay Chiêm Rao Luật gỡ hộ nước cờ
bí.
Nàng lại phụng mệnh đi.
Vạn Long biết tiếng người tài hoa, lợi hại, liền mắng phủ đầu:
- Nước mi không lo phận sự cống nạp hằng năm, lại xây thành đắp
lũy, đóng nhiều chiến thuyền, ý muốn sinh sự gì thế, định làm phản à?
Trước khi cho nàng vào yết kiến, Vạn Long dàn bày quân lính
khí giới, trông rất uy nghiêm, chắc nàng ngó thấy cũng đủ khiếp đảm. Nhưng nàng
cứ ung dung đi vào như không để ý đến những gươm giáo sáng quắc, giáp trụ đầy
sân; lại không vì nghe Vạn Long quát tháo mà thay đổi nhan sắc chút nào. Nàng
điềm tĩnh và nói rất cứng cỏi, lễ phép:
- Bẩm quan nguyên soái, một nước phải lo xây thành đắp lũy để
giữ mình là việc tự nhiên, nào có gì lạ. Từ năm ngoái đến giờ, nước chúng tôi mấy
lần đem cống phẩm đi nộp triều đình, đều bị Hoàng Tiến đón đường cướp mất; hắn
lại thả quân lính quấy nhiễu dân gian, ỷ mình là người được triều đình cho đến
kinh doanh đất này, chả ai dám động đến. Xin nguyên soái xét dùm sự thể như vậy,
thành ra chúng tôi càng phải lo dự bị khí giới, đồn lũy để mà thủ thân, chứ có
dám phản bội gì đâu!
Té ra, chẳng những nàng không chịu mình có lỗi lầm gì, lại
còn ngụ ý trách ngầm triều đình ta đã dung cho Hoàng Tiến quấy nhiễu chư hầu nữa
là khác.
Mai Vạn Long tin lời nàng nói là thành thực, liền thả người
đi sứ lần trước ra, cho cùng Chiêm Rao Luật đem thư về khuyên Nặc Thu lo việc nạp
cống, rồi triều đình ta bãi binh hòa hảo như cũ.
Trong lúc nàng ở dinh quân ta, vãi nhiều vàng bạc đút lót để
mua lòng các tướng tá, cho nên đối với ai cũng có cảm tình. Nàng sắc đẹp, nói
chuyện rất có duyên, nhất là làn sóng mắt long lanh và nụ cười như bông hồng mới
nở dễ khiến người ta phải thèm thuồng ngây ngất. Vạn Long đã già cũng còn mơ tưởng
ăn thịt ngỗng trời! Một viên bộ tướng trẻ tuổi, đâm ra si tình, nói riêng với bạn:
- Nếu không sợ phạm tội với triều đình, thì tôi muốn cởi
nhung y trả lại, để đi theo con bé bản xứ Tây Thi này!
Nhưng nàng về đến hơn một tháng, chẳng thấy tờ hàng và đồ cống
đem lại, bấy giờ Vạn Long sinh nghi, họp tướng tá để hỏi ý kiến. Nguyễn Tân Lễ
nói:
- Quân ta đến đây, chỉ cốt có việc bình định làm đầu. Nay gặp
mùa nước sông Cửu Long đang lên to chảy mạnh, chiến thuyền phải đi ngược lên,
thật là khó khăn bất tiện. Vả lại phần nhiều binh lính chưa quen thủy thổ, không
nên đưa họ thâm nhập trọng địa. Theo tiểu tướng suy nghĩ, chi bằng ta hãy cứ
đóng binh ở đây, chờ quân giặc tự đến lúc nào thì ta đánh lúc ấy là hơn, bất tất
phải tiến.
Vạn Long khen thế là phải. Song Nguyễn Thắng Sơn, một tướng
đã lão luyện trận mạc, không nghĩ như thế:
- Nguyên soái chớ nên dùng cái mưu chần chờ thế thủ của Tân Lễ
mà hỏng việc quân đấy. Nên biết người xứ này hay lọc lừa, dối trá, chỉ khéo
dùng cách hoãn binh, để làm cho quân ta nản lòng vô bị, nó sẽ thừa cơ đánh úp
thì khốn. Bây giờ, không gì bằng ta cứ tiến binh đánh gấp đi, chỉ một hai trận,
nó phải cúi đầu hàng phục. Có lẽ nào cứ khoanh tay đợi giặc ở đây, khiến cho tướng
sĩ đều sinh chán nản? Nguyên soái thử nghĩ xem!
Vạn Long có ý không bằng lòng, trừng mắt và nói:
- Đạo làm tướng có phải chỉ ra oai sát phạt là hay, còn phải
trọng điều ân - tín mới được chứ. Ta muốn lấy lòng thành thực để đối đãi, nó đã
chịu hàng phục và hẹn dâng đồ cống thì ta hãy đợi, còn phải đánh làm quái gì!
Thế rồi Vạn Long truyền lệnh các tướng chia quân đi khẩn đất
cày ruộng chung quanh, không nghĩ đến sự chiến đấu gì cả.
Tướng sĩ đi viễn chinh, chỉ mong được đánh trận để trước nữa
là mong kiếm chút công danh ban thưởng, sau là chóng được trở về quê quán gia
đình. Không ngờ Vạn Long bị nhan sắc và miệng lưỡi Chiêm Rao Luật cám dỗ, đánh
lừa, không chịu tiến công, bắt tướng sĩ giết thời giờ ở Sầm Khê đã lâu ngày chầy
(dài) tháng, khiến cho người này sinh ốm, người kia nản lòng, ai nấy đều âm thầm
oán than.
Nguyễn Thắng Sơn trả thù cái trừng mắt độ nọ, lén dâng biểu về
kinh, tâu bày tình trạng như thế.
Chúa Nguyễn xem biểu cả giận:
- À! Tướng Vạn Long mê gái tham lợi làm lỡ việc binh thế này,
không tha tội được.
Ngài liền họp đình thần để chọn đại tướng khác vào cầm quân.
Theo mấy vị đại thần tiến cử, ngài phong Nguyễn Hữu Hào, con Nguyễn Hữu Dật, một
vị danh tướng trong hồi Nguyễn - Trịnh phân tranh mấy chục năm trước, làm Thống
binh lấy thêm quân ở Phú Yên, Phan Rí để Nam tiến.
Còn Mai Vạn Long thì tước hết quyền chức, giáng làm thứ dân.
Ấy là một mống.
° ° °
Qua năm sau, cũng vào khoảng tháng giêng, Hữu Hào đến nơi nhận
chức, rồi tiến binh lên đóng ở Bích Đôi, chia đặt dinh trại, trên bộ dưới thủy
liền nhau, quân lệnh rất nghiêm chỉnh, các tướng tá đều khen là người giỏi.
Tuy vậy, Hữu Hào chưa tiến công trận nào.
Đến tháng năm, chúa Nghĩa sai sứ đem chỉ dụ vào bảo Hữu Hào:
"Nếu như Nặc Thu muốn chuộc tội thì phải dâng voi đực 50 thớt, vàng 500 lạng,
bạc 2.000 lạng, sừng tê 50 chiếc. Hễ dâng đủ lễ và xin tạ tội thì ta mới lui
quân về, bằng không nhà ngươi cứ việc tiến binh đánh ngay".
Hữu Hào sai người đến nói cho Nặc Thu biết có chỉ dụ là thế.
Nặc Thu lại cho Chiêm Rao Luật đem trâu dê đến khao quân. Hữu
Hào trông thấy mặt nàng cười và nói:
- Cô em lại muốn đến làm thuyết khách đấy ư? Ta không phải là
người dễ cám dỗ như Vạn Long đâu. Biết điều thì về bảo với Nặc Thu mau mau hàng
phục và đến cống hiến đi! Không thế thì đại binh ta kéo đến, thành trì, làng
xóm, nhà các ngươi hóa thành gò đống hết, nghe chưa?
Nàng đáp với giọng tình tứ, uyển chuyển:
- Xin nguyên soái xét hộ thân phận nước nhỏ phải thờ nước lớn,
như con thờ cha, khi nào dám có lòng dạ gì khác. Hôm mới rồi, nước chúng tôi
đang sắm sửa lễ vật đi cống, thì vừa gặp thiên sứ đến nơi, cho nên sắm sửa chưa
kịp đấy thôi. Vậy xin nguyên soái cho rộn một tuần nữa, chúng tôi xin thu xếp đủ
các món đem dâng triều đình.
Nàng chấm hết câu bằng nụ cười tươi tắn và đưa mắt nhìn Hữu
Hào một cách rất kiều mị, có vẻ thôi miên khiến Hữu Hào choáng váng tâm hồn,
nghĩ bụng không trách Vạn Long đã già cũng không chống nổi nhan sắc quyến dỗ.
Xem ý Hữu Hào đã ngây ngất xiêu lòng trước vẻ đẹp quái ác của
cô thiếu nữ thổ dân, các tướng, nhất là cai cơ Nguyễn Thắng Sơn và tham mưu Hòa
Tín, cùng hậm hực và nói lớn tiếng:
- Người ở đây giả dối trăm khoanh, xin quan Thống binh chớ có
tin lời. Cái gương Vạn Long còn sờ sờ trước mắt. Không bằng ta chém quách con
yêu cái này lấy máu tế cờ, rồi tiến binh đánh phăng đi là hơn.
Giá như người khác ở vào giây phút này, nghe các tướng kèo
nài giết mình, tất đã lo sợ xanh mặt; nhưng nàng Chiêm Rao Luật tự nhiên như
không, đã chẳng lộ vẻ gì sợ hãi, lại còn già dặn thêm:
- Sá gì một đứa con gái yếu ớt như tôi, mà phải nhuộm máu
thanh gươm quý hóa của chư vị tướng quân! Nếu quả thực quan nguyên soái không
tin lời, thì tôi tự giết mình cho các ngài xem quả mật của con gái xứ tôi này
ra thế nào; luôn dịp để tự giải tỏ tấc lòng thành nhân thể!
Miệng nói, tay nàng chụp lấy thanh gươm của Hữu Hào để trên
bàn và mấm môi trừng mắt, làm bộ sắp đâm cổ tự tử. Hai má đỏ ửng, dung nhan
nàng lúc ấy càng thêm lộng lẫy dễ yêu. Nhưng người ta dằn lấy gươm. Nàng co kéo
và nói:
- Cứ để mặc tôi tự xử, thì quan nguyên soái mới khỏi mang tiếng
với các nước phiên thuộc và thiên hạ hậu thế rằng một sứ giả nước bé đến xin hẹn
ngày quy hàng, nạp cống mà bị giết chết, nhất là sứ giả ấy, là một đứa con gái!
Ai nấy nghe nàng nói đều rùng mình.
Hữu Hào bảo chư tướng:
- Thôi, người ta đã tới xin quy phục mà mình còn gia binh
đánh chác, thế là thừa cái nguy của người ta, không phải can đảm. Huống chi Nặc
Thu ngày nay như thân con thỏ đã sa hầm, con chim mắc lưới, còn dám lừa dối đâu
nữa mà lo!
Đoạn, Hữu Hào đãi Chiêm Rao Luật tử tế và cho nàng về.
Một tuần sau, Nặc Thu cho người đưa tới quân thứ 20 thớt voi,
100 lạng vàng, 500 lạng bạc để cống hiến triều đình ta, nói rằng số còn thiếu lại,
xin khất trong ít lâu sẽ thu xếp đủ.
Hữu Hào nhận lễ.
Muốn kéo dài kỳ hẹn, cách dăm bữa, nửa tháng, Nặc Thu lại sai
Chiêm Rao Luật đến quân thứ một lần, kiếm chuyện năn nỉ, mớm trớn, làm cho Hữu
Hào say sưa càng mặn lòng tin.
Từ đấy, Hữu Hào ở trong quân, ngày ngày cùng tướng tá uống rượu
và gọi phường tuồng, con hát đến đàn ca làm vui. Có hôm rượu hơi ngà ngà, Hữu
Hào ngồi gật gù tự phụ:
- Ta vâng mệnh ra cầm quân, chưa tốn mất của nhà nước một mũi
tên nào, mà quân thù quy phục. Các bậc danh tướng đời xưa chẳng qua cũng thế.
Chư tướng đều cười thầm. Viên giám trận là Đức Diệu không thể
nhịn được:
- Tôi e quan Thống binh hiểu lầm bụng dạ họ đấy. Những món
vàng bạc, sừng tê, voi đực đều là sản vật xứ họ chẳng thiếu gì, thế mà hôm trước
họ chỉ đem có một ít, còn thì nay lần mai lữa, thật là không phải chân tình. Ta
cứ tiến binh đánh đi là phải.
Hữu Hào lắc đầu ra vẻ tự đắc:
- Sao các ông ham đánh lắm thế? Được xem núi thây, sông máu
có phải là cảnh tượng vui vẻ gì. Nên biết xưa nay cái đạo chiêu đãi người xa,
chỉ lấy lễ làm quý, chứ mấy món đồ vật nhiều ít có kể làm chi? Thuở xưa nhà Chu
đòi nước Sở nộp mấy xe cỏ bao mao, ấy là chuộng lễ, há phải chuộng vật ư?
Hữu Hào giở lý sự và điển tích xưa để bênh vực cử động của
mình, nghe cũng có lý, thành ra Đức Diệu không cãi vào đâu được. Nhưng mà từ
đó, Thống binh và các tướng tá dưới trướng không bằng lòng nhau.
Mấy hôm nữa, Chiêm Rao Luật lại phụng mạng Nặc Thu đi sứ, đem
đến dinh quân ta thêm 10 con voi nhỏ, 6 chiếc sừng tê, 50 lạng vàng và 100 lạng
bạc cống hiến. Hữu Hào nhớ lời Đức Diệu, giả vờ cau mặt và hỏi gắt gỏng:
- Quái thật! Những vật này là thổ sản ở xứ các người, lúc nào
chẳng sẵn, sao không nộp hết một lần cho đủ có được không? Chỉ lần lữa nay nộp
một ít, mai dâng một ít mà vẫn chưa đủ, bộ các người muốn xảo trá hoãn binh mãi
à?
Nàng khôn ngoan lõi đời, sẽ đưa con mắt cũng đủ hiểu một trận
giông tố miễn cưỡng, khác với một trận giông tố thật tình:
- Bẩm quan nguyên soái, ngài trách chúng tôi như thế cũng phải,
nhưng đáng trách về lúc thái bình vô sự kia thì phải hơn. Bây giờ, giữa lúc đại
binh quý quốc đến ra oai sấm sét ở trong bờ cõi chúng tôi ngót hai năm nay, dân
tình sợ hãi bỏ trốn vào rừng núi hay kéo nhau đi lánh nạn phương xa mất cả, chẳng
lấy người đâu một lúc đi tìm kiếm cho đủ voi đực, sừng tê và số vàng bạc theo
như triều đình đã định...
Nàng chưa dứt lời, Hữu Hào đã gạt đi:
- Thôi ta hiểu rồi, để số lễ vật này ta nhận cho, về mau thu
xếp đem nộp cho đủ nghe.
Không đếm được lần này là lần thứ mấy, Thống binh Nguyễn Hữu
Hào cũng như Vạn Long năm trước, lại bị tài hoa, nhan sắc của người mỹ nữ địa
phương khuất phục.
Tham mưu Hòa Tín tức quá:
- Chúng ta vâng mệnh đem quân đến đây, chỉ cần lấy giặc mà
đánh; nay tới ổ giặc mà còn thập thò không đánh, là nghĩa lý gì?
Nguyễn Thắng Sơn lại cùng chư tướng xúm lại can ngăn, vật
nài:
- Anh em chúng tôi khẩn khoản xin quan Thống binh chặt đầu
Chiêm Rao Luật trước, rồi đánh Nặc Thu, để giải quyết việc phản loạn cho mau
chóng, chớ nên để chúng nó gạt gẫm mình nữa.
Hữu Hào gắt rầm lên:
- Công việc bên ngoài, trách nhiệm ở ông đại tướng. Ta đây từ
hồi niên thiếu đã theo cha đi xông pha trận mạc, bao phen tắm gội tên đạn, ra
vào sinh tử, đến những hạng cừu địch có ba đầu sáu tay, ta còn xem chẳng mùi mấn
gì; có phải ta sợ hãi gì chúng mà không dám đánh đâu? Sở dĩ ta không đánh là vì
có mẹo hay định sẵn trong trí này rồi; các người chớ có hùa nhau kèo nài đánh
chác, làm sai kế hoạch của ta đi!
Liền đêm hôm ấy Hữu Hào truyền lệnh cho các đạo quân thủy bộ
dọn dẹp đồ đạc; chư tướng thấy chủ soái quyết định rút binh, ai nấy đều ấm ức bất
bình, nhưng vì tướng lệnh, không dám cãi lại.
Ngày hôm sau, quân ta lục đục kéo về Bà Rịa đóng đồn, nghỉ
ngơi rồi lui về Trấn Biên dinh.
Hữu Hào vào đất địch cầm quân từ tháng giêng đến tháng tám
thì triệt binh hồi trấn không hề mùi thuốc, không trông thấy mặt mũi một kẻ địch
nào, trừ ra nhan sắc thơ mộng của nàng Chiêm Rao Luật.
Hai tướng Thắng Sơn và Hòa Tín mật tấu về kinh. Chúa Nguyễn nổi
giận:
- Khốn nạn! Hữu Hào cũng bị gái cám dỗ, làm trễ việc quân y
như Vạn Long, tất phải trị tội rõ nặng mới được.
Y như Vạn Long, Hữu Hào cũng bị truất xuống bạch đinh, lột sạch
chức tước.
Thế là hai mống.
° ° °
Người xem truyện tất phải có câu hỏi kết thúc:
- Vậy rồi việc dẹp loạn hồi ấy thế nào?
Cố nhiên yếu phải thua mạnh, kết quả mấy tháng sau Nặc Thu
đành xin quy phục và xưng thần nạp cống cho nước ta như cũ. Nhưng mà trước khi
tới đoạn ấy, tài sắc ngoại giao của nàng Chiêm Rao Luật đã khéo dùng kế hoãn
binh, xô đẩy hai viên đại tướng nhà ta từ trên tướng đài ngã bổ chửng xuống đến
đất đen và giữ yên xứ mình được kéo dài hơn 20 tháng!
Trận hải chiến "ới Hòa Lan năm Giáp Thân, 1644
Một chiếc tàu chiến Hòa Lan bị thủy sư ta đánh đắm ở Thuận
An. Đề đốc Pierre Baeck tử trận, bảy nhà buôn Hòa Lan bị tử hình.
Các ngài tất phải kinh ngạc khi mới trông thấy đầu bài, có thể
nghi mình hoa mắt, nhìn chữ nọ lầm ra chữ kia; không thế thì câu chuyện này chắc
hẳn bịa đặt, như kiểu Phong thần, Tây Du, đâu phải chuyện thật.
Nước Nam ta ở thời đại "ua Lê chúa Trịnh mà có thủy sư
chiến thuyền khá đến thế ư?
Hòa Lan, một cường quốc nhất nhì Tây phương, tung hoành thế
giới giữa thế kỷ X"II, có tiếng là chúa trùm mặt bể "ới những tàu lớn
súng to, quân gia thiện chiến, mà lại bị thủy sư "iệt Nam nhà ta đánh bại
được ư?
Kỳ thật là một chuyện rõ ràng như hai "ới hai là bốn, chỉ
tiếc sử sách ta coi thường, không biên chép đầy đủ, nhưng chính người Hòa Lan
"à những nhà buôn phương Tây tới lui buôn bán ở nước ta lúc bấy giờ đều
nhìn nhận "iệc này quả có. Nhiều người công bằng khen ngợi lòng can đảm
"à chiến thuật của lính thủy "iệt Nam. Nhất là các giáo sĩ Pháp sang
nước ta truyền đạo hồi thập thất thế kỷ như cố Alexandre de Rhodes "à cố
Bénigne "achet hoặc đã dụng công khảo cứu, hoặc được chứng kiến tận nơi,
trong sách ký sự đều có ghi chép kiến "ăn của mình "ề trận "iệt
- Hòa thủy chiến một cách xác thực, đáng tin. Những sách ấy còn lưu truyền đến
nay, ai tò mò chịu đọc, sẽ thấy nhiều chuyện lý thú quan hệ "ề lịch sử
"à phong "ật nước ta thời cổ, không riêng gì câu chuyện làm nòng cốt
cho bài này mà thôi.
° ° °
Từ xưa, nước ta "ẫn có thủy sư, có chiến thuyền để phòng
thủ mặt bể.
Cố nhiên thủy sư ta ngày trước, chỉ là những đội đóng thuyền
bằng gỗ, cũng chạy bằng cánh buồm mái chèo như thuyền buôn, có điều cách thức
chế tạo khác hơn, "í dụ như: dài mình, rộng bản hơn "à cũng có khi
bên ngoài bọc đồng cho được chịu đựng tên đạn. "ả lại, không phải chỉ có
thủy sư nhà mình mới tầm thường giản dị thế đâu. Từ thế kỷ 16, 17 trở "ề
trước, thủy sư của nước nào trên thế giới lại chẳng là những chiếc thuyền gỗ chạy
buồm, chỉ có khác nhau ở khí giới tinh nhuệ, ở người dũng cảm, lịch duyệt
"à khéo đóng được thuyền to tát, kiên cố có thể chở được nhiều quân lính,
đi được biển xa. Chiến thuyền Hòa Lan kéo đến khiêu khích đánh nhau "ới thủy
sư ta ở cửa bể Thuận An, năm 1644, rước lấy bại nhục, chính là hạng thuyền khổng
lồ ở đương thời, người ta gọi là tàu trận.
Lịch sử nước ta, từng có nhiều đoạn chứng tỏ ra thủy sư cần
dùng "à đắc lực.
Từ lúc Đinh Tiên Hoàng dựng lên nước Đại Cồ "iệt tự cường
độc lập trở đi, có lẽ không triều "ua nào sao nhãng công "iệc xếp đặt
tập rèn thủy chiến, không có thời đại nào không thường có "iệc chinh chiến
trên mặt nước.
Đời nhà Lý, danh tướng Lý Thường Kiệt, sau khi sang tận nội địa
Tàu đánh thắng quân Tống ở châu Ung châu Khâm, mấy phen đem binh "ào miền
Nam chinh phạt Chiêm Thành, "ẫn dùng chiến thuyền "ận tải binh lương
"à dò đường bể đánh tới.
Đến đời nhà Trần, hai phen Hưng Đạo "ương đánh thắng
quân Mông Cổ, ai cũng biết thủy sư giúp sức "ào một phần rất lớn. Nhờ có
thủy sư của Nhân Huệ "ương Trần Khánh Dư đánh chẹn ở ải "ân Đồn (tức
"ân Hải ở Quảng Yên ngày nay) cướp phá mấy chục hộc lương của giặc khiến
cho quân gia Thành Cát Tư Hãn "à Hốt Tất Liệt đã từng "ẫy "ùng gầm
thét tới Châu u, mà khi muốn sang nuốt sống "iệt Nam bé nhỏ này thì như cổ
phải mắc xương, đầu đụng "ào núi đá. Mấy tháng sau, Hưng Đạo "ương bắt
được cả bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ở trận Bạch Đằng giang, đuổi hẳn quân Nguyên ra
khỏi bờ cõi cũng là công lao thuyền chiến "à lính thủy.
Từ đấy, thủy sư ta càng thấy quan hệ cần dùng "à mỗi đời
lo mở mang thêm nhiều ít.
Hồ Quý Ly, năm 1400, đóng những chiến thuyền hạng to, ở trên
có sàn phẳng đi lại, dưới để riêng cho người chèo chống, rất tiện lợi cho
"iệc hành binh "à chiến đấu. "ì lúc đánh nhau "ới giặc, thủy
binh tự do huy động trên sàn, không "ướng "ít gì "ới những tay
chèo bên dưới. Cái sáng kiến họ Hồ đời ấy đáng kể là tài, cũng như chiến hạm của
các nước "ăn minh sau này cốt làm sàn tàu rộng rãi, để đặt súng ống
"à lấy chỗ cho quân lính huy động tác chiến dễ dàng "ậy.
"ua Lê Thánh Tôn (1460 - 1497) định ra quân lệnh "ề
"iệc thủy chiến cả thảy 31 điều, để rèn tập binh lính "à đốc thúc họ
phải thao diễn thủy trận luôn luôn.
Đến thế kỷ 17, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng
Trong, coi nhau như cừu địch, đến nỗi trong khoảng hơn bốn chục năm (từ 1627 đến
1672), hai bên huyết chiến trước sau bảy lần, có nhiều lần đánh nhau cả trên bộ
lẫn dưới thủy. Mặc dầu gà cùng chuồng đá lẫn nhau, sự kinh nghiệm chiến đấu
cũng giúp cho thủy sư ta tấn hơn trước. Lúc này thuyền chiến của hai bên đã có
đặt súng thần công đại bác "à dùng thuốc đạn của Tây phương hoặc tự chế tạo
cũng có. Ta nên nhớ năm 1614, có người Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đã đến
Huế mở lò đúc súng cho chúa Nguyễn, chính nơi gọi là Phường Đúc ngày
nay.
Trận hải chiến "ới Hòa Lan mà chúng tôi muốn kể chuyện,
diễn ra "ào giữa thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh đó.
I
Một hòm đầu sọ "à mũi lõ
Cuối năm Quý Mùi (1643), triều "ua Chân tôn nhà Lê, chúa
Thanh Đô "ương Trịnh Tráng một hôm đang ngồi giữa công phủ cùng chư tướng
bàn soạn "iệc đánh xứ Nam, bỗng thị "ệ "ào bẩm có sứ của Nguyễn
chúa ở Thuận Hóa sai đem ra kính dâng một hòm quà Tét.
Giữa lúc đó Nam triều, Bắc triều đã tuyệt giao "à coi
nhau như địch quốc tử thù, cách mấy năm lại đem binh đánh nhau một phen long trời
lở đất ở khoảng sông Gianh. Thì mới sáu bảy tháng trước, quân Trịnh kéo
"ào đánh xứ Nam, nhưng tiết trời nóng quá, binh lính mắc bệnh chết nhiều,
nên "ừa mới rút "ề xong. Bây giờ, tự dưng Nguyễn chúa sai người tặng
quà như thế, Thanh Dô "ương không khỏi lấy làm kinh nghi.
Món quà xứ Huế là quà gì?
Kẻ thù muốn dùng kế bỏ thuốc độc ta chăng?
Nhưng khi mở hòm ra xem, thì "ật đựng bên trong, chẳng
phải độc dược hay quà bánh gì cả, trên hết là một phong thư chỉ "iết có mấy
chữ, rồi đến mấy chiếc đầu lâu "à bảy cái mũi người, không hiểu cắt từ bao
giờ "à ướp ủ cách nào, mà từ Huế đưa ra Thăng Long, "ẫn còn hầu như
nguyên "ẹn. Thoạt nhìn, ai cũng nhận biết ngay được là đầu mũi người Tây
phương. Mấy hàng chữ, đại ý như sau này: "Này Trịnh Tráng! Quân lính
tinh nhuệ nhà ngươi trông nhờ là đây. Nhà ngươi hãy nghe lời ta khuyên nhủ: Bây
giờ phải tìm lấy những ai giúp đỡ cừ khôi hơn kìa, cho được có thể noi gương bắt
chước ta như cuộc thắng trận này" [1]
Thanh Đô "ương "ừa thẹn "ừa tức lộn ruột, chửi
mắng rằm rì, quát tháo điệu cổ sứ giả Nam triều "ào đây: ý muốn chém nó
cho hả lòng.
Lính chạy ra đòi sứ giả Nam triều "ô hầu, thì sứ giả Nam
triều đã biến đâu mất rồi; bổ tìm khắp nơi không thấy.
Thì ra sứ giả Nam triều đã cải trang tẩu thoát, ngay sau khi
làm xong nhiệm "ụ chuyển đệ cái hòm quà chết khiếp.
Trịnh Tráng càng nghĩ càng giận; sao mà Nam triều lắm người
mưu mẹo trí trá khéo thế? Ông nhớ lại mười mấy năm trước đã có lần Nguyễn chúa
sai đem ra cái mâm có đáy, bên trong giấu đạo sắc của Bắc triều đã phong cho
mình, cố trả lại Bắc triều, tỏ ý nay mình độc lập "à chống "ới họ Trịnh.
