Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2021

Việt sử giai thoại

Việt sử giai thoại

Nguyễn Quang Thắng sưu tầm và giới thiệu

Tựa

Người ta gọi "giai thoại" là việc tốt, chuyện hay thường truyền tụng ở dân gian. Sách làm ngày xưa cũng có một quyển đề là "Tùy Đường giai thoại", chép những chuyện hay trong đời Tùy Đường. Theo nghĩa chữ Pháp thì "giai thoại" (anecdote) là chuyện vặt, chuyện dật sử, có cái không đáng tin.

Nhưng quyển này thì đáng tin, tác giả thuật theo chuyện cổ nước nhà, độc giả không tốn công mà thích đọc, lại biết được nhiều chuyện hay. Đoạn thì dẫn sách ta, đoạn thì dẫn sách Tàu, sách Tây, đủ cả, y như một bài khảo cứu. Lời văn lại lưu loát, câu văn có thú vị, không đến nỗi khô khan như văn khảo cứu.

Xưa nay tôi vẫn ước ao rằng, những nhà lưu tâm đến sử học, mà có tài văn chương nên đến những chuyện hay trong sử nước ta, viết thành sách như quyển giai thoại này. Ở bên Pháp, nhờ có loại sách như thế mà có người nhân đấy xem rộng, rồi cũng làm sách, nổi tiếng sử học, hỏi ra cũng vì lúc đầu xem một quyển giai thoại, rồi sinh ra ham sử học.

Biết đâu quyển giai thoại này lại chẳng thế, rồi cũng có người xem đến, nhân đó cũng thành ra một nhà sử học văn chương.

Ngay trang đầu tập này thấy chép chuyện Huyền Trân công chúa, tác giả đề vào mục "mở mang cõi đất miền Nam buổi đầu": lời văn giản dị, khác hẳn với lối văn chép sử, là lối văn đã nhạt nhẽo, lại rườm rà, phải chú thích xuất xứ nhiều chỗ.

Tôi theo ba quyển sử chữ nho, thuật sau đây để độc giả so sánh thì biết rằng tác giả đã tốn công phu mới viết được như thế.

"Tháng 3 năm Tân Sửu (1301), hiệu Hưng Long thứ 9, đời vua Trần Anh Tôn. Khi ấy đức thượng hoàng (là Trần Nhân Tôn) đã truyền ngôi cho con, ra tu ở núi Yên Tử, thường muốn lịch lãm khắp sông núi trong thiên hạ nên mới du phương, rồi sang Chiêm Thành (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 8, tờ 38b).

Trong khi ở Chiêm, hẹn gả Công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân (Jaya Simhavarman III). Chế Mân mới sai bầy tôi là Chế Bồ Đài (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ 43b) và bộ đảng hơn một trăm người (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển sau, tờ 20a) dâng biểu tiến vàng bạc, hương quý vật lạ làm lễ cầu hôn. Triều thần nước ta đều nói là không nên, duy một mình Văn túc Vương là Đạo Tái chủ trương việc gả ấy. Trần Khắc Chung thì tán thành.

Đến tháng Sáu năm Bính Ngọ (1306), hiệu Hưng Long thứ 14, vua Chiêm Thành là Chế Mân dâng châu Ô và châu Lý làm sính lễ. Vua Anh Tôn bèn quyết định gả em gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Lúc bấy giờ văn nhân trong nước phần nhiều mượn chuyện Chiêu Quân cống Hồ đặt làm thơ nôm để chế giễu.

Khi Chế Mân đã dâng hai châu cho nước ta, thì có những dân ở thôn La Thủy, Tác Hồng và Đã Bồng không phục, cho nên đến tháng giêng năm Đinh Mùi (1307) vua Anh Tôn đổi tên hai châu là Thuận và Hóa, sai quan hành khiển là Đoàn Nhữ Hài đến hiểu dụ ân đức, chọn người giỏi trong mấy thôn ấy cho làm quan, cấp cho ruộng đất cày cấy, tha thuế ba năm (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ 43, 44b).

Đến mùa hạ tháng 5 năm ấy (1307) vua Chiêm Thành là Chế Mân mất (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 6, tờ 242b).

Tháng Chín năm ấy, thái tử Chiêm Thành là Chế Đa Da (Harijitâtmaja) sai bầy tôi là Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và cáo về việc tang (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ 45b).

Tục nước Chiêm, vua mất thì chúa hậu (Việt Nam phong sử chép là cung phi) phải vào hỏa đàn để tuẫn táng. Vua Trần Anh Tôn biết thế, sợ công chúa bị hại, mới sai quan nhập nội hành khiển Thượng thư tả bộc sạ là Trần Khắc Chung và an phủ sứ là Đặng Văn sang Chiêm Thành nói thác là điếu tang (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 6, tờ 22b).

Vua lại dặn bày mưu kế để đem công chúa về. Trần Khắc Chung sang đến nơi, nói với thế tử Chiêm Thành rằng: ‘Bản triều (tức Trần triều) sở dĩ kết hiếu với Vương quốc (tức Chiêm Thành) vì vua trước là Hoàn vương, người ở Tượng Lâm, thành Điển Xung, là đất Việt Thường: hai bên cõi đất liền nhau thì nên yên phận, để cùng hưởng hạnh phúc thái bình, cho nên gả Công chúa cho Quốc vương. Gả như thế là vì thương dân, chứ không phải mượn má phấn để giữ trường thành đâu. Nay hai nước đã kết hiếu thì nên tập lấy phong tục tốt. Quốc vương đây mất, nếu đem Công chúa tuẫn táng ngay, thì việc tu trai không người chủ trương. Chi bằng theo lễ tục bản quốc (nước Nam) trước hẵng ra bãi bể chiêu hồn ở bên giời, đón linh hồn cùng về, rồi mới vào hỏa đàn’.

Lúc bấy giờ các cung nữ của Huyền Trân biết rằng Công chúa sẽ bị hỏa táng, nhưng không biết làm thế nào, nhân thấy sứ nhà Trần là Khắc Chung tới, mới hát một câu rằng:

‘Đàn kêu tích tịch tình tang

Ai đem công chúa lên thang mà ngồi’.

Thang tức là hỏa đàn, có ý nói cho sứ ta biết (Việt Nam phong sử, tờ 42a, 42b).

Người Chiêm Thành nghe theo như lời Trần Khắc Chung... Khi thuyền công chúa ra đến giữa bể, Trần Khắc Chung đem một chiếc thuyền nhẹ cướp công chúa đem về, rồi cùng công chúa tư thông, quanh quất trên bể đi hơn một năm mới về đến kinh sư. Hưng Nhượng vương là Quốc Tảng rất ghét về chuyện ấy, hễ trông thấy Khắc Chung thì mắng rằng: ‘Họ tên người này không tốt, có lẽ nhà Trần mất vì người này chăng!’ cho nên Khắc Chung, hễ trông thấy Quốc Tảng đâu thì tránh mặt (Khâm định Việt sử, quyển 8, tờ 45b).

Vì Huyền Trân công chúa trước gả cho Chế Mân là việc bất đắc dĩ, nay lại bị Khắc Chung tư thông nên dân bấy giờ có câu ca dao rằng:

‘Tiếc thay hột gạo trắng ngần

Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm’.

Gạo trắng ví vào công chúa, nước đục ví Chế Mân, lửa rơm ví Khắc Chung (Việt Nam phong sử, tờ 43a)".

Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố

Sắc đẹp và tấc lưỡi đàn bà

Việc chúa Nguyễn mở mang miền Nam buổi đầu. Hai quan đại tướng Việt Nam bị cách chức vì nàng Chiêm Rao Luật - một thiếu nữ Chân Lạp có tài ngoại giao rất cám dỗ.

Không khác gì phụ nữ Tây phương, tài hoa và nhan sắc của gái Việt Nam ngày xưa đã từng có lúc làm vẻ vang hoặc ích lợi cho nước nhà về mặt ngoại giao.

Có một vài chuyện lý thú đáng kể.

Trước hết là người con gái ở đời Trần đã đổi mình lấy đất về cho nước nhà, ai nhớ lịch sử cũng đoán ngay ra công chúa Huyền Trân.

Một nhà thơ vịnh sử, đã tả thân thế nàng bằng hai câu này, người ta cho là có giọng khinh bạc:

Hai châu Ô, Rí vuông nghìn dặm,

Một gái Huyền Trân của mấy mươi.

Kỳ thật, gái Huyền Trân có thân giá to, chẳng gì cũng to bằng cả khu vực hai châu mà vua Chiêm Thành đã dâng làm lễ cưới. Nên biết gang tấc má hồng của nàng đủ "dán" thêm vào bản đồ nước Nam đất vuông ngàn dặm; ví phỏng đương thời muốn lấy võ lực kinh doanh dù có thiên binh vạn mã, chưa được dễ dàng như thế.

Sử chép năm 1301, vua Nhân Tôn nhà Trần truyền ngôi cho con (Anh Tôn) rồi bỏ đi tu, nghe tiếng nước Chiêm Thành láng giềng có nhiều danh sơn cổ tự, cho nên không ngại đường sá nguy hiểm, lần mò qua xem.

Chế Mân, vua Chiêm Thành nhân biết người du khách mang áo cà sa ấy là Thượng hoàng nước Nam, bèn lấy lễ địa chủ và tinh bang giao, tiếp đãi chắc hẳn trọng hậu. Không hiểu lúc bấy giờ Thượng hoàng vân du là có chủ ý tìm chồng cho con, mở đất cho nước hay chăng, nhưng cảm cái tình Chế Mân ân cần hậu đãi, ngài hứa gả Huyền Trân công chúa cho.

Song từ lời hứa đến khi được vợ, vua Chiêm Thành phải đợi 5 năm và mất 2 châu.

Ban đầu, Chế Mân sai đem vàng bạc thổ sản sang cống và xin cưới nhân thể, nhiều triều thần ta can ngăn nhà vua, vì thấy cuộc nhân duyên ấy không có lợi ích gì cả. Có lẽ ngay công chúa cũng không ưng. Đời đó, một công chúa nước Nam phải về nhà chồng là nước Chiêm Thành xa xôi và khác phong tục, tình cảnh cũng đau thương như Chiêu Quân, Thái Diệm đời Hán bị gả cho vua chúa Ô Tôn Thiềm Vu vậy.

Muốn cưới công chúa Huyền Trân cho kỳ được, ý chừng nàng có nhan sắc, sau Chế Mân đem địa đồ hai châu Ô, Rí sang làm sính lễ, lúc ấy triều đình ta mới thuận:

- Ừ, lễ đón dâu có thế mới coi được chứ!

Công chúa trả lời Thượng hoàng:

- Nếu có lợi ích cho quốc gia như thế, con cũng chẳng tiếc gì thân.

Năm 1306 vua Trần sai Đoàn Nhữ Hài đưa Công chúa vu quy Chiêm Thành, nhân tiện nhận đất hai châu, đổi tên là Thuận và Hóa, đặt quan cai trị.

Có thể nói công chúa Huyền Trân, chẳng những là người đàn bà số một quan hệ về lịch sử ngoại giao của ta, lại cũng là người mở ra chặng đường thứ nhất cho dân tộc mình Nam tiến vậy.

° ° °

Đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn trấn thủ Đàng Trong, họ Trịnh xưng hùng xứ Bắc, hai bên cừu thù và dự bị đánh nhau, cùng tìm cách thân thiện với bọn ngoại thương lui tới xứ mình, nhất là người Hòa Lan, người Bồ Đào Nha, rồi đến các lái buôn Tàu và Nhật, để họ chuyên chở quân nhu khí giới ở ngoài về cho.

Năm 1602, chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên; 1613 - 1635) gả quận chúa cho một thương gia Nhật, tên là Hoàng Mộc Tôn Thái Lang (Araki Sôtarô) vừa có thuyền đi về hải ngoại, vừa làm chủ một cửa hiệu buôn to ở thành phố Hội An. Ngài lại ban quốc tính cho Hoàng Mộc và đặt tên là Nguyễn Đại Lương.

Do bà quận chúa, Hoàng Mộc tận tâm với Sãi Vương, bất cứ ngài cần dùng sắt, đồng, diêm tiêu, hay các món gì thuộc về quân dụng, chàng đều có thể mua hộ ở Áo Môn, ở Quảng Đông và Trường Kỳ chở sang.

Ông Dumoutier, người Pháp, một nhà khảo cứu Đông phương cổ điển có tiếng, thuật rằng quận chúa tên là Amô. Sau theo chồng về bên Nhật chơi được ít lâu, vừa gặp nghiêm lệnh của Mạc phủ Đức Xuyên cấm dân Nhật đi thông thương hải ngoại, thành ra hai vợ chồng không trở lại Hội An được nữa. Bà mất tại Trường Kỳ năm 1645 và táng ở chùa Dainonji. Con cháu còn giữ kỷ niệm một cái gương soi của bà đem từ nước Nam qua, bề ngang ba tấc rưỡi, bề cao ngót 4 tấc, chung quanh chạm trổ và mạ vàng y như kiểu Tây, chắc là mua của người Hòa Lan, Bồ Đào Nha đưa sang Hội An đời đó.

° ° °

Câu chuyện sắp kể dưới đây cũng về triều Lê.

Từ nhà Đinh lập ra lệ quen cống sứ và thụ phong nước Tàu trở đi, triều vua nào cũng vậy, cách độ ít năm lại có sứ thần Trung Quốc nghênh ngang qua nước ta một lần hoặc đem sắc phong cho vua mới, hoặc có việc tranh chấp về đất cát biên thùy.

Chúng tôi viết "nghênh ngang" chính là sự thật. Không phải Bắc sứ nào cũng phong nhã và biết giữ lễ độ như Trạm Nhược Thủy, Phan Hy Tăng đời Minh (ông trên là bạn thiết của Vương Dương Minh, người xướng lên học thuyết Trí Lương tri). Phần nhiều quan chức họ chẳng qua Bố chánh án sát và tài học cũng không lỗi lạc gì, nhưng chỉ ỷ mình là bầy tôi thiên triều, là quan sứ thượng quốc, một khi bước chân sang đây họ vênh váo hạch sách và xem người nước mình bằng nửa con mắt.

Vì thế, ở triều Lê, mỗi dịp có Bắc sứ đến, nhà đương cuộc ta thường phải sắp đặt khoe khoang nhân tài, cốt làm cho các vị thiên sứ phải để ý mà nhụt bớt kiêu khí đi.

Sách "Lịch triều Hiến chương" của ông Phan Huy Chú về đoạn "bang giao", chép rằng "đời vua Lê Hiển Tôn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 (1761) có sứ nhà Thanh là Đức Thận và Cố Nhữ Tu sang phong cho vua ta. Nhà vua muốn khoe nhân tài bản quốc thịnh đến thế nào, phàm là phần việc đón đưa tiếp rước, đều chọn những người có tài học và giỏi ứng đối dự vào. Ví dụ sai ông Ngô Thời Sĩ lấy danh nghĩa là cử nhân lại mừng sứ Tàu: còn hai ông Nguyễn Phi Sảng và Nguyễn Trọng Hoàn làm đầu bọn phu chèo đò chở sứ qua sông. Thời Sĩ học rộng, đối đáp lanh lẹ cứng cáp, bọn Đức Thận đem lòng kính nể".

Trước đấy cũng đã có một chuyện làm lác mắt sứ Tàu, mà người đóng vai trọng yếu chính là một cô thiếu nữ.

Theo sách "Tạp biên", năm Quý Mão đời Lê Dụ Tôn (1723) có sứ Tàu sang, vua sai Nguyễn Quỳnh, một tay danh sĩ đương thời giả làm chú lái đò trên sông Nhị Hà; Đoàn thị Điểm thì làm cô hàng nước để khoe tài lạ của người nước mình cho sứ Tàu thấy.

Chủ ý sắp đặt ấy muốn phô trương văn vật nước ta với sứ thần Trung Quốc thời đó, đến chú lái đò và cô hàng nước cũng văn hay học giỏi, huống gì những bậc đỗ đạt có danh vị ở chốn triều đình.

Tất nhiên cô Điểm có biết ít nhiều tiếng Tàu, lúc chánh sứ phó sứ dưới đò lên, cô nhí nhảnh chào mời "xếng xáng nhậm xà" sao đó, cho nên một trong hai quan sứ mới thốt ra câu này có ý mỉa mai chua chát:

"An Nam nhất thốn địa, bất tri kỷ nhân canh"

Nghĩa là: "Một tấc đất An Nam mấy người cày không biết?". Họ lấy tấc đất để ám chỉ vào cô hàng nước xinh xắn thế kia, chắc hẳn vô số người có thể chọc ghẹo.

Cô trả đũa ngay, nếu không té ra mình bị nhục, mà mình nhục tức là quốc thể bị nhục.

"Bắc triều lưỡng đại phu, giai do thử đồ xuất"

Nghĩa là: "Hai quan lớn triều Bắc, cũng chui ngõ ấy mà ra".

Hai vị thiên sứ biết mình mắc hợm, không nói gì cả, nhưng từ lúc ấy đem lòng kiêng sợ nhân vật nước Nam.

Sách "Nam thiên trân dị" lại để câu chuyện vừa kể trên vào đời vua Lê Thuần Tôn (1732 - 1735).

Nếu chuyện quả có, thì câu cô Điểm đối đáp thật đáng kể là một cuộc thắng lợi về từ lệnh ở trên trường ngoại giao nước nhà.

Song thiên đạo hiếu hoàn, việc đời vẫn thế, cái ngón mình thường đem ra dùng cho được lợi mình ăn người, cũng có kẻ khác dùng nó để ăn lại mình.

Ấy là chuyện về cuối thế kỷ XVII, giữa lúc chúa Nguyễn đang kinh doanh vùng Chân Lạp, mở cuộc Nam tiến, trong "Đại Nam thực lục" có chép rõ ràng. Vả lại, nhiều ông già bà lão ở xứ có chùa Đế Thiên còn nhớ sự tích, người con gái tài hoa của họ đến nay họ vẫn truyền làm giai thoại.

Nguyên hồi năm 1679, có bốn viên cựu tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình nổi lên ở Long Môn chống lại Thanh triều bị thất bại, đem năm chục chiếc thuyền cùng mấy nghìn bộ hạ chạy sang Quảng Nam, xin quy thuận làm dân nước ta. Lúc ấy chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687) đang có chính sách trồng dâu mở ruộng ở xứ Chân Lạp, bèn cấp lương thực cày bừa cho họ vào Đông Phố (tức Gia Định sau này) làm việc khai khẩn.

Bọn Dương Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Dã, Ban Lân (thuộc Biên Hòa) và ở Mỹ Tho cày ruộng làm nhà, lập lên chợ búa phố phường, có người Tây phương, người Mã Lai, người Nhật, người Tàu đến tụ họp buôn bán vui vẻ.

Hồi đó toàn cõi Nam Kỳ còn là đất bỏ hoang xứ Chân Lạp, nhưng họ thần phục chúa Nguyễn mấy năm một lần nạp cống ta, cũng như ta phải nạp cống Trung Quốc vậy. Chúa Nguyễn bênh vực họ mỗi khi trong nước có việc nội loạn hay ngoại xâm, nhất là chống với Xiêm La thường hay tràn sang uy hiếp Chân Lạp. Đánh đổi lại công ơn ấy, Chân Lạp vui lòng cho người nước ta đến trú ngụ khai khẩn tự do, vì xứ này còn bỏ hoang vu nhiều lắm. Đất rộng đến nỗi, năm 1674, chúa Nguyễn phong cho hai vua: Nặc Thu là dòng đích trưởng, phong làm vua nhất, đóng đô ở Long Áo, Nặc Nộn làm vua nhì, đóng ở Sài Gòn cũng trông coi việc nước.

Ta nên biết qua tình hình về trước như thế, cho được hiểu rõ việc xảy đến về sau.

Tháng 6 năm Mậu Thìn (1687) Hoàng Tiến làm phản, giết chủ tướng Dương Ngạn Địch ở cửa bể Mỹ Tho, rồi tự xưng là Phấn dũng hổ uy tướng quân, đem bộ hạ dời qua Nam Khê, đắp lũy giữ các chỗ hiểm yếu, lại đúc súng đại bác và đóng chiến thuyền, tính cuộc xưng hùng độc lập. Tiến thả quân lính đi gian dâm cướp bóc tứ tung, dân tình Chân Lạp rất khổ.

Vì thế, Nặc Thu (vua nhất) sinh oán, tưởng là chúa Nguyễn - lúc này là chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) - ngầm xui Hoàng Tiến làm vậy để lấy cớ đánh mình. Nặc Thu cùng bầy tôi là Ốc Nha Công Sa mưu tính bỏ lễ xưng thần nạp cống và đắp ba đồn lũy Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang, đặt lưới sắt khóa chặt cửa sông, làm cách cố thủ, chống nhau với cả Hoàng Tiến và chúa Nguyễn.

Nặc Nộn (vua nhì) nghe rõ mưu ấy, sợ không nói ra thì sau này vạ lây đến mình, lật đật tới dinh Trấn Biên (đóng ở Biên Hòa), tố giác mọi sự với phó tướng Mai Vạn Long và tình nguyện hợp binh với Nam triều cùng trừ kẻ nghịch.

Mai Vạn Long sai chạy ngựa lưu tinh, đem thư ra Huế cáo cấp.

Chúa Nghĩa giận lắm, lập tức họp triều thần bàn định việc dẹp loạn. Quan Chưởng Dinh Tống Đức Minh can không nên:

- Tâu chúa công! Nặc Thu hèn mọn, không đáng làm nhọc hơi sức một viên đại tướng của triều đình. Chức cai cơ Trấn Biên, Nguyễn Thắng Sơn, là người khôn ngoan thao lược, từng quen thủy thổ vùng này, có thể sai làm Thống binh, đem ngay quân đóng ở Trấn Biên đi dẹp giặc cũng được. Hoàng Tiến tự tiện giết chết chủ tướng, đồn binh ở Nam Khê, lòng hắn giáo dở thế nào cũng khó dò xét. Vậy xin chúa công hạ lệnh sai ngay Tiến làm tiên phong, để xem hắn quay ra mặt nào cho biết. Nếu quả lòng hắn trù trừ thoái thác, thì quân ta ập tới đánh ngay. Nặc Thu chận mặt trước, đại binh ta phía sau đánh tới, thế nào Tiến cũng bị bắt sống. Khi đã trừ Tiến xong rồi, ta thừa thế đánh thốc vào sào huyệt địch, ấy là kế vạn toàn vậy.

Chúa Nghĩa cho là phải, đã toan cắt đặt y theo kế ấy. Nhưng có viên đội trưởng tên là Trương Thiêm Lộc, cháu của Mai Vạn Long, vốn người tham lợi, biết xứ này sẵn bạc vàng châu báu, nếu ông cậu được cầm quân đánh giặc và mình đi theo, chính là một dịp tha hồ vơ vét; bỏ dịp ấy qua mất, chẳng uổng lắm sao? Thiêm Lộc bèn tức tốc vào chầu, kiếm chuyện tâu bày lợi hại, một hai xin triều đình phong Vạn Long làm tướng và cho mình là Thiêm Lộc tòng quân giúp sức, cam đoan chắc chắn thành công.

Chúa Nghĩa nói:

- Nhưng Vạn Long đã già rồi, ta không muốn lấy việc quân làm phiền y nữa.

- Tâu chúa công: Ngày xưa Mã Viện ngoài 70 tuổi còn có thể mặc áo giáp múa đao, nhảy ngựa ra trận; huống chi Vạn Long ngày nay tuổi chưa đến lục tuần, chỉ mong quốc gia có việc dùng đến, để mà tận trung sức lực, nay triều đình lại cất nhắc một viên tướng cạnh Vạn Long lên làm Thống binh mà bỏ Vạn Lượng không dùng, chẳng hóa ra tủi phận cho người trung thần lão tướng ấy biết bao?

Chúa nghe bùi tai, liền sai thảo sắc phong Mai Vạn Long làm Thống binh, Nguyễn Thắng Sơn, Nguyễn Tân Lễ làm tả hữu vệ trận, Văn Vị làm tham mưu, đem binh đi dẹp loạn. Đồng thời giáng chỉ sai Hoàng Tiến làm tiên phong, dưới quyền Mai Vạn Long tiết chế.

Qua tháng Giêng năm sau, đại quân của Vạn Long đến cửa bể Mỹ Tho, đóng ở Sầm Khê, sai người đem cờ lệnh đi vời tiên phong Hoàng Tiến.

Nặc Thu - vua Nhất - nghe báo tin quân ta đã rầm rộ tiến vào bờ cõi, lo sợ tái mặt, cùng mưu thần Ốc Nha Gia Trình bàn kế hoãn binh; trước hết làm sao hoãn được đại binh Hoàng Tiến, vì Hoàng Tiến là tiên phong lại có tiếng là danh tướng.

Vua tôi bàn nhau, lựa chọn một người mỹ nữ, sai đem lễ vật đi thuyết họ Hoàng.

Nàng tên là Chiêm Rao Luật, tuổi trẻ, sắc đẹp, thạo cả tiếng khách lẫn tiếng Nam và có khẩu tài, tự biết nhà vua giao phó việc này cho mình, quan hệ đến cuộc an nguy nhà nước, thế nào mình cũng phải làm thành công mới được.

Ngay sau khi phụng mạng đi sứ, nàng chỉ đem vài tên gia nhân đi theo để tải lễ vật, xuống thuyền thẳng đến Nam Khê vào giữa đại dinh Hoàng Tiến.

Lúc thấy một người thiếu nữ bản xứ ung dung bước vào, Hoàng nghiêm sắc mặt thét hỏi:

- Con bé kia đi đâu?

Chiêm Rao Luật tươi cười tự nhiên:

- Tướng quân trông thì biết, giữa lúc đụng binh mà có một người con gái ngang nhiên đến đây với lễ vật thế này, thì chỉ có một việc đến làm thuyết khách, chứ còn đi đâu!.. Vả lại tôi dám đường đột mạo hiểm, phần nhiều chính là vì tướng quân, vậy mà chưa chi đã nạt nộ mày tao, con bé, con nhớn, sao tướng quân khinh người quá thế?

Hoàng nghe chột dạ, liền đổi nét mặt hòa nhã, niềm nở mời ngồi. Nhưng nàng từ tạ:

- Chẳng nói tướng quân cũng biết tình cảnh nước tôi đang nguy ngập như lửa cháy bên mày, kẻ làm con dân phỏng còn nhàn hạ đâu mà ngồi ấm chỗ cho đành? Tôi vâng mệnh quân vương đến dâng tướng quân mấy món quà mọn, trước là để tỏ lòng kính mến, sau là phần riêng tôi muốn được hiểu rõ hai điều, mong rằng tướng quân sẵn lòng chỉ bảo...

- Được!... Được!... Có điều chi cô cứ việc hỏi, đừng ngại gì cả! - Hoàng nói.

- Tướng quân ở Trung Quốc sang có phải không nhỉ?- Chiêm Rao Luật hỏi.

- Chính thế! - Hoàng nói.

- Xin hỏi tướng quân, bởi ai tướng quân được chỗ dung thân an lạc vinh hiển ở đây bấy lâu?

- Nhờ ơn chúa Nguyễn chứ còn ai!

- Nhưng đất này là đất nào thưa tướng quân?

- Ồ! Đất nước của cô, rõ cô làm bộ thật thà khéo quá.

Hoàng nói và cười có vẻ mơn trớn. Chiêm Rao Luật cũng cười, nhưng cái cười của nàng có phần chua chát:

- Không! Tôi ngỡ tướng quân quên lãng đi chăng, nên tôi muốn hỏi gạn thế đấy. Này tướng quân ở đất nước chúng tôi có mười năm rồi, chứ không phải mới. Cổ nhân dù là một bữa cơm cũng nhớ báo đáp ấy là điển tích phong hóa rất hay bên Tàu, tướng quân không lạ. Hôm nay nghe tướng quân đã thụ mệnh đánh nước tôi, tôi trộm nghĩ việc ấy đối với tướng quân thật là không nên.

Hoàng Tiến nghe mấy lời trách thiện của người thiếu nữ bản xứ, bất giác động lòng, suy nghĩ thân mình ngày nào thất thời lưu lạc, may nhờ tiên vương họ Nguyễn (trỏ vào Chúa Hiền) cho ở đất này, cái ơn bao dung cứu vớt ấy mình quên sao phải. Chiêm Rao Luật trách ta đúng lắm, Hoàng Tiến lại nghĩ: "Cho ta đến ở đây vẫn là chúa Nguyễn, nhưng bấy lâu ta với vợ con ta, bộ hạ ta đều được áo ấm cơm no, phong lưu sung sướng, nhất nhất nhờ xứ này cung cấp, nay ta đem binh đánh lại, té ra bất nghĩa. Mà vì xứ này chống lại mệnh vua thì ta bất trung. Thật là tới lui đều khó, chi bằng cứ án binh bất động, đợi xem cuộc thế xoay trở ra sao, bấy giờ sẽ liệu".

Hoàng nghĩ vậy rồi nói với Chiêm Rao Luật:

- Vạn Long vời ta, chẳng phải lòng thành đâu. Ý hắn muốn trừ ta trước, rồi diệt Nặc Thu sau đấy thôi, khi nào ta bị hắn lừa gạt. Phiền cô về nói lại với nhà vua không phải lo ngại.

Thế là Chiêm Rao Luật đã dùng ba tấc lưỡi ngăn trở được một đạo binh đừng tiến.

Nhưng rồi Vạn Long sai người nói khéo, đánh lừa được Hoàng Tiến đi thuyền đến chỗ tương hội. Lúc Hoàng vừa bước chân lên bờ, phục binh bốn mặt đổ ra đánh, Hoàng chạy ra cửa bể Lôi Lạp trốn thoát. Vạn Long vào đồn lũy, bắt vợ con Hoàng đem chém và chiêu tập dư đảng Long Môn, giao cho Trần Thượng Xuyên quản lĩnh tiên phong.

Thừa thắng, Vạn Long tiến binh đánh Nặc Thu, đốt cháy cả những cừ đóng ngang sông, lại hãm luôn các thành Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang.

Nặc Thu lùi về giữ thành Long Áo. Một viên bộ tướng ta là cai đội Nguyễn Thắng Quyền khinh thường quân địch và tham lập công, bị Nặc Thu đánh thua. May nhờ cai cơ Nguyễn Thắng Sơn dẫn binh đến cứu, công kích rát quá, Nặc Thu phải rút vào trong thành, đóng chặt cửa lại cố thủ.

Vừa gặp mưa gió sấm sét nổi lên rầm rầm quân ta không tiến được, Vạn Long muốn đóng trại ở bên bờ sông Cái. Nguyễn Thắng Sơn vào trướng can ngăn:

- Bẩm quan Thống binh, xứ này nhiều rừng rậm, nước sông lại chảy mạnh như thác đổ, ta dồn binh ở đây, nếu quân địch đóng bè từ thượng lưu đánh xuống thì ta lấy gì mà chống? Sao bằng hãy rút về bản dinh, cho tướng sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức; quân địch thấy ta lui binh, chắc tự sinh ra trễ nải, không lo phòng bị, bấy giờ ta thừa cơ đánh tới, chỉ một trận là diệt được Chân Lạp.

Vạn Long nghe theo liền hạ lệnh kéo quân trở về đại trại Sầm Khê.

Nặc Thu thấy quân ta lui rồi, cùng các tướng bàn định, sai người đem lễ vật đến kêu nài Vạn Long hoãn binh, đừng đánh thúc bách quá để xin hàng. Vạn Long biết là mưu kế Nặc Thu muốn gỡ nước cờ bí một lúc thế thôi, không phải thật bụng; chẳng qua cầu ta hoãn binh cho họ có ngày giờ sắp đặt binh lực, rồi lại chống cự như cũ. Tức thời, Vạn Long bỏ tù sứ thần giặc và đuổi kẻ tùy tùng đem lễ vật về, không nhận.

Nặc Thu sợ quá lại họp chư tướng hỏi bây giờ làm thế nào ngăn được Nam quân đừng tiến. Một tướng dâng kế mỹ nhân:

- Việc này lại phải nhờ đến tài hoa Chiêm Rao Luật mới xong

- Phải đấy! Xin chúa công sai nàng đi!

Ai nấy đều tán thành mượn tay Chiêm Rao Luật gỡ hộ nước cờ bí.

Nàng lại phụng mệnh đi.

Vạn Long biết tiếng người tài hoa, lợi hại, liền mắng phủ đầu:

- Nước mi không lo phận sự cống nạp hằng năm, lại xây thành đắp lũy, đóng nhiều chiến thuyền, ý muốn sinh sự gì thế, định làm phản à?

Trước khi cho nàng vào yết kiến, Vạn Long dàn bày quân lính khí giới, trông rất uy nghiêm, chắc nàng ngó thấy cũng đủ khiếp đảm. Nhưng nàng cứ ung dung đi vào như không để ý đến những gươm giáo sáng quắc, giáp trụ đầy sân; lại không vì nghe Vạn Long quát tháo mà thay đổi nhan sắc chút nào. Nàng điềm tĩnh và nói rất cứng cỏi, lễ phép:

- Bẩm quan nguyên soái, một nước phải lo xây thành đắp lũy để giữ mình là việc tự nhiên, nào có gì lạ. Từ năm ngoái đến giờ, nước chúng tôi mấy lần đem cống phẩm đi nộp triều đình, đều bị Hoàng Tiến đón đường cướp mất; hắn lại thả quân lính quấy nhiễu dân gian, ỷ mình là người được triều đình cho đến kinh doanh đất này, chả ai dám động đến. Xin nguyên soái xét dùm sự thể như vậy, thành ra chúng tôi càng phải lo dự bị khí giới, đồn lũy để mà thủ thân, chứ có dám phản bội gì đâu!

Té ra, chẳng những nàng không chịu mình có lỗi lầm gì, lại còn ngụ ý trách ngầm triều đình ta đã dung cho Hoàng Tiến quấy nhiễu chư hầu nữa là khác.

Mai Vạn Long tin lời nàng nói là thành thực, liền thả người đi sứ lần trước ra, cho cùng Chiêm Rao Luật đem thư về khuyên Nặc Thu lo việc nạp cống, rồi triều đình ta bãi binh hòa hảo như cũ.

Trong lúc nàng ở dinh quân ta, vãi nhiều vàng bạc đút lót để mua lòng các tướng tá, cho nên đối với ai cũng có cảm tình. Nàng sắc đẹp, nói chuyện rất có duyên, nhất là làn sóng mắt long lanh và nụ cười như bông hồng mới nở dễ khiến người ta phải thèm thuồng ngây ngất. Vạn Long đã già cũng còn mơ tưởng ăn thịt ngỗng trời! Một viên bộ tướng trẻ tuổi, đâm ra si tình, nói riêng với bạn:

- Nếu không sợ phạm tội với triều đình, thì tôi muốn cởi nhung y trả lại, để đi theo con bé bản xứ Tây Thi này!

Nhưng nàng về đến hơn một tháng, chẳng thấy tờ hàng và đồ cống đem lại, bấy giờ Vạn Long sinh nghi, họp tướng tá để hỏi ý kiến. Nguyễn Tân Lễ nói:

- Quân ta đến đây, chỉ cốt có việc bình định làm đầu. Nay gặp mùa nước sông Cửu Long đang lên to chảy mạnh, chiến thuyền phải đi ngược lên, thật là khó khăn bất tiện. Vả lại phần nhiều binh lính chưa quen thủy thổ, không nên đưa họ thâm nhập trọng địa. Theo tiểu tướng suy nghĩ, chi bằng ta hãy cứ đóng binh ở đây, chờ quân giặc tự đến lúc nào thì ta đánh lúc ấy là hơn, bất tất phải tiến.

Vạn Long khen thế là phải. Song Nguyễn Thắng Sơn, một tướng đã lão luyện trận mạc, không nghĩ như thế:

- Nguyên soái chớ nên dùng cái mưu chần chờ thế thủ của Tân Lễ mà hỏng việc quân đấy. Nên biết người xứ này hay lọc lừa, dối trá, chỉ khéo dùng cách hoãn binh, để làm cho quân ta nản lòng vô bị, nó sẽ thừa cơ đánh úp thì khốn. Bây giờ, không gì bằng ta cứ tiến binh đánh gấp đi, chỉ một hai trận, nó phải cúi đầu hàng phục. Có lẽ nào cứ khoanh tay đợi giặc ở đây, khiến cho tướng sĩ đều sinh chán nản? Nguyên soái thử nghĩ xem!

Vạn Long có ý không bằng lòng, trừng mắt và nói:

- Đạo làm tướng có phải chỉ ra oai sát phạt là hay, còn phải trọng điều ân - tín mới được chứ. Ta muốn lấy lòng thành thực để đối đãi, nó đã chịu hàng phục và hẹn dâng đồ cống thì ta hãy đợi, còn phải đánh làm quái gì!

Thế rồi Vạn Long truyền lệnh các tướng chia quân đi khẩn đất cày ruộng chung quanh, không nghĩ đến sự chiến đấu gì cả.

Tướng sĩ đi viễn chinh, chỉ mong được đánh trận để trước nữa là mong kiếm chút công danh ban thưởng, sau là chóng được trở về quê quán gia đình. Không ngờ Vạn Long bị nhan sắc và miệng lưỡi Chiêm Rao Luật cám dỗ, đánh lừa, không chịu tiến công, bắt tướng sĩ giết thời giờ ở Sầm Khê đã lâu ngày chầy (dài) tháng, khiến cho người này sinh ốm, người kia nản lòng, ai nấy đều âm thầm oán than.

Nguyễn Thắng Sơn trả thù cái trừng mắt độ nọ, lén dâng biểu về kinh, tâu bày tình trạng như thế.

Chúa Nguyễn xem biểu cả giận:

- À! Tướng Vạn Long mê gái tham lợi làm lỡ việc binh thế này, không tha tội được.

Ngài liền họp đình thần để chọn đại tướng khác vào cầm quân. Theo mấy vị đại thần tiến cử, ngài phong Nguyễn Hữu Hào, con Nguyễn Hữu Dật, một vị danh tướng trong hồi Nguyễn - Trịnh phân tranh mấy chục năm trước, làm Thống binh lấy thêm quân ở Phú Yên, Phan Rí để Nam tiến.

Còn Mai Vạn Long thì tước hết quyền chức, giáng làm thứ dân.

Ấy là một mống.

° ° °

Qua năm sau, cũng vào khoảng tháng giêng, Hữu Hào đến nơi nhận chức, rồi tiến binh lên đóng ở Bích Đôi, chia đặt dinh trại, trên bộ dưới thủy liền nhau, quân lệnh rất nghiêm chỉnh, các tướng tá đều khen là người giỏi.

Tuy vậy, Hữu Hào chưa tiến công trận nào.

Đến tháng năm, chúa Nghĩa sai sứ đem chỉ dụ vào bảo Hữu Hào: "Nếu như Nặc Thu muốn chuộc tội thì phải dâng voi đực 50 thớt, vàng 500 lạng, bạc 2.000 lạng, sừng tê 50 chiếc. Hễ dâng đủ lễ và xin tạ tội thì ta mới lui quân về, bằng không nhà ngươi cứ việc tiến binh đánh ngay".

Hữu Hào sai người đến nói cho Nặc Thu biết có chỉ dụ là thế.

Nặc Thu lại cho Chiêm Rao Luật đem trâu dê đến khao quân. Hữu Hào trông thấy mặt nàng cười và nói:

- Cô em lại muốn đến làm thuyết khách đấy ư? Ta không phải là người dễ cám dỗ như Vạn Long đâu. Biết điều thì về bảo với Nặc Thu mau mau hàng phục và đến cống hiến đi! Không thế thì đại binh ta kéo đến, thành trì, làng xóm, nhà các ngươi hóa thành gò đống hết, nghe chưa?

Nàng đáp với giọng tình tứ, uyển chuyển:

- Xin nguyên soái xét hộ thân phận nước nhỏ phải thờ nước lớn, như con thờ cha, khi nào dám có lòng dạ gì khác. Hôm mới rồi, nước chúng tôi đang sắm sửa lễ vật đi cống, thì vừa gặp thiên sứ đến nơi, cho nên sắm sửa chưa kịp đấy thôi. Vậy xin nguyên soái cho rộn một tuần nữa, chúng tôi xin thu xếp đủ các món đem dâng triều đình.

Nàng chấm hết câu bằng nụ cười tươi tắn và đưa mắt nhìn Hữu Hào một cách rất kiều mị, có vẻ thôi miên khiến Hữu Hào choáng váng tâm hồn, nghĩ bụng không trách Vạn Long đã già cũng không chống nổi nhan sắc quyến dỗ.

Xem ý Hữu Hào đã ngây ngất xiêu lòng trước vẻ đẹp quái ác của cô thiếu nữ thổ dân, các tướng, nhất là cai cơ Nguyễn Thắng Sơn và tham mưu Hòa Tín, cùng hậm hực và nói lớn tiếng:

- Người ở đây giả dối trăm khoanh, xin quan Thống binh chớ có tin lời. Cái gương Vạn Long còn sờ sờ trước mắt. Không bằng ta chém quách con yêu cái này lấy máu tế cờ, rồi tiến binh đánh phăng đi là hơn.

Giá như người khác ở vào giây phút này, nghe các tướng kèo nài giết mình, tất đã lo sợ xanh mặt; nhưng nàng Chiêm Rao Luật tự nhiên như không, đã chẳng lộ vẻ gì sợ hãi, lại còn già dặn thêm:

- Sá gì một đứa con gái yếu ớt như tôi, mà phải nhuộm máu thanh gươm quý hóa của chư vị tướng quân! Nếu quả thực quan nguyên soái không tin lời, thì tôi tự giết mình cho các ngài xem quả mật của con gái xứ tôi này ra thế nào; luôn dịp để tự giải tỏ tấc lòng thành nhân thể!

Miệng nói, tay nàng chụp lấy thanh gươm của Hữu Hào để trên bàn và mấm môi trừng mắt, làm bộ sắp đâm cổ tự tử. Hai má đỏ ửng, dung nhan nàng lúc ấy càng thêm lộng lẫy dễ yêu. Nhưng người ta dằn lấy gươm. Nàng co kéo và nói:

- Cứ để mặc tôi tự xử, thì quan nguyên soái mới khỏi mang tiếng với các nước phiên thuộc và thiên hạ hậu thế rằng một sứ giả nước bé đến xin hẹn ngày quy hàng, nạp cống mà bị giết chết, nhất là sứ giả ấy, là một đứa con gái!

Ai nấy nghe nàng nói đều rùng mình.

Hữu Hào bảo chư tướng:

- Thôi, người ta đã tới xin quy phục mà mình còn gia binh đánh chác, thế là thừa cái nguy của người ta, không phải can đảm. Huống chi Nặc Thu ngày nay như thân con thỏ đã sa hầm, con chim mắc lưới, còn dám lừa dối đâu nữa mà lo!

Đoạn, Hữu Hào đãi Chiêm Rao Luật tử tế và cho nàng về.

Một tuần sau, Nặc Thu cho người đưa tới quân thứ 20 thớt voi, 100 lạng vàng, 500 lạng bạc để cống hiến triều đình ta, nói rằng số còn thiếu lại, xin khất trong ít lâu sẽ thu xếp đủ.

Hữu Hào nhận lễ.

Muốn kéo dài kỳ hẹn, cách dăm bữa, nửa tháng, Nặc Thu lại sai Chiêm Rao Luật đến quân thứ một lần, kiếm chuyện năn nỉ, mớm trớn, làm cho Hữu Hào say sưa càng mặn lòng tin.

Từ đấy, Hữu Hào ở trong quân, ngày ngày cùng tướng tá uống rượu và gọi phường tuồng, con hát đến đàn ca làm vui. Có hôm rượu hơi ngà ngà, Hữu Hào ngồi gật gù tự phụ:

- Ta vâng mệnh ra cầm quân, chưa tốn mất của nhà nước một mũi tên nào, mà quân thù quy phục. Các bậc danh tướng đời xưa chẳng qua cũng thế.

Chư tướng đều cười thầm. Viên giám trận là Đức Diệu không thể nhịn được:

- Tôi e quan Thống binh hiểu lầm bụng dạ họ đấy. Những món vàng bạc, sừng tê, voi đực đều là sản vật xứ họ chẳng thiếu gì, thế mà hôm trước họ chỉ đem có một ít, còn thì nay lần mai lữa, thật là không phải chân tình. Ta cứ tiến binh đánh đi là phải.

Hữu Hào lắc đầu ra vẻ tự đắc:

- Sao các ông ham đánh lắm thế? Được xem núi thây, sông máu có phải là cảnh tượng vui vẻ gì. Nên biết xưa nay cái đạo chiêu đãi người xa, chỉ lấy lễ làm quý, chứ mấy món đồ vật nhiều ít có kể làm chi? Thuở xưa nhà Chu đòi nước Sở nộp mấy xe cỏ bao mao, ấy là chuộng lễ, há phải chuộng vật ư?

Hữu Hào giở lý sự và điển tích xưa để bênh vực cử động của mình, nghe cũng có lý, thành ra Đức Diệu không cãi vào đâu được. Nhưng mà từ đó, Thống binh và các tướng tá dưới trướng không bằng lòng nhau.

Mấy hôm nữa, Chiêm Rao Luật lại phụng mạng Nặc Thu đi sứ, đem đến dinh quân ta thêm 10 con voi nhỏ, 6 chiếc sừng tê, 50 lạng vàng và 100 lạng bạc cống hiến. Hữu Hào nhớ lời Đức Diệu, giả vờ cau mặt và hỏi gắt gỏng:

- Quái thật! Những vật này là thổ sản ở xứ các người, lúc nào chẳng sẵn, sao không nộp hết một lần cho đủ có được không? Chỉ lần lữa nay nộp một ít, mai dâng một ít mà vẫn chưa đủ, bộ các người muốn xảo trá hoãn binh mãi à?

Nàng khôn ngoan lõi đời, sẽ đưa con mắt cũng đủ hiểu một trận giông tố miễn cưỡng, khác với một trận giông tố thật tình:

- Bẩm quan nguyên soái, ngài trách chúng tôi như thế cũng phải, nhưng đáng trách về lúc thái bình vô sự kia thì phải hơn. Bây giờ, giữa lúc đại binh quý quốc đến ra oai sấm sét ở trong bờ cõi chúng tôi ngót hai năm nay, dân tình sợ hãi bỏ trốn vào rừng núi hay kéo nhau đi lánh nạn phương xa mất cả, chẳng lấy người đâu một lúc đi tìm kiếm cho đủ voi đực, sừng tê và số vàng bạc theo như triều đình đã định...

Nàng chưa dứt lời, Hữu Hào đã gạt đi:

- Thôi ta hiểu rồi, để số lễ vật này ta nhận cho, về mau thu xếp đem nộp cho đủ nghe.

Không đếm được lần này là lần thứ mấy, Thống binh Nguyễn Hữu Hào cũng như Vạn Long năm trước, lại bị tài hoa, nhan sắc của người mỹ nữ địa phương khuất phục.

Tham mưu Hòa Tín tức quá:

- Chúng ta vâng mệnh đem quân đến đây, chỉ cần lấy giặc mà đánh; nay tới ổ giặc mà còn thập thò không đánh, là nghĩa lý gì?

Nguyễn Thắng Sơn lại cùng chư tướng xúm lại can ngăn, vật nài:

- Anh em chúng tôi khẩn khoản xin quan Thống binh chặt đầu Chiêm Rao Luật trước, rồi đánh Nặc Thu, để giải quyết việc phản loạn cho mau chóng, chớ nên để chúng nó gạt gẫm mình nữa.

Hữu Hào gắt rầm lên:

- Công việc bên ngoài, trách nhiệm ở ông đại tướng. Ta đây từ hồi niên thiếu đã theo cha đi xông pha trận mạc, bao phen tắm gội tên đạn, ra vào sinh tử, đến những hạng cừu địch có ba đầu sáu tay, ta còn xem chẳng mùi mấn gì; có phải ta sợ hãi gì chúng mà không dám đánh đâu? Sở dĩ ta không đánh là vì có mẹo hay định sẵn trong trí này rồi; các người chớ có hùa nhau kèo nài đánh chác, làm sai kế hoạch của ta đi!

Liền đêm hôm ấy Hữu Hào truyền lệnh cho các đạo quân thủy bộ dọn dẹp đồ đạc; chư tướng thấy chủ soái quyết định rút binh, ai nấy đều ấm ức bất bình, nhưng vì tướng lệnh, không dám cãi lại.

Ngày hôm sau, quân ta lục đục kéo về Bà Rịa đóng đồn, nghỉ ngơi rồi lui về Trấn Biên dinh.

Hữu Hào vào đất địch cầm quân từ tháng giêng đến tháng tám thì triệt binh hồi trấn không hề mùi thuốc, không trông thấy mặt mũi một kẻ địch nào, trừ ra nhan sắc thơ mộng của nàng Chiêm Rao Luật.

Hai tướng Thắng Sơn và Hòa Tín mật tấu về kinh. Chúa Nguyễn nổi giận:

- Khốn nạn! Hữu Hào cũng bị gái cám dỗ, làm trễ việc quân y như Vạn Long, tất phải trị tội rõ nặng mới được.

Y như Vạn Long, Hữu Hào cũng bị truất xuống bạch đinh, lột sạch chức tước.

Thế là hai mống.

° ° °

Người xem truyện tất phải có câu hỏi kết thúc:

- Vậy rồi việc dẹp loạn hồi ấy thế nào?

Cố nhiên yếu phải thua mạnh, kết quả mấy tháng sau Nặc Thu đành xin quy phục và xưng thần nạp cống cho nước ta như cũ. Nhưng mà trước khi tới đoạn ấy, tài sắc ngoại giao của nàng Chiêm Rao Luật đã khéo dùng kế hoãn binh, xô đẩy hai viên đại tướng nhà ta từ trên tướng đài ngã bổ chửng xuống đến đất đen và giữ yên xứ mình được kéo dài hơn 20 tháng!

Trận hải chiến "ới Hòa Lan năm Giáp Thân, 1644

Một chiếc tàu chiến Hòa Lan bị thủy sư ta đánh đắm ở Thuận An. Đề đốc Pierre Baeck tử trận, bảy nhà buôn Hòa Lan bị tử hình.

Các ngài tất phải kinh ngạc khi mới trông thấy đầu bài, có thể nghi mình hoa mắt, nhìn chữ nọ lầm ra chữ kia; không thế thì câu chuyện này chắc hẳn bịa đặt, như kiểu Phong thần, Tây Du, đâu phải chuyện thật.

Nước Nam ta ở thời đại "ua Lê chúa Trịnh mà có thủy sư chiến thuyền khá đến thế ư?

Hòa Lan, một cường quốc nhất nhì Tây phương, tung hoành thế giới giữa thế kỷ X"II, có tiếng là chúa trùm mặt bể "ới những tàu lớn súng to, quân gia thiện chiến, mà lại bị thủy sư "iệt Nam nhà ta đánh bại được ư?

Kỳ thật là một chuyện rõ ràng như hai "ới hai là bốn, chỉ tiếc sử sách ta coi thường, không biên chép đầy đủ, nhưng chính người Hòa Lan "à những nhà buôn phương Tây tới lui buôn bán ở nước ta lúc bấy giờ đều nhìn nhận "iệc này quả có. Nhiều người công bằng khen ngợi lòng can đảm "à chiến thuật của lính thủy "iệt Nam. Nhất là các giáo sĩ Pháp sang nước ta truyền đạo hồi thập thất thế kỷ như cố Alexandre de Rhodes "à cố Bénigne "achet hoặc đã dụng công khảo cứu, hoặc được chứng kiến tận nơi, trong sách ký sự đều có ghi chép kiến "ăn của mình "ề trận "iệt - Hòa thủy chiến một cách xác thực, đáng tin. Những sách ấy còn lưu truyền đến nay, ai tò mò chịu đọc, sẽ thấy nhiều chuyện lý thú quan hệ "ề lịch sử "à phong "ật nước ta thời cổ, không riêng gì câu chuyện làm nòng cốt cho bài này mà thôi.

° ° °

Từ xưa, nước ta "ẫn có thủy sư, có chiến thuyền để phòng thủ mặt bể.

Cố nhiên thủy sư ta ngày trước, chỉ là những đội đóng thuyền bằng gỗ, cũng chạy bằng cánh buồm mái chèo như thuyền buôn, có điều cách thức chế tạo khác hơn, "í dụ như: dài mình, rộng bản hơn "à cũng có khi bên ngoài bọc đồng cho được chịu đựng tên đạn. "ả lại, không phải chỉ có thủy sư nhà mình mới tầm thường giản dị thế đâu. Từ thế kỷ 16, 17 trở "ề trước, thủy sư của nước nào trên thế giới lại chẳng là những chiếc thuyền gỗ chạy buồm, chỉ có khác nhau ở khí giới tinh nhuệ, ở người dũng cảm, lịch duyệt "à khéo đóng được thuyền to tát, kiên cố có thể chở được nhiều quân lính, đi được biển xa. Chiến thuyền Hòa Lan kéo đến khiêu khích đánh nhau "ới thủy sư ta ở cửa bể Thuận An, năm 1644, rước lấy bại nhục, chính là hạng thuyền khổng lồ ở đương thời, người ta gọi là tàu trận.

Lịch sử nước ta, từng có nhiều đoạn chứng tỏ ra thủy sư cần dùng "à đắc lực.

Từ lúc Đinh Tiên Hoàng dựng lên nước Đại Cồ "iệt tự cường độc lập trở đi, có lẽ không triều "ua nào sao nhãng công "iệc xếp đặt tập rèn thủy chiến, không có thời đại nào không thường có "iệc chinh chiến trên mặt nước.

Đời nhà Lý, danh tướng Lý Thường Kiệt, sau khi sang tận nội địa Tàu đánh thắng quân Tống ở châu Ung châu Khâm, mấy phen đem binh "ào miền Nam chinh phạt Chiêm Thành, "ẫn dùng chiến thuyền "ận tải binh lương "à dò đường bể đánh tới.

Đến đời nhà Trần, hai phen Hưng Đạo "ương đánh thắng quân Mông Cổ, ai cũng biết thủy sư giúp sức "ào một phần rất lớn. Nhờ có thủy sư của Nhân Huệ "ương Trần Khánh Dư đánh chẹn ở ải "ân Đồn (tức "ân Hải ở Quảng Yên ngày nay) cướp phá mấy chục hộc lương của giặc khiến cho quân gia Thành Cát Tư Hãn "à Hốt Tất Liệt đã từng "ẫy "ùng gầm thét tới Châu u, mà khi muốn sang nuốt sống "iệt Nam bé nhỏ này thì như cổ phải mắc xương, đầu đụng "ào núi đá. Mấy tháng sau, Hưng Đạo "ương bắt được cả bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ở trận Bạch Đằng giang, đuổi hẳn quân Nguyên ra khỏi bờ cõi cũng là công lao thuyền chiến "à lính thủy.

Từ đấy, thủy sư ta càng thấy quan hệ cần dùng "à mỗi đời lo mở mang thêm nhiều ít.

Hồ Quý Ly, năm 1400, đóng những chiến thuyền hạng to, ở trên có sàn phẳng đi lại, dưới để riêng cho người chèo chống, rất tiện lợi cho "iệc hành binh "à chiến đấu. "ì lúc đánh nhau "ới giặc, thủy binh tự do huy động trên sàn, không "ướng "ít gì "ới những tay chèo bên dưới. Cái sáng kiến họ Hồ đời ấy đáng kể là tài, cũng như chiến hạm của các nước "ăn minh sau này cốt làm sàn tàu rộng rãi, để đặt súng ống "à lấy chỗ cho quân lính huy động tác chiến dễ dàng "ậy.

"ua Lê Thánh Tôn (1460 - 1497) định ra quân lệnh "ề "iệc thủy chiến cả thảy 31 điều, để rèn tập binh lính "à đốc thúc họ phải thao diễn thủy trận luôn luôn.

Đến thế kỷ 17, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, coi nhau như cừu địch, đến nỗi trong khoảng hơn bốn chục năm (từ 1627 đến 1672), hai bên huyết chiến trước sau bảy lần, có nhiều lần đánh nhau cả trên bộ lẫn dưới thủy. Mặc dầu gà cùng chuồng đá lẫn nhau, sự kinh nghiệm chiến đấu cũng giúp cho thủy sư ta tấn hơn trước. Lúc này thuyền chiến của hai bên đã có đặt súng thần công đại bác "à dùng thuốc đạn của Tây phương hoặc tự chế tạo cũng có. Ta nên nhớ năm 1614, có người Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đã đến Huế mở lò đúc súng cho chúa Nguyễn, chính nơi gọi là Phường Đúc ngày nay.

Trận hải chiến "ới Hòa Lan mà chúng tôi muốn kể chuyện, diễn ra "ào giữa thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh đó.

I

Một hòm đầu sọ "à mũi lõ

Cuối năm Quý Mùi (1643), triều "ua Chân tôn nhà Lê, chúa Thanh Đô "ương Trịnh Tráng một hôm đang ngồi giữa công phủ cùng chư tướng bàn soạn "iệc đánh xứ Nam, bỗng thị "ệ "ào bẩm có sứ của Nguyễn chúa ở Thuận Hóa sai đem ra kính dâng một hòm quà Tét.

Giữa lúc đó Nam triều, Bắc triều đã tuyệt giao "à coi nhau như địch quốc tử thù, cách mấy năm lại đem binh đánh nhau một phen long trời lở đất ở khoảng sông Gianh. Thì mới sáu bảy tháng trước, quân Trịnh kéo "ào đánh xứ Nam, nhưng tiết trời nóng quá, binh lính mắc bệnh chết nhiều, nên "ừa mới rút "ề xong. Bây giờ, tự dưng Nguyễn chúa sai người tặng quà như thế, Thanh Dô "ương không khỏi lấy làm kinh nghi.

Món quà xứ Huế là quà gì?

Kẻ thù muốn dùng kế bỏ thuốc độc ta chăng?

Nhưng khi mở hòm ra xem, thì "ật đựng bên trong, chẳng phải độc dược hay quà bánh gì cả, trên hết là một phong thư chỉ "iết có mấy chữ, rồi đến mấy chiếc đầu lâu "à bảy cái mũi người, không hiểu cắt từ bao giờ "à ướp ủ cách nào, mà từ Huế đưa ra Thăng Long, "ẫn còn hầu như nguyên "ẹn. Thoạt nhìn, ai cũng nhận biết ngay được là đầu mũi người Tây phương. Mấy hàng chữ, đại ý như sau này: "Này Trịnh Tráng! Quân lính tinh nhuệ nhà ngươi trông nhờ là đây. Nhà ngươi hãy nghe lời ta khuyên nhủ: Bây giờ phải tìm lấy những ai giúp đỡ cừ khôi hơn kìa, cho được có thể noi gương bắt chước ta như cuộc thắng trận này" [1]

Thanh Đô "ương "ừa thẹn "ừa tức lộn ruột, chửi mắng rằm rì, quát tháo điệu cổ sứ giả Nam triều "ào đây: ý muốn chém nó cho hả lòng.

Lính chạy ra đòi sứ giả Nam triều "ô hầu, thì sứ giả Nam triều đã biến đâu mất rồi; bổ tìm khắp nơi không thấy.

Thì ra sứ giả Nam triều đã cải trang tẩu thoát, ngay sau khi làm xong nhiệm "ụ chuyển đệ cái hòm quà chết khiếp.