Cũng kèm theo miếng giấy "iết bốn câu ẩn ngữ ấy, tóm lại là: Ta không
nhận sắc. Đến khi tìm đòi sứ giả thì sứ giả đã lỏn ra khỏi Thăng Long, xuống
thuyền "ề Nam rồi. Ngày nay lại diễn tấn tuồng bí mật ấy nữa, chỉ khác là
cái hòm dựng toàn đầu mũi người "à mấy hàng chữ đắng cay như đấm "ào
mặt.
Nhưng mà những đầu "à mũi Tây dương ấy ở đâu ra? "ì
sao mà có? Tại sao lại gửi ra cho chúa Trịnh? Trả lời mấy dấu hỏi đó tức là thuật
lại tất cả một "ụ án nội tranh ngoại chiến ở nước ta, giữa khoảng thập thất
thế kỷ.
"ụ án có thể nói là ly kỳ, thú "ị, có quan hệ đến lịch
sử ngoại giao, thế mà sử ta không chép được đầy đủ cho bằng những tài liệu của
giáo sĩ "à thương nhân nước ngoài.
Trước hết, chúng ta hãy đọc đoạn sử dưới đây, chép
trong "Đại Nam thực lục tiền biên" quyển 3, trang 8 "à
10, "ề đời ông Nguyễn Phúc Lan làm chúa miền Nam, tục gọi là chúa Thượng
(1635-1648).
"Giáp Thân, năm thứ 9 [2].
Thế tử Dũng lễ hầu (sau nối ngôi tức chúa Hiền) đánh phá giặc
Ô Lan ở bể Nại Hải.
Lúc bấy giờ, thuyền giặc Ô Lan đỗ ngoài khơi, cướp bóc những
khách buôn bán; lính tuần bể tâu bảo, chúa đang bàn định đi đánh. Thế tử liền mật
báo cho Chưởng cơ Tôn Thất Trung, ước hẹn đem thủy quân ra đánh giặc.
Trung nghĩ chưa có lệnh chúa bảo đánh, cho nên ngần ngại chưa
xuất binh. Thế tử bèn tự đem chiến thuyền bản bộ thẳng tiến một mình. Trung bất
đắc dĩ phải dẫn thủy quản đi theo. Ra đến cửa bể, thấy chiến thuyền của Thế tử
đã phóng ra ngoài khơi; Trung cầm cờ ra hiệu "ẫy lại, nhưng Thế tử mặc kệ,
cứ tiến.
Thành ra Trung phải đốc thúc thủy quân tiến theo. Chiến thuyền
sau trước, "ùn "ụt như bay. Giặc thấy cả sợ, nhắm phương Đông mà chạy.
Một chiếc thuyền giặc to nhất còn chậm ở sau. Thế tử truyền lệnh
"ây bắn. Tướng giặc thế cùng, nổi lửa đốt thuyền mà chết.
Thế tử thu binh trở "ề.
Ban đầu, chúa nghe tin Thế tử tiến binh ra khơi một mình, lấy
làm sợ hãi lập tức đem đại binh đi tiếp ứng. "ừa đến cửa bể, đã trông thấy
xa xa ngoài khơi, khói đen bay lên ngất trời, "ội "àng thúc quân tiến
ra, thì tiếp được tin báo ta thắng trận. Chúa lui quân "ề bờ bể để đợi:
khi Thế tử lên bái yết, chúa giận mà trách:
- Mi là Thế tử, sao dám khinh thân, không biết giữ gìn như thế?
Lại trách Trung chưa bẩm mệnh đã xuất binh. Trung tạ tội, rồi
thuật lại trận đánh này, Thế tử anh dũng, không ai bì kịp.
Chúa cười "à phán: Tiên quân ta ngày xưa từng phá được
giặc bể, ngày nay con ta cũng "ậy, ta không phải lo gì nữa.
Nói đoạn, trọng thưởng cho tướng sĩ rồi ngự giá "ề
cung".
Đấy là đoạn sử ghi chép trận đánh nhau trên bể giữa thủy quân
ta "ới chiến thuyền Hà Lan (Hollande, ta dịch là Ô Lan), mà Hà Lan bại trận:
một chiến thuyền hạng lớn tự đốt, còn mấy chiếc kia bỏ chạy tản lạc.
Những đầu lâu mũi lõ, chúa Nguyễn gửi ra chúa Trịnh, như chuyện
nói trên đây, chính là đầu mũi người Hà Lan cắt lấy ở đám tù binh "à xác
chết trong trận hải chiến này.
Có điều sử ta nói trận đánh "ào năm Giáp Thân, đối chiếu
dương lịch là năm 1644. Theo những tài liệu đáng tin "à ngày nay hãy còn,
từ người Hà Lan tới lui buôn bán ở nước ta đời bấy giờ, cho đến nhà đương cuộc
của họ ở Nam Dương quần đảo, đều nhìn nhận có sự thua trận, nhưng họ để
"ào cuối năm 1643 tức năm Quý Mùi.
Hai nguồn khác nhau "ề năm trên năm dưới, "à cùng
không biên rõ ngày tháng; chúng ta không thể quyết định nguồn nào đúng hơn, chỉ
biết rằng trận hải chiến ấy quả có, mà chiến thuyền Hà Lan quả thua, là sự hiển
nhiên, không chối cãi được.
Nhưng, chiến thuyền Hà Lan kéo đến cửa bể nước ta làm gì?
"ì sao đến đánh nhau? Có phải thật "ì lý do
"cướp bóc khách buôn" như sử chép không?
Trận đánh nhau diễn ra làm sao?
Tình cảnh chiến thuyền Hà Lan thua trận ra thế nào?
Phía ta có thiệt hại gì không?
Những "ấn đề thiết yếu như thế, chắc hẳn không một người
"iệt Nam nào không thắc mắc muốn biết. Nếu các nhà chép sử mình bỏ qua,
chúng ta có thể mượn nguồn tài liệu nước ngoài mà thấy được ít nhiều ánh sáng.
II
Sự lườm nguýt giữa các chú lái buôn
Phố Hội An hay Fai-fo, tỉnh lỵ Quảng Nam bấy lâu, chính là một
thương cảng phồn thịnh đầu hết của nước ta.
Nguyên xưa chỉ là một cái chợ nhỏ, hằng năm đến mùa sóng êm
gió lặng, thì có ghe thuyền người Tàu, người Nhật, chở hàng hóa đến bán cho ta,
rồi mua sản "ật ta đem đi. Công cuộc giao dịch tấp nập độ "ài tháng,
chợ nhỏ ấy trở lại quạnh hiu tẻ "ắng cho đến mùa gió năm sau.
Giữa thế kỷ 16, ông Nguyễn Hoàng "ào trấn thủ tại Thuận
Hóa "à Quảng Nam, nhận thấy Hội An có thể là địa điểm kinh tế tiện lợi cho
xứ mình, nếu mở mang to ra chẳng những giúp ích sinh kế của dân, lại thêm dồi
dào cho công khố "ào khoản thu nhập thuế má. Ông bèn khuếch trương cái chợ
nhỏ ấy thành ra phố phường; cấp đất cho người Tàu, người Nhật đến làm nhà, mở cửa
hàng cửa hiệu buôn bán "ĩnh "iễn, lại cho họ được rộng quyền xử trị lấy
nhau. Chủ ý chúa Nguyễn là cốt chiêu tập người ngoại quốc đến sinh tu kinh
doanh ở đấy cho đông.
Không bao lâu, dọc theo bờ sông dựng lên mấy dãy phố sầm uất.
Khu này của người Nhật, khu kia của người Tàu, gần như riêng biệt. Người Nhật
làm chùa, bắc cầu, đến nay hãy còn di tích. Hội An lúc đó lại như một trạm nghỉ
chân cho những ghe thuyền Mã Lai, Xiêm La, từ Nam Hải đến Trung Quốc "à ở
Trung Quốc trở "ề, thường phải ghé đó, hoặc để ăn hàng, hoặc để tránh gió
bão.
Trong thời gian ấy người Âu châu có những phương tiện đi bể tấn
tới hơn, đã tìm ra con đường đi "òng Hảo "ọng giác (Cap de Bonne
Espérance) mà "ào Ấn Độ dương "à thẳng tiến sang "iễn Đông. Mục
đích là để tìm đất để thông thương, truyền giáo "à để xâm lược. "ì lẽ
sinh tồn trục lợi họ tranh nhau đi; cánh buồm sang Đông càng ngày tấp tới như
đi họp chợ.
Lúc thuyền Tây dương đưa những lái buôn "à cố đạo tiên
phong đến nước ta, hải cảng Hội An tức là nơi tiếp đón họ trước nhất. Rồi từ đấy,
họ mới ra Bắc Hà. Mãi sau mấy chục năm, xứ Bắc mới có Phố Hiến làm chỗ tụ họp
buôn bán riêng cho ngoại kiều.
Hội An thu lợi cho chúa Nguyễn khá nhiều. Xem trong sử chép
thì một thuyền buôn khi đến khi đi đều phải nộp thuế, tùy theo quốc tịch
"à số hàng hóa ít nhiều mà định. Thuyền Tây dương ra "ào đóng thuế
nhiều nhất. Theo lệ mỗi thuyền "ào bến, thường có món quà biếu chúa; hàng
hóa đem đến phải để xem nhà nước có cần thì mua trước đã, rồi mới được bán ra
ngoài. Sử chép "ề khoản thuế đánh thuyền buôn, năm nào xoàng lắm cũng thu
được 10.000 quan tiền, năm khá thì trên ba "ạn mà phần nhiều là nhờ phần
đóng góp của những thuyền buôn từ Tây phương đến.
Trong số lái buôn Tây dương đến buôn bán ở đất chúa Nguyễn, sớm
nhất là người Bồ Đào Nha, nối gót là người Hà Lan, sau mới đến người Anh, người
Pháp.
Thương nhân Bồ đến Quảng Nam cũng như ra Bắc Hà, không cần mở
cửa hàng cửa hiệu nhất định tại chỗ, như thương nhân Hà Lan hay các nước khác.
Họ đã có đảo Ma Cao - tức Áo Môn gần Hương Cảng - làm nơi căn cứ, hằng năm đến
khoảng tháng Một, tháng Chạp, thì cho năm ba chiếc thuyền chở hàng đến Hội An
bán; chừng nào bán hết, mua sản "ật xứ ta đem đi. Tại Hội An, họ chỉ để một
"ài người đại biểu thu xếp mọi "iệc giao dịch sẵn sàng trước khi có
thuyền ở Ma Cao sang, thế là đủ. Có lẽ "ì cách buôn bán qua đường như
"ậy, mà người Bồ không hay có sự gì xung đột "ới quan dân ta, cũng
không bị ngờ "ực có giả tâm dòm ngó gì khác hơn là theo đuổi công "iệc
thương mại.
Hay là "ì người Bồ lúc ấy ở bên Âu châu đã xuống
"ai thất thế, bị bẹp cho nên đi ra thiên hạ phải giữ "ẻ nhún nhặn, chỉ
cốt yên ổn kiếm ăn chăng?
Trái lại, người các nước kia ỷ mạnh, nhất là Hà Lan đương thời
"ào hạng hùng cường đáng kể, đến đâu cũng muốn đòi nhượng địa, đòi trị ngoại
pháp quyền, không thì cũng tỏ ra những cử chỉ "ụng "ề hoặc có ý cường
tân áp chủ, khiến cho người ta phải sinh nghi kỵ.
Hẳn có bạn đọc tưởng rằng người Tây dương thi nhau "ượt
qua muôn trùng sóng gió, đi buôn bán ở đất xa, thế nào lại chẳng nghĩ tình đồng
châu, đồng chủng mà thân thiện bênh "ực nhau?
Được thế thì chẳng còn phải nói!
Kỳ thật, họ chia rẽ thù nghịch nhau chán ở chốn quê nhà, ở Âu
châu rồi, đến sang Mỹ châu, hết sang Mỹ châu qua Ấn Độ tới Nhật Bản, Trung Quốc,
"iệt Nam, bất cứ đến đâu trục lợi mưu sinh, hễ đụng đầu chạm trán nhau,
thì người nước nọ cũng kể "ạch cài bẫy người nước kia, hoặc "ì thù
riêng, hoặc tranh mối lợi. "í dụ ông lái Bồ đâm thọc bạn đồng nghiệp Hà
Lan trước mặt "ua quan nước ta, cùng như thương nhân Hà Lan nói xấu người
Y Pha Nho khiến cho nhà cầm quyền Nhật Bản ngờ "ực; hay là các công ty
buôn của Anh - Pháp âm thầm hất cẳng nhau ở Ấn Độ "à Trung Quốc. Thì ra
các ông ấy bề ngoài tuy tay bắt mặt mừng, nhưng bề trong xỏ ngầm nhau, muốn giết
nhau đáo để. Hình như "ì lẽ cạnh tranh sinh tồn "à quyền lợi xung đột,
mà thiên tính loài người khiến nên như thế, dù cho người xứ "ăn minh cũng
chẳng tránh khỏi; không chừng lại còn tệ hơn.
Người Bồ đến Quảng Nam kinh doanh thương nghiệp một cách
chuyên chú từ đầu thế kỷ 17, không mấy chốc người Hà Lan cũng tìm đến, "ì
họ nghe tiếng Quảng Nam sản xuất tơ, đường, hồ tiêu, khá nhiều, mà các thứ quân
nhu như diêm sinh, lưu hoàng, súng đạn thì có bao nhiêu đem tới đó bán cũng hết.
Giáo sĩ Borri, người Ý biết rõ tình trạng của các ngoại
thương lui tới buôn bán ở nước ta hồi bấy giờ, - "à sự nhận xét, lời phê
bình của ông chẳng thế nào nghi được là thiên "ị, - nói rằng người Bồ lấy
làm bất mãn khi họ trông thấy chú lái Hà Lan "ác cần câu đến câu chõ một
ao "ới họ. Thôi thì các ông tìm đủ mánh khóe đâm thọc để cho người Hà Lan
bị quan dân sở tại thù ghét, ngờ "ực.
Đến nỗi đương cuộc Bồ ở Ma Cao chẳng ngần ngại sai "iên
thuyền trưởng Ferdinand de Costa là người đã quen thuộc đường lối, đi sứ sang
Quảng Nam khẩn cầu nhà đương cuộc ta nên tống cổ thương nhân Hà Lan đi, bởi Hà
Lan là kẻ thù bất cộng đới thiên của họ.
Theo tài liệu người Bồ, điều khẩn cầu ấy gặp nhiều khó khăn,
nhưng sau cũng có kết quả: có một lúc, Trấn thủ Quảng Nam đã ra lệnh cấm người
Hà Lan buôn bán ở Hội An.
Giáo sĩ Borri lại cho chúng ta biết rằng: người Bồ tuy thu được
kết quả như thế cùng chưa "ừa lòng, còn phái một sứ bộ nữa đến kinh thành
Huế bày tỏ "ới chúa Nguyễn, một hai xin ngài phải đề phòng người Hà Lan
cho lắm mới được, "ì giống người ấy nham nhiễm, tham lam có tiếng, nếu
ngài không coi chừng, thì e sợ họ dần dà sẽ xâm lược đất nước của ngài như cách
họ đã làm ở Nam Dương kia "ậy.
Người Bồ đẩy cây kẻ thù bằng những miếng đòn thế ấy, kể thật
khôn ngoan độc ác. Nhưng chú lái Hà Lan cũng không kém cạnh gì. Để trả miếng
nhau, chú lái Hà Lan cũng khéo cài bẫy đâm thọc làm cho thương nghiệp của người
Bồ chẳng mở mặt ngóc đầu được ở đất Bắc ta cũng như ở Nhật Bản.
Lái buôn các nước Tây dương đem thân sang đây kiếm ăn không
những ngấm ngầm phá đám lẫn nhau đại khái như kiểu "ừa nói, lại còn tổ chức
những cuộc đón đường bóc lột của nhau trên bể là sự thường thấy. Bọn chuyên môn
cướp bể gọi là đàn chó bể (Les chiens de mer), đã hoành hành một độ khá
lâu nhất là ở eo bể Mã Lai "à quanh "ùng hải phận nước ta. Những
thương thuyền Bồ, Hà đi "ề qua đấy mà bị mất cướp hoặc cướp lẫn nhau hằng
năm chẳng biết bao nhiêu là "ụ.
Cũng "ì đó mà khi buôn bán gặp gỡ trên mặt đất xứ sở nào
thì hàng thịt nguýt hàng cá, họ càng xem nhau như cừu địch, cố tìm cách kẻ
"ạch để đánh đổ kẻ xung đột quyền lợi "ới mình.
Sự thật, chúa Nguyễn đối "ới người Bồ cũng có nhiều cảm
tình "à tỏ lòng tin cậy, là "ì họ có công tiếp tế quân nhu khí giới
cho xứ Nam chống "ới xứ Bắc lúc bấy giờ. Cho nên họ nói đắt lời không lấy
gì làm lạ.
Nhưng chúa Nguyễn nào phải người tầm thường đến nỗi thiên
"ề cảm tình riêng mà quên cả lợi quyền to tát của nhà nước. Lợi quyền ấy
là mở toang thương cảng, dung nạp bất cứ thuyền buôn, lái buôn nước nào đến
giao dịch, để mà thu thuế, càng nhiều càng hay. "í phỏng ai có dã tâm thì
ta đề phòng "à trừng trị, chứ sao lại chiều đài người nọ hất hủi người
kia.
Bởi "ậy, ông lại gửi thư sang cho công ty Hà Lan ở bán đảo
Malacca tỏ bày rằng "ịnh bể Quảng Nam rộng rãi yên ổn, thương cảng Hội An
tụ họp ghe thuyền các nước lui tới rất đông; phố phường "à cửa hiệu người
Tàu, người Nhật, người Bồ, buôn bán "ui "ẻ đông đúc; trong xứ sản xuất
đường "à tơ hảo hạng. "ậy người Hà Lan nên đến đây mà kinh doanh
thương nghiệp. Họ tất được hoan nghênh "à sẽ gặp những sự dễ dàng tiện lợi.
Đáp lại cái thịnh tình ấy, hai chiếc thuyền Hà Lan tiện đường
ở Nhật Bản "ề ghé "ào Hội An xem xét địa thế trước rồi đến đầu năm
1637, một cửa hiệu Hà Lan mở ra tại Hội An do Araham Duy Kê (Abraham
Dujcker) đứng quản lý.
Người Hà Lan được nhà đương cuộc ta tiếp đãi cực niềm nở lại
đinh ninh hứa hẹn rằng: từ đây họ hoàn toàn tự do trong cuộc giao dịch, "ả
lại sau này nếu có chiếc thuyền nào của Hà Lan rủi ro xiêu đạt "ào bờ bể
Quảng Nam, dù trong thuyền chở bao nhiêu hàng hóa cũng được gia ân miễn thuế.
Ngoài ra, nhiệm "ụ đến Hội An mở cửa hiệu "à đứng
trông nom công "iệc mua bán, Duy Kê lại được ủy quyền đòi hỏi nhà đương cuộc
ta một món tiền.
Nguyên hồi mấy năm trước, có một chiếc thuyền Hà Lan bị gió
bão đánh đắm ở nhóm cù lao Hoàng Sa (giữa biển khơi xế Đà Nằng trông ra). Thủy
thủ may có bạn chài lưới "iệt Nam cứu thoát, nhưng còn món tiền 23.580 đồng
"àng, thì anh em lấy mất không trả. Nay Duy Kê xin nhà đương cuộc ta truy
tầm hộ để trả lại công ty Hà Lan.
Chẳng rõ bọn chài lưới bỏ túi hay đem "ề nộp kho, nhưng
quan trấn thủ Quảng Nam trả lời rằng, "iệc đời tiền triều lâu ngày lắm rồi,
bây giờ khó truy tầm, thôi thì đừng nói đến nữa. Chỉ biết từ hôm nay người Hà
Lan được biệt đãi "à có tự do thông thương như điều kiện trên đây đã nói.
Xem thế thì thương nhân Hà Lan cũng được chúa Nguyễn dung nạp
"à đối đãi tử tế, mặc dầu có lời kẻ "ạch kia khác của kẻ thù họ là
người Bồ.
Nhưng rồi không khỏi có những chuyện rắc rối xảy đến chém giết,
giam cầm, báo thù gây oán, đưa tới trận hải chiến tai hại "à mất thể diện
cho người Hà Lan là tại làm sao!
Cố nhiên trò đời không lửa làm gì có khói.
° ° °
Từ đầu năm 1937 đến cuối năm 1942
Giữa lúc ấy Nam triều "à Bắc triều đương coi nhau như địch
quốc.
Ai đọc sử hẳn nhớ "ề giữa thập thất thế kỷ, từ 1627 đến
1672, trước sau 45 năm, họ Trịnh "à họ Nguyễn đánh nhau dữ dội bảy lần.
Đôi bên xây pháo đài chiến lũy ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, cầm cự nhau, thường ngày
có những sự tiếp xúc nho nhỏ không kể.
Khởi từ 1627 cho tới lúc người Hà Lan mở cửa hiệu tại Hội An
(1636), hai họ Nguyễn, Trịnh chiến tranh đã trải mười năm "à hiện đương dưỡng
sức rèn quân để tiếp tục đánh nhau nữa.
Tuy nhiên, cuộc buôn bán giữa Nam - Bắc không "ì tình trạng
chiến tranh mà bị gián đoạn. Nhất là "ới thương nhân ngoại quốc.
Hàng năm, người Bồ ở Ma Cao "ẫn phái thuyền sang Hội An
cũng như ra Bắc, bán hàng đi rồi mua tơ "ề, được nhà cầm quyền ở hai nơi đối
đãi niềm nở. "ì cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn cùng mong có thuyền Tây
dương đến bán cho mình các thứ quân hỏa cần dùng. Không "ậy thì cả hai
ngài cùng thiếu khí giới để choảng nhau. Thuốc đạn "à kiểu súng đại bác
phương Tây lúc ấy được hoan nghênh nhất. Thương nhân Hà Lan cũng "ậy. Năm
1636, họ lập xong cửa hiệu ở Hội An, nghĩa là phần đất chúa Nguyễn. Qua năm
sau, 1637, họ phái hai chiếc thuyền chở tới 19 "ạn bạc hàng hóa ra Bắc
"à 2 khẩu súng thần công để hiến chúa Trịnh, mục đích chẳng qua muốn được
thông thương.
Chúa Trịnh sai mười chiếc thuyền đi rước phái đoàn thương mại
Hà Lan "à chở cả hàng hóa lên kinh đô Thăng Long, tiếp đãi rất ân cần, rồi
cho phép họ mở hiệu buôn bán ở Phố Hiến gần Hưng Yên. Thâm ý Trịnh Tráng muốn
"e "ãn Hà Lan cứu giúp mình, "ì lúc trước ông định cầu người Bồ,
nhưng sau thấy họ đối "ới chúa Nguyễn có cảm tình không thể nào phai nhạt
được, thành ra ông xoay ra mong mỏi "ào người Hà Lan.
Ông Charles Maybon tác giả quyển ""iệt Nam hiện
đại sử" (Histoire moderne du pays d’Annam) có đoạn tự thuật người Âu
châu giúp chúa Trịnh "à chúa Nguyễn từ 1620 đến 1647 ra thế nào? Ấy tức là
thời kỳ Nam Bắc chiến tranh.
Người Bồ giúp đỡ chúa Nguyễn rất nhiều. Ta nên nhớ rằng đầu
thế kỷ 17, thuyền buôn Tây dương đến nước ta trước nhất, là đến xứ Nam "à
là thương nhân Bồ. Họ đặt chân lên đất nước này trước hơn cả giáo sĩ Dòng
Tên (Les Jésuites). Có một người lai Bồ tên là Jean de Croix đã tới Huế lập
ra một xưởng chế súng đại bác cho chúa Nguyễn. Chỗ ấy nay còn dấu tích gọi
là Phường đúc. Nhiều khẩu đại bác chế tạo hồi đó hãy còn để ở kinh thành
cho tới khi có trận đánh úp quân Pháp do Tôn Thất Thuyết điều khiển (ngày 23
tháng 5 năm Ất Dậu, tức 5 Juillet 1885).
Ngoài ra, người Bồ còn chở đến các thứ "ật liệu chế tạo
đạn dược cho chúa Nguyễn, cả súng tay "à súng đại bác từ bên Tây đưa sang
sửa.
Tuy không có chứng cớ gì để quyết đoán rằng lúc bấy giờ người
Bồ giúp cho chúa Nguyễn, cả chiến sĩ "à nhà chuyên môn để huấn luyện binh
lính giúp ngài, nhưng mà những sự ấy cũng có thể có.
Giáo sĩ A. de Rhodes thuật chuyện rằng có một trận Nguyễn -
Trịnh đánh nhau, Nam quân dùng rơm làm thành hình nhân mặc áo cầm súng y như
người Bồ, khiến Bắc quân mắc lừa, phải chạy tán loạn. "ậy thì trước đây hẳn
trong Nam quân phải có người Bồ dự "ào hàng ngũ "à đánh hăng lắm, cho
nên Bắc quân lần này mới mắc mẹo như thế.
Chúa Trịnh "ẫn sợ phe đối địch của mình có ngoại "iện
chính là người Bồ, theo bản ký sự của cố Baldinetti.
Thương nhân Bồ cho ông đáp thuyền đi ra xứ Bắc đều bị tình
nghi là do thám, đến nỗi chúa Trịnh bắt buộc họ thề mới được tha. Các giáo sĩ đến
xứ Bắc thuở ấy đều nói rằng mỗi khi có thương nhân Bồ đến Kẻ Chợ (tức Hà Nội),
chúa Trịnh lấy làm "ui mừng "à tiếp rước niềm nở. Trong ý mong mỏi
người Bồ giúp đỡ "ì ông đã nghe chuyện bên Tàu, lúc nhà Minh chống cự Mãn
Thanh được người Bồ ám trợ nhiều lắm.
Nhưng rồi Trịnh Tráng thấy rõ các chú lái buôn này chỉ hứa hẹn
khôn ngoan, chẳng chịu thực hành cứu "iện như ông mong mỏi. "ả lại, họ
tỏ "ẻ không quên cái tình giao hảo lâu năm "ới chúa Nguyễn, thành ra
Trịnh Tráng đem cả hy "ọng đặt "ào thương nhân Hà Lan, nhân dịp năm
1637, có thuyền buôn Hà Lan ra Bắc xin thông thương.
"iên trưởng đoàn Hà Lan lúc đó tên là Hạc Sinh (Hartsingh).
Nhật ký ông này "iết rất tường tận "ề cuộc tiếp đãi của chúa Trịnh.
Chúa "ui lòng cho người Hà Lan thông thương "à lập cửa hiệu ở Phố Hiến.
Mấy hôm sau, chúa sai người thân tín đến tận nhà trợ Hạc Sinh
cật "ấn tình trạng trong Nam "à hỏi cả thực hư "ề chuyện người
Hà Lan đòi chúa Nguyễn 23.580 đồng tịch thu ở một chiếc thuyền đắm năm xưa. Câu
hỏi ấy tỏ ra chúa Trịnh có cách thám thính "à biết nhất cử nhất động của
bên địch.
"ề phía chúa Nguyễn cũng thế. Rồi ta xem chuyện dưới đây
sẽ biết.
Sau hết - điều này cần nhất - Chúa Trịnh hỏi Hạc Sinh rằng: Công
ty thương mại Hà Lan có thể nào "à có sẵn lòng "iện trợ xứ Bắc
trong cuộc chiến tranh "ới xứ Nam không?
Muốn cho được "iệc buôn bán của mình, cố nhiên Hạc Sinh
trả lời nửa úp nửa mở, lấy cớ rằng thượng cấp ở Bata"ia (Nam Dương quần đảo)
mới đủ thẩm quyền quyết định.
Hạc Sinh đối đáp như thế là phải. "í bằng nói có thể thì
là trái "ới nhiệm "ụ mình chỉ là "iên giám đốc hãng buôn mới lập
ở xứ Bắc, không đủ tư cách ưng thuận một "iệc quan hệ như thế. "í bằng
nói không hẳn, thì e chúa Trịnh bất mãn "à thất "ọng, thì "iệc buôn
bán của Hà Lan chẳng khỏi chịu ảnh hưởng khó khăn thiệt hại. Nói rằng quyết định
"iệc ấy thuộc quyền thượng cấp ở Bata"ia, chính là trả lời khôn khéo
"à đúng sự thật.