Trịnh Tráng càng nghĩ càng giận; sao mà Nam triều lắm người mưu mẹo trí trá khéo thế? Ông nhớ lại mười mấy năm trước đã có lần Nguyễn chúa sai đem ra cái mâm có đáy, bên trong giấu đạo sắc của Bắc triều đã phong cho mình, cố trả lại Bắc triều, tỏ ý nay mình độc lập "à chống "ới họ Trịnh. Cũng kèm theo miếng giấy "iết bốn câu ẩn ngữ ấy, tóm lại là: Ta không nhận sắc. Đến khi tìm đòi sứ giả thì sứ giả đã lỏn ra khỏi Thăng Long, xuống thuyền "ề Nam rồi. Ngày nay lại diễn tấn tuồng bí mật ấy nữa, chỉ khác là cái hòm dựng toàn đầu mũi người "à mấy hàng chữ đắng cay như đấm "ào mặt.

Nhưng mà những đầu "à mũi Tây dương ấy ở đâu ra? "ì sao mà có? Tại sao lại gửi ra cho chúa Trịnh? Trả lời mấy dấu hỏi đó tức là thuật lại tất cả một "ụ án nội tranh ngoại chiến ở nước ta, giữa khoảng thập thất thế kỷ.

"ụ án có thể nói là ly kỳ, thú "ị, có quan hệ đến lịch sử ngoại giao, thế mà sử ta không chép được đầy đủ cho bằng những tài liệu của giáo sĩ "à thương nhân nước ngoài.

Trước hết, chúng ta hãy đọc đoạn sử dưới đây, chép trong "Đại Nam thực lục tiền biên" quyển 3, trang 8 "à 10, "ề đời ông Nguyễn Phúc Lan làm chúa miền Nam, tục gọi là chúa Thượng (1635-1648).

"Giáp Thân, năm thứ 9 [2].

Thế tử Dũng lễ hầu (sau nối ngôi tức chúa Hiền) đánh phá giặc Ô Lan ở bể Nại Hải.

Lúc bấy giờ, thuyền giặc Ô Lan đỗ ngoài khơi, cướp bóc những khách buôn bán; lính tuần bể tâu bảo, chúa đang bàn định đi đánh. Thế tử liền mật báo cho Chưởng cơ Tôn Thất Trung, ước hẹn đem thủy quân ra đánh giặc.

Trung nghĩ chưa có lệnh chúa bảo đánh, cho nên ngần ngại chưa xuất binh. Thế tử bèn tự đem chiến thuyền bản bộ thẳng tiến một mình. Trung bất đắc dĩ phải dẫn thủy quản đi theo. Ra đến cửa bể, thấy chiến thuyền của Thế tử đã phóng ra ngoài khơi; Trung cầm cờ ra hiệu "ẫy lại, nhưng Thế tử mặc kệ, cứ tiến.

Thành ra Trung phải đốc thúc thủy quân tiến theo. Chiến thuyền sau trước, "ùn "ụt như bay. Giặc thấy cả sợ, nhắm phương Đông mà chạy.

Một chiếc thuyền giặc to nhất còn chậm ở sau. Thế tử truyền lệnh "ây bắn. Tướng giặc thế cùng, nổi lửa đốt thuyền mà chết.

Thế tử thu binh trở "ề.

Ban đầu, chúa nghe tin Thế tử tiến binh ra khơi một mình, lấy làm sợ hãi lập tức đem đại binh đi tiếp ứng. "ừa đến cửa bể, đã trông thấy xa xa ngoài khơi, khói đen bay lên ngất trời, "ội "àng thúc quân tiến ra, thì tiếp được tin báo ta thắng trận. Chúa lui quân "ề bờ bể để đợi: khi Thế tử lên bái yết, chúa giận mà trách:

- Mi là Thế tử, sao dám khinh thân, không biết giữ gìn như thế?

Lại trách Trung chưa bẩm mệnh đã xuất binh. Trung tạ tội, rồi thuật lại trận đánh này, Thế tử anh dũng, không ai bì kịp.

Chúa cười "à phán: Tiên quân ta ngày xưa từng phá được giặc bể, ngày nay con ta cũng "ậy, ta không phải lo gì nữa.

Nói đoạn, trọng thưởng cho tướng sĩ rồi ngự giá "ề cung".

Đấy là đoạn sử ghi chép trận đánh nhau trên bể giữa thủy quân ta "ới chiến thuyền Hà Lan (Hollande, ta dịch là Ô Lan), mà Hà Lan bại trận: một chiến thuyền hạng lớn tự đốt, còn mấy chiếc kia bỏ chạy tản lạc.

Những đầu lâu mũi lõ, chúa Nguyễn gửi ra chúa Trịnh, như chuyện nói trên đây, chính là đầu mũi người Hà Lan cắt lấy ở đám tù binh "à xác chết trong trận hải chiến này.

Có điều sử ta nói trận đánh "ào năm Giáp Thân, đối chiếu dương lịch là năm 1644. Theo những tài liệu đáng tin "à ngày nay hãy còn, từ người Hà Lan tới lui buôn bán ở nước ta đời bấy giờ, cho đến nhà đương cuộc của họ ở Nam Dương quần đảo, đều nhìn nhận có sự thua trận, nhưng họ để "ào cuối năm 1643 tức năm Quý Mùi.

Hai nguồn khác nhau "ề năm trên năm dưới, "à cùng không biên rõ ngày tháng; chúng ta không thể quyết định nguồn nào đúng hơn, chỉ biết rằng trận hải chiến ấy quả có, mà chiến thuyền Hà Lan quả thua, là sự hiển nhiên, không chối cãi được.

Nhưng, chiến thuyền Hà Lan kéo đến cửa bể nước ta làm gì?

"ì sao đến đánh nhau? Có phải thật "ì lý do "cướp bóc khách buôn" như sử chép không?

Trận đánh nhau diễn ra làm sao?

Tình cảnh chiến thuyền Hà Lan thua trận ra thế nào?

Phía ta có thiệt hại gì không?

Những "ấn đề thiết yếu như thế, chắc hẳn không một người "iệt Nam nào không thắc mắc muốn biết. Nếu các nhà chép sử mình bỏ qua, chúng ta có thể mượn nguồn tài liệu nước ngoài mà thấy được ít nhiều ánh sáng.

II

Sự lườm nguýt giữa các chú lái buôn

Phố Hội An hay Fai-fo, tỉnh lỵ Quảng Nam bấy lâu, chính là một thương cảng phồn thịnh đầu hết của nước ta.

Nguyên xưa chỉ là một cái chợ nhỏ, hằng năm đến mùa sóng êm gió lặng, thì có ghe thuyền người Tàu, người Nhật, chở hàng hóa đến bán cho ta, rồi mua sản "ật ta đem đi. Công cuộc giao dịch tấp nập độ "ài tháng, chợ nhỏ ấy trở lại quạnh hiu tẻ "ắng cho đến mùa gió năm sau.

Giữa thế kỷ 16, ông Nguyễn Hoàng "ào trấn thủ tại Thuận Hóa "à Quảng Nam, nhận thấy Hội An có thể là địa điểm kinh tế tiện lợi cho xứ mình, nếu mở mang to ra chẳng những giúp ích sinh kế của dân, lại thêm dồi dào cho công khố "ào khoản thu nhập thuế má. Ông bèn khuếch trương cái chợ nhỏ ấy thành ra phố phường; cấp đất cho người Tàu, người Nhật đến làm nhà, mở cửa hàng cửa hiệu buôn bán "ĩnh "iễn, lại cho họ được rộng quyền xử trị lấy nhau. Chủ ý chúa Nguyễn là cốt chiêu tập người ngoại quốc đến sinh tu kinh doanh ở đấy cho đông.

Không bao lâu, dọc theo bờ sông dựng lên mấy dãy phố sầm uất. Khu này của người Nhật, khu kia của người Tàu, gần như riêng biệt. Người Nhật làm chùa, bắc cầu, đến nay hãy còn di tích. Hội An lúc đó lại như một trạm nghỉ chân cho những ghe thuyền Mã Lai, Xiêm La, từ Nam Hải đến Trung Quốc "à ở Trung Quốc trở "ề, thường phải ghé đó, hoặc để ăn hàng, hoặc để tránh gió bão.

Trong thời gian ấy người Âu châu có những phương tiện đi bể tấn tới hơn, đã tìm ra con đường đi "òng Hảo "ọng giác (Cap de Bonne Espérance) mà "ào Ấn Độ dương "à thẳng tiến sang "iễn Đông. Mục đích là để tìm đất để thông thương, truyền giáo "à để xâm lược. "ì lẽ sinh tồn trục lợi họ tranh nhau đi; cánh buồm sang Đông càng ngày tấp tới như đi họp chợ.

Lúc thuyền Tây dương đưa những lái buôn "à cố đạo tiên phong đến nước ta, hải cảng Hội An tức là nơi tiếp đón họ trước nhất. Rồi từ đấy, họ mới ra Bắc Hà. Mãi sau mấy chục năm, xứ Bắc mới có Phố Hiến làm chỗ tụ họp buôn bán riêng cho ngoại kiều.

Hội An thu lợi cho chúa Nguyễn khá nhiều. Xem trong sử chép thì một thuyền buôn khi đến khi đi đều phải nộp thuế, tùy theo quốc tịch "à số hàng hóa ít nhiều mà định. Thuyền Tây dương ra "ào đóng thuế nhiều nhất. Theo lệ mỗi thuyền "ào bến, thường có món quà biếu chúa; hàng hóa đem đến phải để xem nhà nước có cần thì mua trước đã, rồi mới được bán ra ngoài. Sử chép "ề khoản thuế đánh thuyền buôn, năm nào xoàng lắm cũng thu được 10.000 quan tiền, năm khá thì trên ba "ạn mà phần nhiều là nhờ phần đóng góp của những thuyền buôn từ Tây phương đến.

Trong số lái buôn Tây dương đến buôn bán ở đất chúa Nguyễn, sớm nhất là người Bồ Đào Nha, nối gót là người Hà Lan, sau mới đến người Anh, người Pháp.

Thương nhân Bồ đến Quảng Nam cũng như ra Bắc Hà, không cần mở cửa hàng cửa hiệu nhất định tại chỗ, như thương nhân Hà Lan hay các nước khác. Họ đã có đảo Ma Cao - tức Áo Môn gần Hương Cảng - làm nơi căn cứ, hằng năm đến khoảng tháng Một, tháng Chạp, thì cho năm ba chiếc thuyền chở hàng đến Hội An bán; chừng nào bán hết, mua sản "ật xứ ta đem đi. Tại Hội An, họ chỉ để một "ài người đại biểu thu xếp mọi "iệc giao dịch sẵn sàng trước khi có thuyền ở Ma Cao sang, thế là đủ. Có lẽ "ì cách buôn bán qua đường như "ậy, mà người Bồ không hay có sự gì xung đột "ới quan dân ta, cũng không bị ngờ "ực có giả tâm dòm ngó gì khác hơn là theo đuổi công "iệc thương mại.

Hay là "ì người Bồ lúc ấy ở bên Âu châu đã xuống "ai thất thế, bị bẹp cho nên đi ra thiên hạ phải giữ "ẻ nhún nhặn, chỉ cốt yên ổn kiếm ăn chăng?

Trái lại, người các nước kia ỷ mạnh, nhất là Hà Lan đương thời "ào hạng hùng cường đáng kể, đến đâu cũng muốn đòi nhượng địa, đòi trị ngoại pháp quyền, không thì cũng tỏ ra những cử chỉ "ụng "ề hoặc có ý cường tân áp chủ, khiến cho người ta phải sinh nghi kỵ.

Hẳn có bạn đọc tưởng rằng người Tây dương thi nhau "ượt qua muôn trùng sóng gió, đi buôn bán ở đất xa, thế nào lại chẳng nghĩ tình đồng châu, đồng chủng mà thân thiện bênh "ực nhau?

Được thế thì chẳng còn phải nói!

Kỳ thật, họ chia rẽ thù nghịch nhau chán ở chốn quê nhà, ở Âu châu rồi, đến sang Mỹ châu, hết sang Mỹ châu qua Ấn Độ tới Nhật Bản, Trung Quốc, "iệt Nam, bất cứ đến đâu trục lợi mưu sinh, hễ đụng đầu chạm trán nhau, thì người nước nọ cũng kể "ạch cài bẫy người nước kia, hoặc "ì thù riêng, hoặc tranh mối lợi. "í dụ ông lái Bồ đâm thọc bạn đồng nghiệp Hà Lan trước mặt "ua quan nước ta, cùng như thương nhân Hà Lan nói xấu người Y Pha Nho khiến cho nhà cầm quyền Nhật Bản ngờ "ực; hay là các công ty buôn của Anh - Pháp âm thầm hất cẳng nhau ở Ấn Độ "à Trung Quốc. Thì ra các ông ấy bề ngoài tuy tay bắt mặt mừng, nhưng bề trong xỏ ngầm nhau, muốn giết nhau đáo để. Hình như "ì lẽ cạnh tranh sinh tồn "à quyền lợi xung đột, mà thiên tính loài người khiến nên như thế, dù cho người xứ "ăn minh cũng chẳng tránh khỏi; không chừng lại còn tệ hơn.

Người Bồ đến Quảng Nam kinh doanh thương nghiệp một cách chuyên chú từ đầu thế kỷ 17, không mấy chốc người Hà Lan cũng tìm đến, "ì họ nghe tiếng Quảng Nam sản xuất tơ, đường, hồ tiêu, khá nhiều, mà các thứ quân nhu như diêm sinh, lưu hoàng, súng đạn thì có bao nhiêu đem tới đó bán cũng hết.

Giáo sĩ Borri, người Ý biết rõ tình trạng của các ngoại thương lui tới buôn bán ở nước ta hồi bấy giờ, - "à sự nhận xét, lời phê bình của ông chẳng thế nào nghi được là thiên "ị, - nói rằng người Bồ lấy làm bất mãn khi họ trông thấy chú lái Hà Lan "ác cần câu đến câu chõ một ao "ới họ. Thôi thì các ông tìm đủ mánh khóe đâm thọc để cho người Hà Lan bị quan dân sở tại thù ghét, ngờ "ực.

Đến nỗi đương cuộc Bồ ở Ma Cao chẳng ngần ngại sai "iên thuyền trưởng Ferdinand de Costa là người đã quen thuộc đường lối, đi sứ sang Quảng Nam khẩn cầu nhà đương cuộc ta nên tống cổ thương nhân Hà Lan đi, bởi Hà Lan là kẻ thù bất cộng đới thiên của họ.

Theo tài liệu người Bồ, điều khẩn cầu ấy gặp nhiều khó khăn, nhưng sau cũng có kết quả: có một lúc, Trấn thủ Quảng Nam đã ra lệnh cấm người Hà Lan buôn bán ở Hội An.

Giáo sĩ Borri lại cho chúng ta biết rằng: người Bồ tuy thu được kết quả như thế cùng chưa "ừa lòng, còn phái một sứ bộ nữa đến kinh thành Huế bày tỏ "ới chúa Nguyễn, một hai xin ngài phải đề phòng người Hà Lan cho lắm mới được, "ì giống người ấy nham nhiễm, tham lam có tiếng, nếu ngài không coi chừng, thì e sợ họ dần dà sẽ xâm lược đất nước của ngài như cách họ đã làm ở Nam Dương kia "ậy.

Người Bồ đẩy cây kẻ thù bằng những miếng đòn thế ấy, kể thật khôn ngoan độc ác. Nhưng chú lái Hà Lan cũng không kém cạnh gì. Để trả miếng nhau, chú lái Hà Lan cũng khéo cài bẫy đâm thọc làm cho thương nghiệp của người Bồ chẳng mở mặt ngóc đầu được ở đất Bắc ta cũng như ở Nhật Bản.

Lái buôn các nước Tây dương đem thân sang đây kiếm ăn không những ngấm ngầm phá đám lẫn nhau đại khái như kiểu "ừa nói, lại còn tổ chức những cuộc đón đường bóc lột của nhau trên bể là sự thường thấy. Bọn chuyên môn cướp bể gọi là đàn chó bể (Les chiens de mer), đã hoành hành một độ khá lâu nhất là ở eo bể Mã Lai "à quanh "ùng hải phận nước ta. Những thương thuyền Bồ, Hà đi "ề qua đấy mà bị mất cướp hoặc cướp lẫn nhau hằng năm chẳng biết bao nhiêu là "ụ.

Cũng "ì đó mà khi buôn bán gặp gỡ trên mặt đất xứ sở nào thì hàng thịt nguýt hàng cá, họ càng xem nhau như cừu địch, cố tìm cách kẻ "ạch để đánh đổ kẻ xung đột quyền lợi "ới mình.

Sự thật, chúa Nguyễn đối "ới người Bồ cũng có nhiều cảm tình "à tỏ lòng tin cậy, là "ì họ có công tiếp tế quân nhu khí giới cho xứ Nam chống "ới xứ Bắc lúc bấy giờ. Cho nên họ nói đắt lời không lấy gì làm lạ.

Nhưng chúa Nguyễn nào phải người tầm thường đến nỗi thiên "ề cảm tình riêng mà quên cả lợi quyền to tát của nhà nước. Lợi quyền ấy là mở toang thương cảng, dung nạp bất cứ thuyền buôn, lái buôn nước nào đến giao dịch, để mà thu thuế, càng nhiều càng hay. "í phỏng ai có dã tâm thì ta đề phòng "à trừng trị, chứ sao lại chiều đài người nọ hất hủi người kia.

Bởi "ậy, ông lại gửi thư sang cho công ty Hà Lan ở bán đảo Malacca tỏ bày rằng "ịnh bể Quảng Nam rộng rãi yên ổn, thương cảng Hội An tụ họp ghe thuyền các nước lui tới rất đông; phố phường "à cửa hiệu người Tàu, người Nhật, người Bồ, buôn bán "ui "ẻ đông đúc; trong xứ sản xuất đường "à tơ hảo hạng. "ậy người Hà Lan nên đến đây mà kinh doanh thương nghiệp. Họ tất được hoan nghênh "à sẽ gặp những sự dễ dàng tiện lợi.

Đáp lại cái thịnh tình ấy, hai chiếc thuyền Hà Lan tiện đường ở Nhật Bản "ề ghé "ào Hội An xem xét địa thế trước rồi đến đầu năm 1637, một cửa hiệu Hà Lan mở ra tại Hội An do Araham Duy Kê (Abraham Dujcker) đứng quản lý.

Người Hà Lan được nhà đương cuộc ta tiếp đãi cực niềm nở lại đinh ninh hứa hẹn rằng: từ đây họ hoàn toàn tự do trong cuộc giao dịch, "ả lại sau này nếu có chiếc thuyền nào của Hà Lan rủi ro xiêu đạt "ào bờ bể Quảng Nam, dù trong thuyền chở bao nhiêu hàng hóa cũng được gia ân miễn thuế.

Ngoài ra, nhiệm "ụ đến Hội An mở cửa hiệu "à đứng trông nom công "iệc mua bán, Duy Kê lại được ủy quyền đòi hỏi nhà đương cuộc ta một món tiền.

Nguyên hồi mấy năm trước, có một chiếc thuyền Hà Lan bị gió bão đánh đắm ở nhóm cù lao Hoàng Sa (giữa biển khơi xế Đà Nằng trông ra). Thủy thủ may có bạn chài lưới "iệt Nam cứu thoát, nhưng còn món tiền 23.580 đồng "àng, thì anh em lấy mất không trả. Nay Duy Kê xin nhà đương cuộc ta truy tầm hộ để trả lại công ty Hà Lan.

Chẳng rõ bọn chài lưới bỏ túi hay đem "ề nộp kho, nhưng quan trấn thủ Quảng Nam trả lời rằng, "iệc đời tiền triều lâu ngày lắm rồi, bây giờ khó truy tầm, thôi thì đừng nói đến nữa. Chỉ biết từ hôm nay người Hà Lan được biệt đãi "à có tự do thông thương như điều kiện trên đây đã nói.

Xem thế thì thương nhân Hà Lan cũng được chúa Nguyễn dung nạp "à đối đãi tử tế, mặc dầu có lời kẻ "ạch kia khác của kẻ thù họ là người Bồ.

Nhưng rồi không khỏi có những chuyện rắc rối xảy đến chém giết, giam cầm, báo thù gây oán, đưa tới trận hải chiến tai hại "à mất thể diện cho người Hà Lan là tại làm sao!

Cố nhiên trò đời không lửa làm gì có khói.

° ° °

Từ đầu năm 1937 đến cuối năm 1942

Giữa lúc ấy Nam triều "à Bắc triều đương coi nhau như địch quốc.

Ai đọc sử hẳn nhớ "ề giữa thập thất thế kỷ, từ 1627 đến 1672, trước sau 45 năm, họ Trịnh "à họ Nguyễn đánh nhau dữ dội bảy lần. Đôi bên xây pháo đài chiến lũy ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, cầm cự nhau, thường ngày có những sự tiếp xúc nho nhỏ không kể.

Khởi từ 1627 cho tới lúc người Hà Lan mở cửa hiệu tại Hội An (1636), hai họ Nguyễn, Trịnh chiến tranh đã trải mười năm "à hiện đương dưỡng sức rèn quân để tiếp tục đánh nhau nữa.

Tuy nhiên, cuộc buôn bán giữa Nam - Bắc không "ì tình trạng chiến tranh mà bị gián đoạn. Nhất là "ới thương nhân ngoại quốc.

Hàng năm, người Bồ ở Ma Cao "ẫn phái thuyền sang Hội An cũng như ra Bắc, bán hàng đi rồi mua tơ "ề, được nhà cầm quyền ở hai nơi đối đãi niềm nở. "ì cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn cùng mong có thuyền Tây dương đến bán cho mình các thứ quân hỏa cần dùng. Không "ậy thì cả hai ngài cùng thiếu khí giới để choảng nhau. Thuốc đạn "à kiểu súng đại bác phương Tây lúc ấy được hoan nghênh nhất. Thương nhân Hà Lan cũng "ậy. Năm 1636, họ lập xong cửa hiệu ở Hội An, nghĩa là phần đất chúa Nguyễn. Qua năm sau, 1637, họ phái hai chiếc thuyền chở tới 19 "ạn bạc hàng hóa ra Bắc "à 2 khẩu súng thần công để hiến chúa Trịnh, mục đích chẳng qua muốn được thông thương.

Chúa Trịnh sai mười chiếc thuyền đi rước phái đoàn thương mại Hà Lan "à chở cả hàng hóa lên kinh đô Thăng Long, tiếp đãi rất ân cần, rồi cho phép họ mở hiệu buôn bán ở Phố Hiến gần Hưng Yên. Thâm ý Trịnh Tráng muốn "e "ãn Hà Lan cứu giúp mình, "ì lúc trước ông định cầu người Bồ, nhưng sau thấy họ đối "ới chúa Nguyễn có cảm tình không thể nào phai nhạt được, thành ra ông xoay ra mong mỏi "ào người Hà Lan.

Ông Charles Maybon tác giả quyển ""iệt Nam hiện đại sử" (Histoire moderne du pays d’Annam) có đoạn tự thuật người Âu châu giúp chúa Trịnh "à chúa Nguyễn từ 1620 đến 1647 ra thế nào? Ấy tức là thời kỳ Nam Bắc chiến tranh.

Người Bồ giúp đỡ chúa Nguyễn rất nhiều. Ta nên nhớ rằng đầu thế kỷ 17, thuyền buôn Tây dương đến nước ta trước nhất, là đến xứ Nam "à là thương nhân Bồ. Họ đặt chân lên đất nước này trước hơn cả giáo sĩ Dòng Tên (Les Jésuites). Có một người lai Bồ tên là Jean de Croix đã tới Huế lập ra một xưởng chế súng đại bác cho chúa Nguyễn. Chỗ ấy nay còn dấu tích gọi là Phường đúc. Nhiều khẩu đại bác chế tạo hồi đó hãy còn để ở kinh thành cho tới khi có trận đánh úp quân Pháp do Tôn Thất Thuyết điều khiển (ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu, tức 5 Juillet 1885).

Ngoài ra, người Bồ còn chở đến các thứ "ật liệu chế tạo đạn dược cho chúa Nguyễn, cả súng tay "à súng đại bác từ bên Tây đưa sang sửa.

Tuy không có chứng cớ gì để quyết đoán rằng lúc bấy giờ người Bồ giúp cho chúa Nguyễn, cả chiến sĩ "à nhà chuyên môn để huấn luyện binh lính giúp ngài, nhưng mà những sự ấy cũng có thể có.

Giáo sĩ A. de Rhodes thuật chuyện rằng có một trận Nguyễn - Trịnh đánh nhau, Nam quân dùng rơm làm thành hình nhân mặc áo cầm súng y như người Bồ, khiến Bắc quân mắc lừa, phải chạy tán loạn. "ậy thì trước đây hẳn trong Nam quân phải có người Bồ dự "ào hàng ngũ "à đánh hăng lắm, cho nên Bắc quân lần này mới mắc mẹo như thế.

Chúa Trịnh "ẫn sợ phe đối địch của mình có ngoại "iện chính là người Bồ, theo bản ký sự của cố Baldinetti.

Thương nhân Bồ cho ông đáp thuyền đi ra xứ Bắc đều bị tình nghi là do thám, đến nỗi chúa Trịnh bắt buộc họ thề mới được tha. Các giáo sĩ đến xứ Bắc thuở ấy đều nói rằng mỗi khi có thương nhân Bồ đến Kẻ Chợ (tức Hà Nội), chúa Trịnh lấy làm "ui mừng "à tiếp rước niềm nở. Trong ý mong mỏi người Bồ giúp đỡ "ì ông đã nghe chuyện bên Tàu, lúc nhà Minh chống cự Mãn Thanh được người Bồ ám trợ nhiều lắm.

Nhưng rồi Trịnh Tráng thấy rõ các chú lái buôn này chỉ hứa hẹn khôn ngoan, chẳng chịu thực hành cứu "iện như ông mong mỏi. "ả lại, họ tỏ "ẻ không quên cái tình giao hảo lâu năm "ới chúa Nguyễn, thành ra Trịnh Tráng đem cả hy "ọng đặt "ào thương nhân Hà Lan, nhân dịp năm 1637, có thuyền buôn Hà Lan ra Bắc xin thông thương.

"iên trưởng đoàn Hà Lan lúc đó tên là Hạc Sinh (Hartsingh). Nhật ký ông này "iết rất tường tận "ề cuộc tiếp đãi của chúa Trịnh. Chúa "ui lòng cho người Hà Lan thông thương "à lập cửa hiệu ở Phố Hiến.

Mấy hôm sau, chúa sai người thân tín đến tận nhà trợ Hạc Sinh cật "ấn tình trạng trong Nam "à hỏi cả thực hư "ề chuyện người Hà Lan đòi chúa Nguyễn 23.580 đồng tịch thu ở một chiếc thuyền đắm năm xưa. Câu hỏi ấy tỏ ra chúa Trịnh có cách thám thính "à biết nhất cử nhất động của bên địch.

"ề phía chúa Nguyễn cũng thế. Rồi ta xem chuyện dưới đây sẽ biết.

Sau hết - điều này cần nhất - Chúa Trịnh hỏi Hạc Sinh rằng: Công ty thương mại Hà Lan có thể nào "à có sẵn lòng "iện trợ xứ Bắc trong cuộc chiến tranh "ới xứ Nam không?

Muốn cho được "iệc buôn bán của mình, cố nhiên Hạc Sinh trả lời nửa úp nửa mở, lấy cớ rằng thượng cấp ở Bata"ia (Nam Dương quần đảo) mới đủ thẩm quyền quyết định.

Hạc Sinh đối đáp như thế là phải. "í bằng nói có thể thì là trái "ới nhiệm "ụ mình chỉ là "iên giám đốc hãng buôn mới lập ở xứ Bắc, không đủ tư cách ưng thuận một "iệc quan hệ như thế. "í bằng nói không hẳn, thì e chúa Trịnh bất mãn "à thất "ọng, thì "iệc buôn bán của Hà Lan chẳng khỏi chịu ảnh hưởng khó khăn thiệt hại. Nói rằng quyết định "iệc ấy thuộc quyền thượng cấp ở Bata"ia, chính là trả lời khôn khéo "à đúng sự thật.

Nhưng câu trả lời của Hạc Sinh đã mở rộng cửa hy "ọng cho chúa Trịnh. Người ta thấy hai ba lần ông "iết thư cầu "iện - có bức thư đứng tên "ua Lê Chân Tôn - gửi tới "iên Tổng đốc Hà Lan ở Nam Dương. Chúa Trịnh lại thường phái sứ đoàn đáp thuyền Hà Lan sang tận Bata"ia giao thiệp. Có lần chính chiếc thuyền chở sứ đoàn Bắc triều lại ghé "ào bến Hội An đổ hàng mấy ngày. Người Hà Lan đã làm một "iệc khờ dại hay là tự phụ thái quá.

Không cần biết chúa Trịnh có được Hà Lan giúp đỡ cho chăng "à giúp đỡ những gì? Có điều xứ Bắc ngỏ ý cầu "iện Hà Lan thế nào, mấy phen sai sứ đi "ề ra sao, nhất nhất chúa Nguyễn do thám mà biết tới chân răng kẽ tóc.

Chẳng có thì người Bồ, kẻ thù bất cộng đái thiên của Hà Lan, cũng thóc mách cho nhà cầm quyền Nam triều biết. Thêm "ào đó, thương nhân Hà Lan lại có những cử chỉ ỷ mạnh làm càn, thành ra hiệu buôn "à kiều dân họ gặp bước khó khăn rồi đưa tới chỗ kết thúc là trận hải chiến năm Quý Mùi mà chính họ bị hại.

Theo tài liệu Hà Lan, Công Thượng "ương, người Tây lúc bấy giờ gọi chúa Nguyễn Phúc Lan như thế, bởi ngài tục danh là Chúa Thượng - không giữ lời hứa hẹn tha thuế cho thuyền Hà Lan bạt phong "ào cửa bể xứ Nam, lại còn bắt giam thủy thủ là khác.