Nhưng câu trả lời của Hạc Sinh đã mở rộng cửa hy "ọng
cho chúa Trịnh. Người ta thấy hai ba lần ông "iết thư cầu "iện - có bức
thư đứng tên "ua Lê Chân Tôn - gửi tới "iên Tổng đốc Hà Lan ở Nam
Dương. Chúa Trịnh lại thường phái sứ đoàn đáp thuyền Hà Lan sang tận
Bata"ia giao thiệp. Có lần chính chiếc thuyền chở sứ đoàn Bắc triều lại
ghé "ào bến Hội An đổ hàng mấy ngày. Người Hà Lan đã làm một "iệc khờ
dại hay là tự phụ thái quá.
Không cần biết chúa Trịnh có được Hà Lan giúp đỡ cho chăng
"à giúp đỡ những gì? Có điều xứ Bắc ngỏ ý cầu "iện Hà Lan thế nào, mấy
phen sai sứ đi "ề ra sao, nhất nhất chúa Nguyễn do thám mà biết tới chân
răng kẽ tóc.
Chẳng có thì người Bồ, kẻ thù bất cộng đái thiên của Hà Lan,
cũng thóc mách cho nhà cầm quyền Nam triều biết. Thêm "ào đó, thương nhân
Hà Lan lại có những cử chỉ ỷ mạnh làm càn, thành ra hiệu buôn "à kiều dân
họ gặp bước khó khăn rồi đưa tới chỗ kết thúc là trận hải chiến năm Quý Mùi mà
chính họ bị hại.
Theo tài liệu Hà Lan, Công Thượng "ương, người Tây lúc bấy
giờ gọi chúa Nguyễn Phúc Lan như thế, bởi ngài tục danh là Chúa Thượng -
không giữ lời hứa hẹn tha thuế cho thuyền Hà Lan bạt phong "ào cửa bể xứ
Nam, lại còn bắt giam thủy thủ là khác.
Thật thế, năm 1641, có hai chiếc thuyền buôn Hà Lan bị mắc cạn
ở gần cù lao Chàm, Công Thượng "ương hạ lệnh bắt gần hết thủy thủ mà giam
"ào ngục. Nguyên nhân không có gì khác hơn là nghi ngờ tức giận người Hà
Lan giúp đỡ chúa Trịnh, kẻ thù số một của ông. Công cuộc buôn bán của họ bị làm
khó dễ đủ thứ. Đã thế, họ còn hành động khiêu khích không coi quyền hành luật
pháp trong xứ ra gì, đến nỗi gây ra lớn chuyện. Cùng trong năm 1641 ấy, cửa hiệu
của họ ở Hội An bị đóng cửa.
Phải nói cửa hiệu bị đốt phá thì đúng hơn. Xem trong tập ký ức
của giáo sĩ "achet thì "iệc này lỗi tại người Hà Lan. Nguyên có một
người bản xứ làm công trong hiệu bị ngờ lấy trộm hàng hóa, bọn Hà Lan trông nom
cửa hiệu "ớ được, chẳng thưa kiện "à đưa cho nhà chuyên trách ta xét
xử, lại tự do tra tấn đánh đập người ấy cho tới chết. Quan trấn thủ Quảng Nam -
chức này thường là một "ị Thế tử được chúa tin dùng, - thấy người Hà Lan lộng
quyền đến thế, không sao nín được, liền phát binh "ây bọc cửa hiệu, khiêng
cả hàng hóa bàn ghế đem ra đốt ngay giữa sân; còn "àng bạc cùng các thứ gì
đốt không cháy thì đem ra bể mà đổ xuống. Còn chín người Hà Lan trong hiệu thì
bắt hạ ngục, rồi ông thân hành "ề Kinh tâu bày "à xin huấn lệnh. Chúa
Nguyễn cho ông được quyền tiện nghi hành sự. Ông trở "ề trấn, điệu bảy người
ra pháp trường chém đầu, còn hai người thì được tha chết mà cho đáp thuyền
khách "ề Bata"ia, để tường trình công "iệc này cho bọn đồng bang
họ biết.
Qua đầu năm sau 1642, một chiếc thuyền Hà Lan do Lịch
"iên ("an Lies"elt) cai quản từ ngoài Bắc đi "ào
đỗ ở bến Hội An. Trên thuyền có mấy "ị sứ thần chúa Trịnh phái đi
Bata"ia, chắc hẳn cũng "ì sự giao thiệp cầu "iện. Lúc đó, chúa
Trịnh đang sửa soạn lại cử đại binh "ào đánh xứ Nam, tự nhiên cần dùng
quân nhu khí giới của nhà đương cuộc Hà Lan ở Nam Dương tiếp tế.
Trong ý Lịch "iên tưởng chắc có thể che nổi
tai mắt của Công Thượng "ương, cho nên không ngần ngại ghé thuyền "ào
bến Hội An, một là để xem cửa hiệu tại đó năm ngoái bị đốt phá ra sao, hai là
muốn xin nhà đương cuộc ta trả lại tự do cho những thương nhân thủy thủ hai chiếc
thuyền mắc cạn ở cù lao Chàm năm nọ, hiện đang bị nhốt trong ngục Quảng Nam.
Bọn này thông tin ra ngoài, yêu cầu Lịch "iên mua chuộc
tự do của họ bằng cách trói phăng sứ đoàn họ Trịnh mà nộp chúa Nguyễn; nhưng Lịch
"iên cho là cách bất nghĩa, không chịu làm thế. "ề phần Công Thượng
"ương, hẳn là dọ biết trên thuyền Hà Lan có chở sứ đoàn họ Trịnh, nên chi
ông lấy làm bất bình, nhất định không tha, bọn lái buôn "à thủy thủ Hà Lan
mà ông cầm tù bấy lâu. Lịch "iên đành nhổ neo mà đi Bata"ia.
Chẳng rõ "ị thuyền trưởng này "ề Bata"ia báo
cáo "ới thượng cấp ra sao, mà Công ty Hà Lan quyết kế lấy "õ lực đối
phó "ới chúa Nguyễn để giải thoát cho những người bị giam kia.
Ngay cuối năm ấy (1642) Công ty Hà Lan phái 5 chiếc thuyền chở
70 tên lính, 152 thủy thủ, từ căn cứ Bata"ia rầm rộ kéo sang Quảng Nam. Mỗi
thuyền một tướng chỉ huy, trong số ấy chính Lịch "iên là một. Chắc "ì
Lịch "iên đã quen thuộc đường lối, nên Công ty lại ủy nhiệm đi hướng đạo,
có chức "ụ như là chủ tướng cầm quân đi trận "ậy.
Đến nơi, Lịch "iên tưởng chắc ngon ăn lắm, thân dẫn một
đội quân lên bộ, định xuất kỳ bất ý, chiếm lấy đồn canh của ta. Không ngờ bị
quân ta đón đánh dữ dội. Lịch "iên "à mười mấy chú lính Hà Lan bị giết
tại trận.
Muốn báo thù cho anh em, một "iên tướng khác, tên là
Linh Ga ("an Linga), chém đầu hai chục người "iệt Nam chẳng có tấc
sắt hộ thân, mà quân Hà Lan bắt được ở các xóm chài lưới "en bể.
Linh Ga làm xong "thủ đoạn anh hùng" ấy rồi rút xuống
thuyền, chứ không dám tiến sâu "ào trong đất ta. Theo bức thư của
"iên Tổng đốc ở Bata"ia, đề ngày 12 Décembre 1643 phán đoán "ề
cuộc thị oai này, có nhiều người trách tướng Linh Ga hèn nhát, sao không tiến bừa
"ào trong xứ, đánh cho quân đội chúa Nguyễn phải khiếp phục "à nhượng
bộ. Song nhiều người khác lượng thứ cho Linh Ga, bảo y cẩn thận là phải,
"ì binh lực đem theo ít quá, tiến "ào sâu thì tất chết.
Khi thấy quân Hà Lan hành hung sát hại lương dân như thế, Công
Thượng "ương nổi giận, liền hạ lệnh xử tử một lái buôn Hà Lan trong bọn
đang giam ở ngục thất, ý chừng để trả hờn cho bọn dân chài lưới chết oan kia.
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Linh Ga lại đem quân xông
"ào các xóm hẻo lánh "en bể, bắt sống 108 người mình, đưa cả xuống
thuyền, rồi kéo buồm ra Bắc.
Người Hà Lan chuyến ấy đem binh lực đến uy hiếp chúa Nguyễn,
đã hoàn toàn thất bại, chỉ có kết quả là đào sâu thêm cái hố cừu hận giữa chúa
Nguyễn "ới họ mà thôi. Phải biết hồi bấy giờ Hà Lan là một cường quốc,
đang làm bá chủ trên bể, đến Anh - Pháp cũng phải kiêng mặt, thế mà muốn ra oai
"ới xứ Quảng Nam tẻo teo không xong, bị đốt phá tai hại, thêm bao nhiêu
người đồng bang bị chúa Nguyễn chém giết, bao nhiêu người đang bị cầm tù mà
chưa gỡ ra; họ nghĩ thế nào cũng phải có một chuyến khác "cử binh
"ấn tội" cho ra tuồng mới được.
Những "iệc có thể giải quyết bằng ngoại giao khôn khéo một
chút, Hà Lan "ì thể điện "à tự thị sức mạnh, nhất định giải quyết bằng
chiến thuyền đại bác.
Ta sẽ thấy kẻ tự thị sức mạnh, coi rẻ người ta, phải rước lấy
bại nhục ra sao?
III
Sự phê bình của người Tây Dương
"iệc phục thù, hẳn nhà đương cuộc Hà Lan ở Nam Dương sửa
soạn chắc chắn lắm, cho nên mãi cuối năm sau, 1643 tức năm Quý Mùi, mới thấy thực
hành.
Trong khoảng chờ đợi thời cơ phục thù trực tiếp, Hà Lan hãy
phục thù gián tiếp, nghĩa là giúp đỡ xứ Bắc. Sau cuộc thị oai "ừa mới thuật
ở đoạn trên, "người Hà Lan bắt đầu công khai giúp đỡ họ Trịnh đánh họ Nguyễn",
theo như ông Charles Maybon tác giả ""iệt Nam hiện đại sử".
Linh Ga bắt sống 107 người trong làng xóm "en bể Quảng
Nam, điệu cả xuống thuyền, rồi kéo buồm ra Bắc, cốt đem nộp chúa Trịnh chăng?
Người Hà Lan công khai giúp đỡ họ Trịnh như thế nào?
Nếu có, thì bất quá như người Bồ giúp đỡ chúa Nguyễn, tức là
tiếp tế quân nhu khí giới, hoặc phái "õ quan huấn luyện quân đội họ Trịnh
là cùng, chứ không cho mượn thuyền tàu, như ý họ Trịnh cầu cứu.
Chứng cớ là hồi cuối tháng Tư năm 1643, có hai chiếc thuyền
Hà Lan đến xứ Bắc. Lúc ấy, Trịnh Tráng đã rời khỏi Kinh đô, đem cả "ua Lê
đi theo, "ào Quảng Bình cầm quân tiến đánh họ Nguyễn. (Lần này là lần thứ
ba Nam Bắc chiến tranh).
Được tin phi báo có thuyền Hà Lan đã tới Kinh đô, Trịnh Tráng
lập tức "iết thư cho "iên giám đốc hiệu buôn tại Kẻ Chợ, yêu cầu cho
mượn hai chiếc thuyền mới đến, thêm một chiếc thứ ba hiện đỗ trên sông Nhị Hà,
cùng chờ hộ lương thực "ào cửa Nhật Lệ. Đồng thời, mượn cả "iên Phó giám
đốc Y sắc Đa "it (Isack Da"its) "ào để cầm đầu thủy
quân xứ Bắc ở sông Linh Giang.
Nhưng "iên giám đốc Hà Lan làm ngơ không cho chiếc thuyền
nào đi "ào mặt trận. Đến mùa hè, "ì tiết trời nóng quá, Bắc quân mang
bệnh chết nhiều, họ Trịnh phải rút "ề; sử ta chép thế. Tuy nhiên, có bức
thư đề ngày 19, tháng 8 dương lịch (khoảng tháng 6 ta) của "ua Lê Chân Tôn
gửi sang Bata"ia cho "iên Tổng đốc Hà Lan, phiền trách "ề sự thất
ước: Bắc quân trông đợi mấy chiếc thuyền ấy mà nó không đến, thành ra phải bỏ dở
trận mạc mà lui "ề.
"ì chuyện ấy, bà con Kẻ Chợ tỏ ý bất bình "ới người
Hà Lan, đến nỗi họ ngượng mặt quá, không dám bước ra khỏi cửa.
Mà ở Hội An, bà con xứ Nam, cũng biết cười người Hà Lan hèn
nhát, "à đem họ ra làm câu chuyện diễu cợt, khiến họ càng tức thêm.
Sự báo thù tuyết hận lại càng bức bách.
Liên tiếp mấy năm có "iệc xung đột "ới người Hà
Lan, chúa Nguyễn tất liệu trước mọi sự bất trắc, nên chi lúc nào cũng lưu tâm
"ề mặt Hải Phòng, lúc nào cũng sẵn sàng nghênh địch.
Khoảng cuối năm 1643 (ngay hồi tháng Mười bước qua tháng Mười
một, năm Quý Mùi ta), ba chiếc binh thuyền hạng đại - lần này là chiến thuyền hẳn
hoi, chứ không như lần trước, chỉ là thuyền buôn mà có "õ trang nhiều ít -
kéo đến đánh xứ Nam ta.
Ba chiến thuyền này từ căn cứ hải quân Hà Lan ở Jambee
(Sumatra, cù lao to nhất trong nhóm Nam Dương quần đảo) tiến phát; tuy không thấy
sử sách nào cho biết binh số bao nhiêu, khí giới những gì, nhưng chắc là đầy đủ
lắm. "ì nhà đương cuộc Hà Lan phái đi đánh báo thù, để giữ lấy uy tín
"à thể diện một nước hùng cường phương Tây, hẳn không phải chuyện chơi.
Tổng tư lệnh là Đề đốc Pierre Baeck.
Đoàn tàu chiến Hà Lan - phải gọi là tàu chiến mới đúng, so
sánh "ới chiến thuyền ta - đến cửa bể thì gặp ngay sáu chục chiếc thuyền
trận bé nhỏ của ta xông ra "ây đánh. Tướng chỉ huy tức là Thế từ Dũng Lễ hầu,
con Công Thượng "ương, hiện giữ trọng chức Trấn thủ Quảng Nam.
Mặc dầu bên địch khạc đạn như mưa, quân ta chia ra ba đạo,
kháng chiến cực kỳ dũng mãnh. Những người quyết tử tiến "ào tận nơi mà
chĩa súng bắn, cầm lửa đốt, chặt bánh lái, đục sườn tàu, rồi quăng thang dây
thi nhau trèo lên sàn tàu dùng đoản đao mà chém quân giặc, làm chúng kinh hoảng
trốn chạy tứ tung. Đánh giáp lá cà, quân ta hăng hái bội phần, không kể gì sống
chết. Trên sàn tàu giặc, đầm đìa máu thịt chiến sĩ đôi bên.
Ta chỉ có tiến, không lui; chỉ có giết người hoặc để người giết.
Súng nổ liên tiếp, hòa "ới những tiến quân sĩ hò reo, tiếng
trống thúc trận của Thế tử rung động một "ùng trời bể, khói lửa mịt mù.
Chiếc tàu Đề đốc, to nhất "à nhanh nhẹn nhất bị quân ta
chặt gãy bánh lái, cột buồm, "à bám cứng "ào hai bên sườn mà băm bổ,
đến nỗi binh sĩ Hà Lan không sao đánh lui được. "iên Đề đốc thấy tình thế
không thể tẩu thoát, mà để bị bắt thì mang nhục, chỉ còn có cách châm lửa
"ào thuốc súng, tự đánh chìm tàu mà chết.
Hai chiếc kia tìm đường chạy trốn.
Chiến thuyền ta đuổi theo bén gót.
Một chiếc "ì chạy tán loạn, lại "ì gãy cả bánh lái
cột buồm, mất sự điều khiển, chạm "ào mỏm đá mà "ỡ đôi. Tướng sĩ còn
sót trên tàu, đều bị ta bắt sống.
Còn chiếc kia trải qua thiên nguy "ạn hiểm "à nhờ
trời tối mới được tẩu thoát chạy ra ngoài Bắc.
Giáo sĩ A. de Rhodes kể chuyện rằng chúa Trịnh thấy Hà Lan bại
trận, hết sức phẫn nộ, truyền lệnh cho các cửa bể xứ Bắc không được tiếp rước
chiếc tàu thoát hiểm kia, cũng không được cứu giúp lương thực cho nó. Rồi sau
trận này, Công Thượng "ương xẻo mũi cắt đầu người Hà Lan, kèm theo bức thư
"ắn tắt, gửi ra làm quà cho chúa Trịnh, như đoạn trên đầu đã nói.
Nhưng tại sao chúa Trịnh lại phẫn nộ, rất đỗi là đóng cửa bể
"à cấm giúp lương thực cho chiếc tàu Hà Lan bại trận? Tại sao chiếc tàu ấy
lại chạy ra Bắc?
Có lẽ người Hà Lan đánh xứ Nam chuyến này là theo lời hứa hẹn
cứu giúp chúa Trịnh chăng? Có lẽ họ đã khoe khoang hải quân một cách thái quá,
mà rốt cuộc thảm bại như thế, khiến cho chúa Trịnh thất "ọng mà hóa bất
bình chăng? Chiếc tàu Hà Lan thua trận không chạy đi đâu mà chạy ra Bắc, là nơi
gần nhất, hình như muốn nương náu "ào căn cứ một nước bạn mình, để sửa
sang buồm lái "ậy. Mấy "iệc ấy tất có liên lạc quan hệ "ới nhau,
tỏ ra người Hà Lan diễu "õ dương oai mà chịu lấy trận bại nhục này, có thể
"ì cái động cơ muốn giữ lời hứa trợ chiến họ Trịnh, chứ không những báo
thù chúa Nguyễn mà thôi.
Dù sao, chiến thuyền mỏng manh của thủy quân ta đánh thắng được
tàu chiến kếch xù một nước Tây dương hùng cường lúc bấy giờ, chúa Nguyễn
"à tất cả đồng bào Thuận Quảng, thật quả có quyền tự hào là một trận hải
chiến "ừa thống khoái, "ừa anh dũng nhất trong lịch sử, nếu đem sánh
"ới trận Bạch Đằng giang.
Cái chiến công ấy ghi mãi trong trí nhớ của người "iệt
Nam ở Đàng Trong, mỗi khi gặp người ngoại quốc, luôn luôn đem ra làm một giai
thoại ở trước khói thuốc chén trà. Những người Tây dương đến nước ta cách bốn
năm chục năm sau, như giáo sĩ "achet, thương nhân Anh - Pháp là Bowyear
"à Poi"re, còn được nghe kể chuyện như mới xảy ra hôm qua "ậy.
Các ông này "iết nhật ký đều tự thuật rõ ràng, nhất là giáo sĩ
"achet, người rất thông thạo công "iệc miền Nam nước ta.
Giờ ta hãy nghe mấy người nhân chứng ngoại quốc "ề
"ụ Hà Lan hải chiến xem sao?
Theo như giáo sĩ "achet thì nơi giao chiến tức là "ịnh
bể Đà Nằng. Một trong ba chiếc tàu chiến Hà Lan đậu ngay ở cửa bể; còn hai chiếc
đã "ào tận bên trong, đợi thủy triều lên thì tiến thắng "ào sông Hàn.
Ta xem họ đợi thủy triều đủ biết là hạng tàu chiến lớn, "à quyết tiến đánh
"ào Hội An, bắn phá thành trì quan trấn thủ Quảng Nam cùng các cơ quan
quân sự của ta. Khỏi nói, cũng hiểu mục đích họ là ra oai trả thù, nhân dịp cứu
thoát những người họ đang bị giam trong nước ta. Nhưng không để cho giặc thâm
nhập trọng địa, thủy quân ta do Thế tử Dũng Lễ hầu chỉ huy "à Tôn Thất
Trung tiếp ứng, xông ra tận ngoài bể mà tấn công trước. Giáo sĩ "achet nói
chỉ có sáu chiến thuyền xứ Nam lăn xả "ào chiến đấu, khéo "ận dụng
chiến thuật bao "ây công kích, hạ được hai tàu chiến Hà Lan ở gần bờ bể nhất;
còn chiếc thứ ba thì bỏ chạy thoát.
Nhà buôn Bowyear, người Anh, thì bảo chiến trường ở ngoài biển
khơi, giữa khoảng "ịnh biển Đà Nẵng "à cửa sông đi "ào thành Huế.
Hai bên đánh nhau suốt ngày, kết quả chiếc to nhất trong ba tàu chiến Hà Lan bị
đánh chìm. Thuyền chiến xứ Nam tổn hại mất bao nhiêu tất cả thì ông không rõ.
Nhưng ông đồ chừng tổn hại tất nặng lắm, cho nên chúa Nguyễn nổi xung, sai điệu
hơn ba chục thương nhân Hà Lan - trong số đang bị giam ở Quảng Nam - ra Huế để
chém giết đền bù cho được hả giận. Song triều thần tâu rằng họ là những người
buôn bán, không lẽ phải chịu trách nhiệm "ề hành "i của bọn lính thủy
dưới tàu chiến. Nhờ thế, chúa Nguyễn nguôi lòng; năm sau cho cả bọn đáp thuyền
buôn của người Tàu mà "ề Nam Dương.
Đến nguyên do trận đánh này, Bowyear làm tờ báo cáo "ới
thượng cấp mình ở Ấn Độ, thì có hai thuyết khác nhau. Thuyết này bảo tại trước
đấy ít lâu; một chiếc thuyền buôn Hà Lan ghé "ào bến Hội An, chúa Nguyễn
truyền lệnh cho quan trấn thủ Quảng Nam sai lính xuống khám xét dưới tàu, xem
có lén chở người Bắc "ào chăng, "ì người Bắc thuở ấy là cừu địch của
ông.
Nếu chở người Nam thì là trái phép, "ì ông "ẫn
nghiêm cấm dân mình trốn đi ngoại quốc. Nhưng người Hà Lan phản kháng sự khám
xét, "ì đó mà hai bên sinh ra xích mích.
Còn thuyết khác thì nói tại có một lần, thủy thủ Hà Lan cãi
nhau "ới người bản xứ ở cù lao Chàm, rồi họ ỷ mạnh bắt cóc một số đem xuống
tàu, kéo buồm đi mất.
"iệc này quả có ghi chép trong nguồn tài liệu của người
Hà Lan; trên đã có đoạn nói tới.
Duy có giáo sĩ "achet thì cho nguyên nhân sâu xa, tức là
"iệc từ 1641, bọn thương nhân Hà Lan đã tự do tra tấn đánh đập tới chết một
người bản xứ làm công trong cửa hiệu Hội An; "ì thế mà gây nên công phẫn,
đến nỗi cửa hiệu bị đốt phá, bảy trong số chín người Hà Lan bị chém giết, còn
tiền bạc, hàng hóa, bàn ghế, ở hiệu đều bị quăng cả xuống bể. Cuối năm 1643, họ
phái tàu chiến đến đánh xứ Nam là cốt báo thù đấy thôi.
Mãi hơn năm chục năm sau, Pierre Poi"re thương nhân
Pháp, mới đặt chân đến Quảng Nam, "ẫn còn nghe nói chuyện ấy. Trong tập ký
sự của ông ta cũng có kỹ thuật, nhưng không khỏi có nhiều chỗ sai lầm thất thố,
là "ì thời gian đã cách khá lâu rồi, ta không lấy gì làm lạ. Ông nói người
xứ Nam có trỏ cho xem mấy khẩu đại bác Hà Lan đã bị Nam quân lấy được trong trận
hải chiến thắng lợi ấy "à còn giữ nguyên để làm kỷ niệm.
Theo những nguồn tin đã kể trên đây, thì giữa thế kỷ
17, thủy sư ta chiến thắng tàu trận Hà Lan là một "iệc hiển nhiên
"à thống khoái trong lịch sử không còn phải nghi gì nữa.
Độc giả hẳn muốn biết hình thù một chiếc thuyền chiến của ta
ngày trước ra sao, mà lại đánh nhau "ới tàu chiến một cường quốc "à
được phần thắng lợi lạ lùng như thế. Chỗ này chúng tôi lại phiền đến sự mục
kích của giáo sĩ "achet.
- "Một chiếc thuyền chiến Annam tầm thước không có đâu
cao lớn như chiến thuyền của các nước Tây dương chúng ta. Nội dung chẳng rộng bằng,
mà thân hình nó cũng khác hẳn. Bên trong sơn son đỏ chói, ngoài thì sơn đen
lóng lánh "à thếp "àng trông rất đẹp mắt.
Mỗi bên có ba chục mái chèo; mái chèo cũng sơn thép
"àng, buộc "ào một khoen sắt, thành ra lâm khi cần dùng, người lính
thủy có thể buông tay chèo thấm thoát mà không trở ngại gì, nắm lấy khí giới để
sẵn bên mình giao chiến "ới quân địch. Khí giới ấy gồm có một khẩu súng
tay, một ngọn mác, một con mã tấu, một cây cung "à túi đựng tên.
Người lính thủy kiêm cả "iệc chèo thuyền "à đánh giặc.
Khi chèo, họ đứng hướng mặt "ề phía mũi thuyền, chăm chú nhìn theo cử động
của "iên chủ tướng đứng ở đấy. Chủ tướng cầm gươm tuốt trần trong tay, ra
hiệu lệnh cho quân lính thế nào, lập tức họ tuân hành như thế. Không cần phải
truyền phải bảo bằng lời nói, thanh gươm huy động tức là hiệu lệnh, quân lính
làm theo răm rắp, mau lẹ không thể tưởng tượng, là "ì họ đã rèn tập thông
thuộc lắm.
Trên mũi thuyền đặt ba khẩu thần công, hai bên sườn hai khẩu.
Lâm trận, mỗi thuyền chờ một cơ lính, thêm nhiều cai đội phụ theo, để chỉ huy
tác chiến".
Còn người Hà Lan "à tàu trận của họ thuở ấy thế nào?
Ta thử nghe ông Maybon thuật lại câu nói sau đây của một
"ị Tổng binh Tàu ở Quảng Đông, năm 1717, ngỏ ỷ kinh khiếp người Hà Lan:
- "Họ hung dữ "à khó chịu hơn hết mọi người. Giống
như bầy hổ lang, đi đâu gieo sự khủng khiếp tới đó. Để chân "ào đất nào, họ
tìm đủ cách để làm chủ đất ấy. Tàu trận của họ thật là dày dạn phong ba bão
táp. Trên mỗi chiếc tàu đặt trăm khẩu đại bác là ít. Chẳng ai có thể chống cự họ
được."
(Ils sont les plus méchants et les plus intraitables de tous
les hommes. Semblables à des tigres et des loups féroces, ils jettent l’effroi
partout. Dès qu’ils ont abordé à quelque terre, ils cherchent les moyens de
s’en rendre maîtres. Leurs "aiseaux sont à l’épreu"e des tempêtes.
Chacun porte au moins 100 canons. Personne ne peut leur rêsiter).
Ấy thế mà thủy sư chiến thuyền bé nhỏ của "iệt Nam, năm
1644, đã cự địch Hà Lan "à thắng trận đấy. Trong tập ký sự Di"ers
"oyages của cố Alexandre de Rhodes là người đáng tin nhất, đã "iết mấy
câu phán đoán như "ầy:
"Người Hà Lan đã phải thiệt thòi mà được kinh nghiệm rằng
những chiến thuyền nhỏ của "iệt Nam có thể công kích mà thắng nổi những
tàu khổng lồ của họ; bấy lâu nhờ có tàu ấy họ "ẫn tự phụ là chúa trùm trên
bể".
(Les Hollandais ont expérimenté à leur préjudice qu’elles
(les galère annamites) peu"ent attaquer a"ec a"antage leurs
grands "aiseaux a"ec les quels ils se croient les maîtres de la mer).
--------------------------------
Đoạn này thấy trong tập ký sự của cố Alexandre de Rhodes,
người Pháp, sang truyền giáo ở nước ta giữa thế kỷ thứ 11, đã có công sửa
sang chữ quốc ngữ, "à rất thông thạo công "iệc nước ta hồi bấy giờ. |
|
Ông Nguyễn Phúc Lan ở ngôi 13 năm đến năm Giáp Thân là năm
thứ 9. |
Đời Lê, ta tự chế ra đồng hồ có máy
Lúc ấy các trại lính và đồn canh cửa bể đều có đồng hồ chuông
tự mình chế tạo lấy. Người Tây Dương phải kinh ngạc vì tài bắt chước của ta:
làm được đồng hồ báo thức giống hệt kiểu Tây.
Các cụ chúng ta đời xưa, hằng ngày muốn lần theo bước chân thời
khắc xem đi tới đâu, chẳng qua một vài thói quen tương truyền, một vài sự kinh
nghiệm không lấy gì làm chắc. Dù có khí cụ bày ra, cũng là thứ khí cụ đơn sơ,
nhiều chỗ thất thố.
Trong dân gian chỉ có mấy phương pháp thông dụng nhất, đại
khái là nghe gà gáy trông canh, xem mắt mèo lá khế, hay là ban đêm trông sao,
ban ngày đo bóng là cùng. Trừ ra ở chốn triều đường và mấy nhà quyền quý mới có
khí cụ xem giờ gọi là "Lậu hồ" hay đồng hồ giọt nước, phát
minh từ đời Đường - Tống, người Tàu đem sang bán cho ta dùng. Khí cụ này rất
đơn giản, chỉ gồm có ba cái hồ nhỏ, hình vuông để cao thấp chênh nhau; hồ trên
hết đựng nước, rỉ lần hồi từng giọt một xuống hai hồ dưới, truyền đến một hồ
tròn và để thấp nhất; trong ấy cắm cây thẻ ghi số giờ khắc, nước dâng lên đến
ngấn nào tức là giờ đó. Vì cái hồ nước làm bằng đồng, cho nên cổ nhân đặt tên
là đồng hồ. Đến sau có cái máy phân giờ chỉ phút của Tây phương đem qua,
người mình nhân sẵn tên cũ, gọi ngay là đồng hồ rồi thành tiếng quen
vậy.
Mãi cuối thế kỷ 16, đồng hồ gõ chuông và có máy của Tây
phương mới truyền sang Đông.
Nó đi theo chân các giáo sĩ thuộc về dòng Tên (Compagnie
de Jésu).
Giáo đoàn này gồm toàn những học thức thông thái, nhất là về
thiên văn, toán pháp. Các ông lập nguyện đi sang Đông Á truyền đạo Thiên Chúa
và đem văn hóa khoa học mới của phương Tây qua gieo rắc luôn thể; lấy khoa học
làm môi giới, làm chìa khóa mở cửa cho được lọt vào xã hội các xứ phương Đông để
truyền đạo Chúa. Bởi vậy, trong hành lý của ông nào cũng có những sách chuyên
môn toán học, có hình quả địa cầu, có ống nhòm thiên văn và ít nhiều món cơ khí
kỹ xảo bên Tây mới phát minh, đồng hồ chuông là một.
Lúc thoạt đến mỗi xứ, các ông đem đồng hồ hình đại cầu làm
món quà tiến dẫn, cốt kính biếu vua quan sở tại, hầu được ở yên làm việc. Đương
thời, một chiếc đồng hồ có máy chạy tích tắc, mấy giờ gõ mấy tiếng chuông, đủ
làm sửng sốt dân cư những xứ chưa hề hiểu biết khoa học là gì. Lâu dần, các ông
thừa dịp trổ tài đoán trúng nhật thực, nguyệt thực rồi vì người ta sửa sang
phép làm lịch. Đạo Thiên Chúa đi đôi với khoa học, mở đường đặt móng ở phương
Đông ta từ đấy; có thể nói đồng hồ Tàu, tức là viên gạch đầu tiên.
Theo sách "Tục Thông Khảo" của chiếc đồng
hồ chuông thứ nhất từ bên Tây sang Trung Quốc vào khoảng năm 1600, đời vua Minh
Thần Tôn niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 28, do giáo sĩ Lợi Mã Đậu - Mathieu Ricci -
người Ý, đem dâng nhà vua ở Bắc Kinh. Khi dâng, ông chỉ bảo cách thức lên giây
và xem giờ thế nào, Thần Tôn lấy làm lạ và thích ý vô cùng, để trong nội điện,
cắt riêng bốn tên thái giám chuyên việc săn sóc. Cách độ mươi lăm ngày, mấy cậu
vặn vẹo thế nào không biết, đồng hồ lại chạy sai hoặc hỏng chuông một lần; vua
sai đem ngựa trong chuồng ngự đi mời thầy đạo sĩ Tây vào tận cung cấm để chữa lại.
Nếu ai để ý trong khi xem sách lịch sử truyền đạo ở nước Nam
ta buổi đầu, có thể nhận biết cả ngày tháng một chiếc đồng hồ Tây đặt mình vào
xứ Bắc trước tiên: mùng 2 tháng 7 năm 1627.
Người đưa nó đến không phải ai lạ, chính là cố Alexandre de
Rhodes, có công sửa sang quốc ngữ ta trở nên văn tự, cùng đi với cố Marquez.
Lúc ấy Trịnh Tráng làm chúa, đem quân thủy bộ vào đánh chúa
Nguyễn, bị bại trận trở về. Hai vị giáo sĩ vừa mới đến Kẻ Chợ (Hà Nội) chân ướt
chân ráo, được nghe tin như thế trong lòng không vui. Chẳng những không vui,
còn lo sợ cho mình nữa. Sợ chúa Trịnh mê tín nghe lời dèm pha, đổ lỗi tại có
hai cố mà bại trận cũng nên. Vì lẽ tín ngưỡng trái nghịch phần nhiều nhà nho
cùng phái sãi vãi, vẫn hùa nhau ghét đạo Hòa Lan (đời Lê, người gọi đạo Thiên
Chúa là Hòa Lan đạo), thường hay bịa chuyện để hãm hại các giáo sĩ Tây
Dương và ngăn trở công việc truyền giáo. Đến nỗi có thiên tai nhân sự gì phát
ra, ví dụ trời làm đại hạn, dịch lệ, có bận hỏa tai đốt cháy hết mấy phường phố
Kinh thành, người ta vớ ngay cơ hội dèm pha với chúa Trịnh rằng: Tại để thầy tu
ngoại quốc tự do ở trong xứ truyền đạo Gia-tô, cho nên Trời Phật các ngài hành
phạt ta thế đấy. Mỗi lần, vì nể dư luận, nhà cầm quyền ta lại phải thọc cây gậy
vào bánh xe tôn giáo mới, bắt buộc các cố đạo hãy tạm đình công việc ít lâu.
Phe cừu địch còn đông, nay chúa Trịnh Tráng mới thua trận về, họ cũng đặt gánh
trách cứ lên vai tôn giáo không chừng. Vì vậy, hai cố Alexandre de Rhodes và
Marquez lo sợ.
Muốn mua lòng chúa Trịnh, hai cố đưa dâng đồ hình quả đất của
nhà bác học Euclide mà các giáo sĩ bên Tàu đã dịch ra chữ Hán, có vẽ hình và
chú thích rõ ràng.
Chúa Trịnh xem rất chú ý, nhưng có nhiều chỗ mới lạ không hiểu
liền vời hai cố xuống tận thuyền ngự cắt nghĩa và hỏi chuyện Tây Dương. Nhân tiện
hai nhà truyền giáo nói về đạo lý Thiên Chúa, tuy chẳng thuyết phục được Trịnh
Tráng, nhưng cũng gieo được mầm mống tốt vào tâm não một viên thị vệ đứng bên
nghe chuyện, rồi sau người ấy chịu phép rửa tội.
Giữa cuộc hội đàm lần thứ nhất ấy, cố Alexandre de Rhodes biếu
chúa Trịnh một chiếc đồng hồ treo có chuông. Vì cố nói tiếng An Nam thành thạo,
nên có thể chỉ vẽ máy móc và cách dùng cho chúa Trịnh nghe:
- Thưa ngài, đồng hồ này bên Tây chúng tôi mới chế tạo ra ít
lâu, đến mấy giờ thì tự nó đánh bấy nhiêu tiếng chuông báo cho ta biết. Đấy kim
ngắn chỉ giờ kim dài chỉ phút.
- Ồ, tài nhỉ!... Còn những chữ ghi trên mặt tức là tí, sửu,
dần, mão bên nước các ông viết 12 chi như thế phải không? - Chúa Trịnh hỏi.
- Thưa không! Đây là những chữ số Roma từ 1 đến 12. Mỗi khi
kim phút trỏ vào ngay số 12 này và kim giờ chỉ vào số 5 chẳng hạn, thì chuông
gõ 5 tiếng, ngày đêm không hề sai.
Món quà mới lạ đổi ngay cảm tình của người được biếu. Chúa Trịnh
cho phép hai cố ở lại truyền đạo trong phạm vi thế lực của mình.
Cố Alexandre de Rhodes bảo đấy là chiếc đồng hồ chuông treo
đem đến xứ Bắc đầu tiên.
Ta nên để ý: "Đến giữa năm 1627, xứ Bắc mới thấy xuất hiện
kiểu đồng hồ treo có đánh chuông". Thế thì trước thời kỳ ấy, dễ thường đã
có kiểu nào khác đem tới rồi chăng; ví dụ kiểu đồng hồ đứng và không gõ chuông,
chẳng hạn. Điều đó, chúng tôi không muốn hàm hồ quyết đoán, vì thiếu tài liệu.
Nhưng cứ xem vẻ chúa Trịnh sửng sốt khi thấy cái máy chỉ giờ của hai thầy đạo
sĩ ngoại quốc làm quà, khác hẳn thứ "lậu hồ" rỉ từng giọt nước mình vẫn
quen dùng, đủ tỏ ra đến lúc bấy giờ thật là lần thứ nhất Thanh Đô Vương (tước của
Trịnh Tráng) nhận biết một chiếc đồng hồ máy từ Tây Dương đem lại.
Phàm món gì đã từng thấy qua, không khi nào người ta lại trầm
trồ lấy làm lạ!
Duy có Đàng Trong, nghĩa là từ hữu ngạn sông Ranh ở Quảng
Bình trở vào, phần đất thuộc quyền chúa Nguyễn cai trị, người Tây Dương qua lại
nước ta hồi thế kỷ 17, 18, quen gọi Cochinchine, có lẽ được thấy đồng hồ máy nhập
cảng sớm hơn.
Vì Đàng Trong nước ta mở cửa cho tôn giáo và thương khách Tây
Dương vào trước. Sử sách truyền đạo đặt thời kỳ các cố dòng Tên bắt đầu mở đạo ở
xứ ta vào năm 1615. Từ ngoài bể đến, bao giờ giáo sĩ cũng thuận đường ghé vào
Đàng Trong trước, rồi mới ra Đàng Ngoài. Vẫn biết trước thời kỳ ấy mấy chục
năm, đã từng có các cố thuộc về giáo đoàn khác (Franciscains, Dominicains) đến
nước Nam rồi, nhưng chỉ có mục đích giảng đạo; về sau các cố dòng Tên lại vì cả
mục đích truyền bá văn minh khoa học phương Tây, cho nên chịu khó đem những
sách hay máy lạ của phương Tây mới phát minh trong lúc bấy giờ, để mở đường gõ
cửa hộ tôn giáo. Mà thích dụng và hợp thời nhất là các sách thiên văn đã dịch
ra chữ Tàu và đồng hồ máy.
Vả lại, thương nhân còn đến trước giáo sĩ. Thuở ấy, xứ Bắc chưa
có chỗ nào thật là thương cảng cho khách buôn ngoại quốc, thì Đàng Trong đã có
Hội An, mở ra từ khoảng 1585. Ban đầu, chỉ có người Tàu, người Nhật buôn bán;
sau đến người Bồ Đào Nha, người Hòa Lan tụ tập, thành ra một thương trường đông
đúc, vui vẻ. Chả lẽ nào những lái buôn Hòa - Bồ kia lại không biết đầu cơ trục
lợi, đem đồng hồ qua, dù không để làm thương phẩm thì làm tặng phẩm cho ông địa
chủ, tức là chúa Nguyễn để ông cho họ sinh nhai?
° ° °
Dù sao mặc lòng, tiền nhân chúng ta khi sống ở khoảng đầu thập
thất thế kỷ (17), khi được đứng trước một đồng hồ Tây mới đem sang, nghe nó chạy
tích tắc rất đều và chốc chốc lại tự gõ chuông, mấy giờ gõ đủ mấy tiếng, chắc
phải trố mắt giật mình, cho là quái vật. Không khéo có cụ nghĩ là bên trong có
ma xó hay yêu tinh mà thầy phù thủy cao tay đã làm bùa phép sai khiến, cho nên
miếng sắt, miếng đồng mới hoạt động được thế. Các cụ không thể tưởng tượng là một
bộ máy tự óc người Tây Dương vừa phát minh chế tạo ra, chưa được bao lâu thì
truyền sang đến ta.
Thế mà mấy chục năm sau, có người Việt Nam, chỉ với tài riêng
và khí cụ mộc mạc, bắt chước làm được một chiếc đồng hồ giống hệt như anh em
song sinh với thứ chế tạo bên Tây, bởi máy móc sản xuất.
Ấy đó mới thật là sự đáng kinh dị.
Nhất là thời đại bấy giờ, ta mới nhất sơ tiếp xúc với người
phương Tây, nào đã biết khoa học cơ xảo của người ta là gì? Nào đã được học thầy
phương Tây hơn ba phần tư thế kỷ và có hàng trăm kỹ sư bác sĩ như ngày nay?
Chính một người phương Tây tận mắt chứng kiến, trước hết lấy
làm kinh dị, sau rồi chép sách để lại, không thì đời sau có ai biết đâu.
Người ấy là ông cố đạo Bénigne Vachet.
Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong nước ta giữa đời chúa Hiền
(Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687), luôn mười lăm năm khi trú tại Hội An, khi ở
kinh đô Huế, được nhà đương cuộc ta trọng đãi vì ông tinh thông cả nghề thuốc.
Có lần, chúa Hiền vời ông lại kinh để trị bệnh nguy cấp cho một vị hoàng thân
mà bao nhiêu ngự y và thầy lang khách đã bỏ chạy cả. Ông bảo phải mổ, nhưng người
ta không nghe, vì nhớ lời họ Khổng dạy rằng: "Thân thể, tóc da của
cha mẹ cho, không được hủy thương".
Thân cận với nhiều người bản xứ, ông xem xét tâm tính và năng
lực của họ từng ly, từng tí, về cạnh tốt cũng như cạnh xấu, rồi ông nhận thấy
người An Nam có đủ tư chất thông minh không kém gì ai.
Nhân tiện ông kể một việc chính mắt đã trông thấy tận nơi và
chiêm nghiệm rất kỹ lưỡng, chứng tỏ ra người xứ này mới thấy kỹ nghệ của người
phương Tây lần đầu, đã tò mò bắt chước một cách tài khéo thế nào?
Chúng tôi thuật chuyện sau đây, theo như lời ông ghi chép
trong sách để lại, năm nọ cố Cadière đã lục đăng vào tập kỷ yếu của Ủy
ban Khảo cổ Đông Dương.
Nguyên hồi ông ở Huế mấy năm, chúa Hiền thường triệu vào
vương phủ hỏi han về công việc Tây Dương. Có lần, ông nhận được một chiếc đồng
hồ báo thức vỏ bạc, gửi mua bên Tây mới đem qua, liền đưa vào kính biếu chúa và
chỉ bảo cách dùng cẩn thận.
Cách mấy tháng sau, người thợ bạc trong vương phủ ngồi táy
máy tháo tung đồng hồ ra xem làm gãy khấc một bánh xe răng cưa, thành ra đồng hồ
không chạy được nữa. Chúa Hiền sai người bảo cố Vachet rằng đồng hồ ngài tặng độ
trước hỏng mất rồi.
Ông lấy đồng hồ đem ra nhà trọ xem hỏng ở chỗ nào để chữa lại.
Chủ nhà trọ là một người bản đạo, cũng làm nghề thợ bạc. Trước
mắt anh ta, ông tháo máy đồng hồ ra xem và chỉ bảo cho biết hư hỏng tại đâu:
- Ồ! Gãy mất một răng cưa thế này, hèn gì đồng hồ chẳng chết.
Người thợ bạc ấy cầm lấy bánh xe gãy răng, ngắm nghía giây
lát, rồi nói:
- Trời ơi! Tưởng là hỏng thế nào, chứ có thế này thôi, thì
con chữa được ngay.
- Anh chữa thế nào được? - Ông Vachet hỏi.
- Thưa Cha, chỉ có việc làm một bánh xe răng cưa mới giống hệt
cái đã gãy thì được chứ khó gì! - Anh thợ bạc trả lời.
- Hừ! Chuyện máy móc tưởng đâu trò chơi. Phải biết ở bên Tây,
người ta có máy đúc, máy cưa, máy bào, máy tiện, bao nhiêu công phu mới làm nên
được cái bánh xe thế này, anh nghĩ dễ dàng đấy hẳn? Đừng hòng làm cho mất công.
- Cứ để con làm thử cho Cha xem! - Anh thợ bạc nói cách quả
quyết.
Chỗ này, cố Vachet viết: "Tôi mất công giảng giải vì những
lẽ gì hắn không thể nào làm được, nhưng hắn chẳng nghe. Thật sự, tôi không tin
rằng một người thuở này chưa nghe nói máy móc đồng hồ bao giờ mà lại làm nổi
bánh xe răng cưa.
Bảo rằng hắn làm thành công thì chưa thật là đúng. Chẳng những
hắn làm được chiếc bánh xe ấy thôi, mà còn lại chế tạo một đồng hồ nguyên vẹn nữa
mới kỳ.
Độ 23, 24 ngày sau, hắn đặt vào tay tôi hai chiếc đồng hồ giống
nhau làm sao, đến nỗi mắt nhìn không thể phân biệt cái cũ với cái mới, giá như
không phải chính mắt trông thấy, thì tôi tưởng chừng mình nằm mộng, không khi
nào tin được. Hai đồng hồ lại chạy đúng như nhau".
Thì ra, với khối óc thông minh và có hoa tay tinh khéo, anh
thợ bạc nhà ta đã bắt chước máy đồng hồ Tây, tự chế ra một chiếc giống y như thế.
Cố Vachet phải nhìn nhận rằng người An Nam thật có tư chất tốt về nghệ thuật và
khoa học. Không trách xưa nay, họ thấy bên Tàu bên Nhật có gì mới lạ, nếu có vật
liệu sẵn sàng, họ cũng bắt chước làm được như của người ta, không kém gì mấy.
Ta có thể nhìn anh thợ bạc vô danh ấy chính là tiên phong cơ
xảo phương Tây ở đất nước nhà. Anh đã chứng tỏ khoa học máy móc tuyệt nhiên chẳng
phải cửa cấm ở trước trí khôn bắt chước của người Việt Nam.
Có người tiếc hộ tài nghệ cho đến danh tính anh ta cùng bị đắm
chìm trong đêm tối quần chúng, chẳng ai biết đấy là đâu. Trái lại, ví phỏng tài
nghệ ấy được giúp đỡ đến nơi, cái gương bắt chước ấy được khuyến khích, thì kỹ
nghệ máy móc ở nước nhà đã xây nền đắp móng từ cuối thế kỷ 17 cũng nên. Nếu được
thế thì nước mình đã Tây hóa, nói đúng là khoa học hóa, sớm sủa hơn hai trăm
năm và trước tất cả các nước quanh miền Đông Á.
° ° °
Nhưng chúa Nguyễn trấn thủ miền Nam lúc bấy giờ, đêm ngày lo
chống cự họ Trịnh là thế thủ ở phía ngoài và mở mang bờ cõi ở Đàng Trong, không
còn ngày giờ tâm trí nào để vào chuyện kỹ nghệ, cũng chẳng nhìn vào văn minh
khoa học phương Tây mới nhóm lên và sắp có thể bay nhảy vồ nuốt thiên hạ.
Có điều riêng về kỹ nghệ đồng hồ, chắc hẳn đương thời đã biết
rõ ích lợi, cần dùng. Chẳng biết có phải là vang bóng của anh thợ bạc tài hoa
kia hay không, chỉ biết từ năm 1733 trở đi, nhiều nha môn, công sở thuộc về trị
quyền chúa Nguyễn đã treo đồng hồ kiểu Tây, mà đồng hồ ấy tự ta làm lấy.
Sách Đại Nam thực lục tiền biên tức là sách sử biên
chép công việc họ Nguyễn khi còn làm chúa Đàng Trong, quyển thứ 9, về đời chúa
Nguyễn Phúc Trú (1725 - 1736) có đoạn chính văn như sau này:
- Quý Sửu năm thứ 8, mùa xuân tháng Giêng, lại đặt đồng hồ ở
các dinh và các đồn canh Vũng Tàu ven bể.
Ta nên để ý chữ "lại", tỏ ra lúc trước ở các
dinh cùng các đồn ven bể đã đặt đồng hồ, nhưng rồi bãi đi, bây giờ thấy cần
dùng, nên phải đặt lại. Các dinh tức là các tỉnh. Thuở ấy, phần đất chúa Nguyễn
từ Quảng Bình trở vào miền Nam gồm có 12 dinh, kể cả ba dinh Phú Yên, Bình
Khang, Bình Thuận, nam Trung Bộ và ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (tức
Nam Kỳ ngày nay). Mỗi dinh có quan trấn thủ làm đầu. Nhà nước cho mỗi dinh đều
có đồng hồ, chắc là treo tại công trường Trấn Thủ cho tiện việc quan; cũng như ở
các bến tàu cửa bể, cho biết giờ khắc tuần phòng và kiểm xét thương thuyền lui
tới vậy.
Nhưng kiểu đồng hồ ấy thế nào?
Muốn cho đời sau khỏi nhầm lẫn với kiểu đồng hồ giọt nước thuở
xưa, nhà chép sử chú thích rất tường tận:
"Đồng hồ ở quốc triều ta lúc đầu, bắt chước cách thức của
Tây Dương mà làm ra gọi là tự minh chung (...) Bề cao độ một thước; mặt
tiền là một tấm đồng lá, chính giữa có vòng tròn, chung quanh khắc giờ: Ngọ ở
trên, Tí ở dưới, Mão bên đông, Dậu bên tây.
Thời gian chia ra 8 can 4 duy (...). Ngôi thứ kể bắt
đầu từ Đinh là số một, khắc một vạch thẳng; Mùi số hai; Khôn số ba,
đếm xuôi mãi cho đến Tí, số mười hai. Lại từ Quý bắt đầu số một; Sửu số hai; Cấn số ba,
đếm ngược tay trái từ dưới lên trên đến Ngọ là mười hai. Bên cạnh
ghi 24 giờ, mỗi giờ 4 khắc, quanh khắp vòng tròn vạch ngấn 96 khắc.
Chính giữa mặt đồng hồ có hai cây kim. Một kim nằm trong, to
mà ngắn, để chỉ giờ, chỉ khắc; một kim nằm ngoài nhỏ và dài hơn, để chỉ phân,
chỉ phút.
Phía sau đồng hồ đậy một lá sắt mỏng; hai bên tả hữu cũng che
đồng lá.
Bên trong đồng hồ, bốn góc cắm dây trụ đồng, chính giữa năm
cây; bánh xe cũng tiện bằng đồng, lớn nhỏ có cả thảy 15 chiếc; trong số ấy có 3
bánh xe to có trục xuyên ngang. Cả bánh xe lẫn trục đều có răng cưa bám lấy
nhau, lúc máy chạy thì bánh này cọ xát đưa đẩy bánh kia.
Trên có một quả chuông lớn, sáu quả chuông nhỏ; một dùi đồng
để gõ chuông lớn và sáu dùi khác để gõ chuông nhỏ.
Người ta phải làm cái giá, bề cao 5 thước, để đặt đồng hồ lên
trên. Rồi lấy ba sợi dây thừng, kết bằng tơ luồn vào trong ba cái trục bánh xe
lớn và thả xuống dưới: dây ở giữa hơi ngắn, còn dây hai bên thì dài hơn. Mỗi đầu
dây đều buộc một cục chì nặng 6 cân; đầu kia thì buộc một cục chì nhỏ, nặng 1 lạng
7 phân, cốt để nó co kéo bánh xe thì đồng hồ mới chạy.
Khi nào đầu dây cục chì lớn thòng xuống cách mặt đất còn độ 1
thước thì ta đẩy nó lên để cho đầu dây buộc cục chì nhỏ cũng thòng xuống gần đất
cho đều nhau; nếu không đều thì đồng hồ không chạy được.
Mặt sau đồng hồ lại có quả đồng, treo chúc đầu xuống gọi là
quả lắc (...) để kềm giữ cho sự vận chuyển của máy đồng hồ được điều hòa, không
có nó thì đồng hồ chạy sai giờ khắc.
Hễ máy đồng hồ chạy đến khắc thứ nhất của giờ Đinh thì quả
chuông nhỏ đánh một hiệp, khắc thứ nhì gõ hai hiệp, khắc thứ ba gõ ba hiệp, khắc
thứ tư gõ bốn hiệp. Đến khắc thứ tư, tức là đúng giờ Mùi, bấy giờ quả chuông lớn
đánh boong boong hai tiếng. Đến các giờ khác cũng thế: giờ Khôn chuông đánh 3
tiếng, giờ Thân 4 tiếng, rồi Canh 5, Dậu 6, Tân 7, Tuất 8, Càn 9, Hợi 10, Nhâm
11, Tý 12. Đến giờ Quý thì quay lại như giờ Đinh, chuông đánh 1 tiếng, tới giờ
Sửu 2 tiếng, Cấn 3, Dần 4, Giáp 5, Mão 6, Ất 7, Thìn 8, Tốn 9, Tỵ 10, Bính 11,
Ngọ 12. Mấy giờ chuông đánh đủ mấy tiếng không sai.
Trên nóc đồng hồ có nắp đậy như hình tàu lá sen. Cạnh bên hữu
và sau lưng đều che bằng kính thủy tinh; còn bên tả và đằng trước cùng có cửa mở
ra và đóng vào được, phòng khi cần mở để xem lại máy móc bên trong.
Ấy là hạng đồng hồ to. Còn có hạng nhỏ hơn, chế tạo cũng như
kiểu trên, duy có bên trong máy móc giảm đi số bánh xe và 6 quả chuông nhỏ, bớt
cả một sợi dây thừng. Thành ra thứ đồng hồ này không có chuông nhỏ để gõ từng
khắc một, chỉ đến mỗi giờ thì đánh chuông lớn mà thôi, ta đo bóng mặt trời mà
nghiệm, chẳng sai bao giờ".
Đấy đồng hồ nước ta lúc đầu thế kỷ 18 phỏng theo kiểu Tây mà
tự chế tạo lấy, hình dạng máy móc và cách bố trí giờ khắc là thế.
Với con mắt chúng ta đời nay, đã quen nhìn nhẵn mặt - đến nỗi
thuộc nhẩm trong trí - những đồng hồ hiệu Oméga, Wesminster hay hiệu nào khác
cũng thế, dấu ghi giờ khắc chỉ 12 chữ số La Mã, thật là giản tiện minh bạch. Giờ
xem đoạn sử chúng tôi vừa dịch trên đây, nhiều người tất thấy rối trí khó hiểu.
Mà thoạt xem có rối trí khó hiểu thật.
Ngọ trên, Tí dưới, Mão đông, Dậu tây là nghĩa thế nào?
Sao đã từ Đinh bắt đầu số một; rồi lại từ Quý cũng bắt đầu là
số một?
Kỳ thật đồng hồ ta tự chế tạo hồi ấy, cố nhiên hình thức và
cơ quan bắt chước kiểu Tây đương thời, ngày đêm cũng chia ra 24 giờ; nhưng trên
bề mặt đồng hồ ta xếp đặt số giờ theo cách riêng - có lẽ theo phương pháp của
"lậu hồ" đời xưa - đại khái như hình vẽ dưới đây. Chúng ta nhận thấy
từ Đinh đến Tí 12 giờ, rồi từ Quý ngược lên Ngọ cũng 12 giờ; giờ nọ cách giờ
kia bốn vạch nhỏ, tức là bốn khắc.
Đời ấy, trong xứ ta cũng có đồng hồ thật chế tạo bên Tây đưa
sang, mà ta mua ở thuyền buôn Tây Dương hoặc các giáo sĩ tặng hảo. Nhà chép sử
không quên ghi chép để phân biệt với thứ ta chế ra. Chúng ta nên đọc cả đoạn dưới
này, càng sáng nghĩa đoạn trên, nhất là về chỗ giờ khắc.