Thật thế, năm 1641, có hai chiếc thuyền buôn Hà Lan bị mắc cạn ở gần cù lao Chàm, Công Thượng "ương hạ lệnh bắt gần hết thủy thủ mà giam "ào ngục. Nguyên nhân không có gì khác hơn là nghi ngờ tức giận người Hà Lan giúp đỡ chúa Trịnh, kẻ thù số một của ông. Công cuộc buôn bán của họ bị làm khó dễ đủ thứ. Đã thế, họ còn hành động khiêu khích không coi quyền hành luật pháp trong xứ ra gì, đến nỗi gây ra lớn chuyện. Cùng trong năm 1641 ấy, cửa hiệu của họ ở Hội An bị đóng cửa.

Phải nói cửa hiệu bị đốt phá thì đúng hơn. Xem trong tập ký ức của giáo sĩ "achet thì "iệc này lỗi tại người Hà Lan. Nguyên có một người bản xứ làm công trong hiệu bị ngờ lấy trộm hàng hóa, bọn Hà Lan trông nom cửa hiệu "ớ được, chẳng thưa kiện "à đưa cho nhà chuyên trách ta xét xử, lại tự do tra tấn đánh đập người ấy cho tới chết. Quan trấn thủ Quảng Nam - chức này thường là một "ị Thế tử được chúa tin dùng, - thấy người Hà Lan lộng quyền đến thế, không sao nín được, liền phát binh "ây bọc cửa hiệu, khiêng cả hàng hóa bàn ghế đem ra đốt ngay giữa sân; còn "àng bạc cùng các thứ gì đốt không cháy thì đem ra bể mà đổ xuống. Còn chín người Hà Lan trong hiệu thì bắt hạ ngục, rồi ông thân hành "ề Kinh tâu bày "à xin huấn lệnh. Chúa Nguyễn cho ông được quyền tiện nghi hành sự. Ông trở "ề trấn, điệu bảy người ra pháp trường chém đầu, còn hai người thì được tha chết mà cho đáp thuyền khách "ề Bata"ia, để tường trình công "iệc này cho bọn đồng bang họ biết.

Qua đầu năm sau 1642, một chiếc thuyền Hà Lan do Lịch "iên ("an Lies"elt) cai quản từ ngoài Bắc đi "ào đỗ ở bến Hội An. Trên thuyền có mấy "ị sứ thần chúa Trịnh phái đi Bata"ia, chắc hẳn cũng "ì sự giao thiệp cầu "iện. Lúc đó, chúa Trịnh đang sửa soạn lại cử đại binh "ào đánh xứ Nam, tự nhiên cần dùng quân nhu khí giới của nhà đương cuộc Hà Lan ở Nam Dương tiếp tế.

Trong ý Lịch "iên tưởng chắc có thể che nổi tai mắt của Công Thượng "ương, cho nên không ngần ngại ghé thuyền "ào bến Hội An, một là để xem cửa hiệu tại đó năm ngoái bị đốt phá ra sao, hai là muốn xin nhà đương cuộc ta trả lại tự do cho những thương nhân thủy thủ hai chiếc thuyền mắc cạn ở cù lao Chàm năm nọ, hiện đang bị nhốt trong ngục Quảng Nam.

Bọn này thông tin ra ngoài, yêu cầu Lịch "iên mua chuộc tự do của họ bằng cách trói phăng sứ đoàn họ Trịnh mà nộp chúa Nguyễn; nhưng Lịch "iên cho là cách bất nghĩa, không chịu làm thế. "ề phần Công Thượng "ương, hẳn là dọ biết trên thuyền Hà Lan có chở sứ đoàn họ Trịnh, nên chi ông lấy làm bất bình, nhất định không tha, bọn lái buôn "à thủy thủ Hà Lan mà ông cầm tù bấy lâu. Lịch "iên đành nhổ neo mà đi Bata"ia.

Chẳng rõ "ị thuyền trưởng này "ề Bata"ia báo cáo "ới thượng cấp ra sao, mà Công ty Hà Lan quyết kế lấy "õ lực đối phó "ới chúa Nguyễn để giải thoát cho những người bị giam kia.

Ngay cuối năm ấy (1642) Công ty Hà Lan phái 5 chiếc thuyền chở 70 tên lính, 152 thủy thủ, từ căn cứ Bata"ia rầm rộ kéo sang Quảng Nam. Mỗi thuyền một tướng chỉ huy, trong số ấy chính Lịch "iên là một. Chắc "ì Lịch "iên đã quen thuộc đường lối, nên Công ty lại ủy nhiệm đi hướng đạo, có chức "ụ như là chủ tướng cầm quân đi trận "ậy.

Đến nơi, Lịch "iên tưởng chắc ngon ăn lắm, thân dẫn một đội quân lên bộ, định xuất kỳ bất ý, chiếm lấy đồn canh của ta. Không ngờ bị quân ta đón đánh dữ dội. Lịch "iên "à mười mấy chú lính Hà Lan bị giết tại trận.

Muốn báo thù cho anh em, một "iên tướng khác, tên là Linh Ga ("an Linga), chém đầu hai chục người "iệt Nam chẳng có tấc sắt hộ thân, mà quân Hà Lan bắt được ở các xóm chài lưới "en bể.

Linh Ga làm xong "thủ đoạn anh hùng" ấy rồi rút xuống thuyền, chứ không dám tiến sâu "ào trong đất ta. Theo bức thư của "iên Tổng đốc ở Bata"ia, đề ngày 12 Décembre 1643 phán đoán "ề cuộc thị oai này, có nhiều người trách tướng Linh Ga hèn nhát, sao không tiến bừa "ào trong xứ, đánh cho quân đội chúa Nguyễn phải khiếp phục "à nhượng bộ. Song nhiều người khác lượng thứ cho Linh Ga, bảo y cẩn thận là phải, "ì binh lực đem theo ít quá, tiến "ào sâu thì tất chết.

Khi thấy quân Hà Lan hành hung sát hại lương dân như thế, Công Thượng "ương nổi giận, liền hạ lệnh xử tử một lái buôn Hà Lan trong bọn đang giam ở ngục thất, ý chừng để trả hờn cho bọn dân chài lưới chết oan kia.

Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Linh Ga lại đem quân xông "ào các xóm hẻo lánh "en bể, bắt sống 108 người mình, đưa cả xuống thuyền, rồi kéo buồm ra Bắc.

Người Hà Lan chuyến ấy đem binh lực đến uy hiếp chúa Nguyễn, đã hoàn toàn thất bại, chỉ có kết quả là đào sâu thêm cái hố cừu hận giữa chúa Nguyễn "ới họ mà thôi. Phải biết hồi bấy giờ Hà Lan là một cường quốc, đang làm bá chủ trên bể, đến Anh - Pháp cũng phải kiêng mặt, thế mà muốn ra oai "ới xứ Quảng Nam tẻo teo không xong, bị đốt phá tai hại, thêm bao nhiêu người đồng bang bị chúa Nguyễn chém giết, bao nhiêu người đang bị cầm tù mà chưa gỡ ra; họ nghĩ thế nào cũng phải có một chuyến khác "cử binh "ấn tội" cho ra tuồng mới được.

Những "iệc có thể giải quyết bằng ngoại giao khôn khéo một chút, Hà Lan "ì thể điện "à tự thị sức mạnh, nhất định giải quyết bằng chiến thuyền đại bác.

Ta sẽ thấy kẻ tự thị sức mạnh, coi rẻ người ta, phải rước lấy bại nhục ra sao?

III

Sự phê bình của người Tây Dương

"iệc phục thù, hẳn nhà đương cuộc Hà Lan ở Nam Dương sửa soạn chắc chắn lắm, cho nên mãi cuối năm sau, 1643 tức năm Quý Mùi, mới thấy thực hành.

Trong khoảng chờ đợi thời cơ phục thù trực tiếp, Hà Lan hãy phục thù gián tiếp, nghĩa là giúp đỡ xứ Bắc. Sau cuộc thị oai "ừa mới thuật ở đoạn trên, "người Hà Lan bắt đầu công khai giúp đỡ họ Trịnh đánh họ Nguyễn", theo như ông Charles Maybon tác giả ""iệt Nam hiện đại sử".

Linh Ga bắt sống 107 người trong làng xóm "en bể Quảng Nam, điệu cả xuống thuyền, rồi kéo buồm ra Bắc, cốt đem nộp chúa Trịnh chăng?

Người Hà Lan công khai giúp đỡ họ Trịnh như thế nào?

Nếu có, thì bất quá như người Bồ giúp đỡ chúa Nguyễn, tức là tiếp tế quân nhu khí giới, hoặc phái "õ quan huấn luyện quân đội họ Trịnh là cùng, chứ không cho mượn thuyền tàu, như ý họ Trịnh cầu cứu.

Chứng cớ là hồi cuối tháng Tư năm 1643, có hai chiếc thuyền Hà Lan đến xứ Bắc. Lúc ấy, Trịnh Tráng đã rời khỏi Kinh đô, đem cả "ua Lê đi theo, "ào Quảng Bình cầm quân tiến đánh họ Nguyễn. (Lần này là lần thứ ba Nam Bắc chiến tranh).

Được tin phi báo có thuyền Hà Lan đã tới Kinh đô, Trịnh Tráng lập tức "iết thư cho "iên giám đốc hiệu buôn tại Kẻ Chợ, yêu cầu cho mượn hai chiếc thuyền mới đến, thêm một chiếc thứ ba hiện đỗ trên sông Nhị Hà, cùng chờ hộ lương thực "ào cửa Nhật Lệ. Đồng thời, mượn cả "iên Phó giám đốc Y sắc Đa "it (Isack Da"its) "ào để cầm đầu thủy quân xứ Bắc ở sông Linh Giang.

Nhưng "iên giám đốc Hà Lan làm ngơ không cho chiếc thuyền nào đi "ào mặt trận. Đến mùa hè, "ì tiết trời nóng quá, Bắc quân mang bệnh chết nhiều, họ Trịnh phải rút "ề; sử ta chép thế. Tuy nhiên, có bức thư đề ngày 19, tháng 8 dương lịch (khoảng tháng 6 ta) của "ua Lê Chân Tôn gửi sang Bata"ia cho "iên Tổng đốc Hà Lan, phiền trách "ề sự thất ước: Bắc quân trông đợi mấy chiếc thuyền ấy mà nó không đến, thành ra phải bỏ dở trận mạc mà lui "ề.

"ì chuyện ấy, bà con Kẻ Chợ tỏ ý bất bình "ới người Hà Lan, đến nỗi họ ngượng mặt quá, không dám bước ra khỏi cửa.

Mà ở Hội An, bà con xứ Nam, cũng biết cười người Hà Lan hèn nhát, "à đem họ ra làm câu chuyện diễu cợt, khiến họ càng tức thêm.

Sự báo thù tuyết hận lại càng bức bách.

Liên tiếp mấy năm có "iệc xung đột "ới người Hà Lan, chúa Nguyễn tất liệu trước mọi sự bất trắc, nên chi lúc nào cũng lưu tâm "ề mặt Hải Phòng, lúc nào cũng sẵn sàng nghênh địch.

Khoảng cuối năm 1643 (ngay hồi tháng Mười bước qua tháng Mười một, năm Quý Mùi ta), ba chiếc binh thuyền hạng đại - lần này là chiến thuyền hẳn hoi, chứ không như lần trước, chỉ là thuyền buôn mà có "õ trang nhiều ít - kéo đến đánh xứ Nam ta.

Ba chiến thuyền này từ căn cứ hải quân Hà Lan ở Jambee (Sumatra, cù lao to nhất trong nhóm Nam Dương quần đảo) tiến phát; tuy không thấy sử sách nào cho biết binh số bao nhiêu, khí giới những gì, nhưng chắc là đầy đủ lắm. "ì nhà đương cuộc Hà Lan phái đi đánh báo thù, để giữ lấy uy tín "à thể diện một nước hùng cường phương Tây, hẳn không phải chuyện chơi.

Tổng tư lệnh là Đề đốc Pierre Baeck.

Đoàn tàu chiến Hà Lan - phải gọi là tàu chiến mới đúng, so sánh "ới chiến thuyền ta - đến cửa bể thì gặp ngay sáu chục chiếc thuyền trận bé nhỏ của ta xông ra "ây đánh. Tướng chỉ huy tức là Thế từ Dũng Lễ hầu, con Công Thượng "ương, hiện giữ trọng chức Trấn thủ Quảng Nam.

Mặc dầu bên địch khạc đạn như mưa, quân ta chia ra ba đạo, kháng chiến cực kỳ dũng mãnh. Những người quyết tử tiến "ào tận nơi mà chĩa súng bắn, cầm lửa đốt, chặt bánh lái, đục sườn tàu, rồi quăng thang dây thi nhau trèo lên sàn tàu dùng đoản đao mà chém quân giặc, làm chúng kinh hoảng trốn chạy tứ tung. Đánh giáp lá cà, quân ta hăng hái bội phần, không kể gì sống chết. Trên sàn tàu giặc, đầm đìa máu thịt chiến sĩ đôi bên.

Ta chỉ có tiến, không lui; chỉ có giết người hoặc để người giết.

Súng nổ liên tiếp, hòa "ới những tiến quân sĩ hò reo, tiếng trống thúc trận của Thế tử rung động một "ùng trời bể, khói lửa mịt mù.

Chiếc tàu Đề đốc, to nhất "à nhanh nhẹn nhất bị quân ta chặt gãy bánh lái, cột buồm, "à bám cứng "ào hai bên sườn mà băm bổ, đến nỗi binh sĩ Hà Lan không sao đánh lui được. "iên Đề đốc thấy tình thế không thể tẩu thoát, mà để bị bắt thì mang nhục, chỉ còn có cách châm lửa "ào thuốc súng, tự đánh chìm tàu mà chết.

Hai chiếc kia tìm đường chạy trốn.

Chiến thuyền ta đuổi theo bén gót.

Một chiếc "ì chạy tán loạn, lại "ì gãy cả bánh lái cột buồm, mất sự điều khiển, chạm "ào mỏm đá mà "ỡ đôi. Tướng sĩ còn sót trên tàu, đều bị ta bắt sống.

Còn chiếc kia trải qua thiên nguy "ạn hiểm "à nhờ trời tối mới được tẩu thoát chạy ra ngoài Bắc.

Giáo sĩ A. de Rhodes kể chuyện rằng chúa Trịnh thấy Hà Lan bại trận, hết sức phẫn nộ, truyền lệnh cho các cửa bể xứ Bắc không được tiếp rước chiếc tàu thoát hiểm kia, cũng không được cứu giúp lương thực cho nó. Rồi sau trận này, Công Thượng "ương xẻo mũi cắt đầu người Hà Lan, kèm theo bức thư "ắn tắt, gửi ra làm quà cho chúa Trịnh, như đoạn trên đầu đã nói.

Nhưng tại sao chúa Trịnh lại phẫn nộ, rất đỗi là đóng cửa bể "à cấm giúp lương thực cho chiếc tàu Hà Lan bại trận? Tại sao chiếc tàu ấy lại chạy ra Bắc?

Có lẽ người Hà Lan đánh xứ Nam chuyến này là theo lời hứa hẹn cứu giúp chúa Trịnh chăng? Có lẽ họ đã khoe khoang hải quân một cách thái quá, mà rốt cuộc thảm bại như thế, khiến cho chúa Trịnh thất "ọng mà hóa bất bình chăng? Chiếc tàu Hà Lan thua trận không chạy đi đâu mà chạy ra Bắc, là nơi gần nhất, hình như muốn nương náu "ào căn cứ một nước bạn mình, để sửa sang buồm lái "ậy. Mấy "iệc ấy tất có liên lạc quan hệ "ới nhau, tỏ ra người Hà Lan diễu "õ dương oai mà chịu lấy trận bại nhục này, có thể "ì cái động cơ muốn giữ lời hứa trợ chiến họ Trịnh, chứ không những báo thù chúa Nguyễn mà thôi.

Dù sao, chiến thuyền mỏng manh của thủy quân ta đánh thắng được tàu chiến kếch xù một nước Tây dương hùng cường lúc bấy giờ, chúa Nguyễn "à tất cả đồng bào Thuận Quảng, thật quả có quyền tự hào là một trận hải chiến "ừa thống khoái, "ừa anh dũng nhất trong lịch sử, nếu đem sánh "ới trận Bạch Đằng giang.

Cái chiến công ấy ghi mãi trong trí nhớ của người "iệt Nam ở Đàng Trong, mỗi khi gặp người ngoại quốc, luôn luôn đem ra làm một giai thoại ở trước khói thuốc chén trà. Những người Tây dương đến nước ta cách bốn năm chục năm sau, như giáo sĩ "achet, thương nhân Anh - Pháp là Bowyear "à Poi"re, còn được nghe kể chuyện như mới xảy ra hôm qua "ậy. Các ông này "iết nhật ký đều tự thuật rõ ràng, nhất là giáo sĩ "achet, người rất thông thạo công "iệc miền Nam nước ta.

Giờ ta hãy nghe mấy người nhân chứng ngoại quốc "ề "ụ Hà Lan hải chiến xem sao?

Theo như giáo sĩ "achet thì nơi giao chiến tức là "ịnh bể Đà Nằng. Một trong ba chiếc tàu chiến Hà Lan đậu ngay ở cửa bể; còn hai chiếc đã "ào tận bên trong, đợi thủy triều lên thì tiến thắng "ào sông Hàn. Ta xem họ đợi thủy triều đủ biết là hạng tàu chiến lớn, "à quyết tiến đánh "ào Hội An, bắn phá thành trì quan trấn thủ Quảng Nam cùng các cơ quan quân sự của ta. Khỏi nói, cũng hiểu mục đích họ là ra oai trả thù, nhân dịp cứu thoát những người họ đang bị giam trong nước ta. Nhưng không để cho giặc thâm nhập trọng địa, thủy quân ta do Thế tử Dũng Lễ hầu chỉ huy "à Tôn Thất Trung tiếp ứng, xông ra tận ngoài bể mà tấn công trước. Giáo sĩ "achet nói chỉ có sáu chiến thuyền xứ Nam lăn xả "ào chiến đấu, khéo "ận dụng chiến thuật bao "ây công kích, hạ được hai tàu chiến Hà Lan ở gần bờ bể nhất; còn chiếc thứ ba thì bỏ chạy thoát.

Nhà buôn Bowyear, người Anh, thì bảo chiến trường ở ngoài biển khơi, giữa khoảng "ịnh biển Đà Nẵng "à cửa sông đi "ào thành Huế. Hai bên đánh nhau suốt ngày, kết quả chiếc to nhất trong ba tàu chiến Hà Lan bị đánh chìm. Thuyền chiến xứ Nam tổn hại mất bao nhiêu tất cả thì ông không rõ. Nhưng ông đồ chừng tổn hại tất nặng lắm, cho nên chúa Nguyễn nổi xung, sai điệu hơn ba chục thương nhân Hà Lan - trong số đang bị giam ở Quảng Nam - ra Huế để chém giết đền bù cho được hả giận. Song triều thần tâu rằng họ là những người buôn bán, không lẽ phải chịu trách nhiệm "ề hành "i của bọn lính thủy dưới tàu chiến. Nhờ thế, chúa Nguyễn nguôi lòng; năm sau cho cả bọn đáp thuyền buôn của người Tàu mà "ề Nam Dương.

Đến nguyên do trận đánh này, Bowyear làm tờ báo cáo "ới thượng cấp mình ở Ấn Độ, thì có hai thuyết khác nhau. Thuyết này bảo tại trước đấy ít lâu; một chiếc thuyền buôn Hà Lan ghé "ào bến Hội An, chúa Nguyễn truyền lệnh cho quan trấn thủ Quảng Nam sai lính xuống khám xét dưới tàu, xem có lén chở người Bắc "ào chăng, "ì người Bắc thuở ấy là cừu địch của ông.

Nếu chở người Nam thì là trái phép, "ì ông "ẫn nghiêm cấm dân mình trốn đi ngoại quốc. Nhưng người Hà Lan phản kháng sự khám xét, "ì đó mà hai bên sinh ra xích mích.

Còn thuyết khác thì nói tại có một lần, thủy thủ Hà Lan cãi nhau "ới người bản xứ ở cù lao Chàm, rồi họ ỷ mạnh bắt cóc một số đem xuống tàu, kéo buồm đi mất.

"iệc này quả có ghi chép trong nguồn tài liệu của người Hà Lan; trên đã có đoạn nói tới.

Duy có giáo sĩ "achet thì cho nguyên nhân sâu xa, tức là "iệc từ 1641, bọn thương nhân Hà Lan đã tự do tra tấn đánh đập tới chết một người bản xứ làm công trong cửa hiệu Hội An; "ì thế mà gây nên công phẫn, đến nỗi cửa hiệu bị đốt phá, bảy trong số chín người Hà Lan bị chém giết, còn tiền bạc, hàng hóa, bàn ghế, ở hiệu đều bị quăng cả xuống bể. Cuối năm 1643, họ phái tàu chiến đến đánh xứ Nam là cốt báo thù đấy thôi.

Mãi hơn năm chục năm sau, Pierre Poi"re thương nhân Pháp, mới đặt chân đến Quảng Nam, "ẫn còn nghe nói chuyện ấy. Trong tập ký sự của ông ta cũng có kỹ thuật, nhưng không khỏi có nhiều chỗ sai lầm thất thố, là "ì thời gian đã cách khá lâu rồi, ta không lấy gì làm lạ. Ông nói người xứ Nam có trỏ cho xem mấy khẩu đại bác Hà Lan đã bị Nam quân lấy được trong trận hải chiến thắng lợi ấy "à còn giữ nguyên để làm kỷ niệm.

Theo những nguồn tin đã kể trên đây, thì giữa thế kỷ 17, thủy sư ta chiến thắng tàu trận Hà Lan là một "iệc hiển nhiên "à thống khoái trong lịch sử không còn phải nghi gì nữa.

Độc giả hẳn muốn biết hình thù một chiếc thuyền chiến của ta ngày trước ra sao, mà lại đánh nhau "ới tàu chiến một cường quốc "à được phần thắng lợi lạ lùng như thế. Chỗ này chúng tôi lại phiền đến sự mục kích của giáo sĩ "achet.

- "Một chiếc thuyền chiến Annam tầm thước không có đâu cao lớn như chiến thuyền của các nước Tây dương chúng ta. Nội dung chẳng rộng bằng, mà thân hình nó cũng khác hẳn. Bên trong sơn son đỏ chói, ngoài thì sơn đen lóng lánh "à thếp "àng trông rất đẹp mắt.

Mỗi bên có ba chục mái chèo; mái chèo cũng sơn thép "àng, buộc "ào một khoen sắt, thành ra lâm khi cần dùng, người lính thủy có thể buông tay chèo thấm thoát mà không trở ngại gì, nắm lấy khí giới để sẵn bên mình giao chiến "ới quân địch. Khí giới ấy gồm có một khẩu súng tay, một ngọn mác, một con mã tấu, một cây cung "à túi đựng tên.

Người lính thủy kiêm cả "iệc chèo thuyền "à đánh giặc. Khi chèo, họ đứng hướng mặt "ề phía mũi thuyền, chăm chú nhìn theo cử động của "iên chủ tướng đứng ở đấy. Chủ tướng cầm gươm tuốt trần trong tay, ra hiệu lệnh cho quân lính thế nào, lập tức họ tuân hành như thế. Không cần phải truyền phải bảo bằng lời nói, thanh gươm huy động tức là hiệu lệnh, quân lính làm theo răm rắp, mau lẹ không thể tưởng tượng, là "ì họ đã rèn tập thông thuộc lắm.

Trên mũi thuyền đặt ba khẩu thần công, hai bên sườn hai khẩu. Lâm trận, mỗi thuyền chờ một cơ lính, thêm nhiều cai đội phụ theo, để chỉ huy tác chiến".

Còn người Hà Lan "à tàu trận của họ thuở ấy thế nào?

Ta thử nghe ông Maybon thuật lại câu nói sau đây của một "ị Tổng binh Tàu ở Quảng Đông, năm 1717, ngỏ ỷ kinh khiếp người Hà Lan:

- "Họ hung dữ "à khó chịu hơn hết mọi người. Giống như bầy hổ lang, đi đâu gieo sự khủng khiếp tới đó. Để chân "ào đất nào, họ tìm đủ cách để làm chủ đất ấy. Tàu trận của họ thật là dày dạn phong ba bão táp. Trên mỗi chiếc tàu đặt trăm khẩu đại bác là ít. Chẳng ai có thể chống cự họ được."

(Ils sont les plus méchants et les plus intraitables de tous les hommes. Semblables à des tigres et des loups féroces, ils jettent l’effroi partout. Dès qu’ils ont abordé à quelque terre, ils cherchent les moyens de s’en rendre maîtres. Leurs "aiseaux sont à l’épreu"e des tempêtes. Chacun porte au moins 100 canons. Personne ne peut leur rêsiter).

Ấy thế mà thủy sư chiến thuyền bé nhỏ của "iệt Nam, năm 1644, đã cự địch Hà Lan "à thắng trận đấy. Trong tập ký sự Di"ers "oyages của cố Alexandre de Rhodes là người đáng tin nhất, đã "iết mấy câu phán đoán như "ầy:

"Người Hà Lan đã phải thiệt thòi mà được kinh nghiệm rằng những chiến thuyền nhỏ của "iệt Nam có thể công kích mà thắng nổi những tàu khổng lồ của họ; bấy lâu nhờ có tàu ấy họ "ẫn tự phụ là chúa trùm trên bể".

(Les Hollandais ont expérimenté à leur préjudice qu’elles (les galère annamites) peu"ent attaquer a"ec a"antage leurs grands "aiseaux a"ec les quels ils se croient les maîtres de la mer).

--------------------------------

1

Đoạn này thấy trong tập ký sự của cố Alexandre de Rhodes, người Pháp, sang truyền giáo ở nước ta giữa thế kỷ thứ 11, đã có công sửa sang chữ quốc ngữ, "à rất thông thạo công "iệc nước ta hồi bấy giờ.

2

Ông Nguyễn Phúc Lan ở ngôi 13 năm đến năm Giáp Thân là năm thứ 9.

Đời Lê, ta tự chế ra đồng hồ có máy

Lúc ấy các trại lính và đồn canh cửa bể đều có đồng hồ chuông tự mình chế tạo lấy. Người Tây Dương phải kinh ngạc vì tài bắt chước của ta: làm được đồng hồ báo thức giống hệt kiểu Tây.

Các cụ chúng ta đời xưa, hằng ngày muốn lần theo bước chân thời khắc xem đi tới đâu, chẳng qua một vài thói quen tương truyền, một vài sự kinh nghiệm không lấy gì làm chắc. Dù có khí cụ bày ra, cũng là thứ khí cụ đơn sơ, nhiều chỗ thất thố.

Trong dân gian chỉ có mấy phương pháp thông dụng nhất, đại khái là nghe gà gáy trông canh, xem mắt mèo lá khế, hay là ban đêm trông sao, ban ngày đo bóng là cùng. Trừ ra ở chốn triều đường và mấy nhà quyền quý mới có khí cụ xem giờ gọi là "Lậu hồ" hay đồng hồ giọt nước, phát minh từ đời Đường - Tống, người Tàu đem sang bán cho ta dùng. Khí cụ này rất đơn giản, chỉ gồm có ba cái hồ nhỏ, hình vuông để cao thấp chênh nhau; hồ trên hết đựng nước, rỉ lần hồi từng giọt một xuống hai hồ dưới, truyền đến một hồ tròn và để thấp nhất; trong ấy cắm cây thẻ ghi số giờ khắc, nước dâng lên đến ngấn nào tức là giờ đó. Vì cái hồ nước làm bằng đồng, cho nên cổ nhân đặt tên là đồng hồ. Đến sau có cái máy phân giờ chỉ phút của Tây phương đem qua, người mình nhân sẵn tên cũ, gọi ngay là đồng hồ rồi thành tiếng quen vậy.

Mãi cuối thế kỷ 16, đồng hồ gõ chuông và có máy của Tây phương mới truyền sang Đông.

Nó đi theo chân các giáo sĩ thuộc về dòng Tên (Compagnie de Jésu).

Giáo đoàn này gồm toàn những học thức thông thái, nhất là về thiên văn, toán pháp. Các ông lập nguyện đi sang Đông Á truyền đạo Thiên Chúa và đem văn hóa khoa học mới của phương Tây qua gieo rắc luôn thể; lấy khoa học làm môi giới, làm chìa khóa mở cửa cho được lọt vào xã hội các xứ phương Đông để truyền đạo Chúa. Bởi vậy, trong hành lý của ông nào cũng có những sách chuyên môn toán học, có hình quả địa cầu, có ống nhòm thiên văn và ít nhiều món cơ khí kỹ xảo bên Tây mới phát minh, đồng hồ chuông là một.

Lúc thoạt đến mỗi xứ, các ông đem đồng hồ hình đại cầu làm món quà tiến dẫn, cốt kính biếu vua quan sở tại, hầu được ở yên làm việc. Đương thời, một chiếc đồng hồ có máy chạy tích tắc, mấy giờ gõ mấy tiếng chuông, đủ làm sửng sốt dân cư những xứ chưa hề hiểu biết khoa học là gì. Lâu dần, các ông thừa dịp trổ tài đoán trúng nhật thực, nguyệt thực rồi vì người ta sửa sang phép làm lịch. Đạo Thiên Chúa đi đôi với khoa học, mở đường đặt móng ở phương Đông ta từ đấy; có thể nói đồng hồ Tàu, tức là viên gạch đầu tiên.

Theo sách "Tục Thông Khảo" của chiếc đồng hồ chuông thứ nhất từ bên Tây sang Trung Quốc vào khoảng năm 1600, đời vua Minh Thần Tôn niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 28, do giáo sĩ Lợi Mã Đậu - Mathieu Ricci - người Ý, đem dâng nhà vua ở Bắc Kinh. Khi dâng, ông chỉ bảo cách thức lên giây và xem giờ thế nào, Thần Tôn lấy làm lạ và thích ý vô cùng, để trong nội điện, cắt riêng bốn tên thái giám chuyên việc săn sóc. Cách độ mươi lăm ngày, mấy cậu vặn vẹo thế nào không biết, đồng hồ lại chạy sai hoặc hỏng chuông một lần; vua sai đem ngựa trong chuồng ngự đi mời thầy đạo sĩ Tây vào tận cung cấm để chữa lại.

Nếu ai để ý trong khi xem sách lịch sử truyền đạo ở nước Nam ta buổi đầu, có thể nhận biết cả ngày tháng một chiếc đồng hồ Tây đặt mình vào xứ Bắc trước tiên: mùng 2 tháng 7 năm 1627.

Người đưa nó đến không phải ai lạ, chính là cố Alexandre de Rhodes, có công sửa sang quốc ngữ ta trở nên văn tự, cùng đi với cố Marquez.

Lúc ấy Trịnh Tráng làm chúa, đem quân thủy bộ vào đánh chúa Nguyễn, bị bại trận trở về. Hai vị giáo sĩ vừa mới đến Kẻ Chợ (Hà Nội) chân ướt chân ráo, được nghe tin như thế trong lòng không vui. Chẳng những không vui, còn lo sợ cho mình nữa. Sợ chúa Trịnh mê tín nghe lời dèm pha, đổ lỗi tại có hai cố mà bại trận cũng nên. Vì lẽ tín ngưỡng trái nghịch phần nhiều nhà nho cùng phái sãi vãi, vẫn hùa nhau ghét đạo Hòa Lan (đời Lê, người gọi đạo Thiên Chúa là Hòa Lan đạo), thường hay bịa chuyện để hãm hại các giáo sĩ Tây Dương và ngăn trở công việc truyền giáo. Đến nỗi có thiên tai nhân sự gì phát ra, ví dụ trời làm đại hạn, dịch lệ, có bận hỏa tai đốt cháy hết mấy phường phố Kinh thành, người ta vớ ngay cơ hội dèm pha với chúa Trịnh rằng: Tại để thầy tu ngoại quốc tự do ở trong xứ truyền đạo Gia-tô, cho nên Trời Phật các ngài hành phạt ta thế đấy. Mỗi lần, vì nể dư luận, nhà cầm quyền ta lại phải thọc cây gậy vào bánh xe tôn giáo mới, bắt buộc các cố đạo hãy tạm đình công việc ít lâu. Phe cừu địch còn đông, nay chúa Trịnh Tráng mới thua trận về, họ cũng đặt gánh trách cứ lên vai tôn giáo không chừng. Vì vậy, hai cố Alexandre de Rhodes và Marquez lo sợ.

Muốn mua lòng chúa Trịnh, hai cố đưa dâng đồ hình quả đất của nhà bác học Euclide mà các giáo sĩ bên Tàu đã dịch ra chữ Hán, có vẽ hình và chú thích rõ ràng.

Chúa Trịnh xem rất chú ý, nhưng có nhiều chỗ mới lạ không hiểu liền vời hai cố xuống tận thuyền ngự cắt nghĩa và hỏi chuyện Tây Dương. Nhân tiện hai nhà truyền giáo nói về đạo lý Thiên Chúa, tuy chẳng thuyết phục được Trịnh Tráng, nhưng cũng gieo được mầm mống tốt vào tâm não một viên thị vệ đứng bên nghe chuyện, rồi sau người ấy chịu phép rửa tội.

Giữa cuộc hội đàm lần thứ nhất ấy, cố Alexandre de Rhodes biếu chúa Trịnh một chiếc đồng hồ treo có chuông. Vì cố nói tiếng An Nam thành thạo, nên có thể chỉ vẽ máy móc và cách dùng cho chúa Trịnh nghe:

- Thưa ngài, đồng hồ này bên Tây chúng tôi mới chế tạo ra ít lâu, đến mấy giờ thì tự nó đánh bấy nhiêu tiếng chuông báo cho ta biết. Đấy kim ngắn chỉ giờ kim dài chỉ phút.

- Ồ, tài nhỉ!... Còn những chữ ghi trên mặt tức là tí, sửu, dần, mão bên nước các ông viết 12 chi như thế phải không? - Chúa Trịnh hỏi.

- Thưa không! Đây là những chữ số Roma từ 1 đến 12. Mỗi khi kim phút trỏ vào ngay số 12 này và kim giờ chỉ vào số 5 chẳng hạn, thì chuông gõ 5 tiếng, ngày đêm không hề sai.

Món quà mới lạ đổi ngay cảm tình của người được biếu. Chúa Trịnh cho phép hai cố ở lại truyền đạo trong phạm vi thế lực của mình.

Cố Alexandre de Rhodes bảo đấy là chiếc đồng hồ chuông treo đem đến xứ Bắc đầu tiên.

Ta nên để ý: "Đến giữa năm 1627, xứ Bắc mới thấy xuất hiện kiểu đồng hồ treo có đánh chuông". Thế thì trước thời kỳ ấy, dễ thường đã có kiểu nào khác đem tới rồi chăng; ví dụ kiểu đồng hồ đứng và không gõ chuông, chẳng hạn. Điều đó, chúng tôi không muốn hàm hồ quyết đoán, vì thiếu tài liệu. Nhưng cứ xem vẻ chúa Trịnh sửng sốt khi thấy cái máy chỉ giờ của hai thầy đạo sĩ ngoại quốc làm quà, khác hẳn thứ "lậu hồ" rỉ từng giọt nước mình vẫn quen dùng, đủ tỏ ra đến lúc bấy giờ thật là lần thứ nhất Thanh Đô Vương (tước của Trịnh Tráng) nhận biết một chiếc đồng hồ máy từ Tây Dương đem lại.

Phàm món gì đã từng thấy qua, không khi nào người ta lại trầm trồ lấy làm lạ!

Duy có Đàng Trong, nghĩa là từ hữu ngạn sông Ranh ở Quảng Bình trở vào, phần đất thuộc quyền chúa Nguyễn cai trị, người Tây Dương qua lại nước ta hồi thế kỷ 17, 18, quen gọi Cochinchine, có lẽ được thấy đồng hồ máy nhập cảng sớm hơn.

Vì Đàng Trong nước ta mở cửa cho tôn giáo và thương khách Tây Dương vào trước. Sử sách truyền đạo đặt thời kỳ các cố dòng Tên bắt đầu mở đạo ở xứ ta vào năm 1615. Từ ngoài bể đến, bao giờ giáo sĩ cũng thuận đường ghé vào Đàng Trong trước, rồi mới ra Đàng Ngoài. Vẫn biết trước thời kỳ ấy mấy chục năm, đã từng có các cố thuộc về giáo đoàn khác (Franciscains, Dominicains) đến nước Nam rồi, nhưng chỉ có mục đích giảng đạo; về sau các cố dòng Tên lại vì cả mục đích truyền bá văn minh khoa học phương Tây, cho nên chịu khó đem những sách hay máy lạ của phương Tây mới phát minh trong lúc bấy giờ, để mở đường gõ cửa hộ tôn giáo. Mà thích dụng và hợp thời nhất là các sách thiên văn đã dịch ra chữ Tàu và đồng hồ máy.

Vả lại, thương nhân còn đến trước giáo sĩ. Thuở ấy, xứ Bắc chưa có chỗ nào thật là thương cảng cho khách buôn ngoại quốc, thì Đàng Trong đã có Hội An, mở ra từ khoảng 1585. Ban đầu, chỉ có người Tàu, người Nhật buôn bán; sau đến người Bồ Đào Nha, người Hòa Lan tụ tập, thành ra một thương trường đông đúc, vui vẻ. Chả lẽ nào những lái buôn Hòa - Bồ kia lại không biết đầu cơ trục lợi, đem đồng hồ qua, dù không để làm thương phẩm thì làm tặng phẩm cho ông địa chủ, tức là chúa Nguyễn để ông cho họ sinh nhai?

° ° °

Dù sao mặc lòng, tiền nhân chúng ta khi sống ở khoảng đầu thập thất thế kỷ (17), khi được đứng trước một đồng hồ Tây mới đem sang, nghe nó chạy tích tắc rất đều và chốc chốc lại tự gõ chuông, mấy giờ gõ đủ mấy tiếng, chắc phải trố mắt giật mình, cho là quái vật. Không khéo có cụ nghĩ là bên trong có ma xó hay yêu tinh mà thầy phù thủy cao tay đã làm bùa phép sai khiến, cho nên miếng sắt, miếng đồng mới hoạt động được thế. Các cụ không thể tưởng tượng là một bộ máy tự óc người Tây Dương vừa phát minh chế tạo ra, chưa được bao lâu thì truyền sang đến ta.

Thế mà mấy chục năm sau, có người Việt Nam, chỉ với tài riêng và khí cụ mộc mạc, bắt chước làm được một chiếc đồng hồ giống hệt như anh em song sinh với thứ chế tạo bên Tây, bởi máy móc sản xuất.

Ấy đó mới thật là sự đáng kinh dị.

Nhất là thời đại bấy giờ, ta mới nhất sơ tiếp xúc với người phương Tây, nào đã biết khoa học cơ xảo của người ta là gì? Nào đã được học thầy phương Tây hơn ba phần tư thế kỷ và có hàng trăm kỹ sư bác sĩ như ngày nay?

Chính một người phương Tây tận mắt chứng kiến, trước hết lấy làm kinh dị, sau rồi chép sách để lại, không thì đời sau có ai biết đâu.

Người ấy là ông cố đạo Bénigne Vachet.

Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong nước ta giữa đời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687), luôn mười lăm năm khi trú tại Hội An, khi ở kinh đô Huế, được nhà đương cuộc ta trọng đãi vì ông tinh thông cả nghề thuốc. Có lần, chúa Hiền vời ông lại kinh để trị bệnh nguy cấp cho một vị hoàng thân mà bao nhiêu ngự y và thầy lang khách đã bỏ chạy cả. Ông bảo phải mổ, nhưng người ta không nghe, vì nhớ lời họ Khổng dạy rằng: "Thân thể, tóc da của cha mẹ cho, không được hủy thương".

Thân cận với nhiều người bản xứ, ông xem xét tâm tính và năng lực của họ từng ly, từng tí, về cạnh tốt cũng như cạnh xấu, rồi ông nhận thấy người An Nam có đủ tư chất thông minh không kém gì ai.

Nhân tiện ông kể một việc chính mắt đã trông thấy tận nơi và chiêm nghiệm rất kỹ lưỡng, chứng tỏ ra người xứ này mới thấy kỹ nghệ của người phương Tây lần đầu, đã tò mò bắt chước một cách tài khéo thế nào?

Chúng tôi thuật chuyện sau đây, theo như lời ông ghi chép trong sách để lại, năm nọ cố Cadière đã lục đăng vào tập kỷ yếu của Ủy ban Khảo cổ Đông Dương.

Nguyên hồi ông ở Huế mấy năm, chúa Hiền thường triệu vào vương phủ hỏi han về công việc Tây Dương. Có lần, ông nhận được một chiếc đồng hồ báo thức vỏ bạc, gửi mua bên Tây mới đem qua, liền đưa vào kính biếu chúa và chỉ bảo cách dùng cẩn thận.

Cách mấy tháng sau, người thợ bạc trong vương phủ ngồi táy máy tháo tung đồng hồ ra xem làm gãy khấc một bánh xe răng cưa, thành ra đồng hồ không chạy được nữa. Chúa Hiền sai người bảo cố Vachet rằng đồng hồ ngài tặng độ trước hỏng mất rồi.

Ông lấy đồng hồ đem ra nhà trọ xem hỏng ở chỗ nào để chữa lại.

Chủ nhà trọ là một người bản đạo, cũng làm nghề thợ bạc. Trước mắt anh ta, ông tháo máy đồng hồ ra xem và chỉ bảo cho biết hư hỏng tại đâu:

- Ồ! Gãy mất một răng cưa thế này, hèn gì đồng hồ chẳng chết.

Người thợ bạc ấy cầm lấy bánh xe gãy răng, ngắm nghía giây lát, rồi nói:

- Trời ơi! Tưởng là hỏng thế nào, chứ có thế này thôi, thì con chữa được ngay.

- Anh chữa thế nào được? - Ông Vachet hỏi.

- Thưa Cha, chỉ có việc làm một bánh xe răng cưa mới giống hệt cái đã gãy thì được chứ khó gì! - Anh thợ bạc trả lời.

- Hừ! Chuyện máy móc tưởng đâu trò chơi. Phải biết ở bên Tây, người ta có máy đúc, máy cưa, máy bào, máy tiện, bao nhiêu công phu mới làm nên được cái bánh xe thế này, anh nghĩ dễ dàng đấy hẳn? Đừng hòng làm cho mất công.

- Cứ để con làm thử cho Cha xem! - Anh thợ bạc nói cách quả quyết.

Chỗ này, cố Vachet viết: "Tôi mất công giảng giải vì những lẽ gì hắn không thể nào làm được, nhưng hắn chẳng nghe. Thật sự, tôi không tin rằng một người thuở này chưa nghe nói máy móc đồng hồ bao giờ mà lại làm nổi bánh xe răng cưa.

Bảo rằng hắn làm thành công thì chưa thật là đúng. Chẳng những hắn làm được chiếc bánh xe ấy thôi, mà còn lại chế tạo một đồng hồ nguyên vẹn nữa mới kỳ.

Độ 23, 24 ngày sau, hắn đặt vào tay tôi hai chiếc đồng hồ giống nhau làm sao, đến nỗi mắt nhìn không thể phân biệt cái cũ với cái mới, giá như không phải chính mắt trông thấy, thì tôi tưởng chừng mình nằm mộng, không khi nào tin được. Hai đồng hồ lại chạy đúng như nhau".

Thì ra, với khối óc thông minh và có hoa tay tinh khéo, anh thợ bạc nhà ta đã bắt chước máy đồng hồ Tây, tự chế ra một chiếc giống y như thế. Cố Vachet phải nhìn nhận rằng người An Nam thật có tư chất tốt về nghệ thuật và khoa học. Không trách xưa nay, họ thấy bên Tàu bên Nhật có gì mới lạ, nếu có vật liệu sẵn sàng, họ cũng bắt chước làm được như của người ta, không kém gì mấy.

Ta có thể nhìn anh thợ bạc vô danh ấy chính là tiên phong cơ xảo phương Tây ở đất nước nhà. Anh đã chứng tỏ khoa học máy móc tuyệt nhiên chẳng phải cửa cấm ở trước trí khôn bắt chước của người Việt Nam.

Có người tiếc hộ tài nghệ cho đến danh tính anh ta cùng bị đắm chìm trong đêm tối quần chúng, chẳng ai biết đấy là đâu. Trái lại, ví phỏng tài nghệ ấy được giúp đỡ đến nơi, cái gương bắt chước ấy được khuyến khích, thì kỹ nghệ máy móc ở nước nhà đã xây nền đắp móng từ cuối thế kỷ 17 cũng nên. Nếu được thế thì nước mình đã Tây hóa, nói đúng là khoa học hóa, sớm sủa hơn hai trăm năm và trước tất cả các nước quanh miền Đông Á.

° ° °

Nhưng chúa Nguyễn trấn thủ miền Nam lúc bấy giờ, đêm ngày lo chống cự họ Trịnh là thế thủ ở phía ngoài và mở mang bờ cõi ở Đàng Trong, không còn ngày giờ tâm trí nào để vào chuyện kỹ nghệ, cũng chẳng nhìn vào văn minh khoa học phương Tây mới nhóm lên và sắp có thể bay nhảy vồ nuốt thiên hạ.

Có điều riêng về kỹ nghệ đồng hồ, chắc hẳn đương thời đã biết rõ ích lợi, cần dùng. Chẳng biết có phải là vang bóng của anh thợ bạc tài hoa kia hay không, chỉ biết từ năm 1733 trở đi, nhiều nha môn, công sở thuộc về trị quyền chúa Nguyễn đã treo đồng hồ kiểu Tây, mà đồng hồ ấy tự ta làm lấy.

Sách Đại Nam thực lục tiền biên tức là sách sử biên chép công việc họ Nguyễn khi còn làm chúa Đàng Trong, quyển thứ 9, về đời chúa Nguyễn Phúc Trú (1725 - 1736) có đoạn chính văn như sau này:

- Quý Sửu năm thứ 8, mùa xuân tháng Giêng, lại đặt đồng hồ ở các dinh và các đồn canh Vũng Tàu ven bể.

Ta nên để ý chữ "lại", tỏ ra lúc trước ở các dinh cùng các đồn ven bể đã đặt đồng hồ, nhưng rồi bãi đi, bây giờ thấy cần dùng, nên phải đặt lại. Các dinh tức là các tỉnh. Thuở ấy, phần đất chúa Nguyễn từ Quảng Bình trở vào miền Nam gồm có 12 dinh, kể cả ba dinh Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, nam Trung Bộ và ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (tức Nam Kỳ ngày nay). Mỗi dinh có quan trấn thủ làm đầu. Nhà nước cho mỗi dinh đều có đồng hồ, chắc là treo tại công trường Trấn Thủ cho tiện việc quan; cũng như ở các bến tàu cửa bể, cho biết giờ khắc tuần phòng và kiểm xét thương thuyền lui tới vậy.

Nhưng kiểu đồng hồ ấy thế nào?

Muốn cho đời sau khỏi nhầm lẫn với kiểu đồng hồ giọt nước thuở xưa, nhà chép sử chú thích rất tường tận:

"Đồng hồ ở quốc triều ta lúc đầu, bắt chước cách thức của Tây Dương mà làm ra gọi là tự minh chung (...) Bề cao độ một thước; mặt tiền là một tấm đồng lá, chính giữa có vòng tròn, chung quanh khắc giờ: Ngọ ở trên, Tí ở dưới, Mão bên đông, Dậu bên tây.

Thời gian chia ra 8 can 4 duy (...). Ngôi thứ kể bắt đầu từ Đinh là số một, khắc một vạch thẳng; Mùi số hai; Khôn số ba, đếm xuôi mãi cho đến Tí, số mười hai. Lại từ Quý bắt đầu số một; Sửu số hai; Cấn số ba, đếm ngược tay trái từ dưới lên trên đến Ngọ là mười hai. Bên cạnh ghi 24 giờ, mỗi giờ 4 khắc, quanh khắp vòng tròn vạch ngấn 96 khắc.

Chính giữa mặt đồng hồ có hai cây kim. Một kim nằm trong, to mà ngắn, để chỉ giờ, chỉ khắc; một kim nằm ngoài nhỏ và dài hơn, để chỉ phân, chỉ phút.

Phía sau đồng hồ đậy một lá sắt mỏng; hai bên tả hữu cũng che đồng lá.

Bên trong đồng hồ, bốn góc cắm dây trụ đồng, chính giữa năm cây; bánh xe cũng tiện bằng đồng, lớn nhỏ có cả thảy 15 chiếc; trong số ấy có 3 bánh xe to có trục xuyên ngang. Cả bánh xe lẫn trục đều có răng cưa bám lấy nhau, lúc máy chạy thì bánh này cọ xát đưa đẩy bánh kia.

Trên có một quả chuông lớn, sáu quả chuông nhỏ; một dùi đồng để gõ chuông lớn và sáu dùi khác để gõ chuông nhỏ.

Người ta phải làm cái giá, bề cao 5 thước, để đặt đồng hồ lên trên. Rồi lấy ba sợi dây thừng, kết bằng tơ luồn vào trong ba cái trục bánh xe lớn và thả xuống dưới: dây ở giữa hơi ngắn, còn dây hai bên thì dài hơn. Mỗi đầu dây đều buộc một cục chì nặng 6 cân; đầu kia thì buộc một cục chì nhỏ, nặng 1 lạng 7 phân, cốt để nó co kéo bánh xe thì đồng hồ mới chạy.

Khi nào đầu dây cục chì lớn thòng xuống cách mặt đất còn độ 1 thước thì ta đẩy nó lên để cho đầu dây buộc cục chì nhỏ cũng thòng xuống gần đất cho đều nhau; nếu không đều thì đồng hồ không chạy được.

Mặt sau đồng hồ lại có quả đồng, treo chúc đầu xuống gọi là quả lắc (...) để kềm giữ cho sự vận chuyển của máy đồng hồ được điều hòa, không có nó thì đồng hồ chạy sai giờ khắc.

Hễ máy đồng hồ chạy đến khắc thứ nhất của giờ Đinh thì quả chuông nhỏ đánh một hiệp, khắc thứ nhì gõ hai hiệp, khắc thứ ba gõ ba hiệp, khắc thứ tư gõ bốn hiệp. Đến khắc thứ tư, tức là đúng giờ Mùi, bấy giờ quả chuông lớn đánh boong boong hai tiếng. Đến các giờ khác cũng thế: giờ Khôn chuông đánh 3 tiếng, giờ Thân 4 tiếng, rồi Canh 5, Dậu 6, Tân 7, Tuất 8, Càn 9, Hợi 10, Nhâm 11, Tý 12. Đến giờ Quý thì quay lại như giờ Đinh, chuông đánh 1 tiếng, tới giờ Sửu 2 tiếng, Cấn 3, Dần 4, Giáp 5, Mão 6, Ất 7, Thìn 8, Tốn 9, Tỵ 10, Bính 11, Ngọ 12. Mấy giờ chuông đánh đủ mấy tiếng không sai.

Trên nóc đồng hồ có nắp đậy như hình tàu lá sen. Cạnh bên hữu và sau lưng đều che bằng kính thủy tinh; còn bên tả và đằng trước cùng có cửa mở ra và đóng vào được, phòng khi cần mở để xem lại máy móc bên trong.

Ấy là hạng đồng hồ to. Còn có hạng nhỏ hơn, chế tạo cũng như kiểu trên, duy có bên trong máy móc giảm đi số bánh xe và 6 quả chuông nhỏ, bớt cả một sợi dây thừng. Thành ra thứ đồng hồ này không có chuông nhỏ để gõ từng khắc một, chỉ đến mỗi giờ thì đánh chuông lớn mà thôi, ta đo bóng mặt trời mà nghiệm, chẳng sai bao giờ".

Đấy đồng hồ nước ta lúc đầu thế kỷ 18 phỏng theo kiểu Tây mà tự chế tạo lấy, hình dạng máy móc và cách bố trí giờ khắc là thế.

Với con mắt chúng ta đời nay, đã quen nhìn nhẵn mặt - đến nỗi thuộc nhẩm trong trí - những đồng hồ hiệu Oméga, Wesminster hay hiệu nào khác cũng thế, dấu ghi giờ khắc chỉ 12 chữ số La Mã, thật là giản tiện minh bạch. Giờ xem đoạn sử chúng tôi vừa dịch trên đây, nhiều người tất thấy rối trí khó hiểu. Mà thoạt xem có rối trí khó hiểu thật.

Ngọ trên, Tí dưới, Mão đông, Dậu tây là nghĩa thế nào?

Sao đã từ Đinh bắt đầu số một; rồi lại từ Quý cũng bắt đầu là số một?

Kỳ thật đồng hồ ta tự chế tạo hồi ấy, cố nhiên hình thức và cơ quan bắt chước kiểu Tây đương thời, ngày đêm cũng chia ra 24 giờ; nhưng trên bề mặt đồng hồ ta xếp đặt số giờ theo cách riêng - có lẽ theo phương pháp của "lậu hồ" đời xưa - đại khái như hình vẽ dưới đây. Chúng ta nhận thấy từ Đinh đến Tí 12 giờ, rồi từ Quý ngược lên Ngọ cũng 12 giờ; giờ nọ cách giờ kia bốn vạch nhỏ, tức là bốn khắc.

Đời ấy, trong xứ ta cũng có đồng hồ thật chế tạo bên Tây đưa sang, mà ta mua ở thuyền buôn Tây Dương hoặc các giáo sĩ tặng hảo. Nhà chép sử không quên ghi chép để phân biệt với thứ ta chế ra. Chúng ta nên đọc cả đoạn dưới này, càng sáng nghĩa đoạn trên, nhất là về chỗ giờ khắc.

"... Lại có một kiểu, thật từ nước Tây Dương đem qua: bề cao 1 thước 5 tấc, rộng 1 thước; trên có hình ông tiên cưỡi voi, hai bên cạnh hai con rồng chầu, bốn chân đồng hồ, tức là bốn chân con voi, làm toàn bằng đồng và trạm trổ rất khéo.

Khoảng đằng trước khoét tròn, mặt đồng hồ cũng tròn và tráng men, vành ngoài khắc chữ Tây, từ 5 phút, 10 phút, 15 phút... cho đến 60 phút. Vành trong khắc số hiệu 12 giờ:

Tí Ngọ, cùng đứng ở trên, khắc số 12

Quý Đinh, cùng đứng một chỗ khắc số 1

Sửu Mùi, 2

Cấn Khôn, 3

Dần Thân, 4

Giáp Canh, 5

Mão Dậu, 6

Ất Tân, 7

Thìn Tuất, 8

Tốn Càn, 9

Kỷ Hợi, 10

Bính Nhâm, 11

Rồi lại trở về Tí Ngọ.

Kim đồng hồ cũng có cây dài chỉ phút, cây ngắn chỉ giờ y như kiểu trước. Ví dụ kim ngắn trỏ vào số 1 thì chuông gõ một tiếng; trỏ vào số 12 thì gõ 12 tiếng. Ngoài mặt đồng hồ có tấm kính thủy tinh che đậy, bên cạnh có khuy để tiện mở đóng.

Trong ruột đồng hồ, treo tấm đồng tròn, trong ngoài ba tầng, cùng đóng làm một; bánh xe lớn 2; bánh xe nhỏ 10, cùng mắc vào trục nhỏ đâm ngang và đều có răng cưa.

Trên mặt đồng hồ tráng men, gần cạnh cái trục kim giờ kim phút, có dùi một lỗ để cắm chìa khóa vào lên giây cho đồng hồ được chạy đều luôn. Sự tài khéo thật khó kể hết..."

° ° °

Xem hai đoạn sử đã dẫn trên đây, chứng tỏ ra lúc đầu thập bát thế kỷ (18), nghĩa là cách nay hơn hai trăm năm, nước mình tự chế tạo lấy đồng hồ máy, bắt chước kiểu của Tây; điều đó không còn phải nghi gì nữa.

Đáng tiếc nhà chép sử không chịu tự thuật rộng thêm, đến cả công cuộc chế tạo, để cho người đời sau được biết những đồng hồ nội hóa này, đại khái tiền nhân đã làm nên với công phu khó nhọc ra thế nào? Thành thân mỗi chiếc đồng hồ như thế tốn kém bao nhiêu? Do triều đình lập xưởng làm lấy? Hay là công nghệ của một bọn thợ khéo tay trong dân gian? Một nghề bắt chước cơ xảo phương Tây sớm đến thế, rồi sau tại sao tiêu trầm mai một đi? Ấy là những dấu hỏi quan hệ thiết tha, khiến cho chúng ta ngày nay đọc sử không thể không lấy làm băn khoăn ân hận vậy.

Vua Gia Long trước những mắt xanh

Nhà vua nghiện rượu mà rồi chừa hẳn, không thèm nhúng môi vào một giọt nào. - Ngài tự làm kỹ sư đóng lấy chiến thuyền giống như kiểu Tây.

Lịch sử cận đại nước ta, có một thời kỳ thuận tiện cho cuộc duy tân tự cường hơn cả, ấy là thời kỳ Gia Long thống nhất.

Hình như nhiều bà con ta đọc sử, có cảm tưởng như thế; cảm tưởng của người bộ hành giữa đại sa mạc Sahara, còn ngoảnh lại nhìn phía sau lưng biệt mù, tiếc sao ở đấy chẳng mọc lên mấy cây dừa hay là đặt cái máy nước.

Nhưng mà đời ấy có nhiều bề thuận tiện thật.

Trước mắt nhà vua trông thấy: những kỹ sư võ tướng Pháp do đức thầy Bá Lộc mộ sang, như các ông Chaigneau, Vannier, Ollivier, de Forçant v.v... đã vì ta đắp thành, đúc súng, luyện quân, đóng thuyền, nhất nhất theo lối mới; một phần lớn nhờ đấy mà nhà vua thắng được kẻ địch, dựng nên cơ đồ, có phải tài hay sức mạnh của Tây phương hơn mình, thật đã bày tỏ một cách rõ rệt. Nếu nhà vua muốn xây dựng lại tòa lâu đài Việt Nam theo kiểu tân thời ít nhiều, chính là lúc cơ hội khả vi và có đến tám chín phần mười, trông được thành hiệu.

Tình hình quốc tế cũng thuận tiện, vì lúc bấy giờ khắp cả Âu châu đang bận rộn với những cuộc chinh chiến của đại đế Nã Phá Luân, không rảnh rang lo nghĩ đến việc Đông Á.

Vả lại, chính nhà vua thông minh, có nhiều đức tính tốt để làm một bậc nhân chủ duy tân. Phần nhiều người Pháp đã giúp việc ngài hoặc có dịp gần gũi, cùng nhìn nhận như thế.

Chủ ý chúng tôi cốt nghiêng về phía ấy.

° ° °

Ông cố Lelabrousse, làm chức linh mục ở địa phận Nam phần hồi cuối thế kỷ 18, được biết vua Gia Long một cách thân cận khi ngài còn là Nguyễn vương, vừa khởi binh ở Gia Định được ít lâu. Trước cặp mắt xanh của nhà truyền giáo này, chẳng những vua có tính can đảm cương quyết lạ thường, lại có trí sáng tài khéo, đến nỗi tháo tung một chiếc chiến thuyền Tây dương ra mò xem kiểu cách, rồi tự chế tạo lấy một chiếc mới, không khác tí nào.