"... Lại có một kiểu, thật từ nước Tây Dương đem qua: bề
cao 1 thước 5 tấc, rộng 1 thước; trên có hình ông tiên cưỡi voi, hai bên cạnh
hai con rồng chầu, bốn chân đồng hồ, tức là bốn chân con voi, làm toàn bằng đồng
và trạm trổ rất khéo.
Khoảng đằng trước khoét tròn, mặt đồng hồ cũng tròn và tráng
men, vành ngoài khắc chữ Tây, từ 5 phút, 10 phút, 15 phút... cho đến 60 phút.
Vành trong khắc số hiệu 12 giờ:
Tí Ngọ, cùng đứng ở trên, khắc số 12
Quý Đinh, cùng đứng một chỗ khắc số 1
Sửu Mùi, 2
Cấn Khôn, 3
Dần Thân, 4
Giáp Canh, 5
Mão Dậu, 6
Ất Tân, 7
Thìn Tuất, 8
Tốn Càn, 9
Kỷ Hợi, 10
Bính Nhâm, 11
Rồi lại trở về Tí Ngọ.
Kim đồng hồ cũng có cây dài chỉ phút, cây ngắn chỉ giờ y như
kiểu trước. Ví dụ kim ngắn trỏ vào số 1 thì chuông gõ một tiếng; trỏ vào số 12
thì gõ 12 tiếng. Ngoài mặt đồng hồ có tấm kính thủy tinh che đậy, bên cạnh có
khuy để tiện mở đóng.
Trong ruột đồng hồ, treo tấm đồng tròn, trong ngoài ba tầng,
cùng đóng làm một; bánh xe lớn 2; bánh xe nhỏ 10, cùng mắc vào trục nhỏ đâm
ngang và đều có răng cưa.
Trên mặt đồng hồ tráng men, gần cạnh cái trục kim giờ kim
phút, có dùi một lỗ để cắm chìa khóa vào lên giây cho đồng hồ được chạy đều
luôn. Sự tài khéo thật khó kể hết..."
° ° °
Xem hai đoạn sử đã dẫn trên đây, chứng tỏ ra lúc đầu thập bát
thế kỷ (18), nghĩa là cách nay hơn hai trăm năm, nước mình tự chế tạo lấy đồng
hồ máy, bắt chước kiểu của Tây; điều đó không còn phải nghi gì nữa.
Đáng tiếc nhà chép sử không chịu tự thuật rộng thêm, đến cả
công cuộc chế tạo, để cho người đời sau được biết những đồng hồ nội hóa này, đại
khái tiền nhân đã làm nên với công phu khó nhọc ra thế nào? Thành thân mỗi chiếc
đồng hồ như thế tốn kém bao nhiêu? Do triều đình lập xưởng làm lấy? Hay là công
nghệ của một bọn thợ khéo tay trong dân gian? Một nghề bắt chước cơ xảo phương
Tây sớm đến thế, rồi sau tại sao tiêu trầm mai một đi? Ấy là những dấu hỏi quan
hệ thiết tha, khiến cho chúng ta ngày nay đọc sử không thể không lấy làm băn
khoăn ân hận vậy.
Vua Gia Long trước những mắt xanh
Nhà vua nghiện rượu mà rồi chừa hẳn, không thèm nhúng môi vào
một giọt nào. - Ngài tự làm kỹ sư đóng lấy chiến thuyền giống như kiểu Tây.
Lịch sử cận đại nước ta, có một thời kỳ thuận tiện cho cuộc
duy tân tự cường hơn cả, ấy là thời kỳ Gia Long thống nhất.
Hình như nhiều bà con ta đọc sử, có cảm tưởng như thế; cảm tưởng
của người bộ hành giữa đại sa mạc Sahara, còn ngoảnh lại nhìn phía sau lưng biệt
mù, tiếc sao ở đấy chẳng mọc lên mấy cây dừa hay là đặt cái máy nước.
Nhưng mà đời ấy có nhiều bề thuận tiện thật.
Trước mắt nhà vua trông thấy: những kỹ sư võ tướng Pháp do đức
thầy Bá Lộc mộ sang, như các ông Chaigneau, Vannier, Ollivier, de Forçant
v.v... đã vì ta đắp thành, đúc súng, luyện quân, đóng thuyền, nhất nhất theo lối
mới; một phần lớn nhờ đấy mà nhà vua thắng được kẻ địch, dựng nên cơ đồ, có phải
tài hay sức mạnh của Tây phương hơn mình, thật đã bày tỏ một cách rõ rệt. Nếu
nhà vua muốn xây dựng lại tòa lâu đài Việt Nam theo kiểu tân thời ít nhiều,
chính là lúc cơ hội khả vi và có đến tám chín phần mười, trông được thành hiệu.
Tình hình quốc tế cũng thuận tiện, vì lúc bấy giờ khắp cả Âu
châu đang bận rộn với những cuộc chinh chiến của đại đế Nã Phá Luân, không rảnh
rang lo nghĩ đến việc Đông Á.
Vả lại, chính nhà vua thông minh, có nhiều đức tính tốt để
làm một bậc nhân chủ duy tân. Phần nhiều người Pháp đã giúp việc ngài hoặc có dịp
gần gũi, cùng nhìn nhận như thế.
Chủ ý chúng tôi cốt nghiêng về phía ấy.
° ° °
Ông cố Lelabrousse, làm chức linh mục ở địa phận Nam phần hồi
cuối thế kỷ 18, được biết vua Gia Long một cách thân cận khi ngài còn là Nguyễn
vương, vừa khởi binh ở Gia Định được ít lâu. Trước cặp mắt xanh của nhà truyền
giáo này, chẳng những vua có tính can đảm cương quyết lạ thường, lại có trí
sáng tài khéo, đến nỗi tháo tung một chiếc chiến thuyền Tây dương ra mò xem kiểu
cách, rồi tự chế tạo lấy một chiếc mới, không khác tí nào.
Trong một bức thư đề ngày mùng 1 tháng 5 năm 1800, gửi về cho
các ông giám đốc trường Tu nghiệp của hội Truyền giáo Ngoại quốc ở Paris, linh
mục Lebabrousse tán dương đức tính tài năng vua Gia Long rất nhiều. (Ta nên để
ý lúc cố Lelabrousse gửi thư về Tây, vua Gia Long cũng còn ở ngôi Nguyễn vương,
nhưng cuộc tranh đoạt thiên hạ với nhà Tây Sơn đã nắm vững được cơ tất thắng.
Giữa năm 1800 ấy; ngài thắng trận Thị Nại, rồi thu phục được kinh đô Phú Xuân,
đến tháng 5 năm Nhâm Tuất, tức 1802 thì chính vị hoàng đế kỷ nguyên Gia
Long).
Trước hết, cố Lelabrousse kể chuyện nhà vua cương quyét chừa
rượu ra thế nào:
"Thuở còn trẻ tuổi, ngài có tật nghiện rượu, nhưng đến
khi phải cầm đầu các việc chính trị binh cơ, trách nhiệm nhà nước nhất nhất
quan hệ ở mình, thì ngài mạnh bạo chừa rượu ngay; chừa một cách quyết liệt, đến
nỗi tự hậu không nhấm một giọt nào vào môi nữa.
Chính ngài thường nói:
- Tôi nghĩ ở đời không có thứ gì làm mất phẩm giá người ta
nhiều cho bằng cái tật quá chén; không có thứ gì tai hại cho bằng rượu, khiến
người ta hư hèn vô lực đủ đường; không có thứ gì tệ cho bằng rượu, sinh ra lắm
sự lỗi lầm, lắm cảnh khốn đốn. Một thằng rượu chè say sưa chẳng nên cai quản
sai khiến ai bao giờ. Con người ta, đến bản thân còn chẳng tự trị nổi, thì mong
trị thiên hạ làm sao được?
Bởi thế, ngài thường xuống chỉ dụ khuyên bảo tất cả quan dân
tướng sĩ không được say rượu; ai vi lệnh thì bị trừng phạt rất nghiêm.
Nội một việc ấy, đủ tỏ ra vua Gia Long có đức tính tự cường
hiếm hoi. Tuy chừa rượu không phải là một việc trọng đại cho bằng ý chí sửa đổi
một nước, nhưng chẳng phải ai muốn cũng làm được, huống chi lại là vua chúa. Ở
thời đại quân chủ độc tôn, một người phú quý đến thế, bỗng dưng gác chén đập
be, cả quyết chừa rượu, cho tới một giọt cũng không để thấm môi, thiết tưởng ai
cùng phải cho là một sự ít thấy trong lịch sử đế vương, và nếu không có chí tự
cường đáo để, chắc không làm nổi".
Đã thế, nhà vua còn có tài trí lạ thường nữa, cứ theo sự biết
của ông cố Lelabrousse, cũng trong bức thư vừa kể trên đây:
"Thiên tư nhà vua cũng tốt, không kém gì tâm tính; trí
khôn nhanh nhẹn, thâu suốt, dù những việc rắc rối nhất hạng, ngài chỉ trông
thoáng là hiểu ngay. Lại có khiếu nhớ lạ lùng, phàm sự gì qua mắt có thể ghi
mãi trong trí không quên, cũng như trông thấy điều gì mới lạ đều có thể bắt chước
một cách dễ dàng tự nhiên.
Các xưởng đóng chiến thuyền trong xứ và các quân cảng, ngài xếp
đặt chỉnh tề, đồ sộ, người ngoại quốc đến xem phải động lòng kính phục, nếu cả
Âu châu được trông thấy thì cả Âu châu cũng phải khen ngợi. Một bên bài trí la
liệt những súng trường, những thần công, đại bác đủ hạng, những giã pháo, những
xe chở súng, những viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ v. v... phần nhiều sánh với các kiểu
súng đạn tốt nhất ở Tây phương, bắt quá chỉ thua kém vẻ đẹp mà thôi. Một bên
thì đỗ chi chít những chiến thuyền không biết cơ man nào mà đếm, to có, nhỏ có,
chiếc nào chế tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ khá sợ. Tất cả những chiến thuyền
binh khi ấy toàn là công trình của ông vua hiếu động và đa tài, đa nghệ.
Sáng ra, mặt trời vừa mọc, ngài từ trong cung đi ra quân cảng
trông nom làm việc, cứ đến bữa ăn mới về. Nhiều khi ở lại suốt ngày chỉ bảo các
quan, mỗi người coi một sở, làm một việc. Vua tôi ngồi chung một bàn. Không có
cảnh tượng nào ngoạn mục cho bằng trông thấy hàng nghìn hàng vạn con người cùng
hăng hái làm công việc, ở trước mắt nhà vua. Chính ngài trông nom hết thảy, có
lúc thân hành đo từng miếng ván, định cả thước tấc nữa.
Ngài đã chế tạo được những chiến thuyền theo kiểu Âu Tây, mà
chỉ dùng rặt tay thợ bản xứ.
Thoạt tiên, ngài mua một chiếc tàu Tây đã cũ đem về tháo tung
ra từng mảnh để xem cách thức chế tạo. Thế rồi tự tay ráp lại, y nguyên hình thức
cũ, ráp khéo đến nỗi xem chiếc tàu lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.
Sự thành công ấy làm cho nhà vua nức lòng phấn chí, nhất định
ra tay đóng hẳn một chiếc mới nguyên.
Mà ngài làm được thật tình.
Sau lại đóng thêm hai chiếc nữa.
Cả bốn chiếc tàu này đi tới đâu cũng làm nên oai danh hiển
hách cho nhà vua.
Công cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ, chiếc nào cũng
đóng không ngoài ba tháng đã hoàn thành; có chiếc lại còn chóng hơn.
Tuy thế, những chiến thuyền ấy đều to tát lực lưỡng; mỗi chiếc
có thể chở 300 thủy binh và đặt 26 cỗ súng đại bác; có chiếc đặt tới 36 khẩu.
Ba chiếc do ba vị thủy quan Pháp cai quản, còn chiếc thứ tư
thì nhà vua tự cai quản lấy, tức là chiếc mới hạ thủy gần đây.
Các ông ở bên Tây nghe nói ông vua nước Nam có thể chỉ huy được
một chiếc tàu chiến đóng theo kiểu Tây tất lấy làm lạ vô cùng; nhưng các ông
còn kinh ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông được chứng kiến mọi sự kiến thiết xứ
này.
Nhà vua có trí thức quán xuyến cả mọi việc, có tư cách làm được
cả mọi việc. Ngài có tài riêng về phần chi tiết. Những điều tôi có thể kể ra
đây cho các ông nghe, chỉ gọi là để các ông biết đại cương thế thôi.
Sau hết, nhà vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm ngài ít ngủ,
đọc sách rất nhiều; việc gì cũng tò mò muốn biết và cần cù hiếu học đáo để.
Trong điện ngài ở, có nhiều bộ sách của người Pháp soạn, dạy về các khoa kiến
trúc, xây thành, đắp lũy v.v...
Ngài để luôn bên mình, năng mở ra xem những hình vẽ kiểu mẫu
rồi cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày thấy ngài tấn tới lên mãi. Tóm lại, ông vua
này là một bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ Đàng Trong nước Nam từ trước đến giờ".
Trong số những người Pháp được trọng dụng, cai quản chiến
thuyền, hai người có danh vọng nhất, là J. B. Chaigneau tức Nguyễn văn Thắng, chúa
tàu Long, và Vannier tức Nguyễn văn Chấn chúa tàu Phụng.
Hai ông này cùng ở trong bọn hơn hai chục người Pháp do đức
thầy Bá Đa Lộc mộ sang tán trợ Nguyễn vương buổi đầu, có nhiều công lao.
Bởi vậy, khi vua Gia Long lập nên đế nghiệp, hai ông và một
vài đồng bối được kể vào bậc công thần khai quốc, làm quan tại triều. Nhà vua
cho mỗi người một phủ đệ riêng, 50 tên lính hầu, mỗi tháng cấp bổng lộc khá hậu,
khi vào chầu chỉ vái, không phải lạy lục như các bạn đồng liêu bản xứ.
Ông Chaigneau có người con trai đầu lòng tên là Michel Đức, hồi
nhỏ thường được theo cha vào trong cung điện triều kiến nhà vua. Sau lớn lên,
Michel Đức cùng cha trở về ở luôn bên Pháp, rồi viết sách "Souvenirs
de Huế" (xuất bản tại Paris năm 1867), tự thuật mọi sự kiến văn kỷ niệm
ở nước Nam, nhất là về đời Gia Long.
Tác giả vẽ hình dung ông vua này cho chúng ta thấy là một người
giản dị, hòa nhã, hiểu rõ dân tình, lúc nào cũng vui vẻ tự nhiên, từ lời nói đến
cử chỉ cũng thế.
Một hôm, ông Chaigneau vào chầu trong nội, dắt cả cậu con đi
theo. Lúc ấy Michel Đức, mới độ bảy tám tuổi, thông minh và thạo tiếng Việt
Nam. Trước khi ở nhà đi, y hẳn cha mẹ đã dặn bảo đại khái lễ phép tâu gởi trước
mặt Ngài ngự ra thế nào.
Khi đến trước vua Gia Long, cậu đứng vòng tay cung kính và
nói rất chững chạc, rõ ràng:
- Cung chúc thiên tử vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Tiếng cười của nhà vua vang động cả một góc điện. Không phải
cười vì thấy cậu bé tí hon đã tập nghi lễ triều đình, chỉ buồn cười vì nghe hai
tiếng "thiên tử". Ngài vỗ vai cậu và nói:
- Ồ! Cả mi nữa, mi cũng nghĩ ta là con trời! Chắc hẳn không
phải ba mi dạy mi điều đó, vì thuở nay ông chẳng hề nói với ta vô nghĩa, vô lý
như thế bao giờ... Ta đây con trời à?...
Nhà vua nói và đưa mắt nhìn ông Chaigneau. Hai người cùng cười.
Cậu Đức chả hiểu thế nào, cũng bật cười theo. Đoạn, ngài nói tiếp:
- Với những người gọi ta là thiên tử, ta vẫn thường nói ta
cũng như ai, do cha mẹ sinh thành, cha là đàn ông, mẹ là đàn bà, cha ta với mẹ
ta ...
Chỗ này, nhà vua vừa nói vừa ra hiệu, như giảng bài nam nữ
sinh lý, mà ngài nói một cách tự nhiên minh bạch quá, đến nỗi về sau Michel Đức
viết sách, không dám chép lại y nguyên "thánh chỉ" vì e có độc giả đạo
đức cho là sống sượng.
Người con ông Chaigneau được hiểu biết nhiều về tài năng,
nhân phẩm vua Gia Long và công việc nước Nam đời ấy, một phần nhờ được mục
kích, thân cận, một phần nhờ sự quan sát của cha góp vào.
Thì ra, nhà vua không phải không biết nước Pháp là nước hùng
cường văn minh; không phải không biết nước Anh Cát Lợi đang liếc mắt tham vọng ở
miền Đông Á, có thể nói tình thế quốc tế và cái cơ mạnh được yếu thua của thiên
hạ lúc bấy giờ ra sao, hình như ngài rõ biết cả, chỉ trừ ra nước mình. Michel Đức
viết:
- "Vua Gia Long được tôn sùng là bậc người hiền
năng nhất nước. Ngài có những tư cách thiết yếu, tới trình độ cao của một nhà cầm
quyền cai trị quốc gia. Phàm những kế hoạch đã nghĩ chín chắn thì cương quyết
và kiên nhẫn theo đuổi làm cho đến cùng, khiến cho đức thầy Bá Đa Lộc cùng các
người Pháp sang giúp việc nước Nam đều nói rằng, ông vua ấy, ví phỏng cho cầm đầu
một nước bên Âu châu cũng chẳng thất cách tí nào (ce souverain n’aurait été
nullement déplacé à la tête d’une nation européenne).
Trong lúc hoạn nạn, bôn ba, ngài đã biết phán đoán người ta
và mọi sự vật rất đúng; vì cho liên lạc thân mật với đức thầy Bá Đa Lộc, cho
nên ngài tập nhiễm tư tưởng Pháp.
Việc triều đình Louis XVI tiếp đãi Hoàng tử Cảnh ân cần tử tế,
vua Gia Long ghi nhớ mãi không quên. Hồi đó, Pháp đình đã định phát bao nhiêu
quân nhu chiến thuyền sang giúp, chiểu theo điều ước 1787, nhưng rồi có những sự
biến cố xảy đến bất ngờ, thành ra viện binh hứa hẹn ấy không qua đến nơi; tuy
thế mặc lòng, vua Gia Long cũng nhớ ơn chính phủ nước Pháp đã có hảo ý đối với
mình. Nói tóm một câu, ngài rất sẵn lòng tốt với nước Pháp; nhìn nhận nước Pháp
hùng cường và có độ lượng, nên ngài muốn xử lại cho được vừa lòng, chẳng những
vì cớ hai xứ đã kết mối bang giao, lại còn vì cớ ngài lỡ ngại người Anh Cát Lợi.
Nhà vua thường vui miệng nói rằng: Giờ ta là bạn của người
Phú Lãng Sa, tất những kẻ xâm lược kia (trỏ vào người Anh) chả dám mưu toan làm
sự gì có hại cho ta được".
Về mặt phong hóa, nhất là tục lệ thờ cúng tổ tiên và những
thói mê tín, vua Gia Long thật có kiến thức hợp lý, không chịu tin nhảm hay cố
chấp như tất cả người mình đương thời.
Chúng ta mở sách "Sử ký truyền giáo ở Đàng trong nước
Nam" (Histoire de la mỉssion en Cochinchine) của ông Launay, quyển thứ
3, trang 320-322, đọc bức thư đức thầy Bá Đa Lộc viết cho ông Letondal ngày 47
Août 1789 thì biết.
Hẳn ai cũng nhớ chuyện lúc Nguyễn vương mới khởi binh ở Gia Định,
thường bị Tây Sơn đánh thua luôn, năm 1784, phải nhờ đức thầy Bá Đa Lộc đem
Hoàng tử Cảnh và quốc ấn sang Pháp cầu viện. Nhiều nỗi trắc trở giữa đường, khiến
cuộc Đông - Tây vãng phản này hết gần sáu năm. Cảm sự chăm nom dạy dỗ, Hoàng tử
theo đạo và thờ đức thầy như bậc sư phụ. Giữa năm 1789, thầy trò mới về đến Gia
Định là nơi căn cứ của Nguyễn vương lúc bấy giờ...
Quả thật, như mấy chuyện đã kể, vua Gia Long là bậc nhân chủ
có tài năng mới, tư tưởng mới là hiểu việc thế giới ít nhiều; sự ấy cố nhiên nhờ
ảnh hưởng cảm hóa của ông Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp ngài một phần
rất lớn.
Phải chi nhà vua ta cũng có thông minh và tính cương quyết sửa
sang việc nước theo gương Âu - Tây, mà chính ngài đã nhìn biết là hùng cường
văn minh, cũng như ngài biết rượu có hại mà cương quyết chừa bỏ vậy, được thế
thì hay cho lịch sử ta biết bao!
Đời sáng nghiệp của vua Gia Long có hai giai đoạn trước sau
khác nhau, người đọc sử với trí phán đoán tất phải để ý:
Lúc còn phải tranh hành thiên hạ với họ Tây Sơn, ngài cầu viện
nước Pháp và nhờ nhân tài Pháp giúp sức, từ chiến thuyền binh pháp cho tới khí
giới thành trì, nhất nhất chế tạo tổ chức theo lối mới, kỳ đánh ngã kẻ địch,
thu lại nghiệp nhà mới nghe.
Vương Dương Minh đi qua cửa?
Lê Quý Đôn, một nhà bác học đời Lê. Chu Thuận Thủy không lạy.
Sĩ phu ta chỉ đến hỏi về tướng số, địa lý.
Vương Dương Minh, nói rõ hơn là tư tưởng học thuyết Vương
Dương Minh từ xưa có lúc nào được truyền sang nước ta không?
Vấn đề gai góc ấy, từng có nhiều nhà học vấn Tây Nam bàn đến.
Mỗi nhà ngỏ ý một khác.
Chúng tôi muốn cử ra một vài thuyết cốt yếu lấy lệ.
Ông Phạm Quỳnh bảo không.
Trong luận thuyết Essais franco-annamiles, trang 162,
tác giả viết: "Học thuyết Vương Dương Minh (bên Nhật gọi là Oyomei),
nhà triết học ở thế kỷ 15, xướng minh cái nghĩa trí hành hợp nhất, có ảnh hưởng
đến trí thức Nhật Bản rất sâu, mà ở nước Nam mãi tới gần đây tuyệt nhiên không
biết" (L’ecole de Wang- Yang-Ming (en annamite Vương Dương Minh et en
Japonais Oyomei), philosophe du XV siècle qui enseignait la théorie de
l’identilé de la connais-sance et de l’acte, et qui a exercé une influence si
profonde au Japon, étalt complètement linconnue en Annam jusqu’à ces derniers
temps).
Cũng trong tập văn ấy, đến trang 279, chúng ta lại thấy tác
giả nói thêm: "Tiếc rằng cái học Vương Dương Minh không có ảnh hưởng gì đến
nước nhà, ngay ở Tàu cũng thế; đạo Khổng xưa nay chỉ truyền bá theo học thuyết
của phái Chu Hi, khéo đào tạo ra hạng người học uyên bác và thi cử làm quan hơn
là đào tạo nên những nhà thượng võ và những nhà kỹ thuật". (Regrettons que
Vương Dương Minh n’ait pas eu d’influence chez nous, pas plus qu’en Chine
d’ailleurs, et que le confucianisme n’ait été reprèsenté jusqu’ici que par la
seule école de Tchou Hi, plus expert à former des énd et des fonctionnaires que
des samourai et des artsiles).
Trái lại, ông Đào Đăng Vỹ bảo có, nhưng chỉ có một cách mập mờ.
Trong báo: "Cour-rier d’ Hai-phong" ngày 19 Novembre (tháng
11) năm 1938, ông viết:
"Gọi là người đời Minh đảo vong quốc sự qua ở nước Nam,
tôi chỉ thấy một người có tiếng tăm là ông Mạc Cửu ở đất Hà Tiên, có điều ông
ta chỉ đóng vai tuồng chính trị, quan hệ cho lịch sử khai thác của nhà Nguyễn
thì có. Đến như Vương Dương Minh, thì người ta chỉ thấy có đôi chút ảnh hưởng lờ
mờ ở ông Lê Quý Đôn, danh nho Triều Lê". (En Annam, je ne vois
jusqu’à présent, comme émigré Ming, que le fameux Mạc Cửu de Hà Tiên qui s’est
contenté de jouer simplement un role politique, assez important d’ailleurs dans
l’histoire des Nguyễn. De Wang - Yang - Ming, on connait une influence assez
vague chez Lê Quý Đôn, notre grand lettré de l’epoque des Lê).
Đến ông cố Henri Bernard, một nhà truyền giáo thuộc về Dòng
Tên (Compagnie de Jésus) có tiếng bác học hiện thời đó, nhất là vấn đề lịch sử
văn hóa phương Đông, thì cho tư tưởng họ Vương thế nào cũng ảnh hưởng đến tri
thức Việt Nam ít nhiều.
Nếu ai đọc quyển Pour la compréhension de l’Indochine et
de l’Occident của ông H. Bernard soạn cách bốn năm nay, chắc thấy ông khẩn
khoản về câu chuyện ấy ra thế nào.
Cố nhiên, ông không lập thuyết một cách thật là quyết đoán,
nhưng cứ bằng theo sách vở đời Lê và tình thế lịch sử đương thời, ông bảo rằng
học thuyết Vương Dương Minh có ảnh hưởng đến sĩ phu Việt Nam, không phải là một
sự không thể tin được.
Ví dụ xem những sách của ông Lê Quý Đôn một nhà học rộng và
trứ thuật nhiều nhất ở đời Hậu Lê, chỉ tỏ ra ông ta đọc "Minh Nho học
án" của Hoàng Lê Châu khá nhiều, mà Hoàng Lê Châu chính là một người
sùng mộ học thuyết Dương Minh; hơn nữa ông Lê Quý Đôn lại có ý tán thành việc
làm của đảng Đông Lâm cuối đời Minh, tức là đảng chủ trương tư tưởng cách mạng.
Họ Lê làm sách "Phủ biên tập lục" và "Vân
đài loại ngữ" có chỗ nhắc đến Vương Dương Minh, có chỗ nói về đồng hồ
cùng những khí cụ thiên văn của Âu Châu đem qua lúc bấy giờ mà ông được biết.
Chỗ khác lại chép cả tên ông cố Lợi Mã Đậu, tức giáo sĩ Mathieu Ricci, sang Tàu
vào đời Minh Thần Tôn, dụng công nghiên cứu Nho học rồi chê cái học Chu Tử sai
lầm và khuyên nhủ sĩ phu Tàu nên theo Dương Minh cho được tiến hóa.
Có lẽ trước đời Lê Quý Đôn (thế kỷ 18), nước Nam đã từng
nghiên cứu triết lý của họ Vương, nhưng rồi bị những cuộc nội chiến lung tung
làm cho thất truyền đi cũng nên.
Chính ông Lê Quý Đôn chép rằng: "Vua Lê Thánh Tôn (1460
- 1496), là người hiếu học đáo để, chịu khó thu thập các bản kinh truyện cùng
sách vở bách gia chư tử rất nhiều... Đến sau có loạn Trần Cao (1516), kinh
thành Thăng Long bị giặc chiếm cứ... bao nhiêu đồ thư và sách vở tản mát tứ
tung. Nhà Mạc soán ngôi (1527 - 1591) sai người thu thập và chép lại được ít
nhiều, nhưng đến lúc nhà Lê Trung Hưng, lấy lại kinh thành, những sách ấy lại bị
hỏa tai thiêu sạch...".
Ta xem thế thì trong những sách vở đã bị mấy phen binh hỏa
tàn phá hồi bấy giờ, biết đâu chẳng có tác phẩm Dương Minh? Nếu bảo người Việt
Nam ở cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, không biết có tư tưởng Dương Minh là gì
thì rõ vô lý.
Sau hết, cố Bernard thêm một chứng cứ nữa, là hồi Mãn Thanh
vào chiếm Trung Quốc, ông vua nhà Minh sau cùng là Vĩnh Lịch, còn bôn ba quanh
quẩn khá lâu ở mấy tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, tiếp giáp nước
ta để mưu đồ khôi phục; mãi đến 1659, nhà Minh mới đổ hẳn. Trong khoảng ấy, có
lúc vua Vĩnh Lịch mong mỏi tới viện binh của Nhật Bản và Việt Nam. Bọn sĩ phu
nhà Minh, xấu hổ làm tôi Mãn - Thanh, vượt biên giới sang nương thân ở đất nước
đồng văn, đồng chủng này cũng nhiều. Lẽ tự nhiên theo chân những khách vong mệnh,
có cả tư tưởng học thuật đời Minh; trong số ấy phải có tư tưởng học thuật của họ
Vương mà các môn đồ ông đã khắc vào gỗ in thành sách.
Đại khái, theo cố Bernard suy đoán mấy lẽ như thế, thì Vương
Dương Minh có sang nước Nam.
° ° °
Có hay không vấn đề này vẫn còn rộng đường đất cho chúng ta
tìm tòi thêm.
Nếu học thuyết Dương Minh không có chỗ đứng trong cõi trí thức
Việt Nam hồi xưa, chắc hẳn không phải là mầm giống ấy không có dịp đưa sang; chỉ
tại tiền nhân ta cấy thủa đất tư tưởng với lề lối cũ đã quen, lại có phần ăn chắc
hơn, thành ra không thích đón rước gieo trồng hột giống nào mới. Lúc bấy giờ đối
với tư tưởng họ Vương thế nào, cách mấy thế kỷ sau, đối với khoa học phương Tây
cũng thế.
Khác với mấy điều suy đoán của cố Bernard và ngay trong sử
sách, chúng tôi thấy có hai lúc Vương học thân hành đến đây, vào tận
trong nhà ta, nhưng chủ nhân khinh thường, ngạo mạn, không ưa hay là không biết
hoan nghinh để cho quý khách chán ngán đi mất.
Một là lúc Trạm Nhược Thủy sang sứ.
Hai là lúc Chu Thuấn Thủy ở Quảng Nam.
Sách "Lịch triều Hiến chương" của ông
Phan Huy Chú, quyển 48, mục Bang giao chép rằng: "Triều vua Tương Dực, nhà
Lê, niên hiệu Hồng Thuận thứ năm [1] sai Trạm Nhược Thủy và Phan Huy Tăng đi sứ
qua làm lễ phong cho vua ta. Lúc họ về vua Tương Dực tặng vàng bạc, lụa là rất
hậu, nhưng bọn Nhược Thủy đều từ chối không nhận món gì. Vua tiễn mỗi người hai
bài thơ, họ có họa lại...".
Nhược Thủy chính là một tín đồ học thuyết Dương Minh. Nói
ngay là môn đồ cũng sai sự thực. Kể ra ông đỗ tiến sĩ trước, làm quan trước và
cũng nhiều tuổi hơn Dương Minh có thể suýt soát bực tiền bối; vì ông nghiễm
nhiên ở chức Đề học, tức là Đốc học một tỉnh, khi Dương Minh còn là một vị quan
nhỏ, phạm tội trực ngôn, bị nhà vua đày xuống Quý Châu, làm thầy trạm ở đất
Long Trường rừng thiêng nước độc.
Nhưng sau nghe được Dương Minh giảng giải "cái học Lương
Tri", Nhược Thủy bỗng tỉnh ngộ về đạo lý chân truyền của Khổng Mạnh, cho
Dương Minh là thánh nhân lại ra đời và tự biết trước nay người ta theo học Chu
Tử là sai lầm chính đạo. Từ đó, ông tâm phục Dương Minh và thờ như một bậc thầy,
mặc dù Dương Minh đối với ông coi như bạn thân.
Ông tỉnh ngộ và tâm phục đến nỗi không bỏ qua một dịp nào
không truyền bá tư tưởng Dương Minh với mọi người chung quanh, mong cho thiên hạ
hiểu sự lầm lạc về trước và thánh học lại được sáng tỏ.
Lúc ông phụng mạng đi sứ Việt Nam, ấy là lúc họ Vương đã công
nghiệp với triều đình, thành danh về học vấn, đều lên tới ngọn tuyệt cao, nhưng
trong triều cũng như trong nước, vô số những kẻ quyền gian đố kỵ, xúm nhau tìm
đủ cách làm hại và bảo cái học "Lương tri" là ngụy học.
Trước hôm Nhược Thủy lên đường, họ Vương đặt tiệc và làm thơ
tiễn tống. Nếu chúng tôi không phải nhớ sai thì Nhược Thủy họa vần, có câu ngụ
ý nhân dịp đi sứ, thế nào cũng đem theo những nghĩa lý thánh hiền mà họ Vương
đã phát minh để gieo rắc ở đất Giao Chỉ cũng thờ đạo Khổng xưa nay.
Nghĩa là Trạm Nhược Thủy có hảo ý chở theo Vương học trên xe
đi sứ, đem sang làm món quà tinh thần mới mẻ cho sĩ phu Việt Nam.
Nhưng lúc trở về, chẳng nghe Nhược Thủy nhắc nhở gì đến chuyện
này. Mà sử sách ta ngoài mấy bài thơ vua Tương Dực xướng họa với sứ Tàu, cũng
không thấy có cuộc đàm thoại gì về tư tưởng học vấn.
Hoặc có ít nhiều, nhưng sử sách ta cho là tế toái vô ích mà
không chép chăng?
Nhược Thủy có gợi chuyện Vương học với sĩ phu ta, nhưng gặp
phải những bức tường gạch "già", đóng đinh dội búa chăng?
° ° °
Bốn chục năm sau, đến Chu Chi Du sang nước ta cũng thế.
Chu Chi Du, hiệu Thuấn Thủy, người ở Dư Diêu, tỉnh Chiết
Giang, vốn là trưng sĩ cuối đời nhà Minh. Một người tài cao học rộng, không phải
thi đỗ hay có chức quan gì, nhà vua nghe tiếng, vời ra hỏi han việc nước, ấy
là trưng sĩ.
Lúc trước hình như cũng có chân trong đảng Đông Lâm, nhưng
may khỏi bị tai họa. Chu ẩn cư dạy học, chủ lấy "tâm học" của
Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh, mong làm phấn khởi tinh thần của sĩ phu đương
thời, nhất là cự tuyệt lối học khoa cử từ chương và trọng về công phu thực tiễn.
Tiếng tăm đạo học, đức hạnh vang đến triều đình, nhà vua xuống chiếu vời ông ra
hỏi quốc gia đại kế, nhưng ông chỉ kịp ra để chứng kiến việc nước đến cơn suy
vong, tồi tệ quá rồi, không còn trông mong cứu vãn được nữa. Bên trong thì gian
thần lộng quyền, triều cương đổ nát, bên ngoài thì giặc cướp nổi dậy như ong,
quân Mãn - Thanh dũng lược tiến vào Trung Quốc không ai cản được.
Năm Bính Tuất (1646) Thuấn Thủy chạy sang nước ta, vì hai mục
đích: một là tránh nạn róc tóc để bím, làm tôi Mãn Thanh, hai là có ý muốn vòng
đường xứ Bắc ta để ngược lên Vân Nam gặp vua Vĩnh Lịch, mưu đồ công việc đuổi
Thanh phục Minh.
Nhưng ông sang đến Hội An (Quảng Nam) rồi lưu luyến ở đây;
không thực hành được cái chí đi tìm vua cũ. Lúc ấy, Đàng Trong, Đàng Ngoài nước
ta phân biệt và cừu thù nhau, giữ nhau từng miếng, sự giao thông không phải dễ
dàng; đến người Nam hà muốn ra Bắc hà lúc ấy cũng khó khăn nguy hiểm không nói
đến người Tàu, mà lại là một di dân nhà Minh. Vì bấy giờ, Trung Quốc đã về Mãn
- Thanh, vua Lê - chúa Trịnh nhà ta thần phục Thanh triều rồi, lẽ tự nhiên Thuấn
Thủy muốn đi qua xứ Bắc để tìm vua Minh, là một sự thật khó trót lọt.
Chần chờ đợi dịp mãi không được, Thuấn Thủy đành làm một tướng
vong quốc di thần, ăn nhờ ở đậu thành phố Hội An ta. Trong trí ông đến đây tuyệt
vọng cứu quốc, nhưng còn cái hy vọng truyền bá đạo học, thánh hiền ở đất cơ lữ.
Tuy vậy, Thuấn Thủy ở Hội An hơn mười năm, nhưng không mấy ai
biết ông lão ấy là một bực danh Nho; trước mắt chúng nhân, ông bất quá như thầy
tướng, thầy địa chính tông bên Tàu sang đây kiều ngụ sinh nhai.
Hình như năm Bính Thân (1656), ông có lần về Tàu ít lâu, qua
đầu năm sau lại trở sang nước ta.
° ° °
Lúc ông trở sang lần sau, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần, 1648 -
1687) muốn dùng ông, nhưng lại vụng cách lễ hiền hạ sĩ, chỉ bách ông làm thơ,
làm phú luôn luôn, chẳng hỏi tới học vấn tư tưởng gì khác. Các triều thần lại
coi thường nhà đạo học, vì không thấy đỗ cử nhân, tiến sĩ. Những người gọi là
sĩ phu, ai hữu tâm việc học, cũng chẳng qua tò mò hỏi văn nghĩa đen từng chữ,
theo lối tầm chương trích cú của họ Chu; còn thì chỉ đến quấy nhiễu về những
chuyện tướng số địa lý. Người ta làm cho hy vọng truyền bá đạo học của ông cũng
tuyệt nốt, ông đâm chán bỏ đi sang Nhật.
Về sau, ông có dịp viết quyển sách, tựa là "An Nam cung
dịch ký", biên chép những việc kiến văn, kinh lịch khi trú ngụ ở nước Nam
ta.
Chúng tôi muốn thuật lại một vài đoạn cho độc giả nghe.
Hôm mới trở lại Quảng Nam gặp ngay lúc chúa Nguyễn có lệnh
kén chọn lấy người có tài văn học để dùng vào việc giấy tờ ngoại giao; cả người
Trung Quốc cũng cho ứng tuyển; Chu Chi Du vào số được tiến cử; ông tự thuật lúc
đến trước mặt quan Cai - tàu rồi vô triều kiến chúa Nguyễn, đại lược như sau
này:
"Đến gần tháng giêng, năm Đinh Dậu, Chi Du lại sang Giao
Chỉ.
Ngày 29 tháng ấy, tiếp được tờ hịch của Quốc Vương kén người
biết chữ. Đến mùng 3 tháng sau, có lính tráng đi các phố xá xóm làng, thôi thúc
người ta một cách rầm rộ như bắt giặc cướp.
Họ đến tận nhà bắt người ta đi, chẳng nói vì lẽ gì cả. Khi dẫn
đến trước mặt sai quan (viên quan vâng lệnh chúa sai coi việc kén người) ai nấy
đều nghe quan truyền phải làm một bài thơ, để xét cả chữ viết tốt xấu và học lực
thế nào?
Chi Du không chịu làm thơ, chỉ cầm bút viết mấy dòng như vầy:
‘Chu Chi Du, người đất Dư Điêu, Chiết Giang, nhân vì Trung Quốc
gãy đổ mối rường, trời nghiêng bóng lặn, không chịu kết bím theo giặc, đem thân
tránh nạn qua ở quý quốc, đến nay vừa 12 năm, bỏ cả vợ con và phần mộ ông bà.
Quân giặc còn đó chưa diệt, nước nhà mắc nạn không thể trở về, thân này già
nua, lòng lo như thiêu, như đốt, dù có làm thơ cũng chẳng hay gì. Lời cung là
thực’.
Những người kia thấy thế, cũng từ chối nốt, chẳng ai làm thơ.
Họ cũng bắt chước Chu Chi Du viết lời cung, duy có hơi khác.
Ngày mùng 5 đến hạn, thấy các quan tụ họp đông đủ, truyền gọi
Chi Du vào trước. Nhưng các quan đến ngồi ngất ngưởng tự nhiên, không thèm cất
lời chào hỏi gì cả.
Chu Chi Du tự do leo lên ngôi ghế trên. Bấy giờ, một vị quan
sai nói:
- Nay nhà chúa xuống chiếu trưng cầu chư Nho, ông nghị luận
thế nào?
Ông ứng thanh đáp:
- Đấng thiên tử mới được dùng chữ "trưng": đại
vương ta đây là một vua chư hầu sao lại gọi là trưng được!
Nhân thấy danh thiếp của ông đưa vào lúc nãy, dưới tính danh
có ba chữ ân cống sinh, các quan ta không rõ cống sinh bên Tàu là khoa mục
gì, hỏi:
- Thế cống sinh sánh với hạng cử nhân tiến sĩ, ai có khoa mục
to hơn?
Chi Du hiểu ý quan ta trọng danh tiến sĩ, chứng cớ là hồi nãy
có một ông tiến sĩ đến, thấy ai nấy đều đứng dậy vái chào, có vẻ tôn kính, thì
ra chỉ có một hư danh, không kể thực học. Ông bèn thừa cơ chận trước:
- Quý quốc không biết cái nghĩa khoa mục, cho nên mới nghĩ rằng
cống sinh là một danh hiệu riêng của cử nhân. Kỳ thật, cống sinh với cử nhân tiến
sĩ có chỗ phân biệt không phải giống nhau đâu.
Lúc bấy giờ chúa Nguyễn ngự giá vào Quảng Nam xem xét mọi việc,
đóng binh ở Ngoại doanh sa. Các quan bảo những người ứng tuyển đến ngày mùng 8
tề tựu ở đó để ra mắt chúa. Chi Du viết thư cho quan Cai Tàu (quan coi kiều dân
ngoại quốc và thuyền buôn ra vào); trong thư thanh minh trước rằng khi mình đến
ra mắt chúa, không lạy.
Đến hôm mùng 8, quan Cai Tàu vào tâu với quốc vương rồi dẫn
Chi Du đến bệ kiến. Văn võ đại thần tập họp bên trong cửa lớn, bài ban rất
nghiêm chỉnh, quân lính cầm binh khí dàn hầu chung quanh có tới vài ngàn người.
Chi Du bước vào trước mặt chúa, chỉ vái chào mà không lạy. Quan Cai Tàu lấy đầu
gậy viết chữ "bái" lên trên cát, tỏ ý bảo ông lạy đi; nhưng
ông cũng cầm gậy viết thêm chữ "bất" lên trên, nghĩa là
không lạy. Rồi ông đệ một tấm danh thiếp, trên đề tháng ngày, dưới viết hàng chữ "Khâm
phụng sắc thư đặc triều ân cống sinh Chu Chi Du" - chót thêm hai chữ "đốn
thủ" nghĩa là cúi đầu.
Lúc ấy văn võ bá quan đều giận tái mặt, cho là Chu Chi Du cậy
thế Trung Quốc khinh rẻ nước nhỏ; rồi xúm lại xin Quốc vương giết đi. Nhưng Quốc
vương không nghe lại đối đãi tử tế.
Ngày 19, Quốc vương viết thư bảo ông ra làm quan, có
câu: ‘Thái Công giúp Chu mà Chu nên nghiệp vương, Trần Bình ở Hán mà Hán
được thiên hạ...’. Ông phục thơ, ngỏ ý từ chối, vì trong lòng còn mong sự dựng
lại nhà Minh, qua ở nương náu xứ ta, chỉ là tạm thời".
Ví phỏng chúa Nguyễn có dùng được họ Chu làm quan, cũng chỉ
dùng về mặt từ chương, chứ không nghĩ đến sự lợi dụng người hiền để mở mang cho
nước nhà về mặt học vấn, đạo đức. Có lẽ họ Chu biết thế, cho nên không chịu ra
làm quan với ta. Đã nói sở nguyện của Chu không cứu quốc được thì giảng học.
Tuy hôm trước không chịu làm thơ thử tài, không chịu lạy,
không nhận quan chức mặc lòng, Chu đã trúng tuyển là người biết chữ, để chúa
Nguyễn nhà ta nhờ cậy mỗi khi cần đến.
Cũng trong sách "An Nam cung dịch", Chu kể
chuyện từ hôm ấy trở đi, thường phải vì Quốc vương viết hộ tờ trát giấy má
luôn. Các quan cũng tỏ ý kính trọng, hay đem những chữ sách nào nghi hoặc đến hỏi
han và nhờ cắt nghĩa. Ngày mùng 3 tháng 3, Quốc vương sai người đưa tới nhà trọ
một miếng giấy viết chữ "xác" để hỏi nghĩa; Chu trả lời là
kiên xác, đích xác, bàn bạc xác đáng... Quốc vương liền dùng ngay hai chữ "kiên
xác" làm đề mục, bảo Chu làm một bài phú.
Nhiều người lại đến quấy rầy về những chuyện tướng số bói
toán, hoặc nài nỉ để hộ một ngôi đất kết phát. Chu trả lời không biết, họ không
muốn tin, cho là làm hiểm, giấu nghề. Vì thấy ông lão râu tóc đạo mạo, họ định
chắc là một thầy địa lý chính tông, hay một thầy khách cực giỏi nhâm độn.
Nếu những người ấy là hạng vô học thì chẳng trách nhưng khốn
phần nhiều lại là bậc sĩ phu trong nước, khiến Chu bực dọc, chán ngán, liền viết
ngay tờ cáo bạch dán ngay trước cửa.
"Nhà Nho bên Tàu chúng tôi, cốt yếu có hai: Một hạng gọi
là học sĩ, thuộc nhiều những lời nói, việc làm của người xưa, nhưng đức
tính và công việc mình làm, hoặc còn nhiều chỗ chưa đến nơi, ấy là những người
có trí thông minh thuộc sách vở, học rộng văn hay. Một hạng khác gọi là hiền
sĩ, chăm lo sửa mình, giữ nết bên trong mà văn vẻ bên ngoài, hoặc không kể đến,
ấy là bậc hiền lương ngay thẳng, hiểu đễ lực hành.
Hai hạng ấy không có mấy ai một mình kiêm nổi. Có người nào
kiên được cả hai thì nhân - nghĩa - lễ - trí chứa ở bên trong cung kính văn nhã
phát ra bên ngoài, chính là vật lạ của nước nhà, của báu cho vua hiền, chúa
thánh vậy.
Hạng ấy, ông vua biết dùng thì được yên ổn vẻ vang, lũ con em
biết theo thì được trở nên hiếu để trung tín. Bởi thế, dù cho ăn lộc muôn chung
cũng không phải nhiều, ngựa xe mười cỗ cũng không là quá; mặc đến cổn miện cũng
không xa hoa, tôn là sư phụ cũng không thất đáng. Vì sao? Vì họ đạo cao, đức lớn,
có thể đương nổi mà không có sắc thẹn, giữa khoảng vua tôi, một tâm, một đức, mọi
việc sửa sang tốt đẹp, đó là sự thi vi trong lúc đặc chí với đời vậy.
Gặp buổi thiên hạ vô đạo, thì ta tìm nơi ở ẩn, hoặc cày cấy,
hoặc nung lò, hoặc câu cá, hoặc làm thợ, bất cứ làm nghề gì cũng được, không
bao giờ chịu hạ mình đi theo người để cầu lấy sung sướng, danh vọng.
Gần đây Trung Quốc lâm cảnh tán loạn, trời nghiêng đất lở,
quân giặc làm trái lẽ thường, hôi tanh tràn ngập trong nước; kẻ xa này nghĩa
không nên chết, muốn ẩn chẳng có chỗ nào, được nghe Khâu Trang Văn Công nói rằng
An Nam, Triều Tiên đều là nước biết lễ, cho nên mới trốn tránh đến đây. Thuở xưa,
Ba Di và Thái công thường ở Đông Hải, Bắc Hải để đợi thiên hạ không phải là việc
mới lạ vậy.
Nay quý quốc không gia ơn cho người ở xa đến thì thôi, cớ sao
các ngài sang có, hèn có, lại còn đến nhà trọ tôi, hoặc có ông hỏi việc tướng số,
hỏi chuyện không nên hỏi, mà không biết mình là khách thừa?
Ôi! Thầy tướng số có đáng kể gì! Trong số bốn dân, chín nghề,
họ là hạng chót, sánh với nho đức nghĩa, chẳng những như là trời cao với đất thẳm,
lại còn như đen - trắng, nước - lửa trái nghịch hẳn nhau.
Tôi đã trót đem thân tới đây, quý quốc muốn khinh, muốn nhờn,
cũng chẳng làm sao, duy có lấy nghĩa thì không nên thế; e người ta biết, sẽ bảo
quý quốc tuyệt nhiên không hiểu cái tôn chỉ đọc sách vậy, huống hồ biết tôn hiền
kính sĩ được ư?
Nói ngay thiên văn địa lý, có thật tinh thông cũng chẳng qua
là một nghề nhỏ mọn, không phải là đạo Đại học của thánh hiền, cũng không phải
khuôn phép để trị quốc gia và bình thiên hạ.
Thế mà quý quốc đọc những truyện Tam Quốc, Phong Thần lại
tin là sự thực, ân cần hỏi đến, chẳng khác nào bỏ vàng ngọc mà quý gạch ngói,
nhổ lúa tốt mà trồng cỏ gà, hóa ra trái mất cái nghĩa thủ xả lắm vậy.
Vả lại, thiên văn chẳng phải là chuyện thần tử nên hỏi, cũng
chẳng phải người khách phương xa này dám nói đến. Từ nay trở đi, xin các ngài đừng
nhắc tới nữa.
Ngày đầu tháng tư, Đại Minh di dân
Chu Chi Du bạch".
Một người có chí truyền giảng đạo học mà gặp phải chỗ thiên hạ
không ưa việc tư tưởng cao xa, chỉ coi mình như nhà thuật sĩ tầm thường, rồi
xúm lại quấy rầy về những chuyện dị đoan nhảm nhí, thật không còn gì chán bằng.
Thuấn Thủy quyết ý từ giã nước Nam từ đấy.
Ông sang Nhật Bản.
Suốt hai mươi năm ngụ ở phố Hội An, một thương cảng có hai
xóm Tàu và Nhật phân biệt nhau, ông không ở trong xóm đồng hương, mà trọ giữa
xóm Nhật. Xóm này đương thời không còn đông đảo, phồn thịnh như ba bốn chục năm
trước, nhưng cũng có dăm bảy chục nóc nhà cửa hiệu. Nhiều người vì mộ đạo Nho
mà biết kính lễ nhà đạo học không gặp thời vận, hay đến nghe ông giảng học,
giúp đỡ khi cơ nhỡ và cho chịu tiền trọ hàng năm không đòi.
Chúng ta thấy trong "An Nam dịch ký", ông có chép
việc, hẳn là lúc sắp đi, bán tất cả đồ đạc trong nhà, rồi trả cho Di Tả Vệ
Môn 40 lạng 8 tiền và trả 30 lạng cho Quyền Binh Vệ chủ nhà trọ.
Chính họ thấy ông mà thương tài:
- Tiên sinh ở đây không mong gì thực hành được sở chí; cứu quốc
đã tuyệt vọng, đến học vấn cũng chẳng có người biết nghe, vậy thì nên đem sở
chí đi thực hành ở nơi khác còn hơn.
- Nhưng biết đi đâu? - Chu hỏi
- Mời tiên sinh sang bên Nhật chúng tôi, chắc được sĩ phu
hoan nghinh.
- Tôi cũng muốn thế, nhưng chẳng biết có thể đi được không?
- Sao lại không được! Có thuyền buôn sắp sửa chuyến về, chúng
tôi thu xếp việc đi cho tiên sinh.
Thế là ngay cuối năm Dậu (1657), Thuấn Thủy bỏ nước ta đi
sang Nhật, rồi nhập tịch luôn.
Quả nhiên sĩ phu Nhật kính trọng và tôn thờ làm bực thầy. Xã
hội Nhật mười lăm năm trước khi Thuấn Thủy sang đã có Trung Giang Đằng Thụ (Nakae
Toju) truyền bá học thuyết Dương Minh rộng rãi, thiết thực, hợp lẽ tiến
hóa và đạo võ sĩ nước Nhật khinh sinh - tử trọng danh dự. Đến khi có Thuấn Thủy
sang, đạo học càng thịnh thêm; người ta gọi riêng là Chu Thị học phái hay
nói tắt là Chu học.
° ° °
Các nhà truyền giáo thuộc giòng Tên kế tiếp đến Trung Quốc từ
cuối thế kỷ 16 sang thế kỷ 17, có tiếng nhất là mấy ông Lợi Mã Đậu (Mathieu
Ricci), Thang Nhược Vọng (Schall), Nam Hoài Nhân (Verbiest), Long
Hoa (Longobardo), cốt truyền bá văn minh Khoa học Thái Tây, nhưng sợ đạo
Nho chống chỏi và quá thủ cựu, cho nên các ông muốn tìm lấy đất dung hợp, làm
sao có ích cho cuộc tiến hóa mà không mếch lòng tự cao, tự ái của người ta.
Mấy ông dụng công học chữ Tàu, nghiền ngẫm kinh truyện, xem
xét Khổng giáo từ nguồn gốc, trải qua Tống Nho cho đến Vương Dương Minh, nhận
thấy học thuyết phái trên nặng nề, thủ cựu, ích kỷ, lại có pha màu Phật Lão, ví
dụ bảo người học giả thường tĩnh tọa tư duy, không khác gì nhà sư nhập định;
còn tư tưởng phái dưới thì phóng khoáng, vụ thực, chẳng những đúng với tinh thần
Khổng giáo lại có tôn chỉ cứu nhân độ thế, tùy thời đổi mới, tức là không nghịch
với lẽ tiến hóa.
"Lương Tri" của họ Vương, tức là cái thuyết của
Cicéron ở La Mã thuở xưa: "Luật không viết ra chữ, nhưng khảm ở trong
tâm" (Loi non écrite, mais inscrite dans le coeur); kẻ tây, người đông, sở
kiến cũng thế.
Rồi các ông khuyên nhủ nhà nho nước Tàu nên mạnh bạo từ giã
cái học Chu Hi theo thuyết Dương Minh, vừa đúng tôn chỉ nguồn gốc họ Khổng lại
có thể biến hóa cải cách.
Có người nói không sai: Nếu như lúc bấy giờ sĩ phu Trung Quốc
biết nghe lời khuyên ấy, Trung Quốc đã cải lương tự cường sớm nhất phương đông;
chứng cứ là phần nhiều sĩ phu Nhật về học phái Dương Minh đã biết đón rước văn
hóa Thái Tây nhiều ít từ cuối thập thất thế kỷ; đến đời Minh trị Duy tân xây dựng
lên không thiếu gì tay thợ ở trong học phái ấy ra.
Nhưng sĩ phu Tàu đời Minh nào có chịu nghe cho. Trừ ra một
vài người như Từ Quang Khải, Lý Chi Tảo, Cù Thái Tổ, đã có óc mới, dịch sách mới,
toan việc sửa đổi xã hội, nhưng họ và công việc họ làm, chẳng qua như hột muối
bỏ bể; còn hằng hà sa số người khác vẫn thờ Chu Hi, trở lại công kích học thuyết
Dương Minh là ngụy!
Sĩ phu tập nhiễm lối học từ chương khoa cử của Tống nho đã
lâu đời, cho là con đường xuất thân có lợi hơn cả, dễ gì chịu bỏ. Lối học ấy, bảo
người ta chỉ lo thuộc lòng từng câu từng chữ, chẳng cần biết gì đến quốc gia
chính sự, càng khiến kẻ làm vua cầm quyền trông thấy có lợi cho việc cai trị, lại
càng khuyến khích thêm. Nhà Minh phổ thông những sách có Chu Tử chú thích, buộc
dân phải học, lại đem cả bộ Tính Lý Đại Toàn và sách Đại học chưa
lời bàn họ Chu qua cho nước ta.
Vì thế mà cái họ Dương Minh thất truyền và hầu như bị cấm
ngay ở quê hương nó, lại vượt bể truyền sang Nhật; cho đến sau bảy chục năm
nay, vì Nhật mà Tàu mới biết cái học ấy là hay, là quý, thuở xưa đẻ ra ở đất nước
mình.
Sau thế kỷ 15, có một học thuyết họ Chu và họ Vương tranh
nhau trí thức nước Tàu, nói rõ hơn, Chu học đã chiếm hữu trí thức ấy lâu đời, Vương
học đẻ sau muốn tống đi để tranh lấy chỗ; nhưng Chu học nhiều phe đảng, rốt
cuộc vẫn thắng. Khoan nói tư tưởng, chỉ nội khoảng từ chương khoa cử đủ khiến
phần đông muốn giữ riết lấy Chu học không buông, vì chính Vương học phản đối từ
chương khoa cử thứ nhất.
° ° °
Nước mình từ xưa rập theo khuôn mẫu Trung Quốc từng ly, từng
chút, bất cứ về phương diện gì, hễ Tàu làm thế nào thì ta bắt chước làm thế.