Trong một bức thư đề ngày mùng 1 tháng 5 năm 1800, gửi về cho các ông giám đốc trường Tu nghiệp của hội Truyền giáo Ngoại quốc ở Paris, linh mục Lebabrousse tán dương đức tính tài năng vua Gia Long rất nhiều. (Ta nên để ý lúc cố Lelabrousse gửi thư về Tây, vua Gia Long cũng còn ở ngôi Nguyễn vương, nhưng cuộc tranh đoạt thiên hạ với nhà Tây Sơn đã nắm vững được cơ tất thắng. Giữa năm 1800 ấy; ngài thắng trận Thị Nại, rồi thu phục được kinh đô Phú Xuân, đến tháng 5 năm Nhâm Tuất, tức 1802 thì chính vị hoàng đế kỷ nguyên Gia Long).

Trước hết, cố Lelabrousse kể chuyện nhà vua cương quyét chừa rượu ra thế nào:

"Thuở còn trẻ tuổi, ngài có tật nghiện rượu, nhưng đến khi phải cầm đầu các việc chính trị binh cơ, trách nhiệm nhà nước nhất nhất quan hệ ở mình, thì ngài mạnh bạo chừa rượu ngay; chừa một cách quyết liệt, đến nỗi tự hậu không nhấm một giọt nào vào môi nữa.

Chính ngài thường nói:

- Tôi nghĩ ở đời không có thứ gì làm mất phẩm giá người ta nhiều cho bằng cái tật quá chén; không có thứ gì tai hại cho bằng rượu, khiến người ta hư hèn vô lực đủ đường; không có thứ gì tệ cho bằng rượu, sinh ra lắm sự lỗi lầm, lắm cảnh khốn đốn. Một thằng rượu chè say sưa chẳng nên cai quản sai khiến ai bao giờ. Con người ta, đến bản thân còn chẳng tự trị nổi, thì mong trị thiên hạ làm sao được?

Bởi thế, ngài thường xuống chỉ dụ khuyên bảo tất cả quan dân tướng sĩ không được say rượu; ai vi lệnh thì bị trừng phạt rất nghiêm.

Nội một việc ấy, đủ tỏ ra vua Gia Long có đức tính tự cường hiếm hoi. Tuy chừa rượu không phải là một việc trọng đại cho bằng ý chí sửa đổi một nước, nhưng chẳng phải ai muốn cũng làm được, huống chi lại là vua chúa. Ở thời đại quân chủ độc tôn, một người phú quý đến thế, bỗng dưng gác chén đập be, cả quyết chừa rượu, cho tới một giọt cũng không để thấm môi, thiết tưởng ai cùng phải cho là một sự ít thấy trong lịch sử đế vương, và nếu không có chí tự cường đáo để, chắc không làm nổi".

Đã thế, nhà vua còn có tài trí lạ thường nữa, cứ theo sự biết của ông cố Lelabrousse, cũng trong bức thư vừa kể trên đây:

"Thiên tư nhà vua cũng tốt, không kém gì tâm tính; trí khôn nhanh nhẹn, thâu suốt, dù những việc rắc rối nhất hạng, ngài chỉ trông thoáng là hiểu ngay. Lại có khiếu nhớ lạ lùng, phàm sự gì qua mắt có thể ghi mãi trong trí không quên, cũng như trông thấy điều gì mới lạ đều có thể bắt chước một cách dễ dàng tự nhiên.

Các xưởng đóng chiến thuyền trong xứ và các quân cảng, ngài xếp đặt chỉnh tề, đồ sộ, người ngoại quốc đến xem phải động lòng kính phục, nếu cả Âu châu được trông thấy thì cả Âu châu cũng phải khen ngợi. Một bên bài trí la liệt những súng trường, những thần công, đại bác đủ hạng, những giã pháo, những xe chở súng, những viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ v. v... phần nhiều sánh với các kiểu súng đạn tốt nhất ở Tây phương, bắt quá chỉ thua kém vẻ đẹp mà thôi. Một bên thì đỗ chi chít những chiến thuyền không biết cơ man nào mà đếm, to có, nhỏ có, chiếc nào chế tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ khá sợ. Tất cả những chiến thuyền binh khi ấy toàn là công trình của ông vua hiếu động và đa tài, đa nghệ.

Sáng ra, mặt trời vừa mọc, ngài từ trong cung đi ra quân cảng trông nom làm việc, cứ đến bữa ăn mới về. Nhiều khi ở lại suốt ngày chỉ bảo các quan, mỗi người coi một sở, làm một việc. Vua tôi ngồi chung một bàn. Không có cảnh tượng nào ngoạn mục cho bằng trông thấy hàng nghìn hàng vạn con người cùng hăng hái làm công việc, ở trước mắt nhà vua. Chính ngài trông nom hết thảy, có lúc thân hành đo từng miếng ván, định cả thước tấc nữa.

Ngài đã chế tạo được những chiến thuyền theo kiểu Âu Tây, mà chỉ dùng rặt tay thợ bản xứ.

Thoạt tiên, ngài mua một chiếc tàu Tây đã cũ đem về tháo tung ra từng mảnh để xem cách thức chế tạo. Thế rồi tự tay ráp lại, y nguyên hình thức cũ, ráp khéo đến nỗi xem chiếc tàu lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.

Sự thành công ấy làm cho nhà vua nức lòng phấn chí, nhất định ra tay đóng hẳn một chiếc mới nguyên.

Mà ngài làm được thật tình.

Sau lại đóng thêm hai chiếc nữa.

Cả bốn chiếc tàu này đi tới đâu cũng làm nên oai danh hiển hách cho nhà vua.

Công cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ, chiếc nào cũng đóng không ngoài ba tháng đã hoàn thành; có chiếc lại còn chóng hơn.

Tuy thế, những chiến thuyền ấy đều to tát lực lưỡng; mỗi chiếc có thể chở 300 thủy binh và đặt 26 cỗ súng đại bác; có chiếc đặt tới 36 khẩu.

Ba chiếc do ba vị thủy quan Pháp cai quản, còn chiếc thứ tư thì nhà vua tự cai quản lấy, tức là chiếc mới hạ thủy gần đây.

Các ông ở bên Tây nghe nói ông vua nước Nam có thể chỉ huy được một chiếc tàu chiến đóng theo kiểu Tây tất lấy làm lạ vô cùng; nhưng các ông còn kinh ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông được chứng kiến mọi sự kiến thiết xứ này.

Nhà vua có trí thức quán xuyến cả mọi việc, có tư cách làm được cả mọi việc. Ngài có tài riêng về phần chi tiết. Những điều tôi có thể kể ra đây cho các ông nghe, chỉ gọi là để các ông biết đại cương thế thôi.

Sau hết, nhà vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm ngài ít ngủ, đọc sách rất nhiều; việc gì cũng tò mò muốn biết và cần cù hiếu học đáo để. Trong điện ngài ở, có nhiều bộ sách của người Pháp soạn, dạy về các khoa kiến trúc, xây thành, đắp lũy v.v...

Ngài để luôn bên mình, năng mở ra xem những hình vẽ kiểu mẫu rồi cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày thấy ngài tấn tới lên mãi. Tóm lại, ông vua này là một bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ Đàng Trong nước Nam từ trước đến giờ".

Trong số những người Pháp được trọng dụng, cai quản chiến thuyền, hai người có danh vọng nhất, là J. B. Chaigneau tức Nguyễn văn Thắng, chúa tàu Long, và Vannier tức Nguyễn văn Chấn chúa tàu Phụng.

Hai ông này cùng ở trong bọn hơn hai chục người Pháp do đức thầy Bá Đa Lộc mộ sang tán trợ Nguyễn vương buổi đầu, có nhiều công lao.

Bởi vậy, khi vua Gia Long lập nên đế nghiệp, hai ông và một vài đồng bối được kể vào bậc công thần khai quốc, làm quan tại triều. Nhà vua cho mỗi người một phủ đệ riêng, 50 tên lính hầu, mỗi tháng cấp bổng lộc khá hậu, khi vào chầu chỉ vái, không phải lạy lục như các bạn đồng liêu bản xứ.

Ông Chaigneau có người con trai đầu lòng tên là Michel Đức, hồi nhỏ thường được theo cha vào trong cung điện triều kiến nhà vua. Sau lớn lên, Michel Đức cùng cha trở về ở luôn bên Pháp, rồi viết sách "Souvenirs de Huế" (xuất bản tại Paris năm 1867), tự thuật mọi sự kiến văn kỷ niệm ở nước Nam, nhất là về đời Gia Long.

Tác giả vẽ hình dung ông vua này cho chúng ta thấy là một người giản dị, hòa nhã, hiểu rõ dân tình, lúc nào cũng vui vẻ tự nhiên, từ lời nói đến cử chỉ cũng thế.

Một hôm, ông Chaigneau vào chầu trong nội, dắt cả cậu con đi theo. Lúc ấy Michel Đức, mới độ bảy tám tuổi, thông minh và thạo tiếng Việt Nam. Trước khi ở nhà đi, y hẳn cha mẹ đã dặn bảo đại khái lễ phép tâu gởi trước mặt Ngài ngự ra thế nào.

Khi đến trước vua Gia Long, cậu đứng vòng tay cung kính và nói rất chững chạc, rõ ràng:

- Cung chúc thiên tử vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Tiếng cười của nhà vua vang động cả một góc điện. Không phải cười vì thấy cậu bé tí hon đã tập nghi lễ triều đình, chỉ buồn cười vì nghe hai tiếng "thiên tử". Ngài vỗ vai cậu và nói:

- Ồ! Cả mi nữa, mi cũng nghĩ ta là con trời! Chắc hẳn không phải ba mi dạy mi điều đó, vì thuở nay ông chẳng hề nói với ta vô nghĩa, vô lý như thế bao giờ... Ta đây con trời à?...

Nhà vua nói và đưa mắt nhìn ông Chaigneau. Hai người cùng cười. Cậu Đức chả hiểu thế nào, cũng bật cười theo. Đoạn, ngài nói tiếp:

- Với những người gọi ta là thiên tử, ta vẫn thường nói ta cũng như ai, do cha mẹ sinh thành, cha là đàn ông, mẹ là đàn bà, cha ta với mẹ ta ...

Chỗ này, nhà vua vừa nói vừa ra hiệu, như giảng bài nam nữ sinh lý, mà ngài nói một cách tự nhiên minh bạch quá, đến nỗi về sau Michel Đức viết sách, không dám chép lại y nguyên "thánh chỉ" vì e có độc giả đạo đức cho là sống sượng.

Người con ông Chaigneau được hiểu biết nhiều về tài năng, nhân phẩm vua Gia Long và công việc nước Nam đời ấy, một phần nhờ được mục kích, thân cận, một phần nhờ sự quan sát của cha góp vào.

Thì ra, nhà vua không phải không biết nước Pháp là nước hùng cường văn minh; không phải không biết nước Anh Cát Lợi đang liếc mắt tham vọng ở miền Đông Á, có thể nói tình thế quốc tế và cái cơ mạnh được yếu thua của thiên hạ lúc bấy giờ ra sao, hình như ngài rõ biết cả, chỉ trừ ra nước mình. Michel Đức viết:

- "Vua Gia Long được tôn sùng là bậc người hiền năng nhất nước. Ngài có những tư cách thiết yếu, tới trình độ cao của một nhà cầm quyền cai trị quốc gia. Phàm những kế hoạch đã nghĩ chín chắn thì cương quyết và kiên nhẫn theo đuổi làm cho đến cùng, khiến cho đức thầy Bá Đa Lộc cùng các người Pháp sang giúp việc nước Nam đều nói rằng, ông vua ấy, ví phỏng cho cầm đầu một nước bên Âu châu cũng chẳng thất cách tí nào (ce souverain n’aurait été nullement déplacé à la tête d’une nation européenne).

Trong lúc hoạn nạn, bôn ba, ngài đã biết phán đoán người ta và mọi sự vật rất đúng; vì cho liên lạc thân mật với đức thầy Bá Đa Lộc, cho nên ngài tập nhiễm tư tưởng Pháp.

Việc triều đình Louis XVI tiếp đãi Hoàng tử Cảnh ân cần tử tế, vua Gia Long ghi nhớ mãi không quên. Hồi đó, Pháp đình đã định phát bao nhiêu quân nhu chiến thuyền sang giúp, chiểu theo điều ước 1787, nhưng rồi có những sự biến cố xảy đến bất ngờ, thành ra viện binh hứa hẹn ấy không qua đến nơi; tuy thế mặc lòng, vua Gia Long cũng nhớ ơn chính phủ nước Pháp đã có hảo ý đối với mình. Nói tóm một câu, ngài rất sẵn lòng tốt với nước Pháp; nhìn nhận nước Pháp hùng cường và có độ lượng, nên ngài muốn xử lại cho được vừa lòng, chẳng những vì cớ hai xứ đã kết mối bang giao, lại còn vì cớ ngài lỡ ngại người Anh Cát Lợi.

Nhà vua thường vui miệng nói rằng: Giờ ta là bạn của người Phú Lãng Sa, tất những kẻ xâm lược kia (trỏ vào người Anh) chả dám mưu toan làm sự gì có hại cho ta được".

Về mặt phong hóa, nhất là tục lệ thờ cúng tổ tiên và những thói mê tín, vua Gia Long thật có kiến thức hợp lý, không chịu tin nhảm hay cố chấp như tất cả người mình đương thời.

Chúng ta mở sách "Sử ký truyền giáo ở Đàng trong nước Nam" (Histoire de la mỉssion en Cochinchine) của ông Launay, quyển thứ 3, trang 320-322, đọc bức thư đức thầy Bá Đa Lộc viết cho ông Letondal ngày 47 Août 1789 thì biết.

Hẳn ai cũng nhớ chuyện lúc Nguyễn vương mới khởi binh ở Gia Định, thường bị Tây Sơn đánh thua luôn, năm 1784, phải nhờ đức thầy Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh và quốc ấn sang Pháp cầu viện. Nhiều nỗi trắc trở giữa đường, khiến cuộc Đông - Tây vãng phản này hết gần sáu năm. Cảm sự chăm nom dạy dỗ, Hoàng tử theo đạo và thờ đức thầy như bậc sư phụ. Giữa năm 1789, thầy trò mới về đến Gia Định là nơi căn cứ của Nguyễn vương lúc bấy giờ...

Quả thật, như mấy chuyện đã kể, vua Gia Long là bậc nhân chủ có tài năng mới, tư tưởng mới là hiểu việc thế giới ít nhiều; sự ấy cố nhiên nhờ ảnh hưởng cảm hóa của ông Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp ngài một phần rất lớn.

Phải chi nhà vua ta cũng có thông minh và tính cương quyết sửa sang việc nước theo gương Âu - Tây, mà chính ngài đã nhìn biết là hùng cường văn minh, cũng như ngài biết rượu có hại mà cương quyết chừa bỏ vậy, được thế thì hay cho lịch sử ta biết bao!

Đời sáng nghiệp của vua Gia Long có hai giai đoạn trước sau khác nhau, người đọc sử với trí phán đoán tất phải để ý:

Lúc còn phải tranh hành thiên hạ với họ Tây Sơn, ngài cầu viện nước Pháp và nhờ nhân tài Pháp giúp sức, từ chiến thuyền binh pháp cho tới khí giới thành trì, nhất nhất chế tạo tổ chức theo lối mới, kỳ đánh ngã kẻ địch, thu lại nghiệp nhà mới nghe.

Vương Dương Minh đi qua cửa?

Lê Quý Đôn, một nhà bác học đời Lê. Chu Thuận Thủy không lạy. Sĩ phu ta chỉ đến hỏi về tướng số, địa lý.

Vương Dương Minh, nói rõ hơn là tư tưởng học thuyết Vương Dương Minh từ xưa có lúc nào được truyền sang nước ta không?

Vấn đề gai góc ấy, từng có nhiều nhà học vấn Tây Nam bàn đến.

Mỗi nhà ngỏ ý một khác.

Chúng tôi muốn cử ra một vài thuyết cốt yếu lấy lệ.

Ông Phạm Quỳnh bảo không.

Trong luận thuyết Essais franco-annamiles, trang 162, tác giả viết: "Học thuyết Vương Dương Minh (bên Nhật gọi là Oyomei), nhà triết học ở thế kỷ 15, xướng minh cái nghĩa trí hành hợp nhất, có ảnh hưởng đến trí thức Nhật Bản rất sâu, mà ở nước Nam mãi tới gần đây tuyệt nhiên không biết" (L’ecole de Wang- Yang-Ming (en annamite Vương Dương Minh et en Japonais Oyomei), philosophe du XV siècle qui enseignait la théorie de l’identilé de la connais-sance et de l’acte, et qui a exercé une influence si profonde au Japon, étalt complètement linconnue en Annam jusqu’à ces derniers temps).

Cũng trong tập văn ấy, đến trang 279, chúng ta lại thấy tác giả nói thêm: "Tiếc rằng cái học Vương Dương Minh không có ảnh hưởng gì đến nước nhà, ngay ở Tàu cũng thế; đạo Khổng xưa nay chỉ truyền bá theo học thuyết của phái Chu Hi, khéo đào tạo ra hạng người học uyên bác và thi cử làm quan hơn là đào tạo nên những nhà thượng võ và những nhà kỹ thuật". (Regrettons que Vương Dương Minh n’ait pas eu d’influence chez nous, pas plus qu’en Chine d’ailleurs, et que le confucianisme n’ait été reprèsenté jusqu’ici que par la seule école de Tchou Hi, plus expert à former des énd et des fonctionnaires que des samourai et des artsiles).

Trái lại, ông Đào Đăng Vỹ bảo có, nhưng chỉ có một cách mập mờ. Trong báo: "Cour-rier d’ Hai-phong" ngày 19 Novembre (tháng 11) năm 1938, ông viết:

"Gọi là người đời Minh đảo vong quốc sự qua ở nước Nam, tôi chỉ thấy một người có tiếng tăm là ông Mạc Cửu ở đất Hà Tiên, có điều ông ta chỉ đóng vai tuồng chính trị, quan hệ cho lịch sử khai thác của nhà Nguyễn thì có. Đến như Vương Dương Minh, thì người ta chỉ thấy có đôi chút ảnh hưởng lờ mờ ở ông Lê Quý Đôn, danh nho Triều Lê". (En Annam, je ne vois jusqu’à présent, comme émigré Ming, que le fameux Mạc Cửu de Hà Tiên qui s’est contenté de jouer simplement un role politique, assez important d’ailleurs dans l’histoire des Nguyễn. De Wang - Yang - Ming, on connait une influence assez vague chez Lê Quý Đôn, notre grand lettré de l’epoque des Lê).

Đến ông cố Henri Bernard, một nhà truyền giáo thuộc về Dòng Tên (Compagnie de Jésus) có tiếng bác học hiện thời đó, nhất là vấn đề lịch sử văn hóa phương Đông, thì cho tư tưởng họ Vương thế nào cũng ảnh hưởng đến tri thức Việt Nam ít nhiều.

Nếu ai đọc quyển Pour la compréhension de l’Indochine et de l’Occident của ông H. Bernard soạn cách bốn năm nay, chắc thấy ông khẩn khoản về câu chuyện ấy ra thế nào.

Cố nhiên, ông không lập thuyết một cách thật là quyết đoán, nhưng cứ bằng theo sách vở đời Lê và tình thế lịch sử đương thời, ông bảo rằng học thuyết Vương Dương Minh có ảnh hưởng đến sĩ phu Việt Nam, không phải là một sự không thể tin được.

Ví dụ xem những sách của ông Lê Quý Đôn một nhà học rộng và trứ thuật nhiều nhất ở đời Hậu Lê, chỉ tỏ ra ông ta đọc "Minh Nho học án" của Hoàng Lê Châu khá nhiều, mà Hoàng Lê Châu chính là một người sùng mộ học thuyết Dương Minh; hơn nữa ông Lê Quý Đôn lại có ý tán thành việc làm của đảng Đông Lâm cuối đời Minh, tức là đảng chủ trương tư tưởng cách mạng.

Họ Lê làm sách "Phủ biên tập lục" và "Vân đài loại ngữ" có chỗ nhắc đến Vương Dương Minh, có chỗ nói về đồng hồ cùng những khí cụ thiên văn của Âu Châu đem qua lúc bấy giờ mà ông được biết. Chỗ khác lại chép cả tên ông cố Lợi Mã Đậu, tức giáo sĩ Mathieu Ricci, sang Tàu vào đời Minh Thần Tôn, dụng công nghiên cứu Nho học rồi chê cái học Chu Tử sai lầm và khuyên nhủ sĩ phu Tàu nên theo Dương Minh cho được tiến hóa.

Có lẽ trước đời Lê Quý Đôn (thế kỷ 18), nước Nam đã từng nghiên cứu triết lý của họ Vương, nhưng rồi bị những cuộc nội chiến lung tung làm cho thất truyền đi cũng nên.

Chính ông Lê Quý Đôn chép rằng: "Vua Lê Thánh Tôn (1460 - 1496), là người hiếu học đáo để, chịu khó thu thập các bản kinh truyện cùng sách vở bách gia chư tử rất nhiều... Đến sau có loạn Trần Cao (1516), kinh thành Thăng Long bị giặc chiếm cứ... bao nhiêu đồ thư và sách vở tản mát tứ tung. Nhà Mạc soán ngôi (1527 - 1591) sai người thu thập và chép lại được ít nhiều, nhưng đến lúc nhà Lê Trung Hưng, lấy lại kinh thành, những sách ấy lại bị hỏa tai thiêu sạch...".

Ta xem thế thì trong những sách vở đã bị mấy phen binh hỏa tàn phá hồi bấy giờ, biết đâu chẳng có tác phẩm Dương Minh? Nếu bảo người Việt Nam ở cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, không biết có tư tưởng Dương Minh là gì thì rõ vô lý.

Sau hết, cố Bernard thêm một chứng cứ nữa, là hồi Mãn Thanh vào chiếm Trung Quốc, ông vua nhà Minh sau cùng là Vĩnh Lịch, còn bôn ba quanh quẩn khá lâu ở mấy tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, tiếp giáp nước ta để mưu đồ khôi phục; mãi đến 1659, nhà Minh mới đổ hẳn. Trong khoảng ấy, có lúc vua Vĩnh Lịch mong mỏi tới viện binh của Nhật Bản và Việt Nam. Bọn sĩ phu nhà Minh, xấu hổ làm tôi Mãn - Thanh, vượt biên giới sang nương thân ở đất nước đồng văn, đồng chủng này cũng nhiều. Lẽ tự nhiên theo chân những khách vong mệnh, có cả tư tưởng học thuật đời Minh; trong số ấy phải có tư tưởng học thuật của họ Vương mà các môn đồ ông đã khắc vào gỗ in thành sách.

Đại khái, theo cố Bernard suy đoán mấy lẽ như thế, thì Vương Dương Minh có sang nước Nam.

° ° °

Có hay không vấn đề này vẫn còn rộng đường đất cho chúng ta tìm tòi thêm.

Nếu học thuyết Dương Minh không có chỗ đứng trong cõi trí thức Việt Nam hồi xưa, chắc hẳn không phải là mầm giống ấy không có dịp đưa sang; chỉ tại tiền nhân ta cấy thủa đất tư tưởng với lề lối cũ đã quen, lại có phần ăn chắc hơn, thành ra không thích đón rước gieo trồng hột giống nào mới. Lúc bấy giờ đối với tư tưởng họ Vương thế nào, cách mấy thế kỷ sau, đối với khoa học phương Tây cũng thế.

Khác với mấy điều suy đoán của cố Bernard và ngay trong sử sách, chúng tôi thấy có hai lúc Vương học thân hành đến đây, vào tận trong nhà ta, nhưng chủ nhân khinh thường, ngạo mạn, không ưa hay là không biết hoan nghinh để cho quý khách chán ngán đi mất.

Một là lúc Trạm Nhược Thủy sang sứ.

Hai là lúc Chu Thuấn Thủy ở Quảng Nam.

Sách "Lịch triều Hiến chương" của ông Phan Huy Chú, quyển 48, mục Bang giao chép rằng: "Triều vua Tương Dực, nhà Lê, niên hiệu Hồng Thuận thứ năm [1] sai Trạm Nhược Thủy và Phan Huy Tăng đi sứ qua làm lễ phong cho vua ta. Lúc họ về vua Tương Dực tặng vàng bạc, lụa là rất hậu, nhưng bọn Nhược Thủy đều từ chối không nhận món gì. Vua tiễn mỗi người hai bài thơ, họ có họa lại...".

Nhược Thủy chính là một tín đồ học thuyết Dương Minh. Nói ngay là môn đồ cũng sai sự thực. Kể ra ông đỗ tiến sĩ trước, làm quan trước và cũng nhiều tuổi hơn Dương Minh có thể suýt soát bực tiền bối; vì ông nghiễm nhiên ở chức Đề học, tức là Đốc học một tỉnh, khi Dương Minh còn là một vị quan nhỏ, phạm tội trực ngôn, bị nhà vua đày xuống Quý Châu, làm thầy trạm ở đất Long Trường rừng thiêng nước độc.

Nhưng sau nghe được Dương Minh giảng giải "cái học Lương Tri", Nhược Thủy bỗng tỉnh ngộ về đạo lý chân truyền của Khổng Mạnh, cho Dương Minh là thánh nhân lại ra đời và tự biết trước nay người ta theo học Chu Tử là sai lầm chính đạo. Từ đó, ông tâm phục Dương Minh và thờ như một bậc thầy, mặc dù Dương Minh đối với ông coi như bạn thân.

Ông tỉnh ngộ và tâm phục đến nỗi không bỏ qua một dịp nào không truyền bá tư tưởng Dương Minh với mọi người chung quanh, mong cho thiên hạ hiểu sự lầm lạc về trước và thánh học lại được sáng tỏ.

Lúc ông phụng mạng đi sứ Việt Nam, ấy là lúc họ Vương đã công nghiệp với triều đình, thành danh về học vấn, đều lên tới ngọn tuyệt cao, nhưng trong triều cũng như trong nước, vô số những kẻ quyền gian đố kỵ, xúm nhau tìm đủ cách làm hại và bảo cái học "Lương tri" là ngụy học.

Trước hôm Nhược Thủy lên đường, họ Vương đặt tiệc và làm thơ tiễn tống. Nếu chúng tôi không phải nhớ sai thì Nhược Thủy họa vần, có câu ngụ ý nhân dịp đi sứ, thế nào cũng đem theo những nghĩa lý thánh hiền mà họ Vương đã phát minh để gieo rắc ở đất Giao Chỉ cũng thờ đạo Khổng xưa nay.

Nghĩa là Trạm Nhược Thủy có hảo ý chở theo Vương học trên xe đi sứ, đem sang làm món quà tinh thần mới mẻ cho sĩ phu Việt Nam.

Nhưng lúc trở về, chẳng nghe Nhược Thủy nhắc nhở gì đến chuyện này. Mà sử sách ta ngoài mấy bài thơ vua Tương Dực xướng họa với sứ Tàu, cũng không thấy có cuộc đàm thoại gì về tư tưởng học vấn.

Hoặc có ít nhiều, nhưng sử sách ta cho là tế toái vô ích mà không chép chăng?

Nhược Thủy có gợi chuyện Vương học với sĩ phu ta, nhưng gặp phải những bức tường gạch "già", đóng đinh dội búa chăng?

° ° °

Bốn chục năm sau, đến Chu Chi Du sang nước ta cũng thế.

Chu Chi Du, hiệu Thuấn Thủy, người ở Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang, vốn là trưng sĩ cuối đời nhà Minh. Một người tài cao học rộng, không phải thi đỗ hay có chức quan gì, nhà vua nghe tiếng, vời ra hỏi han việc nước, ấy là trưng sĩ.

Lúc trước hình như cũng có chân trong đảng Đông Lâm, nhưng may khỏi bị tai họa. Chu ẩn cư dạy học, chủ lấy "tâm học" của Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh, mong làm phấn khởi tinh thần của sĩ phu đương thời, nhất là cự tuyệt lối học khoa cử từ chương và trọng về công phu thực tiễn. Tiếng tăm đạo học, đức hạnh vang đến triều đình, nhà vua xuống chiếu vời ông ra hỏi quốc gia đại kế, nhưng ông chỉ kịp ra để chứng kiến việc nước đến cơn suy vong, tồi tệ quá rồi, không còn trông mong cứu vãn được nữa. Bên trong thì gian thần lộng quyền, triều cương đổ nát, bên ngoài thì giặc cướp nổi dậy như ong, quân Mãn - Thanh dũng lược tiến vào Trung Quốc không ai cản được.

Năm Bính Tuất (1646) Thuấn Thủy chạy sang nước ta, vì hai mục đích: một là tránh nạn róc tóc để bím, làm tôi Mãn Thanh, hai là có ý muốn vòng đường xứ Bắc ta để ngược lên Vân Nam gặp vua Vĩnh Lịch, mưu đồ công việc đuổi Thanh phục Minh.

Nhưng ông sang đến Hội An (Quảng Nam) rồi lưu luyến ở đây; không thực hành được cái chí đi tìm vua cũ. Lúc ấy, Đàng Trong, Đàng Ngoài nước ta phân biệt và cừu thù nhau, giữ nhau từng miếng, sự giao thông không phải dễ dàng; đến người Nam hà muốn ra Bắc hà lúc ấy cũng khó khăn nguy hiểm không nói đến người Tàu, mà lại là một di dân nhà Minh. Vì bấy giờ, Trung Quốc đã về Mãn - Thanh, vua Lê - chúa Trịnh nhà ta thần phục Thanh triều rồi, lẽ tự nhiên Thuấn Thủy muốn đi qua xứ Bắc để tìm vua Minh, là một sự thật khó trót lọt.

Chần chờ đợi dịp mãi không được, Thuấn Thủy đành làm một tướng vong quốc di thần, ăn nhờ ở đậu thành phố Hội An ta. Trong trí ông đến đây tuyệt vọng cứu quốc, nhưng còn cái hy vọng truyền bá đạo học, thánh hiền ở đất cơ lữ.

Tuy vậy, Thuấn Thủy ở Hội An hơn mười năm, nhưng không mấy ai biết ông lão ấy là một bực danh Nho; trước mắt chúng nhân, ông bất quá như thầy tướng, thầy địa chính tông bên Tàu sang đây kiều ngụ sinh nhai.

Hình như năm Bính Thân (1656), ông có lần về Tàu ít lâu, qua đầu năm sau lại trở sang nước ta.

° ° °

Lúc ông trở sang lần sau, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687) muốn dùng ông, nhưng lại vụng cách lễ hiền hạ sĩ, chỉ bách ông làm thơ, làm phú luôn luôn, chẳng hỏi tới học vấn tư tưởng gì khác. Các triều thần lại coi thường nhà đạo học, vì không thấy đỗ cử nhân, tiến sĩ. Những người gọi là sĩ phu, ai hữu tâm việc học, cũng chẳng qua tò mò hỏi văn nghĩa đen từng chữ, theo lối tầm chương trích cú của họ Chu; còn thì chỉ đến quấy nhiễu về những chuyện tướng số địa lý. Người ta làm cho hy vọng truyền bá đạo học của ông cũng tuyệt nốt, ông đâm chán bỏ đi sang Nhật.

Về sau, ông có dịp viết quyển sách, tựa là "An Nam cung dịch ký", biên chép những việc kiến văn, kinh lịch khi trú ngụ ở nước Nam ta.

Chúng tôi muốn thuật lại một vài đoạn cho độc giả nghe.

Hôm mới trở lại Quảng Nam gặp ngay lúc chúa Nguyễn có lệnh kén chọn lấy người có tài văn học để dùng vào việc giấy tờ ngoại giao; cả người Trung Quốc cũng cho ứng tuyển; Chu Chi Du vào số được tiến cử; ông tự thuật lúc đến trước mặt quan Cai - tàu rồi vô triều kiến chúa Nguyễn, đại lược như sau này:

"Đến gần tháng giêng, năm Đinh Dậu, Chi Du lại sang Giao Chỉ.

Ngày 29 tháng ấy, tiếp được tờ hịch của Quốc Vương kén người biết chữ. Đến mùng 3 tháng sau, có lính tráng đi các phố xá xóm làng, thôi thúc người ta một cách rầm rộ như bắt giặc cướp.

Họ đến tận nhà bắt người ta đi, chẳng nói vì lẽ gì cả. Khi dẫn đến trước mặt sai quan (viên quan vâng lệnh chúa sai coi việc kén người) ai nấy đều nghe quan truyền phải làm một bài thơ, để xét cả chữ viết tốt xấu và học lực thế nào?

Chi Du không chịu làm thơ, chỉ cầm bút viết mấy dòng như vầy:

‘Chu Chi Du, người đất Dư Điêu, Chiết Giang, nhân vì Trung Quốc gãy đổ mối rường, trời nghiêng bóng lặn, không chịu kết bím theo giặc, đem thân tránh nạn qua ở quý quốc, đến nay vừa 12 năm, bỏ cả vợ con và phần mộ ông bà. Quân giặc còn đó chưa diệt, nước nhà mắc nạn không thể trở về, thân này già nua, lòng lo như thiêu, như đốt, dù có làm thơ cũng chẳng hay gì. Lời cung là thực’.

Những người kia thấy thế, cũng từ chối nốt, chẳng ai làm thơ. Họ cũng bắt chước Chu Chi Du viết lời cung, duy có hơi khác.

Ngày mùng 5 đến hạn, thấy các quan tụ họp đông đủ, truyền gọi Chi Du vào trước. Nhưng các quan đến ngồi ngất ngưởng tự nhiên, không thèm cất lời chào hỏi gì cả.

Chu Chi Du tự do leo lên ngôi ghế trên. Bấy giờ, một vị quan sai nói:

- Nay nhà chúa xuống chiếu trưng cầu chư Nho, ông nghị luận thế nào?

Ông ứng thanh đáp:

- Đấng thiên tử mới được dùng chữ "trưng": đại vương ta đây là một vua chư hầu sao lại gọi là trưng được!

Nhân thấy danh thiếp của ông đưa vào lúc nãy, dưới tính danh có ba chữ ân cống sinh, các quan ta không rõ cống sinh bên Tàu là khoa mục gì, hỏi:

- Thế cống sinh sánh với hạng cử nhân tiến sĩ, ai có khoa mục to hơn?

Chi Du hiểu ý quan ta trọng danh tiến sĩ, chứng cớ là hồi nãy có một ông tiến sĩ đến, thấy ai nấy đều đứng dậy vái chào, có vẻ tôn kính, thì ra chỉ có một hư danh, không kể thực học. Ông bèn thừa cơ chận trước:

- Quý quốc không biết cái nghĩa khoa mục, cho nên mới nghĩ rằng cống sinh là một danh hiệu riêng của cử nhân. Kỳ thật, cống sinh với cử nhân tiến sĩ có chỗ phân biệt không phải giống nhau đâu.

Lúc bấy giờ chúa Nguyễn ngự giá vào Quảng Nam xem xét mọi việc, đóng binh ở Ngoại doanh sa. Các quan bảo những người ứng tuyển đến ngày mùng 8 tề tựu ở đó để ra mắt chúa. Chi Du viết thư cho quan Cai Tàu (quan coi kiều dân ngoại quốc và thuyền buôn ra vào); trong thư thanh minh trước rằng khi mình đến ra mắt chúa, không lạy.

Đến hôm mùng 8, quan Cai Tàu vào tâu với quốc vương rồi dẫn Chi Du đến bệ kiến. Văn võ đại thần tập họp bên trong cửa lớn, bài ban rất nghiêm chỉnh, quân lính cầm binh khí dàn hầu chung quanh có tới vài ngàn người. Chi Du bước vào trước mặt chúa, chỉ vái chào mà không lạy. Quan Cai Tàu lấy đầu gậy viết chữ "bái" lên trên cát, tỏ ý bảo ông lạy đi; nhưng ông cũng cầm gậy viết thêm chữ "bất" lên trên, nghĩa là không lạy. Rồi ông đệ một tấm danh thiếp, trên đề tháng ngày, dưới viết hàng chữ "Khâm phụng sắc thư đặc triều ân cống sinh Chu Chi Du" - chót thêm hai chữ "đốn thủ" nghĩa là cúi đầu.

Lúc ấy văn võ bá quan đều giận tái mặt, cho là Chu Chi Du cậy thế Trung Quốc khinh rẻ nước nhỏ; rồi xúm lại xin Quốc vương giết đi. Nhưng Quốc vương không nghe lại đối đãi tử tế.

Ngày 19, Quốc vương viết thư bảo ông ra làm quan, có câu: ‘Thái Công giúp Chu mà Chu nên nghiệp vương, Trần Bình ở Hán mà Hán được thiên hạ...’. Ông phục thơ, ngỏ ý từ chối, vì trong lòng còn mong sự dựng lại nhà Minh, qua ở nương náu xứ ta, chỉ là tạm thời".

Ví phỏng chúa Nguyễn có dùng được họ Chu làm quan, cũng chỉ dùng về mặt từ chương, chứ không nghĩ đến sự lợi dụng người hiền để mở mang cho nước nhà về mặt học vấn, đạo đức. Có lẽ họ Chu biết thế, cho nên không chịu ra làm quan với ta. Đã nói sở nguyện của Chu không cứu quốc được thì giảng học.

Tuy hôm trước không chịu làm thơ thử tài, không chịu lạy, không nhận quan chức mặc lòng, Chu đã trúng tuyển là người biết chữ, để chúa Nguyễn nhà ta nhờ cậy mỗi khi cần đến.

Cũng trong sách "An Nam cung dịch", Chu kể chuyện từ hôm ấy trở đi, thường phải vì Quốc vương viết hộ tờ trát giấy má luôn. Các quan cũng tỏ ý kính trọng, hay đem những chữ sách nào nghi hoặc đến hỏi han và nhờ cắt nghĩa. Ngày mùng 3 tháng 3, Quốc vương sai người đưa tới nhà trọ một miếng giấy viết chữ "xác" để hỏi nghĩa; Chu trả lời là kiên xác, đích xác, bàn bạc xác đáng... Quốc vương liền dùng ngay hai chữ "kiên xác" làm đề mục, bảo Chu làm một bài phú.

Nhiều người lại đến quấy rầy về những chuyện tướng số bói toán, hoặc nài nỉ để hộ một ngôi đất kết phát. Chu trả lời không biết, họ không muốn tin, cho là làm hiểm, giấu nghề. Vì thấy ông lão râu tóc đạo mạo, họ định chắc là một thầy địa lý chính tông, hay một thầy khách cực giỏi nhâm độn.

Nếu những người ấy là hạng vô học thì chẳng trách nhưng khốn phần nhiều lại là bậc sĩ phu trong nước, khiến Chu bực dọc, chán ngán, liền viết ngay tờ cáo bạch dán ngay trước cửa.

"Nhà Nho bên Tàu chúng tôi, cốt yếu có hai: Một hạng gọi là học sĩ, thuộc nhiều những lời nói, việc làm của người xưa, nhưng đức tính và công việc mình làm, hoặc còn nhiều chỗ chưa đến nơi, ấy là những người có trí thông minh thuộc sách vở, học rộng văn hay. Một hạng khác gọi là hiền sĩ, chăm lo sửa mình, giữ nết bên trong mà văn vẻ bên ngoài, hoặc không kể đến, ấy là bậc hiền lương ngay thẳng, hiểu đễ lực hành.

Hai hạng ấy không có mấy ai một mình kiêm nổi. Có người nào kiên được cả hai thì nhân - nghĩa - lễ - trí chứa ở bên trong cung kính văn nhã phát ra bên ngoài, chính là vật lạ của nước nhà, của báu cho vua hiền, chúa thánh vậy.

Hạng ấy, ông vua biết dùng thì được yên ổn vẻ vang, lũ con em biết theo thì được trở nên hiếu để trung tín. Bởi thế, dù cho ăn lộc muôn chung cũng không phải nhiều, ngựa xe mười cỗ cũng không là quá; mặc đến cổn miện cũng không xa hoa, tôn là sư phụ cũng không thất đáng. Vì sao? Vì họ đạo cao, đức lớn, có thể đương nổi mà không có sắc thẹn, giữa khoảng vua tôi, một tâm, một đức, mọi việc sửa sang tốt đẹp, đó là sự thi vi trong lúc đặc chí với đời vậy.

Gặp buổi thiên hạ vô đạo, thì ta tìm nơi ở ẩn, hoặc cày cấy, hoặc nung lò, hoặc câu cá, hoặc làm thợ, bất cứ làm nghề gì cũng được, không bao giờ chịu hạ mình đi theo người để cầu lấy sung sướng, danh vọng.

Gần đây Trung Quốc lâm cảnh tán loạn, trời nghiêng đất lở, quân giặc làm trái lẽ thường, hôi tanh tràn ngập trong nước; kẻ xa này nghĩa không nên chết, muốn ẩn chẳng có chỗ nào, được nghe Khâu Trang Văn Công nói rằng An Nam, Triều Tiên đều là nước biết lễ, cho nên mới trốn tránh đến đây. Thuở xưa, Ba Di và Thái công thường ở Đông Hải, Bắc Hải để đợi thiên hạ không phải là việc mới lạ vậy.

Nay quý quốc không gia ơn cho người ở xa đến thì thôi, cớ sao các ngài sang có, hèn có, lại còn đến nhà trọ tôi, hoặc có ông hỏi việc tướng số, hỏi chuyện không nên hỏi, mà không biết mình là khách thừa?

Ôi! Thầy tướng số có đáng kể gì! Trong số bốn dân, chín nghề, họ là hạng chót, sánh với nho đức nghĩa, chẳng những như là trời cao với đất thẳm, lại còn như đen - trắng, nước - lửa trái nghịch hẳn nhau.

Tôi đã trót đem thân tới đây, quý quốc muốn khinh, muốn nhờn, cũng chẳng làm sao, duy có lấy nghĩa thì không nên thế; e người ta biết, sẽ bảo quý quốc tuyệt nhiên không hiểu cái tôn chỉ đọc sách vậy, huống hồ biết tôn hiền kính sĩ được ư?

Nói ngay thiên văn địa lý, có thật tinh thông cũng chẳng qua là một nghề nhỏ mọn, không phải là đạo Đại học của thánh hiền, cũng không phải khuôn phép để trị quốc gia và bình thiên hạ.

Thế mà quý quốc đọc những truyện Tam Quốc, Phong Thần lại tin là sự thực, ân cần hỏi đến, chẳng khác nào bỏ vàng ngọc mà quý gạch ngói, nhổ lúa tốt mà trồng cỏ gà, hóa ra trái mất cái nghĩa thủ xả lắm vậy.

Vả lại, thiên văn chẳng phải là chuyện thần tử nên hỏi, cũng chẳng phải người khách phương xa này dám nói đến. Từ nay trở đi, xin các ngài đừng nhắc tới nữa.

Ngày đầu tháng tư, Đại Minh di dân

Chu Chi Du bạch".

Một người có chí truyền giảng đạo học mà gặp phải chỗ thiên hạ không ưa việc tư tưởng cao xa, chỉ coi mình như nhà thuật sĩ tầm thường, rồi xúm lại quấy rầy về những chuyện dị đoan nhảm nhí, thật không còn gì chán bằng.

Thuấn Thủy quyết ý từ giã nước Nam từ đấy.

Ông sang Nhật Bản.

Suốt hai mươi năm ngụ ở phố Hội An, một thương cảng có hai xóm Tàu và Nhật phân biệt nhau, ông không ở trong xóm đồng hương, mà trọ giữa xóm Nhật. Xóm này đương thời không còn đông đảo, phồn thịnh như ba bốn chục năm trước, nhưng cũng có dăm bảy chục nóc nhà cửa hiệu. Nhiều người vì mộ đạo Nho mà biết kính lễ nhà đạo học không gặp thời vận, hay đến nghe ông giảng học, giúp đỡ khi cơ nhỡ và cho chịu tiền trọ hàng năm không đòi.

Chúng ta thấy trong "An Nam dịch ký", ông có chép việc, hẳn là lúc sắp đi, bán tất cả đồ đạc trong nhà, rồi trả cho Di Tả Vệ Môn 40 lạng 8 tiền và trả 30 lạng cho Quyền Binh Vệ chủ nhà trọ.

Chính họ thấy ông mà thương tài:

- Tiên sinh ở đây không mong gì thực hành được sở chí; cứu quốc đã tuyệt vọng, đến học vấn cũng chẳng có người biết nghe, vậy thì nên đem sở chí đi thực hành ở nơi khác còn hơn.

- Nhưng biết đi đâu? - Chu hỏi

- Mời tiên sinh sang bên Nhật chúng tôi, chắc được sĩ phu hoan nghinh.

- Tôi cũng muốn thế, nhưng chẳng biết có thể đi được không?

- Sao lại không được! Có thuyền buôn sắp sửa chuyến về, chúng tôi thu xếp việc đi cho tiên sinh.

Thế là ngay cuối năm Dậu (1657), Thuấn Thủy bỏ nước ta đi sang Nhật, rồi nhập tịch luôn.

Quả nhiên sĩ phu Nhật kính trọng và tôn thờ làm bực thầy. Xã hội Nhật mười lăm năm trước khi Thuấn Thủy sang đã có Trung Giang Đằng Thụ (Nakae Toju) truyền bá học thuyết Dương Minh rộng rãi, thiết thực, hợp lẽ tiến hóa và đạo võ sĩ nước Nhật khinh sinh - tử trọng danh dự. Đến khi có Thuấn Thủy sang, đạo học càng thịnh thêm; người ta gọi riêng là Chu Thị học phái hay nói tắt là Chu học.

° ° °

Các nhà truyền giáo thuộc giòng Tên kế tiếp đến Trung Quốc từ cuối thế kỷ 16 sang thế kỷ 17, có tiếng nhất là mấy ông Lợi Mã Đậu (Mathieu Ricci), Thang Nhược Vọng (Schall), Nam Hoài Nhân (Verbiest), Long Hoa (Longobardo), cốt truyền bá văn minh Khoa học Thái Tây, nhưng sợ đạo Nho chống chỏi và quá thủ cựu, cho nên các ông muốn tìm lấy đất dung hợp, làm sao có ích cho cuộc tiến hóa mà không mếch lòng tự cao, tự ái của người ta.

Mấy ông dụng công học chữ Tàu, nghiền ngẫm kinh truyện, xem xét Khổng giáo từ nguồn gốc, trải qua Tống Nho cho đến Vương Dương Minh, nhận thấy học thuyết phái trên nặng nề, thủ cựu, ích kỷ, lại có pha màu Phật Lão, ví dụ bảo người học giả thường tĩnh tọa tư duy, không khác gì nhà sư nhập định; còn tư tưởng phái dưới thì phóng khoáng, vụ thực, chẳng những đúng với tinh thần Khổng giáo lại có tôn chỉ cứu nhân độ thế, tùy thời đổi mới, tức là không nghịch với lẽ tiến hóa.

"Lương Tri" của họ Vương, tức là cái thuyết của Cicéron ở La Mã thuở xưa: "Luật không viết ra chữ, nhưng khảm ở trong tâm" (Loi non écrite, mais inscrite dans le coeur); kẻ tây, người đông, sở kiến cũng thế.

Rồi các ông khuyên nhủ nhà nho nước Tàu nên mạnh bạo từ giã cái học Chu Hi theo thuyết Dương Minh, vừa đúng tôn chỉ nguồn gốc họ Khổng lại có thể biến hóa cải cách.

Có người nói không sai: Nếu như lúc bấy giờ sĩ phu Trung Quốc biết nghe lời khuyên ấy, Trung Quốc đã cải lương tự cường sớm nhất phương đông; chứng cứ là phần nhiều sĩ phu Nhật về học phái Dương Minh đã biết đón rước văn hóa Thái Tây nhiều ít từ cuối thập thất thế kỷ; đến đời Minh trị Duy tân xây dựng lên không thiếu gì tay thợ ở trong học phái ấy ra.

Nhưng sĩ phu Tàu đời Minh nào có chịu nghe cho. Trừ ra một vài người như Từ Quang Khải, Lý Chi Tảo, Cù Thái Tổ, đã có óc mới, dịch sách mới, toan việc sửa đổi xã hội, nhưng họ và công việc họ làm, chẳng qua như hột muối bỏ bể; còn hằng hà sa số người khác vẫn thờ Chu Hi, trở lại công kích học thuyết Dương Minh là ngụy!

Sĩ phu tập nhiễm lối học từ chương khoa cử của Tống nho đã lâu đời, cho là con đường xuất thân có lợi hơn cả, dễ gì chịu bỏ. Lối học ấy, bảo người ta chỉ lo thuộc lòng từng câu từng chữ, chẳng cần biết gì đến quốc gia chính sự, càng khiến kẻ làm vua cầm quyền trông thấy có lợi cho việc cai trị, lại càng khuyến khích thêm. Nhà Minh phổ thông những sách có Chu Tử chú thích, buộc dân phải học, lại đem cả bộ Tính Lý Đại Toàn và sách Đại học chưa lời bàn họ Chu qua cho nước ta.

Vì thế mà cái họ Dương Minh thất truyền và hầu như bị cấm ngay ở quê hương nó, lại vượt bể truyền sang Nhật; cho đến sau bảy chục năm nay, vì Nhật mà Tàu mới biết cái học ấy là hay, là quý, thuở xưa đẻ ra ở đất nước mình.

Sau thế kỷ 15, có một học thuyết họ Chu và họ Vương tranh nhau trí thức nước Tàu, nói rõ hơn, Chu học đã chiếm hữu trí thức ấy lâu đời, Vương học đẻ sau muốn tống đi để tranh lấy chỗ; nhưng Chu học nhiều phe đảng, rốt cuộc vẫn thắng. Khoan nói tư tưởng, chỉ nội khoảng từ chương khoa cử đủ khiến phần đông muốn giữ riết lấy Chu học không buông, vì chính Vương học phản đối từ chương khoa cử thứ nhất.

° ° °

Nước mình từ xưa rập theo khuôn mẫu Trung Quốc từng ly, từng chút, bất cứ về phương diện gì, hễ Tàu làm thế nào thì ta bắt chước làm thế. Trong khi bên Tàu không hiểu Dương Minh mà bỏ qua, dù mình đây có mấy cơ hội Vương học đưa sang như trên đã nói, cũng chẳng biết lợi dụng để sửa đổi học thuật tư tưởng, nghĩ không nên lấy gì làm lạ.

Huống chi từ thế kỷ 16 trở đi, luôn mấy trăm năm, chiến tranh nội loạn như cơm bữa, vua quan lo việc võ bị, dân chúng chỉ những lưu ly, có ai yên tâm rảnh trí lúc nào hầu nói chuyện học thuật. Học thuật là việc lúc hòa bình. Bởi thế, cứ theo ông Phạm Quỳnh, bảo Vương học không có ảnh hưởng gì đến sĩ phu nước Nam, kể cũng có lý.

Tuy vậy, trí não sĩ phu ta cuối đời Lê không phải không có hai làn sóng phản động dội lên.

Ví dụ, ông Lê Quý Đôn than phiền về lối thi cử ta hủ bại và sĩ tử sau đời Lê Trung Hưng học sai đường lạc nẻo. Năm 1731, ông Bùi Sĩ Tiêm dâng biểu thống thiết nói về sự học đương thời chỉ đua nhau chắp nhặt văn xưa, thuộc lòng sao cũ, miễn sao đỗ được thì thôi. Hai ông Nguyễn Công Hăng và Ngô Thời Sĩ cũng điều trần những tinh tệ người mình học sai lầm và xin sửa đổi lại phép thi cử.

Mấy ý kiến ấy có phải chịu ảnh hưởng Vương học đấy chăng?

--------------------------------

1

Tương Dực Đế làm vua từ năm 1510 đến 1516. Ngang đời Võ Tôn nhà Minh, Niên hiệu Hồng Thuận thứ 5, Tây lịch 1514.

Những truyện nhân duyên Pháp - Việt trong lịch sử

Michel Đức, người con lai số 1 của nước ta. Bà Nguyễn thị Sen lên tận Paris để gặp sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ.

Sau khi người Bồ Đào Nha tìm ra con đường vòng Hảo Vọng Giác (Cap Bonne Espérance) qua Ấn Độ Dương, thuyền buôn Tây Dương tới lui miền Đông Á như đi chợ.

Đầu thế kỷ XVII, thương nhân Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, kế tiếp đến mở cửa hiệu buôn bán ở hai thương cảng lớn nhất của nước Nam ta: Đàng Trong là Hội An, Đàng Ngoài là Phố Hiến. Nhất là thị trường sau này khai sinh chậm thua Hội An, nhưng có lẽ tụ họp đông đảo hơn; sử chép hàng mấy nghìn nóc nhà ngoại thương, cảnh vui và bề rộng chỉ kém thành Thăng Long (Hà Nội) cho nên người đương thời đã có câu ví truyền tụng: "Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Hiến Nam". Hiến Nam tức là phố Hiến, ở xã Nhân Dục, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, đời Lê, chỗ ấy là trấn lỵ của trấn Sơn Nam.

Trong những thương nhân từ bên kia quả đất mạo hiểm đến kiều cư, doanh nghiệp ở xứ ta lúc bấy giờ, có ít nhiều người bởi sinh lý cần dùng, hoặc muốn xây dựng cơ sở lâu dài, đã kết hôn với đàn bà bản xứ.

Nhưng muốn tìm dấu tích các cô đi tiên phong trên con đường "Tây Nam hợp tác", dễ thường khó hơn muốn tìm bốn cạnh của chiếc hình tròn; vì thuở xưa ta chẳng có sổ sách hôn thú, cũng chẳng có báo chí nào đăng tin mừng, tin buồn mà hòng tra cứu.

Đến đời Gia Long, nghĩa là đầu thế kỷ XIX, có một vài bà được danh giá với xã hội và để lại tên tuổi trong sử sách.

° ° °

Trước hết là cô Benoite Hồ thị Huề, vợ ông J. B Chaigneau.

Ai đọc sử cận đại nước nhà chắc hẳn thừa biết ông này là một trong số hơn hai chục người thiếu niên anh tài Pháp do ông giám mục Bá Đa Lộc chiêu mộ sang đóng tàu luyện quân giúp vua Gia Long giữa năm 1789, lúc ngài còn là Nguyễn vương, mới khởi binh ở Gia Định, lực lượng rất mỏng manh. Nhưng không mấy người để ý đến chuyện ông Chaigneau có lấy một người vợ An Nam, mà cuộc nhân duyên ấy lại chính vua Gia Long đã có hảo tâm khuyên nhủ.

Ông là người thao lược, thận trọng, hiểu biết rộng về kỹ thuật hải quân, cho nên được vua ta rất tin yêu, trọng dụng, cho cai quản một chiếc tàu Long và một đội thủy sư, nhiều khi phó thác tất cả công việc án ngữ quân giặc ở mặt bể. Ngài hậu đãi có vẻ hơn cả chư tướng, lúc chuyện vãn hoặc có việc gì sai bảo, thường gọi "ông Long" một cách thân mật chứ không hô tên. Lòng tin yêu của nhà vua đối với ông đầm ấm đến nỗi khi biết ông góa vợ, lại ân cần nghĩ tới sự chắp mối tơ duyên cho nữa.

Lúc ấy vào khoảng cuối năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Vương đã thu phục kinh thành Phú Xuân và thiên đại bản doanh ở Gia Định ra đây. Một hôm, trong triều mở cuộc yến hội tướng sĩ, xong rồi nhà vua cầm giữ ông Chaigneau ở lại sau để hỏi chuyện gia thất.

- Ông Long! Nghe nói... bà nội trợ của ông đã quá cố? - Nguyễn Vương hỏi.

- Tâu Đại vương, quả thật chúng tôi đã nhận được tin buồn rầu ấy; xin cảm tạ Đại vương có lòng hỏi thăm! - Ông Chaigneau đáp.

- Vậy thì ông sắp lo kiếm đôi bạn mới đi.

- Bẩm, tôi không có ý tưởng ấy.

- Ồ! Người ta sống cô độc thì buồn chết! - Nguyễn vương cười và nói - Đại trượng phu ra trận đánh giặc, lúc trở về nhà cũng phải có đàn bà xinh đẹp ở bên cạnh yên ủi, nâng giấc, có thế mình mới thấy có sinh thú được chứ!

- Đại vương dạy rất phải, nhưng...

- Tôi muốn ông cưới ngay người vợ ở xứ này. Những nhà quyền quý, không thiếu gì con gái nhan sắc, tôi có thể làm mối hộ ông được ngay, nhưng chỉ hiềm vì họ không theo đạo. Tôi biết ông là người ngoan đạo, tất phải cưới vợ cũng có đạo mới được. Vậy ông nên tự kén chọn lấy đôi bạn cho vừa ý... Chả phải kiếm đâu xa, chung quanh Kinh thành chắc hẳn cũng có.

Sau câu chuyện này, ông Chaigneau để ý vật sắc được cô Benoite Huề, con nhà họ Hồ ở kinh thành, một nhà làm ăn lương thiện và có đạo gốc trải đã mấy đời.

Qua năm Nhâm Tuất (1802), sau khi Nguyễn Vương chính vị hoàng đế, kỷ nguyên Gia Long độ hai tháng, ông Chaigneau và cô Hồ thị Huề làm lễ hôn phối chính thức trước nhà thờ Thọ Đức ở Kinh thành Huế, giữa ngày 10 Août năm 1802.

Theo người chép gia phả họ Chaigneau, thì đôi lứa này rất là ân ái tương đắc; ông chồng hết sức kính mến vợ và khéo cư xử theo tục An Nam; cô Huề lại là người hiền hậu, chăm chỉ, có gia đình giáo dục tốt, người ngoài trông vào đều phải tấm tắc khen ngợi. Một tay cô nuôi nấng đàn con, chăm nom nhà cửa, đâu đó ngăn nắp chỉnh tề, tỏ ra một người giỏi việc tề gia nội trợ, khiến chồng được yên ổn làm việc vua việc quan, chẳng phải bận lòng về gia sự bao giờ. Nhất là lúc ấy ông Chaigneau cũng như ba ông Vannier, Despian, De Forcant đã trở thành một bực quan lớn tại triều, vua ban cho dinh thự và cắt riêng 50 tên lính hầu; lẽ tự nhiên cô Huề không phải là một người vợ tầm thường mà chính là một bà mệnh phụ đường đường, cử chỉ ngôn ngữ dù đối với ai cũng nhã nhặn, chứ không có chút nào kiêu căng, hợm hĩnh.

Cô ở với ông Chaigneau 13 năm (từ cuối năm 1802 đến tháng 9 năm 1815), sinh được 11 người con vừa trai vừa gái, rồi mang bệnh từ trần, ông chồng khóc than, nhớ tiếc mãi, cho là một vết thương lòng chẳng thể nào hàn gắn được.

Đến sau vua Minh Mạng lên nối ngôi (năm 1820), đem lòng nghi kỵ và bạc đãi các công thần khai quốc, cả người Pháp lẫn người Nam. Ông Chaigneau nghĩ tình thế không nên lưu luyến mũ áo, bổng lộc triều đình Việt Nam nữa, bèn dắt díu cả đàn con về ở luôn bên Pháp. Mười một người con của ông Chaigneau và bà Benoite Hồ thị Huề về sau đều thành đạt: con gái có chồng con, cơ nghiệp tử tế; con trai cũng học hành khá, người này ra làm võ quan, người kia cung chức trong các bộ của nhà nước. Cậu con đầu lòng là Michel Đức thọ đến 91 tuổi, mấy phen được gặp sứ thần của vua Tự Đức phái sang Ba Lê (Paris), và có một bức ảnh truyền lại, khăn đen, áo dài, râu bạc, má hóp, trông tướng mạo giống cụ Phan Thanh Giản như anh em ruột.