Trong khi bên Tàu không hiểu Dương Minh mà bỏ qua, dù mình đây có mấy cơ hội
Vương học đưa sang như trên đã nói, cũng chẳng biết lợi dụng để sửa đổi học thuật
tư tưởng, nghĩ không nên lấy gì làm lạ.
Huống chi từ thế kỷ 16 trở đi, luôn mấy trăm năm, chiến tranh
nội loạn như cơm bữa, vua quan lo việc võ bị, dân chúng chỉ những lưu ly, có ai
yên tâm rảnh trí lúc nào hầu nói chuyện học thuật. Học thuật là việc lúc hòa
bình. Bởi thế, cứ theo ông Phạm Quỳnh, bảo Vương học không có ảnh hưởng gì đến
sĩ phu nước Nam, kể cũng có lý.
Tuy vậy, trí não sĩ phu ta cuối đời Lê không phải không có
hai làn sóng phản động dội lên.
Ví dụ, ông Lê Quý Đôn than phiền về lối thi cử ta hủ bại và
sĩ tử sau đời Lê Trung Hưng học sai đường lạc nẻo. Năm 1731, ông Bùi Sĩ Tiêm
dâng biểu thống thiết nói về sự học đương thời chỉ đua nhau chắp nhặt văn xưa,
thuộc lòng sao cũ, miễn sao đỗ được thì thôi. Hai ông Nguyễn Công Hăng và Ngô
Thời Sĩ cũng điều trần những tinh tệ người mình học sai lầm và xin sửa đổi lại
phép thi cử.
Mấy ý kiến ấy có phải chịu ảnh hưởng Vương học đấy chăng?
--------------------------------
Tương Dực Đế làm vua từ năm 1510 đến 1516. Ngang đời Võ Tôn
nhà Minh, Niên hiệu Hồng Thuận thứ 5, Tây lịch 1514. |
Những truyện nhân duyên Pháp - Việt trong lịch sử
Michel Đức, người con lai số 1 của nước ta. Bà Nguyễn thị Sen
lên tận Paris để gặp sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ.
Sau khi người Bồ Đào Nha tìm ra con đường vòng Hảo Vọng
Giác (Cap Bonne Espérance) qua Ấn Độ Dương, thuyền buôn Tây Dương tới
lui miền Đông Á như đi chợ.
Đầu thế kỷ XVII, thương nhân Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp,
kế tiếp đến mở cửa hiệu buôn bán ở hai thương cảng lớn nhất của nước Nam ta:
Đàng Trong là Hội An, Đàng Ngoài là Phố Hiến. Nhất là thị trường sau này khai
sinh chậm thua Hội An, nhưng có lẽ tụ họp đông đảo hơn; sử chép hàng mấy nghìn
nóc nhà ngoại thương, cảnh vui và bề rộng chỉ kém thành Thăng Long (Hà Nội) cho
nên người đương thời đã có câu ví truyền tụng: "Thứ nhất Kinh kỳ, thứ
nhì Hiến Nam". Hiến Nam tức là phố Hiến, ở xã Nhân Dục, huyện Kim Động,
tỉnh Hưng Yên, đời Lê, chỗ ấy là trấn lỵ của trấn Sơn Nam.
Trong những thương nhân từ bên kia quả đất mạo hiểm đến kiều
cư, doanh nghiệp ở xứ ta lúc bấy giờ, có ít nhiều người bởi sinh lý cần dùng,
hoặc muốn xây dựng cơ sở lâu dài, đã kết hôn với đàn bà bản xứ.
Nhưng muốn tìm dấu tích các cô đi tiên phong trên con đường "Tây
Nam hợp tác", dễ thường khó hơn muốn tìm bốn cạnh của chiếc hình tròn; vì
thuở xưa ta chẳng có sổ sách hôn thú, cũng chẳng có báo chí nào đăng tin mừng,
tin buồn mà hòng tra cứu.
Đến đời Gia Long, nghĩa là đầu thế kỷ XIX, có một vài bà được
danh giá với xã hội và để lại tên tuổi trong sử sách.
° ° °
Trước hết là cô Benoite Hồ thị Huề, vợ ông J. B Chaigneau.
Ai đọc sử cận đại nước nhà chắc hẳn thừa biết ông này là một
trong số hơn hai chục người thiếu niên anh tài Pháp do ông giám mục Bá Đa Lộc
chiêu mộ sang đóng tàu luyện quân giúp vua Gia Long giữa năm 1789, lúc ngài còn
là Nguyễn vương, mới khởi binh ở Gia Định, lực lượng rất mỏng manh. Nhưng
không mấy người để ý đến chuyện ông Chaigneau có lấy một người vợ An Nam, mà cuộc
nhân duyên ấy lại chính vua Gia Long đã có hảo tâm khuyên nhủ.
Ông là người thao lược, thận trọng, hiểu biết rộng về kỹ thuật
hải quân, cho nên được vua ta rất tin yêu, trọng dụng, cho cai quản một chiếc
tàu Long và một đội thủy sư, nhiều khi phó thác tất cả công việc án ngữ quân giặc
ở mặt bể. Ngài hậu đãi có vẻ hơn cả chư tướng, lúc chuyện vãn hoặc có việc gì
sai bảo, thường gọi "ông Long" một cách thân mật chứ không
hô tên. Lòng tin yêu của nhà vua đối với ông đầm ấm đến nỗi khi biết ông góa vợ,
lại ân cần nghĩ tới sự chắp mối tơ duyên cho nữa.
Lúc ấy vào khoảng cuối năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Vương đã
thu phục kinh thành Phú Xuân và thiên đại bản doanh ở Gia Định ra đây. Một hôm,
trong triều mở cuộc yến hội tướng sĩ, xong rồi nhà vua cầm giữ ông Chaigneau ở
lại sau để hỏi chuyện gia thất.
- Ông Long! Nghe nói... bà nội trợ của ông đã quá cố? - Nguyễn
Vương hỏi.
- Tâu Đại vương, quả thật chúng tôi đã nhận được tin buồn rầu
ấy; xin cảm tạ Đại vương có lòng hỏi thăm! - Ông Chaigneau đáp.
- Vậy thì ông sắp lo kiếm đôi bạn mới đi.
- Bẩm, tôi không có ý tưởng ấy.
- Ồ! Người ta sống cô độc thì buồn chết! - Nguyễn vương cười
và nói - Đại trượng phu ra trận đánh giặc, lúc trở về nhà cũng phải có đàn bà
xinh đẹp ở bên cạnh yên ủi, nâng giấc, có thế mình mới thấy có sinh thú được chứ!
- Đại vương dạy rất phải, nhưng...
- Tôi muốn ông cưới ngay người vợ ở xứ này. Những nhà quyền
quý, không thiếu gì con gái nhan sắc, tôi có thể làm mối hộ ông được ngay,
nhưng chỉ hiềm vì họ không theo đạo. Tôi biết ông là người ngoan đạo, tất phải
cưới vợ cũng có đạo mới được. Vậy ông nên tự kén chọn lấy đôi bạn cho vừa ý...
Chả phải kiếm đâu xa, chung quanh Kinh thành chắc hẳn cũng có.
Sau câu chuyện này, ông Chaigneau để ý vật sắc được cô
Benoite Huề, con nhà họ Hồ ở kinh thành, một nhà làm ăn lương thiện và có đạo gốc
trải đã mấy đời.
Qua năm Nhâm Tuất (1802), sau khi Nguyễn Vương chính vị hoàng
đế, kỷ nguyên Gia Long độ hai tháng, ông Chaigneau và cô Hồ thị Huề làm lễ hôn
phối chính thức trước nhà thờ Thọ Đức ở Kinh thành Huế, giữa ngày 10 Août năm
1802.
Theo người chép gia phả họ Chaigneau, thì đôi lứa này rất là
ân ái tương đắc; ông chồng hết sức kính mến vợ và khéo cư xử theo tục An Nam;
cô Huề lại là người hiền hậu, chăm chỉ, có gia đình giáo dục tốt, người ngoài
trông vào đều phải tấm tắc khen ngợi. Một tay cô nuôi nấng đàn con, chăm nom
nhà cửa, đâu đó ngăn nắp chỉnh tề, tỏ ra một người giỏi việc tề gia nội trợ,
khiến chồng được yên ổn làm việc vua việc quan, chẳng phải bận lòng về gia sự
bao giờ. Nhất là lúc ấy ông Chaigneau cũng như ba ông Vannier, Despian, De
Forcant đã trở thành một bực quan lớn tại triều, vua ban cho dinh thự và cắt
riêng 50 tên lính hầu; lẽ tự nhiên cô Huề không phải là một người vợ tầm thường
mà chính là một bà mệnh phụ đường đường, cử chỉ ngôn ngữ dù đối với ai cũng nhã
nhặn, chứ không có chút nào kiêu căng, hợm hĩnh.
Cô ở với ông Chaigneau 13 năm (từ cuối năm 1802 đến tháng 9
năm 1815), sinh được 11 người con vừa trai vừa gái, rồi mang bệnh từ trần, ông
chồng khóc than, nhớ tiếc mãi, cho là một vết thương lòng chẳng thể nào hàn gắn
được.
Đến sau vua Minh Mạng lên nối ngôi (năm 1820), đem lòng nghi
kỵ và bạc đãi các công thần khai quốc, cả người Pháp lẫn người Nam. Ông
Chaigneau nghĩ tình thế không nên lưu luyến mũ áo, bổng lộc triều đình Việt Nam
nữa, bèn dắt díu cả đàn con về ở luôn bên Pháp. Mười một người con của ông
Chaigneau và bà Benoite Hồ thị Huề về sau đều thành đạt: con gái có chồng con,
cơ nghiệp tử tế; con trai cũng học hành khá, người này ra làm võ quan, người
kia cung chức trong các bộ của nhà nước. Cậu con đầu lòng là Michel Đức thọ đến
91 tuổi, mấy phen được gặp sứ thần của vua Tự Đức phái sang Ba Lê (Paris), và
có một bức ảnh truyền lại, khăn đen, áo dài, râu bạc, má hóp, trông tướng mạo
giống cụ Phan Thanh Giản như anh em ruột.
Michel Đức sinh tại Huế ngày 25 Juin 1803, trải qua tất cả thời
kỳ thanh niên ở kinh thành nước ta, thường được ra vào cung cấm, cho nên hiểu
biết công việc của triều Gia Long rất nhiều; sau về bên Tây viết sách "Kỷ
niệm xứ Huế" (Souvenirs de Hue), ở một chuyện trước chúng tôi đã có dịp
nói đến, kể lại nhiều sự kiến văn lý thú.
Hồi Michel Đức mới bảy, tám tuổi, có một hôm đi theo cha vô
trong Nội, theo lệnh nhà vua đòi vào cho ngài xem thử cái kết quả Pháp - Việt hợp
tác tốt đẹp đến thế nào.
Lúc ấy, vua ngự ở một chái điện Cần Chánh, ngồi trên chiếu cạp
vóc vàng, trước mặt để cái yên viết, bày đĩa son và một chồng tấu sớ; ngài đang
cầm bút phê xét giấy tờ, sau lưng vài chị cung nữ đứng hầu châm thuốc và một
viên thái giám chờ lệnh sai phái. Trông thấy ông Chaigneau đưa cậu Đức vào,
ngài lật đật nhổm dậy và nói cười niềm nở:
- Ha! Ha! Lại gần bên ta, để ta xem mặt mũi có giống ba
không, nào!
Ngài để bàn tay trên vai cậu bé, vuốt ve cằm cậu một cách nựng
nịu yêu đương, nhìn kỹ diện mạo rồi nói với ông Chaigneau:
- Này, ông Long! Ông khéo nặn thằng bé ngộ nghĩnh dễ yêu quá,
chỉ phải cái mũi nó hơi An Nam một tí.
Vua nói rồi cười ha hả, làm cho ông Chaigneau cũng bật cười
theo. Cậu bé Michel ta ngây thơ chả hiểu chuyện gì, cũng nhoẻn miệng cười nốt.
Hết lời nọ qua câu kia, nhà vua vui miệng nói liền liền, chẳng
để hở giây phút nào cho cậu bé làm lễ tung hô, bài học triều nghi mà cậu đã được
mẹ dạy thuộc lòng trước khi theo cha vô nội.
Một lúc sau cậu mới có dịp tung hô "Thiên tử vạn tuế!
Vạn vạn tuế" không ngờ mấy tiếng ấy làm vua Gia Long nổ thêm một trận
pháo cười và giảng giải cho cậu bé hiểu rằng: ngài cũng là con cha mẹ sinh dưỡng
như ai, chứ không phải con trời giáng sinh như người ta lầm tưởng.
Xong đoạn ấy rồi, ngài âu yếm hỏi cậu:
- À, ta quên hỏi con, năm nay mấy tuổi, con?
- Muôn tâu Ngài Ngự! Con được 8 tuổi.
- Con đã học chưa?
- Muôn tâu Ngài ngự! Con đang khởi sự học chữ Phú Lãng Sa và
chữ Nho.
- Giỏi lắm! Con gắng học chăm chỉ, nghe! Mai sau, ta cho con
làm quan. Con có ưng làm quan không?
- Dạ, con ưng lắm.
- Được rồi! Bây giờ thì con đi vô chào Hoàng hậu; xong, con
trở ra đây, ta cho xem hát tuồng, nghe! Con cứ đi mạnh bạo lên, đừng sợ gì cả,
đàn bà trong này không phải dữ tợn, họ không ăn thịt con đâu mà lo.
Sau khi Michel Đức theo chân một cung nữ đi vào điện trong,
vua Gia Long quay lại nói chuyện với ông Chaigneau:
- Thằng bé sắp vào giữa đám cung tần mỹ nữ, chả biết nó có cảm
thấy sung sướng thế nào, tôi tưởng nhiều người muốn ở địa vị nó mà chẳng được.
Trong khi ấy, Michel Đức vào nội cung triều kiến Hoàng hậu,
được Hoàng hậu chiêu đãi hết sức niềm nở, một tiếng gọi cậu Đức, hai tiếng gọi
cậu Đức, ban cho quà bánh nhiều thứ và hỏi han tẩn mẩn những chuyện đàn bà bên
Tây phương ăn mặc thế nào, có nhiều người đẹp không? Cậu trả lời chưa được về
quê cha, đất tổ, cho nên tình hình phụ nữ Châu Âu thế nào, cậu không biết rõ,
nhưng cứ nghe ba cậu kể chuyện thì bên ấy cũng có nhiều đàn bà đẹp như ở đây.
Các bà phi tần và nữ quan cũng xúm xít hỏi chuyện, mỗi người một câu, làm cho cậu
bé ứng đối không kịp.
Trở lên toàn câu chuyện ứng đối trong sách "Kỷ niệm
xứ Huế" của Michel Đức, xuất bản ở Paris, năm 1867. Kể còn nhiều kiến
văn lý thú khác quan hệ về chính trị, về phong hóa, về nhân vật ở thời đại Gia
Long, nhưng khuôn khổ giấy mực ở đây chỉ cho chúng tôi lược cử ra một vài giai
thoại thế thôi. Nghe chuyện Michel Đức, thì thấy vua Gia Long có vẻ đức độ giản
dị, vui tính, nhất là có vẻ bình dân.
Theo như lý do đã bày tỏ chặng đầu, cố nhiên Benoite Hồ thị
Huề không phải là người đàn bà Việt Nam thứ nhất lấy chồng Tây Dương. Nhưng kể
hạn có tên tuổi ở xã hội và lịch sử, thì chắc hẳn cô là số một, mà Michel Đức,
người con đầu lòng Pháp - Việt hợp tác, cũng là số một, đã được ra vào chốn
cung điện tôn nghiêm của nước ta.
° ° °
Đồng thời có hai bà nữa, đến nay cũng còn thấy dấu tích in
trong sử sách.
Ấy là cô Hồ thị Nhơn, em ruột cô Huề, lấy ông De Forcant và
cô Nguyễn thị Sen, vợ ông Vainnier tức Nguyễn văn Chấn, cai quản tàu Phụng.
Cả hai ông cũng là khai quốc công thần của vua Gia Long và cùng làm quan tại
triều như ông Chaigneau.
Nhưng đôi bạn trên hình như thua chị kém em, không được nhìn
thấy nụ cười hạnh phúc. Vì ông De Forcant không giàu sức khỏe để kham nổi khí hậu
xứ này, cho nên chỉ cung chức được ít lâu thì bệnh hoạn lôi kéo đi thế giới
khác, để lại cô Nhơn trẻ trung góa bụa và chưa có con cái gì.
Duy cô Nguyễn thị Sen, kể ra sung sướng hơn cả. Nếu có phải hạnh
phúc tuyệt đối của đời người đàn bà gồm có ba việc là chồng sang, con đông, tuổi
thọ thì quả thật cô được kiêm hưởng.
Lai lịch của cô và nhân duyên buổi đầu gặp gỡ thế nào, chúng
tôi thú thật thiếu sự nghiên cứu. Chỉ biết đại khái cô cũng là con nhà đạo gốc,
có tên thánh là Madeleine và cùng ông Philippe Vannier kết hôn chính thức, có lẽ
trước ông bạn đồng liêu Chaigneau cưới cô Hồ thị Huề. Trong khi má cậu Đức làm
bà lớn nhất hô bá ứng ở dinh thự ông chúa tàu Long, thì cô Madeleine Sen cũng
đường đường ở ngôi phu nhân nội tướng trong dinh ông chúa tàu Phụng; địa vị
vinh hiển ngang nhau, bổng lộc vua ban và quân lính hầu hạ chắc hẳn cũng thế.
Bước sang triều Minh Mạng, bày ra sự thế hay ở dở đi, hai ông
Chaigneau và Vannier cùng nộp ấn từ quan, rủ nhau đưa gia quyến vào Gia Định,
đáp tàu về Pháp. Có điều, một người thì dắt díu lũ trẻ mồ côi sinh mẫu; còn một
người thì thê tử đề huề, mẹ tròn con vuông.
Khi sắp lên đường hình như ông Vannier đã thành thực bảo cô
Sen muốn ở lại tùy ý. Sống ở nước Nam lâu ngày, ông thừa hiểu tâm tính người xứ
này rất mực lưu luyến gia hương, chẳng muốn vì một lẽ gì xa cách lũy tre xanh đầu
làng; huống chi muôn dặm xa xôi, có thể một đi không về như chim hoàng hạc.
Nhưng cô Sen mạnh bạo hy sinh tình yêu quê quán đi theo tiếng
gọi của tình yêu, mẹ con.
Rồi thì cắn răng từ giã làng nước, họ hàng; cô Sen nách bồng,
tay dắt, theo đức phu quân xuống tàu về Pháp, ở châu thành Lorient là quê chồng,
có một nếp nhà vườn tổ phụ để lại.
Vợ chồng vui sống trong cảnh an nhàn được hai chục năm thì
ông Vannier qua đời.
Ông mất nhằm ngày 6 Juin 1842, để thương, để tiếc cho người
quả phụ 52 tuổi với mười đứa con: 3 trai, 7 gái.
Hai người con trai lớn đi làm việc nuôi mẹ một cách hiếu thảo;
còn các cô con gái thì phần đông đã có chồng con, ở riêng.
Đến năm 1863, có sứ bộ Việt Nam sang Pháp. Chắc ai cũng nhớ
là sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, vâng mệnh vua Tự Đức sai
đem phẩm vật qua hiến Pháp hoàng Nã Phá Luân đệ tam (Napoléon III) và thương
thuyết với triều đình Pháp về việc ba tỉnh Nam phần.
Lúc bấy giờ Vannier phu nhân đã trở nên một bà lão răng long
tóc bạc ngót bảy chục tuổi đầu.
Con cháu xem bảo thấy có sứ Việt Nam sang, kể chuyện lại cho bà
nghe. Động lòng cố quốc tha hương, bà chẳng quản gì đường xa tuổi già, lập tức
cùng cô con gái út lên tận Ba Lê (Paris) để chào các quan sứ nước nhà.
Trong tập nhật ký "Như Tây sứ trình" của
cụ Phan Thanh Giản viết, để khi về phải dâng vua ngự lãm, có mấy hàng chép việc:
"Lão phụ Nguyễn thị Sen, vợ Nguyễn văn Chấn, tức Vannier, cùng đi với người
con gái út, từ Lorient lên tận Paris, tìm đến sứ quán, chào mừng sứ thần, hỏi
thăm tin tức quê hương và ngỏ lời kính chúc hoàng thượng an hảo..."
Hôm ấy, bà Sen mặc quốc phục để tỏ lòng nhớ nước. Hơn năm chục
năm xa vắng cố hương, quen dùng Pháp ngữ, thành ra quên tiếng An Nam rất nhiều,
nói chuyện câu được câu chăng, Michel Đức, con ông Chaigneau, ngồi bên nhắc lại,
hoặc thông ngôn hộ, các quan sứ ta mới nghe rõ. Hai mẹ con bà ở Paris mãi đến
hôm tiễn chân sứ bộ lên đường, rồi mới trở về Lorient. Cụ Phan Thanh Giản thay
mặt vua, tặng bà mấy nén bạc và mấy tấm lụa.
Bà sống mãi đến ngày 6 Avril, năm 1878, thọ 87 tuổi.
Tại Lorient, có hai mộ liền nhau, dựng bia khắc chữ, một bên
là Philippe Vannier, một bên là Madeleine Sen, đến nay vẫn còn.
Một bài thơ giết người
14 chữ làm chết hai cha con ông Tiền quân Thành. - Có lẽ quả
bảo tại ông Thành làm bộ luật Gia Long.
I
Trái núi đẻ ra con chuột
Giữa tháng Chạp năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long thứ 14 (dương
lịch 1815), trong các giới quan liêu - nhất là bên võ - ở kinh thành Huế, xầm
xì bàn riêng nói nhỏ với nhau về một vụ âm mưu phản nghịch rất quan hệ.
Những kẻ rỉ tai nói mánh câu chuyện ghê gớm ấy, hoặc chỉ mới
phong thanh chứ không biết rõ thực sự, hoặc cố ý phóng đại ra, muốn khoe mình
thông tỏ công việc quốc gia triều đình hơn. Làm khổ cho người được nghe phong
thanh, bất giác hồi hộp kinh hoàng, tưởng đến cảnh tượng máu chảy thành suối, đầu
rụng như sung, không khéo tất cả cung điện phố phường đều ra tro, mà đất sắp
nghiêng trời cũng sắp ngã vậy.
Song người ta có thể vuốt ngực để thở, vì vụ âm mưu phản nghịch
ấy bị phát giác.
Có điều nó quan hệ, và rất mực quan hệ, là bọn âm mưu không
phải người thường, chính là cha con một vị công thần khai quốc, chức cao quyền
lớn, hiển hách tại triều. Mà người đã phát giác âm mưu cũng là bậc rường cột
triều đình tương đương như thế. Trong tay lại nắm được chứng cớ hẳn hoi có thể
nói là tờ hịch khởi loạn. Rồi xem...
Ấy, trong giới am hiểu sự tình, khi mới nghe lỏm, thì thầm với
nhau ở bóng tối nhà riêng, đại khái là thế.
Kỳ thật, chỉ là câu chuyện trái núi đẻ ra con chuột.
Gọi là âm mưu phản nghịch, gọi là chứng cớ hẳn hoi, rút lại
có một bài thơ tám câu dưới đây, không hơn không kém.
Văn đạo Ai châu đa tuấn kiệt.
Hư hoài trắc tịch giục cầu ti.
Vô tâm cửu bão kinh sơn phác,
Thiện tưởng phương tri ký bắc kỳ.
U cốc hữu hương thiên lý viễn,
Cao cương minh phượng cửu cao tri.
Thử hồi nhược đắc sơn trung tể,
Tả ngã kinh luân chuyển hỏa ky.
Nguyên văn bài thơ thấy chép trong sử "Đại Nam Thực
lục chỉnh biên đệ nhất kỷ" quyển thứ 51; ông Trần Trọng Kim (Việt
Nam sử lược) đã dịch ra quốc văn như sau này:
Ái châu nghe nói lắm người hay.
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phát Kinh sơn tài sẵn đó.
Ngựa kỳ ký bắc biết đâu thay!
Mùi hương hang tối xa ngàn dặm.
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
Sơn Tể phen này dù gặp gỡ.
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này.
Cố nhiên, về mặt văn chương, kể cũng là một thiên giai tác;
nhưng ở đây người ta không cần nói chuyện văn chương, chỉ cần soi móc nội dung,
về chỗ dụng ý lập ngôn của tác giả.
Nào, nội dung có gì?
Chẳng qua tác giả cốt gửi cho bạn ở Thanh Hóa (Ái Châu), vì từng
nghe tiếng là bậc hiền nhân danh sĩ đời nay, cho nên trong bụng hâm mộ khát
khao, mong được gặp gỡ. Nào ngọc phát Kinh sơn, ngựa kỳ Ký bắc; toàn mùi
hương hang tối, tiếng phượng gò cao, toàn là lời hình dung tâng bấc tài
năng danh vọng của bạn theo lối thù phụng thanh nhã thế thôi. Trong đấy, nào có
một ý, một chữ gì tỏ ra chê bai vua chúa hay oán hận triều đình, khiến người ta
buộc được phản nghịch cho cam?
Giá như bài thơ chỉ đến đó là hết, thì còn phải nói làm chi,
mà cũng không có chuyện. Khốn, nhưng sinh sự và giết người là ở hai câu sau
chót:
"Thử hồi nhược đắc Sơn trung tể?
Tả ngã kinh luân chuyển hỏa ky"
Tất cả mối manh vụ án bài thơ giết người, tất cả sợi dây
nghiêm hình đối với tác giả, đều trói chặt vào 14 giữ ấy.
Đào Hoằng Cảnh, người Tàu ở đời Lương Vũ Đế (502-549) tài cao
học rộng, ở ẩn trong núi; vua mời mãi ra làm quan không được; mỗi khi nhà nước
cho việc gì khó khăn, phải sai người vào núi hỏi ý kiến. Vì thế, người đương thời
gọi là Sơn trung tể tướng (quan tể tướng trong núi).
Tác giả bài thơ là anh học trò, là chú lê dân, sao lại được
phép mong ước có một vị Sơn trung tể tướng? Mà để làm gì? Để giúp nhau
xoay chuyển hội cơ này, có phải rõ ràng muốn chuyển di cuộc thế, dòm ngó mạng
trời, tức thị muốn rủ nhau cướp nước làm vua, chứ còn gì nữa?
Vậy thì điều mong ước ghê gớm ấy, chính là dấu tỏ âm mưu phản
nghịch.
Ta nên biết ở thời đại quân chủ độc tôn, khoan nói sự hành vi
xâm phạm đến quyền độc tôn ấy, nội một ý nghĩ, một câu văn, đại khái như bài
thơ trên đây, cũng đủ kể là tội ác nguy hiểm ra thế nào?
Nhất là bố đẻ ra nó, hay nói rõ hơn, người bị vu cáo hoặc bị
tình nghi đẻ ra bài thơ ấy, lại là Nguyễn văn Thuyên, con ông Nguyễn văn
Thành, Trung quân Đô thống chế, tước Quận công, hiện đang làm quan to
nhất trong triều.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh ở những tiếng "bị vu cáo
hoặc tình nghi" bởi duyên do vụ án chỉ là chuyện tư thù nhỏ mọn gây
ra, nhiều chỗ mập mờ khuất khúc, đáng làm cho ta ngờ vực; trong sử chép cũng chẳng
thấy chỗ nào chứng thực có phải Nguyễn văn Thuyên là tác giả bài thơ hay không?
Lấy tài liệu trong sử đời đó, xem vụ án phát khởi và diễn biến
ra sao thì biết.
II
Níu áo cụ lớn để vòi tiền
Với những chiến công oanh liệt giúp vua Gia Long khai quốc và
bài văn tế "Trận vong tướng sĩ", thêm bộ luật lệ Gia Long,
Nguyễn văn Thành đã ghi tên mình vào lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 sang đầu
thế kỷ 19, là một văn gia, là một nhà kiêm cả chính trị, pháp luật.
Thật thế, sau khi vua Gia Long thắng được Tây Sơn, thống nhất
toàn Việt, ông Thành có làm Bắc thành Tổng trấn ít lâu, rồi về làm
quan tại trào, phụng mạng sửa sang hình luật trong nước tức là bộ luật Gia
Long.