Michel Đức sinh tại Huế ngày 25 Juin 1803, trải qua tất cả thời kỳ thanh niên ở kinh thành nước ta, thường được ra vào cung cấm, cho nên hiểu biết công việc của triều Gia Long rất nhiều; sau về bên Tây viết sách "Kỷ niệm xứ Huế" (Souvenirs de Hue), ở một chuyện trước chúng tôi đã có dịp nói đến, kể lại nhiều sự kiến văn lý thú.

Hồi Michel Đức mới bảy, tám tuổi, có một hôm đi theo cha vô trong Nội, theo lệnh nhà vua đòi vào cho ngài xem thử cái kết quả Pháp - Việt hợp tác tốt đẹp đến thế nào.

Lúc ấy, vua ngự ở một chái điện Cần Chánh, ngồi trên chiếu cạp vóc vàng, trước mặt để cái yên viết, bày đĩa son và một chồng tấu sớ; ngài đang cầm bút phê xét giấy tờ, sau lưng vài chị cung nữ đứng hầu châm thuốc và một viên thái giám chờ lệnh sai phái. Trông thấy ông Chaigneau đưa cậu Đức vào, ngài lật đật nhổm dậy và nói cười niềm nở:

- Ha! Ha! Lại gần bên ta, để ta xem mặt mũi có giống ba không, nào!

Ngài để bàn tay trên vai cậu bé, vuốt ve cằm cậu một cách nựng nịu yêu đương, nhìn kỹ diện mạo rồi nói với ông Chaigneau:

- Này, ông Long! Ông khéo nặn thằng bé ngộ nghĩnh dễ yêu quá, chỉ phải cái mũi nó hơi An Nam một tí.

Vua nói rồi cười ha hả, làm cho ông Chaigneau cũng bật cười theo. Cậu bé Michel ta ngây thơ chả hiểu chuyện gì, cũng nhoẻn miệng cười nốt.

Hết lời nọ qua câu kia, nhà vua vui miệng nói liền liền, chẳng để hở giây phút nào cho cậu bé làm lễ tung hô, bài học triều nghi mà cậu đã được mẹ dạy thuộc lòng trước khi theo cha vô nội.

Một lúc sau cậu mới có dịp tung hô "Thiên tử vạn tuế! Vạn vạn tuế" không ngờ mấy tiếng ấy làm vua Gia Long nổ thêm một trận pháo cười và giảng giải cho cậu bé hiểu rằng: ngài cũng là con cha mẹ sinh dưỡng như ai, chứ không phải con trời giáng sinh như người ta lầm tưởng.

Xong đoạn ấy rồi, ngài âu yếm hỏi cậu:

- À, ta quên hỏi con, năm nay mấy tuổi, con?

- Muôn tâu Ngài Ngự! Con được 8 tuổi.

- Con đã học chưa?

- Muôn tâu Ngài ngự! Con đang khởi sự học chữ Phú Lãng Sa và chữ Nho.

- Giỏi lắm! Con gắng học chăm chỉ, nghe! Mai sau, ta cho con làm quan. Con có ưng làm quan không?

- Dạ, con ưng lắm.

- Được rồi! Bây giờ thì con đi vô chào Hoàng hậu; xong, con trở ra đây, ta cho xem hát tuồng, nghe! Con cứ đi mạnh bạo lên, đừng sợ gì cả, đàn bà trong này không phải dữ tợn, họ không ăn thịt con đâu mà lo.

Sau khi Michel Đức theo chân một cung nữ đi vào điện trong, vua Gia Long quay lại nói chuyện với ông Chaigneau:

- Thằng bé sắp vào giữa đám cung tần mỹ nữ, chả biết nó có cảm thấy sung sướng thế nào, tôi tưởng nhiều người muốn ở địa vị nó mà chẳng được.

Trong khi ấy, Michel Đức vào nội cung triều kiến Hoàng hậu, được Hoàng hậu chiêu đãi hết sức niềm nở, một tiếng gọi cậu Đức, hai tiếng gọi cậu Đức, ban cho quà bánh nhiều thứ và hỏi han tẩn mẩn những chuyện đàn bà bên Tây phương ăn mặc thế nào, có nhiều người đẹp không? Cậu trả lời chưa được về quê cha, đất tổ, cho nên tình hình phụ nữ Châu Âu thế nào, cậu không biết rõ, nhưng cứ nghe ba cậu kể chuyện thì bên ấy cũng có nhiều đàn bà đẹp như ở đây. Các bà phi tần và nữ quan cũng xúm xít hỏi chuyện, mỗi người một câu, làm cho cậu bé ứng đối không kịp.

Trở lên toàn câu chuyện ứng đối trong sách "Kỷ niệm xứ Huế" của Michel Đức, xuất bản ở Paris, năm 1867. Kể còn nhiều kiến văn lý thú khác quan hệ về chính trị, về phong hóa, về nhân vật ở thời đại Gia Long, nhưng khuôn khổ giấy mực ở đây chỉ cho chúng tôi lược cử ra một vài giai thoại thế thôi. Nghe chuyện Michel Đức, thì thấy vua Gia Long có vẻ đức độ giản dị, vui tính, nhất là có vẻ bình dân.

Theo như lý do đã bày tỏ chặng đầu, cố nhiên Benoite Hồ thị Huề không phải là người đàn bà Việt Nam thứ nhất lấy chồng Tây Dương. Nhưng kể hạn có tên tuổi ở xã hội và lịch sử, thì chắc hẳn cô là số một, mà Michel Đức, người con đầu lòng Pháp - Việt hợp tác, cũng là số một, đã được ra vào chốn cung điện tôn nghiêm của nước ta.

° ° °

Đồng thời có hai bà nữa, đến nay cũng còn thấy dấu tích in trong sử sách.

Ấy là cô Hồ thị Nhơn, em ruột cô Huề, lấy ông De Forcant và cô Nguyễn thị Sen, vợ ông Vainnier tức Nguyễn văn Chấn, cai quản tàu Phụng. Cả hai ông cũng là khai quốc công thần của vua Gia Long và cùng làm quan tại triều như ông Chaigneau.

Nhưng đôi bạn trên hình như thua chị kém em, không được nhìn thấy nụ cười hạnh phúc. Vì ông De Forcant không giàu sức khỏe để kham nổi khí hậu xứ này, cho nên chỉ cung chức được ít lâu thì bệnh hoạn lôi kéo đi thế giới khác, để lại cô Nhơn trẻ trung góa bụa và chưa có con cái gì.

Duy cô Nguyễn thị Sen, kể ra sung sướng hơn cả. Nếu có phải hạnh phúc tuyệt đối của đời người đàn bà gồm có ba việc là chồng sang, con đông, tuổi thọ thì quả thật cô được kiêm hưởng.

Lai lịch của cô và nhân duyên buổi đầu gặp gỡ thế nào, chúng tôi thú thật thiếu sự nghiên cứu. Chỉ biết đại khái cô cũng là con nhà đạo gốc, có tên thánh là Madeleine và cùng ông Philippe Vannier kết hôn chính thức, có lẽ trước ông bạn đồng liêu Chaigneau cưới cô Hồ thị Huề. Trong khi má cậu Đức làm bà lớn nhất hô bá ứng ở dinh thự ông chúa tàu Long, thì cô Madeleine Sen cũng đường đường ở ngôi phu nhân nội tướng trong dinh ông chúa tàu Phụng; địa vị vinh hiển ngang nhau, bổng lộc vua ban và quân lính hầu hạ chắc hẳn cũng thế.

Bước sang triều Minh Mạng, bày ra sự thế hay ở dở đi, hai ông Chaigneau và Vannier cùng nộp ấn từ quan, rủ nhau đưa gia quyến vào Gia Định, đáp tàu về Pháp. Có điều, một người thì dắt díu lũ trẻ mồ côi sinh mẫu; còn một người thì thê tử đề huề, mẹ tròn con vuông.

Khi sắp lên đường hình như ông Vannier đã thành thực bảo cô Sen muốn ở lại tùy ý. Sống ở nước Nam lâu ngày, ông thừa hiểu tâm tính người xứ này rất mực lưu luyến gia hương, chẳng muốn vì một lẽ gì xa cách lũy tre xanh đầu làng; huống chi muôn dặm xa xôi, có thể một đi không về như chim hoàng hạc.

Nhưng cô Sen mạnh bạo hy sinh tình yêu quê quán đi theo tiếng gọi của tình yêu, mẹ con.

Rồi thì cắn răng từ giã làng nước, họ hàng; cô Sen nách bồng, tay dắt, theo đức phu quân xuống tàu về Pháp, ở châu thành Lorient là quê chồng, có một nếp nhà vườn tổ phụ để lại.

Vợ chồng vui sống trong cảnh an nhàn được hai chục năm thì ông Vannier qua đời.

Ông mất nhằm ngày 6 Juin 1842, để thương, để tiếc cho người quả phụ 52 tuổi với mười đứa con: 3 trai, 7 gái.

Hai người con trai lớn đi làm việc nuôi mẹ một cách hiếu thảo; còn các cô con gái thì phần đông đã có chồng con, ở riêng.

Đến năm 1863, có sứ bộ Việt Nam sang Pháp. Chắc ai cũng nhớ là sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, vâng mệnh vua Tự Đức sai đem phẩm vật qua hiến Pháp hoàng Nã Phá Luân đệ tam (Napoléon III) và thương thuyết với triều đình Pháp về việc ba tỉnh Nam phần.

Lúc bấy giờ Vannier phu nhân đã trở nên một bà lão răng long tóc bạc ngót bảy chục tuổi đầu.

Con cháu xem bảo thấy có sứ Việt Nam sang, kể chuyện lại cho bà nghe. Động lòng cố quốc tha hương, bà chẳng quản gì đường xa tuổi già, lập tức cùng cô con gái út lên tận Ba Lê (Paris) để chào các quan sứ nước nhà.

Trong tập nhật ký "Như Tây sứ trình" của cụ Phan Thanh Giản viết, để khi về phải dâng vua ngự lãm, có mấy hàng chép việc: "Lão phụ Nguyễn thị Sen, vợ Nguyễn văn Chấn, tức Vannier, cùng đi với người con gái út, từ Lorient lên tận Paris, tìm đến sứ quán, chào mừng sứ thần, hỏi thăm tin tức quê hương và ngỏ lời kính chúc hoàng thượng an hảo..."

Hôm ấy, bà Sen mặc quốc phục để tỏ lòng nhớ nước. Hơn năm chục năm xa vắng cố hương, quen dùng Pháp ngữ, thành ra quên tiếng An Nam rất nhiều, nói chuyện câu được câu chăng, Michel Đức, con ông Chaigneau, ngồi bên nhắc lại, hoặc thông ngôn hộ, các quan sứ ta mới nghe rõ. Hai mẹ con bà ở Paris mãi đến hôm tiễn chân sứ bộ lên đường, rồi mới trở về Lorient. Cụ Phan Thanh Giản thay mặt vua, tặng bà mấy nén bạc và mấy tấm lụa.

Bà sống mãi đến ngày 6 Avril, năm 1878, thọ 87 tuổi.

Tại Lorient, có hai mộ liền nhau, dựng bia khắc chữ, một bên là Philippe Vannier, một bên là Madeleine Sen, đến nay vẫn còn.

Một bài thơ giết người

14 chữ làm chết hai cha con ông Tiền quân Thành. - Có lẽ quả bảo tại ông Thành làm bộ luật Gia Long.

I

Trái núi đẻ ra con chuột

Giữa tháng Chạp năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long thứ 14 (dương lịch 1815), trong các giới quan liêu - nhất là bên võ - ở kinh thành Huế, xầm xì bàn riêng nói nhỏ với nhau về một vụ âm mưu phản nghịch rất quan hệ.

Những kẻ rỉ tai nói mánh câu chuyện ghê gớm ấy, hoặc chỉ mới phong thanh chứ không biết rõ thực sự, hoặc cố ý phóng đại ra, muốn khoe mình thông tỏ công việc quốc gia triều đình hơn. Làm khổ cho người được nghe phong thanh, bất giác hồi hộp kinh hoàng, tưởng đến cảnh tượng máu chảy thành suối, đầu rụng như sung, không khéo tất cả cung điện phố phường đều ra tro, mà đất sắp nghiêng trời cũng sắp ngã vậy.

Song người ta có thể vuốt ngực để thở, vì vụ âm mưu phản nghịch ấy bị phát giác.

Có điều nó quan hệ, và rất mực quan hệ, là bọn âm mưu không phải người thường, chính là cha con một vị công thần khai quốc, chức cao quyền lớn, hiển hách tại triều. Mà người đã phát giác âm mưu cũng là bậc rường cột triều đình tương đương như thế. Trong tay lại nắm được chứng cớ hẳn hoi có thể nói là tờ hịch khởi loạn. Rồi xem...

Ấy, trong giới am hiểu sự tình, khi mới nghe lỏm, thì thầm với nhau ở bóng tối nhà riêng, đại khái là thế.

Kỳ thật, chỉ là câu chuyện trái núi đẻ ra con chuột.

Gọi là âm mưu phản nghịch, gọi là chứng cớ hẳn hoi, rút lại có một bài thơ tám câu dưới đây, không hơn không kém.

Văn đạo Ai châu đa tuấn kiệt.

Hư hoài trắc tịch giục cầu ti.

Vô tâm cửu bão kinh sơn phác,

Thiện tưởng phương tri ký bắc kỳ.

U cốc hữu hương thiên lý viễn,

Cao cương minh phượng cửu cao tri.

Thử hồi nhược đắc sơn trung tể,

Tả ngã kinh luân chuyển hỏa ky.

Nguyên văn bài thơ thấy chép trong sử "Đại Nam Thực lục chỉnh biên đệ nhất kỷ" quyển thứ 51; ông Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược) đã dịch ra quốc văn như sau này:

Ái châu nghe nói lắm người hay.

Ao ước cầu hiền đã bấy nay.

Ngọc phát Kinh sơn tài sẵn đó.

Ngựa kỳ ký bắc biết đâu thay!

Mùi hương hang tối xa ngàn dặm.

Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.

Sơn Tể phen này dù gặp gỡ.

Giúp nhau xoay đổi hội cơ này.

Cố nhiên, về mặt văn chương, kể cũng là một thiên giai tác; nhưng ở đây người ta không cần nói chuyện văn chương, chỉ cần soi móc nội dung, về chỗ dụng ý lập ngôn của tác giả.

Nào, nội dung có gì?

Chẳng qua tác giả cốt gửi cho bạn ở Thanh Hóa (Ái Châu), vì từng nghe tiếng là bậc hiền nhân danh sĩ đời nay, cho nên trong bụng hâm mộ khát khao, mong được gặp gỡ. Nào ngọc phát Kinh sơn, ngựa kỳ Ký bắc; toàn mùi hương hang tối, tiếng phượng gò cao, toàn là lời hình dung tâng bấc tài năng danh vọng của bạn theo lối thù phụng thanh nhã thế thôi. Trong đấy, nào có một ý, một chữ gì tỏ ra chê bai vua chúa hay oán hận triều đình, khiến người ta buộc được phản nghịch cho cam?

Giá như bài thơ chỉ đến đó là hết, thì còn phải nói làm chi, mà cũng không có chuyện. Khốn, nhưng sinh sự và giết người là ở hai câu sau chót:

"Thử hồi nhược đắc Sơn trung tể?

Tả ngã kinh luân chuyển hỏa ky"

Tất cả mối manh vụ án bài thơ giết người, tất cả sợi dây nghiêm hình đối với tác giả, đều trói chặt vào 14 giữ ấy.

Đào Hoằng Cảnh, người Tàu ở đời Lương Vũ Đế (502-549) tài cao học rộng, ở ẩn trong núi; vua mời mãi ra làm quan không được; mỗi khi nhà nước cho việc gì khó khăn, phải sai người vào núi hỏi ý kiến. Vì thế, người đương thời gọi là Sơn trung tể tướng (quan tể tướng trong núi).

Tác giả bài thơ là anh học trò, là chú lê dân, sao lại được phép mong ước có một vị Sơn trung tể tướng? Mà để làm gì? Để giúp nhau xoay chuyển hội cơ này, có phải rõ ràng muốn chuyển di cuộc thế, dòm ngó mạng trời, tức thị muốn rủ nhau cướp nước làm vua, chứ còn gì nữa?

Vậy thì điều mong ước ghê gớm ấy, chính là dấu tỏ âm mưu phản nghịch.

Ta nên biết ở thời đại quân chủ độc tôn, khoan nói sự hành vi xâm phạm đến quyền độc tôn ấy, nội một ý nghĩ, một câu văn, đại khái như bài thơ trên đây, cũng đủ kể là tội ác nguy hiểm ra thế nào?

Nhất là bố đẻ ra nó, hay nói rõ hơn, người bị vu cáo hoặc bị tình nghi đẻ ra bài thơ ấy, lại là Nguyễn văn Thuyên, con ông Nguyễn văn Thành, Trung quân Đô thống chế, tước Quận công, hiện đang làm quan to nhất trong triều.

Chúng tôi muốn nhấn mạnh ở những tiếng "bị vu cáo hoặc tình nghi" bởi duyên do vụ án chỉ là chuyện tư thù nhỏ mọn gây ra, nhiều chỗ mập mờ khuất khúc, đáng làm cho ta ngờ vực; trong sử chép cũng chẳng thấy chỗ nào chứng thực có phải Nguyễn văn Thuyên là tác giả bài thơ hay không?

Lấy tài liệu trong sử đời đó, xem vụ án phát khởi và diễn biến ra sao thì biết.

II

Níu áo cụ lớn để vòi tiền

Với những chiến công oanh liệt giúp vua Gia Long khai quốc và bài văn tế "Trận vong tướng sĩ", thêm bộ luật lệ Gia Long, Nguyễn văn Thành đã ghi tên mình vào lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19, là một văn gia, là một nhà kiêm cả chính trị, pháp luật.

Thật thế, sau khi vua Gia Long thắng được Tây Sơn, thống nhất toàn Việt, ông Thành có làm Bắc thành Tổng trấn ít lâu, rồi về làm quan tại trào, phụng mạng sửa sang hình luật trong nước tức là bộ luật Gia Long.

Lúc xảy ra vụ án cậu ấm nhà ta, ông Thành đang làm quan hiển hách nhất trào, trên cả các ông Lê văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng, Trịnh Hoài Đức, mặc dầu cùng hạng công thần khai quốc như nhau.

Những người như Thành, công danh phú quý to quá, nếu khéo tri túc mà kịp thời lui trước đi, có thể tránh được nhiều điều hệ lụy và trọn hưởng tuổi trời chẳng hơn. Ngày xưa Phạm Lãi giúp vua Câu Tiễn báo thù phục quốc xong rồi, lẳng lặng trốn đi, bơi thuyền Ngũ Hồ, người đời phục là minh triết; không như Văn Chủng, tham quyền cố vị, đến nỗi bị Câu Tiễn giết chết. Thịnh danh đa lụy, cho nên cổ nhân vẫn kiêng. Đằng này, Thành đã đi tới quá chỗ thịnh danh, làm sao cho khỏi bị người ganh tị, ngờ vực? Bắt đầu ngay từ nhà vua mà đi, nói chi thiên hạ trông mong vào mình rất nhiều, nhưng không phải ai cũng được làm vừa lòng, tự nhiên mọi sự thù oán tiểu nhân mọc mầm đâm rễ từ đó. Đến khi biết ra thì đã quá muộn!

Thành trước có người môn khách tên là Nguyễn Hựu Nghi, vẫn lui tới ăn ở trong nhà, có khi giúp Thành về việc biên chép giấy tờ, trong ý không có gì khác hơn là mong nhờ cất nhắc có chút công danh địa vị. Nhưng rồi sau Nghi làm việc lầm lỗi với Thành sao đó, phải bỏ trốn đi, ghim lòng thù oán.

Lần hồi Nghi khéo luồn lọt được làm môn hạ ông Lê văn Duyệt, vì hắn thừa biết ông này với Thành vốn không ưa nhau.

Ông Duyệt thấy Nghi có tài khẩu biện, đem lòng yêu mến tin dùng, dần dà cất nhắc cho hắn tới chức Thiêm sự bộ Hình. Thầy trò tương đắc nhau có lẽ vì chung một kẻ cừu địch: Nguyễn văn Thành.

Tuy thờ chung một chủ, đứng chung một triều, nhưng Thành - Duyệt vẫn khinh ngầm ghét đắng nhau, thuở ấy không ai không biết. Người ta kể lại nguyên ủy từ trận đánh nhau với binh Tây Sơn ngoài hai chục năm trước. Lúc bấy giờ hai tướng cùng ngồi trên lưng voi đốc chiến, Thành rót rượu uống cho thêm dũng khí; lại rót mời Duyệt đôi ba lần, Duyệt đều từ chối. Thành ép mãi, Duyệt nói:

- Đây tôi lúc nào cũng thừa dũng khí có cần như bác phải nhờ hơi men đâu!

Thành cười, nhưng trong lòng căm Duyệt từ đấy. Vả lại, Thành vẫn tự phụ mình hơn tuổi, văn võ toàn tài, con nhà dòng dõi, không phải như Duyệt xuất thân là anh hoạn thị, chỉ nhờ trận mạc đánh nhau giỏi, mà rồi cùng Quận công, Đại tướng, ngang vai bằng hàng với mình. Cho nên Thành hay tỏ ý khinh bỉ Duyệt, làm Duyệt ấm ức đã lâu.

Duyệt thu nạp Hựu Nghi là người đã bị Thành đuổi, lại cất nhắc cho làm quan, thâm ý chưa chắc không phải cốt làm cho bỉ mặt Thành cho bõ ghét.

Không có gì chứng tỏ ra Duyệt muốn dùng Hựu Nghi làm khí giới để trả thù hãm hại người bạn đồng liêu; nhưng riêng Hựu Nghi căm hờn Thành đuổi nên dụng tâm lập kế báo thù thì có.

Hựu Nghi, vốn người Thanh Hóa, khi làm chức Thiêm sự bộ Hình, có nuôi trong nhà một anh chàng đồng quận; tên Nguyễn Trương Hiệu, vào hạng thư sinh bất đắc chí, đi kiếm ăn giang hồ, vì học khá, chữ tốt, thuật số cùng tinh; lại được vẻ người như là thật thà, thêm có khẩu tài.

Bấy nhiêu đặc tính của Trương Hiệu khiến Hựu Nghi để ý ngay đến chỗ lợi dụng làm khí giới để tiết phẫn với Thành, bèn tìm cách cho Trương Hiệu được trở nên người nhà thân mật của con Thành là Nguyễn văn Thuyên.

Cậu ấm con cụ lớn này, đỗ cử nhân từ mấy năm trước, nhưng tính khí hào phóng tự do, không thích làm quan, dựng một nếp nhà riêng ở phường Đông Ba, lấy nơi tụ họp văn nhân thi sĩ xa gần, ngày ngày uống rượu ngâm thơ với nhau làm vui. Thuyên lại sẵn tiền và chuộng khách, nghe đâu có danh sĩ, không ngần ngại sai người vác tiền đi mời mọc kỳ được tới kinh đô, để cùng chè chén ngâm vịnh chơi.

Chủ tâm Hựu Nghi xếp đặt cho Trương Hiệu được "nhập nội" nhà Thuyên, đã rỉ tai bảo nhỏ:

- Chú mày để tâm rình mò cử động thằng Thuyên có điều chi khác lạ, phải bảo cho tôi biết ngay nhé!

Không bao lâu... Một hôm, vào khoảng thượng tuần tháng Chạp năm Ất Hợi, Trương Hiệu hí hửng chạy về nhà Hựu Nghi đưa cho xem một phong thư, và nói:

- Đây là bài thơ chính chữ Thuyên viết. Nó sai tôi cầm ra Thanh Hóa đưa cho Văn Khuê và Đức Nhuận (hai người đều họ Nguyễn và danh sĩ tỉnh Thanh) mời bọn ấy vào Huế chơi. Bác xem hai câu kết rõ ràng ý tứ phản nghịch triều đình, đến mười họ nhà nó cũng phải chết!

Tức là bài thơ các ngài đã thấy đoạn trên.

Giữa lúc đó, ông Lê văn Duyệt Tổng trấn Gia Định, vừa mới về kinh bệ kiến được mấy hôm.

Hựu Nghi cầm bài thơ tang chứng và dẫn cả Trương Hiệu lại tố giác với ông Duyệt.

Ông này ghét Thành đã sẵn, nay vớ được tang chứng thế này còn gì khoái ý hơn; lập tức vào nội, mật tâu với vua.

Vua Gia Long xem rồi, cho là việc mập mờ bỏ qua không muốn tra cứu, trao bức thư lại cho ông Duyệt, bảo đưa trả người đầu cáo, tức Trương Hiệu.

Tất cả màn đầu đã diễn trong vòng kín đáo, chắc hẳn cha con ông Thành không biết gì cả. Ta thấy trong màn thứ hai chứng rõ điều đó.

Hựu Nghi lập mẹo bày khôn cho Trương Hiệu về miếng giấy nằm trong tay nó:

- Cái bút tích tày trời thế này, chú mày đã tố giác để lập công cầu thưởng không xong, giờ đem ra xoay tiền thằng Thuyên và lão Thành, chắc được. Bao nhiêu nén bạc mà chúng nó chẳng phải chuộc về!

Quả nhiên, Trương Hiệu đến nhà Thuyên làm tiền, với khí giới đe dọa trong tay; nếu không hối lộ thì sẽ đưa ra tố giác. Mà tố giác thì hai câu thơ cuối sẽ trói cổ Thuyên về tội âm mưu phản nghịch là tội chết chém.

Có tật giật mình, Thuyên phải đút nhét vào lòng tham của Trương Hiệu mãi, cho được êm chuyện.

Nó lấy tiền nhiều lần rồi, nhưng vẫn giữ chặt bức thư tang chứng làm như lúc nào cũng đeo thanh gươm ở trước cổ Thuyên.

Tới khi vắt mãi cậu ấm không còn ra nước hối lộ được nữa, Trương Hiệu xoay đến cụ lớn.

Thằng cha giang hồ thuật sĩ này, có lá bùa sát nhân trong mình, cho nên mật to hơn mật Khương Duy, không ngần ngại đón đường ông Thành, níu chặt lấy áo ông mà vòi tiền.

Có lẽ ông Thành vững lòng tin tưởng con mình ngay thật chăng? Vì ông làm quan đến cực phẩm triều đình, con ông sinh trưởng phú quý, lại có học thức, đỗ cử nhân, bảo rằng nó mưu phản thì vô lý quá. Dù chính nó làm bài thơ ấy chăng nữa, bất quá là khẩu khí ngông nghênh của một kẻ khát rượu cuồng thơ, trẻ người non dạ; có tội thì đánh đòn hay ở ngục là cùng, chẳng đến nỗi chết đâu mà sợ. Huống chi có thể trông mong ở lượng khoan hồng của nhà vua, nghĩ lại công lao ông bách chiến mà tha thứ cho con ông.

Hay là ông biết chắc tang chứng trong tay Trương Hiệu là đồ giả mạo chăng? Có lẽ. Vì có thể tin rằng Hựu Nghi lập mưu cho Trương Hiệu nhập nội nhà Thuyên, cốt học giống hệt lối chữ Thuyên, rồi tự làm bài thơ nguy hiểm kia để vu cáo; mục đích vừa lập công, vừa báo thù. Nếu vậy thì càng nên làm ra minh bạch, nhất là ông đã soạn ra hình luật cho nhà nước, tất phải trừng trị những quân "ngậm máu phun người".

Chẳng biết có phải ý nghĩa của ông Thành như hai điều nghi vấn đó không? Chỉ biết khi tên Trương Hiệu níu áo vòi tiền giữa đường, làm ông nổi xung lên, tức khắc sai bắt trói cả Trương Hiệu lẫn Văn Thuyên, con ông, đem giam vào ngục trong trại binh Quảng Đức. Rồi ông thân hành vào triều đem hết công việc tâu vua, và xin xét cho ra lẽ.

Vua giao cho đình thần mở cuộc thẩm vấn.

Thế là vụ án trở nên công khai.

III

Bố tự tử, con bị chém

Cuộc xét hỏi bắt đầu ngay.

Trước mặt đình thần, Thuyên cực lực bày tỏ mình bị vu oan giá họa, không hề có bụng mưu nghịch; chính bài thơ tang chứng kia không phải mình làm, mà cũng không phải chữ mình viết.

Nhưng Trương Hiệu khai rõ đầu đuôi một hai khai quả quyết rằng Thuyên mưu nghịch; lại dẫn chứng cớ, môn khách của Thuyên là Đỗ Văn Chương cũng biết việc đó.

Hình bộ đòi Văn Chương ra đối chất, thì hắn đã về Gia Định từ trước rồi.

Vua Gia Long thấy chứng tá chưa đủ, bèn hạ lệnh cho Thuyên ra khỏi ngục thất, - nghĩa là cho tại ngoại hầu tra, - đợi Hình bộ tư bắt Văn Chương ra đối chất sẽ hay.

Bước qua đầu năm sau "Gia Long 15, dương lịch 1816" bọn thù ghét Thành bấy lâu được dịp đàn hặc đủ thứ, cố phá hoại thêm cho tòa nhà đã dột, chiếc thuyền đã hư. Những tấu sớ hạch tội Thành dâng lên như bươm bướm.

Gay gắt nhất là Nguyễn Duy Hòa, Ký lục tỉnh Quảng Trị (tức quan đầu tỉnh hồi bấy giờ) về Kinh bệ kiến, cốt để dâng sớ xin nghiêm trị Thành. Đại ý nói rằng:

"Con Thành là Thuyên, ngầm mưu phản nghịch, đã bị