Lúc xảy ra vụ án cậu ấm nhà ta, ông Thành đang làm quan hiển
hách nhất trào, trên cả các ông Lê văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng, Trịnh Hoài Đức, mặc
dầu cùng hạng công thần khai quốc như nhau.
Những người như Thành, công danh phú quý to quá, nếu khéo tri
túc mà kịp thời lui trước đi, có thể tránh được nhiều điều hệ lụy và trọn hưởng
tuổi trời chẳng hơn. Ngày xưa Phạm Lãi giúp vua Câu Tiễn báo thù phục quốc xong
rồi, lẳng lặng trốn đi, bơi thuyền Ngũ Hồ, người đời phục là minh triết; không
như Văn Chủng, tham quyền cố vị, đến nỗi bị Câu Tiễn giết chết. Thịnh danh đa lụy,
cho nên cổ nhân vẫn kiêng. Đằng này, Thành đã đi tới quá chỗ thịnh danh, làm
sao cho khỏi bị người ganh tị, ngờ vực? Bắt đầu ngay từ nhà vua mà đi, nói chi
thiên hạ trông mong vào mình rất nhiều, nhưng không phải ai cũng được làm vừa
lòng, tự nhiên mọi sự thù oán tiểu nhân mọc mầm đâm rễ từ đó. Đến khi biết ra
thì đã quá muộn!
Thành trước có người môn khách tên là Nguyễn Hựu Nghi, vẫn
lui tới ăn ở trong nhà, có khi giúp Thành về việc biên chép giấy tờ, trong ý
không có gì khác hơn là mong nhờ cất nhắc có chút công danh địa vị. Nhưng rồi
sau Nghi làm việc lầm lỗi với Thành sao đó, phải bỏ trốn đi, ghim lòng thù oán.
Lần hồi Nghi khéo luồn lọt được làm môn hạ ông Lê văn Duyệt,
vì hắn thừa biết ông này với Thành vốn không ưa nhau.
Ông Duyệt thấy Nghi có tài khẩu biện, đem lòng yêu mến tin
dùng, dần dà cất nhắc cho hắn tới chức Thiêm sự bộ Hình. Thầy trò
tương đắc nhau có lẽ vì chung một kẻ cừu địch: Nguyễn văn Thành.
Tuy thờ chung một chủ, đứng chung một triều, nhưng Thành -
Duyệt vẫn khinh ngầm ghét đắng nhau, thuở ấy không ai không biết. Người ta kể lại
nguyên ủy từ trận đánh nhau với binh Tây Sơn ngoài hai chục năm trước. Lúc bấy
giờ hai tướng cùng ngồi trên lưng voi đốc chiến, Thành rót rượu uống cho thêm
dũng khí; lại rót mời Duyệt đôi ba lần, Duyệt đều từ chối. Thành ép mãi, Duyệt
nói:
- Đây tôi lúc nào cũng thừa dũng khí có cần như bác phải nhờ
hơi men đâu!
Thành cười, nhưng trong lòng căm Duyệt từ đấy. Vả lại, Thành
vẫn tự phụ mình hơn tuổi, văn võ toàn tài, con nhà dòng dõi, không phải như Duyệt
xuất thân là anh hoạn thị, chỉ nhờ trận mạc đánh nhau giỏi, mà rồi cùng Quận
công, Đại tướng, ngang vai bằng hàng với mình. Cho nên Thành hay tỏ ý khinh bỉ
Duyệt, làm Duyệt ấm ức đã lâu.
Duyệt thu nạp Hựu Nghi là người đã bị Thành đuổi, lại cất nhắc
cho làm quan, thâm ý chưa chắc không phải cốt làm cho bỉ mặt Thành cho bõ ghét.
Không có gì chứng tỏ ra Duyệt muốn dùng Hựu Nghi làm khí giới
để trả thù hãm hại người bạn đồng liêu; nhưng riêng Hựu Nghi căm hờn Thành đuổi
nên dụng tâm lập kế báo thù thì có.
Hựu Nghi, vốn người Thanh Hóa, khi làm chức Thiêm sự bộ Hình,
có nuôi trong nhà một anh chàng đồng quận; tên Nguyễn Trương Hiệu, vào hạng thư
sinh bất đắc chí, đi kiếm ăn giang hồ, vì học khá, chữ tốt, thuật số cùng tinh;
lại được vẻ người như là thật thà, thêm có khẩu tài.
Bấy nhiêu đặc tính của Trương Hiệu khiến Hựu Nghi để ý ngay đến
chỗ lợi dụng làm khí giới để tiết phẫn với Thành, bèn tìm cách cho Trương Hiệu
được trở nên người nhà thân mật của con Thành là Nguyễn văn Thuyên.
Cậu ấm con cụ lớn này, đỗ cử nhân từ mấy năm trước, nhưng
tính khí hào phóng tự do, không thích làm quan, dựng một nếp nhà riêng ở phường
Đông Ba, lấy nơi tụ họp văn nhân thi sĩ xa gần, ngày ngày uống rượu ngâm thơ với
nhau làm vui. Thuyên lại sẵn tiền và chuộng khách, nghe đâu có danh sĩ, không
ngần ngại sai người vác tiền đi mời mọc kỳ được tới kinh đô, để cùng chè chén
ngâm vịnh chơi.
Chủ tâm Hựu Nghi xếp đặt cho Trương Hiệu được "nhập nội"
nhà Thuyên, đã rỉ tai bảo nhỏ:
- Chú mày để tâm rình mò cử động thằng Thuyên có điều chi
khác lạ, phải bảo cho tôi biết ngay nhé!
Không bao lâu... Một hôm, vào khoảng thượng tuần tháng Chạp
năm Ất Hợi, Trương Hiệu hí hửng chạy về nhà Hựu Nghi đưa cho xem một phong thư,
và nói:
- Đây là bài thơ chính chữ Thuyên viết. Nó sai tôi cầm ra
Thanh Hóa đưa cho Văn Khuê và Đức Nhuận (hai người đều họ Nguyễn và danh sĩ tỉnh
Thanh) mời bọn ấy vào Huế chơi. Bác xem hai câu kết rõ ràng ý tứ phản nghịch
triều đình, đến mười họ nhà nó cũng phải chết!
Tức là bài thơ các ngài đã thấy đoạn trên.
Giữa lúc đó, ông Lê văn Duyệt Tổng trấn Gia Định, vừa mới về
kinh bệ kiến được mấy hôm.
Hựu Nghi cầm bài thơ tang chứng và dẫn cả Trương Hiệu lại tố
giác với ông Duyệt.
Ông này ghét Thành đã sẵn, nay vớ được tang chứng thế này còn
gì khoái ý hơn; lập tức vào nội, mật tâu với vua.
Vua Gia Long xem rồi, cho là việc mập mờ bỏ qua không muốn
tra cứu, trao bức thư lại cho ông Duyệt, bảo đưa trả người đầu cáo, tức Trương
Hiệu.
Tất cả màn đầu đã diễn trong vòng kín đáo, chắc hẳn cha con
ông Thành không biết gì cả. Ta thấy trong màn thứ hai chứng rõ điều đó.
Hựu Nghi lập mẹo bày khôn cho Trương Hiệu về miếng giấy nằm
trong tay nó:
- Cái bút tích tày trời thế này, chú mày đã tố giác để lập
công cầu thưởng không xong, giờ đem ra xoay tiền thằng Thuyên và lão Thành, chắc
được. Bao nhiêu nén bạc mà chúng nó chẳng phải chuộc về!
Quả nhiên, Trương Hiệu đến nhà Thuyên làm tiền, với khí giới
đe dọa trong tay; nếu không hối lộ thì sẽ đưa ra tố giác. Mà tố giác thì hai
câu thơ cuối sẽ trói cổ Thuyên về tội âm mưu phản nghịch là tội chết chém.
Có tật giật mình, Thuyên phải đút nhét vào lòng tham của
Trương Hiệu mãi, cho được êm chuyện.
Nó lấy tiền nhiều lần rồi, nhưng vẫn giữ chặt bức thư tang chứng
làm như lúc nào cũng đeo thanh gươm ở trước cổ Thuyên.
Tới khi vắt mãi cậu ấm không còn ra nước hối lộ được nữa,
Trương Hiệu xoay đến cụ lớn.
Thằng cha giang hồ thuật sĩ này, có lá bùa sát nhân trong
mình, cho nên mật to hơn mật Khương Duy, không ngần ngại đón đường ông Thành,
níu chặt lấy áo ông mà vòi tiền.
Có lẽ ông Thành vững lòng tin tưởng con mình ngay thật chăng?
Vì ông làm quan đến cực phẩm triều đình, con ông sinh trưởng phú quý, lại có học
thức, đỗ cử nhân, bảo rằng nó mưu phản thì vô lý quá. Dù chính nó làm bài thơ ấy
chăng nữa, bất quá là khẩu khí ngông nghênh của một kẻ khát rượu cuồng thơ, trẻ
người non dạ; có tội thì đánh đòn hay ở ngục là cùng, chẳng đến nỗi chết đâu mà
sợ. Huống chi có thể trông mong ở lượng khoan hồng của nhà vua, nghĩ lại công
lao ông bách chiến mà tha thứ cho con ông.
Hay là ông biết chắc tang chứng trong tay Trương Hiệu là đồ
giả mạo chăng? Có lẽ. Vì có thể tin rằng Hựu Nghi lập mưu cho Trương Hiệu nhập
nội nhà Thuyên, cốt học giống hệt lối chữ Thuyên, rồi tự làm bài thơ nguy hiểm
kia để vu cáo; mục đích vừa lập công, vừa báo thù. Nếu vậy thì càng nên làm ra
minh bạch, nhất là ông đã soạn ra hình luật cho nhà nước, tất phải trừng trị những
quân "ngậm máu phun người".
Chẳng biết có phải ý nghĩa của ông Thành như hai điều nghi vấn
đó không? Chỉ biết khi tên Trương Hiệu níu áo vòi tiền giữa đường, làm ông nổi
xung lên, tức khắc sai bắt trói cả Trương Hiệu lẫn Văn Thuyên, con ông, đem
giam vào ngục trong trại binh Quảng Đức. Rồi ông thân hành vào triều đem hết
công việc tâu vua, và xin xét cho ra lẽ.
Vua giao cho đình thần mở cuộc thẩm vấn.
Thế là vụ án trở nên công khai.
III
Bố tự tử, con bị chém
Cuộc xét hỏi bắt đầu ngay.
Trước mặt đình thần, Thuyên cực lực bày tỏ mình bị vu oan giá
họa, không hề có bụng mưu nghịch; chính bài thơ tang chứng kia không phải mình
làm, mà cũng không phải chữ mình viết.
Nhưng Trương Hiệu khai rõ đầu đuôi một hai khai quả quyết rằng
Thuyên mưu nghịch; lại dẫn chứng cớ, môn khách của Thuyên là Đỗ Văn Chương cũng
biết việc đó.
Hình bộ đòi Văn Chương ra đối chất, thì hắn đã về Gia Định từ
trước rồi.
Vua Gia Long thấy chứng tá chưa đủ, bèn hạ lệnh cho Thuyên ra
khỏi ngục thất, - nghĩa là cho tại ngoại hầu tra, - đợi Hình bộ tư bắt Văn
Chương ra đối chất sẽ hay.
Bước qua đầu năm sau "Gia Long 15, dương lịch 1816"
bọn thù ghét Thành bấy lâu được dịp đàn hặc đủ thứ, cố phá hoại thêm cho tòa
nhà đã dột, chiếc thuyền đã hư. Những tấu sớ hạch tội Thành dâng lên như bươm
bướm.
Gay gắt nhất là Nguyễn Duy Hòa, Ký lục tỉnh Quảng Trị (tức
quan đầu tỉnh hồi bấy giờ) về Kinh bệ kiến, cốt để dâng sớ xin nghiêm trị
Thành. Đại ý nói rằng:
"Con Thành là Thuyên, ngầm mưu phản nghịch, đã bị bại lộ,
vậy mà Thành vẫn còn nghênh ngang mũ áo, đứng trên bách quan, còn gì là triều
đình thể thống?
Triều đình là chốn tôn nghiêm, làm mẫu mực cho thần dân thiên
hạ trông vào. Nay tên Thuyên đã bị giao cho đình thần xét xử lại được yên ổn về
nhà; phép luật thi hành thế ấy làm sao treo gương ra mẫu cho thiên hạ?
Huống chi Thành làm luật, tự tiện rút bỏ khoản này khoản kia,
lại cất nhắc tên Trần Hựu, là đứa gian phi mà giấu bịt cái tội nó cưỡng dâm vợ
người đi, thế là ngầm kế bè đảng dối vua hại nước. Đến nỗi xây mộ cho mẹ cũng
làm trái phép quá phận, kể đạo làm tôi, thế là tội to lắm.
Bệ hạ có thương xót y có công lao, thì cũng nên đưa ra công
luận, lấy phép sửa trị, sau sẽ lấy ân mà bảo toàn cho, có thế quốc pháp mới được
công bằng, gian thần mới biết kiêng sợ v.v..."
Vua trao sớ này cho đình thần bàn xét, ông Thành chỉ nhận lỗi
mình cất nhắc Trần Hựu sai lầm, còn các khoản khác thì đều biện bạch cãi chối.
Nhân đấy vua nhắc đến bài thơ bội nghịch của Thuyên, và nói:
- Ý thơ bài thơ sao mà trái ngược thế nhỉ? Phải biết có Lương
Vũ Đế, mới có Sơn trung tể tướng chứ. Thằng Thuyên là người gì mà dám ao ước có
Sơn trung tể tướng?
Các quan im lặng cả, vì chẳng ai ưa gì ông Thành mà hòng bênh
vực. Vả lại ở thời đại ấy, mấy ai dám nói trái ý vua? Trừ ra Hình bộ tham tri
Võ Trinh thường ngày có cảm tình với ông Thành, nay muốn nhân dịp bào chữa hộ
cha con ông đôi chút.
- Tâu bệ hạ, bài thơ ấy quả thiệt ý tứ "bội nghịch".
Nhưng ở trong có câu "U cốc sinh lương thiên lý viễn" chữ Hương ấy
đáng là chữ Lan mới phải vì chữ Lan thì lạm húy cho nên
Thuyên dùng chữ Hương. Cứ xét nội một chữ ấy, nó còn biết kiêng sợ không
dám dùng đến, vậy thì không phải nó thực lòng muốn bội nghịch".
Câu nói như thế bất quá là cách biện hộ của một thầy đồ gàn,
chỉ kiếm chuyện bào chữa vu vơ, chứ không dám nói thẳng vào vụ án. Thế mà cũng
đủ cho vua Gia Long nổi giận lôi đình, cho là tùng đảng, tức khắc lột chức Võ
Trinh mà giam vào ngục. Rồi vì tội đó mà sau ông bị án phát phối làm lính ở Quảng
Nam.
Sự thật, thâm ý vua Gia Long cùng chẳng ưa gì ông Thành. Lẽ
quan hệ nhất là thường tình ông vua sáng nghiệp, một khi đánh xong giặc, lên
ngôi tôn rồi, bao giờ cũng ngờ vực công thần khai quốc. Săn hết thỏ thì giết
chó, săn bắn hết chim thì muốn bẻ ná, trò đời xưa nay vẫn thế. Huống chi ông
Thành cũng có ỷ mình công to, vả lại vua tôi thân mật từ những khi còn bôn ba
hoạn nạn với nhau, cho nên lời nói việc làm không khỏi đôi khi sơ suất hay quá
bộc trực, khiến vua lấy làm bất mãn. Ông lại hay năn nỉ xin lập Hoàng tôn Đán
(con ông Hoàng tử Cảnh) làm vị trừ quân mai sau, điều đó trái hẳn ý vua, vua
sinh ra ngờ vực rằng ông muốn có ấu quân để rồi chuyên chính lộng quyền cho dễ.
Tuy nhiên, một người có công to như Thành, không thể bỗng dưng đem giết đi;
nhưng nếu tự Thành làm nên tội vạ để cho vua có cớ trừ khử, hoặc là hạ bớt uy
quyền và kiêu khí của Thành xuống, chắc hẳn vua được khoan tâm trúng ý.
Chẳng thế sao vụ án cha con Thành chưa xong, đã vì một câu
nói mà buộc tội Võ Trinh tùng đảng, cho đến cách chức bỏ tù?
Tháng Hai, đến kỳ tế Nam Giao. Triều thần cùng tâu rằng Thành
đang có tội, không nên cho dự vào lễ tế trọng thể ấy.
Vua nói rằng: Thành là đại thần nhà nước, dù thằng con y phạm
vào bội nghịch, nhưng việc còn mập mờ, đang xét chưa xong, vậy không lẽ mới
nghe lời nói của một bên, đã vội sơ tình với người bầy tôi huân cựu? Đoạn, vua
cứ cho Thành được dự tế.
Thành trông thấy cả triều thần xúm lại trị mình lấy làm ức
quá, tự nghĩ không còn chỗ dựa nào khác hơn là chính vua. Một hôm, vua ra triều
xong, đứng dậy về cung, Thành rảo bước theo đến tận cửa, nắm lấy áo vua mà ngăn
lại khóc lóc và nói:
- Tôi nhỏ lớn theo phò bệ hạ cho đến ngày nay, vốn không có tội
gì cả. Bây giờ bị người ta xúm nhau vu hãm, bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn cho người
ta giết tôi, mà không nhủ lòng cứu gỡ hộ ư?
Nguyễn Đức Xuyên thét mắng:
- Nhà ngươi có tội hay không, sẽ có công luận xét xử, cớ sao
dám vô lễ ở chốn triều đình như thế.
Vua không nói gì, dằng áo về cung, giận Thành về cử chỉ ấy,
cho nên từ đó không cho vào chầu nữa.
Đầu tháng Tư, người chứng quan hệ là Đỗ Văn Chương ở Gia Định
đã ra tới Kinh. Trước mặt đình thần, Văn Chương khai đúng như lời Trương Hiệu,
nghĩa là bài thơ chính Thuyên làm và chữ Thuyên viết. Tóm lại, Thuyên quả có
mưu nghịch.
"Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết" vì thế,
Thuyên bị bắt vào ngục, mà Thành bị thu quyền chức Trung quân đại tướng.
Vua hỏi ông Phạm Đăng Hưng:
- Thế, tên Thuyên đã chịu phục tội nó chưa?
- Bẩm, chưa!
- Nó manh tâm làm phản có chứng như thế, sao còn gân cổ chối
cãi là nghĩa làm sao?
- Tâu bệ hạ: tên Thuyên tự nghĩ nó là con nhà công thần, hẳn
bệ hạ không nỡ giết; mà đình thần tra hỏi, cũng không dám tận tình hết phép,
cho nên nó cứ gân cổ chối cãi vì đó.
Lời tâu của Phạm Đăng Hưng có nghĩa như chúng ta hiểu ngày
nay: Muốn cho nó phục tội, thì đưa ra "bó giò" hay "tra điện"
thử xem!
Hẳn lúc bấy giờ vua Gia Long cũng hiểu như thế, cho nên ngày
hôm sau ngài phú thác cho ông Tả quân Lê văn Duyệt công việc tra hỏi Thuyên.
Ta nên nhớ Duyệt vốn thù cay ghét đắng Thành, nay con Thành
vào tay ông tra hỏi, có chắc gì được công bằng nhân đạo không? Thêm một chuyện
vừa mới xảy ra: tên Hữu, lính đào ngũ ở Trung quân, không hiểu sao lại đăng vào
Tả quân, làm bộ hạ ông Duyệt. Được mấy hôm, nó lấy trộm quả ấn Tả quân trốn đi;
lúc bị bắt, khai rằng ông Thành xui bảo, cốt là đầu độc hay ám sát ông Duyệt,
nhưng việc không xong, nên chỉ trộm lấy quả ấn. Cố nhiên tên Hữu bị chém, mà
ông Duyệt thì căm tức ông Thành hơn.
Rồi thì vua hạ lệnh trao truyền cho ông Duyệt tra hỏi.
Sử chép rằng: ông Duyệt tra hỏi, Thuyên chịu phục tội ngay,
không còn gân cổ chối cãi gì nữa. Đến nỗi Lại bộ Tham tri Trần văn Tuân nói
riêng với ông Duyệt: "Trung quân với Tả quan như là anh em ruột thịt. Bây
giờ Trung quân chẳng may như thế; ngày khác đến lượt ông thì sao?" Duyệt
nghe nói giật mình, sắc mặt buồn rầu, nhưng sự đã muộn.
Vin vào cớ Thuyên đã thú nhận tội lỗi, đình thần buộc tội cả
ông Thành, tâu xin xử tử.
Vua truyền xét lại vụ án một lần nữa.
IV
Râu ông nọ, cằm bà kia
Dần dà đến tháng 11 năm ấy, ở Thanh Hóa có việc Lê Duy Hoán,
con cháu vua Lê ngày trước, toan mưu khởi, tin tưởng câu sấm "Phá điền
thiên tử xuất" là ứng nghiệm vào mình. Mưu sĩ tán rằng: Phá điền là
chữ thân mà Duy Hoán tuổi Thân, vậy là điềm có thể khôi phục ngôi vua nhà Lê. Nội
bọn đã uống máu ăn thề, sửa soạn khởi binh thì cơ mưu bại lộ, bị bắt cả nút.
Các quan Bắc Hà đã hội đồng xét án một lần, lại đóng cũi đưa
Duy Hoán về Kinh, để Hình bộ phúc thẩm.
Trong khi đó, Thành vẫn bãi chức ở nhà, Thuyên vẫn bị giam
trong ngục, hai cha con bị cáo hơn một năm nay mà chưa thành án.
Không ai ngờ vụ án cha con nhà này với vụ án Duy Hoán lại có
liên lạc với nhau.
Chỗ ám muội nhất, đáng nghi nhất, là khi trước Duy Hoán đã bị
tra tấn xét hỏi ở dinh Tổng trấn Bắc Hà, chẳng hề nói gì đến Thuyên. Vậy mà mấy
tháng sau, giải về Hình bộ phúc thẩm, Duy Hoán lại khai rằng Thuyên âm mưu với
hắn, viết thư bảo hắn làm phản.
Tại sao lời khai hệ trọng như thế, mà nay có trước không?
Chuyện thật ám muội.
Ta có thể quyết đoán rằng: triều thần xin làm tội cha con ông
Thành, nhưng vua còn ngần ngại chưa y, nhân nay có Duy Hoán khai thế kia, cố ý
làm cha con ông Thành chóng chết và tất phải chết vậy. Họ thừa biết như thế là
trúng vào ý muốn kín đáo của vua.
Khi Hình bộ dâng án từ lên ngự lãm, vua xem rồi nói:
- Lạ! Tên Thuyên bị nhốt trong ngục bấy lâu, làm sao xui bảo
ai làm phản được kia? Lời khai này tuồng như trẻ con, vậy đình thần phải xét đi
xét lại để cho minh chính tội trạng mới được.
Bọn thù ghét lại tìm cách dúi thêm:
- Tâu bệ hạ, chúng nó ngầm mưu với nhau, hẳn là từ khi Thành
làm Tổng trấn Bắc Hà, chứ không phải đợi lúc có tội ở ngục mới viết thư xui bảo
đâu!
Lý luận ấy được vua Gia Long cho là phải. Đến đây, ta có thể
ngờ luôn cả vua Gia Long cũng có quan hệ ít nhiều trong lời khai của Duy Hoán.
Vì chính ngài muốn tìm một cớ đích đáng để khép Thành vào tội, cho khỏi bị
thiên hạ hậu thế chê mình bất công. Ví bằng chỉ một bài thơ của Thuyên, chẳng
qua phạt Thành dạy con bất nghiêm, thì đến giáng chức của nhau là cùng, có lý
nào đè ra mà chặt đầu cho phải?
Mấy hôm sau, đình thần lại tâu rằng đã tra hỏi Duy Hoán đôi
ba phen, y đều khai đúng như trước, tỏ thật cha con Thành quả có phản nghịch, vậy
xin trị tội. Bấy giờ vua nói nhân nghĩa:
- Trẫm đãi Thành không bạc, nay hắn đã tự tác nghiệt làm vầy,
Trẫm không thể vì tình riêng mà bỏ phép nước.
Thế rồi ngài ra lệnh bắt Thành cùng các con, giam ở trại lính
Thị trung, và sai triều thần định án.
Hồi này là đầu tháng 5 niên hiệu Gia Long thứ 16 (dương lịch
1817), nghĩa là vụ án cha con Thành lòng dòng trải một năm rưởi.
Triều thần hội đồng hỏi Thành:
- Ông có làm phản không?
Thành đáp:
- Không?
- Ông có dự biết việc con ông làm không?
- Cũng không.
Đó là mấy câu vấn đáp ghi chép trong sử.
Lúc trở ra, nét mặt Thành hằm hằm tức tối, về nhà giam nói với
Thị trung Thống chế Hoàng Công Lý rằng: "Án xử như thế là xong rồi.
Vua bắt tôi chết, mà tôi không chết, thì không phải là trung".
Tối hôm ấy, Thành ngồi viết tờ biểu trần tình để lại, rồi uống
thuốc độc chết. Trong biểu có câu này thiết tha đau đớn: "Người ta sớm
rèn tối luyện, thêu dệt ra cực ác cho cha con tôi. Không còn chỗ nào kêu ca,
đành chỉ có chết".
Vua xem thương khóc, nhưng lại giận sao Thành không gỡ tội mà
chết, té ra càng tỏ mình lỗi thật.
Thử hỏi Thành còn gỡ tội bằng cách nào trong khi từ vua tới
triều thần đều muốn cho chết; từ một bài thơ không đâu cho tới lời khai dụng
tình của Duy Hoán, người cố đặt điều thắt buộc để dồn đến chỗ chết mới thôi?
Xem những người như Võ Trinh, như Trần văn Tuân, muốn kêu gọi
công tâm nhà vua, và bênh vực Thành đôi chút, thì đều bị quở phạt trừng trị, hoặc
bỏ tù, hoặc cách chức, vậy thì bảo Thành còn gỡ mình vào đâu, kêu ca với ai cho
khỏi phải chết?
Mà xét cho cùng Thành có tội tình gì? Có chăng là tội đã làm
công thần quá to, có danh vị quá lớn mà bị vua chúa nghi kỵ. Có chăng là tội đã
sinh ra đứa con làm một bài thơ ngông cuồng ở giữa thời đại chưa được nguôn luận
tự do. Rút lại chỉ có thế thôi. Ấy là chưa nói bài thơ có thật phải tự Thuyên
làm và viết ra không; hay chỉ là một tang chứng giả mạo do bọn cừu địch bịa ra
để báo thù hãm hại.
Điều ấy đến nay vẫn là một vết hoài nghi trong sử. Nhưng các
quan tòa ở đời ấy chẳng hoài nghi chút nào, cho nên họ kết án Thuyên cũng như
Duy Hoán đến cực hình lăng trì: đánh một tiếng trống, xẻo một miếng thịt.
Ta đem so sánh, thấy sự bất công hiển nhiên. Duy Hoán đã có
hành vi khởi loạn, chứng cớ rõ ràng, bị bắt tại trận, bảo rằng phép nước phải xử
đến cực hình, cũng cho là được đi. Trái lại, Thuyên chỉ mới có ý nghĩ bội nghịch
tỏ ra ở hai câu thơ, mà lai lịch rất hồ đồ, tự tích còn ngờ vực, cho đến Duy
Hoán khai rằng Thuyên viết thư xui bảo khởi loạn, cùng là vô bằng vô chứng.
Lấy lẽ công bằng, Thuyên dù có tội, cũng nên được hưởng luật giảm nhẹ một bậc mới
phải. Thế mà đình thần làm án Thuyên cũng phải tùng xẻo như Duy Hoán, nhà vua nỡ
lòng chuẩn y án ấy và cho thi hành, không chút nào châm chước tình lý, như vậy
chăng phải người ta dụng tâm và đồng ý hãm hại cha con ông Thành ư?
Mấy hôm sau, trong khi Thuyên bị trói tay gông cổ, điệu ra
pháp trường để cho quân đao phủ cắt từng miếng thịt, Trương Hiệu nghênh ngang
đi vào kho, lĩnh 500 quan tiền của vua ban thưởng. Tai vạ kẻ nọ làm nên lợi lộc
cho người kia, là thế.
V
Phải chăng quả báo nhãn tiền?
Chúng tôi đã nói ông Thành chẳng những là một danh tướng ở đời
Gia Long mà thôi, lại là một tay chính trị sắc sảo, một nhà sửa sang luật lệ phần
nhiều còn lưu truyền đến nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét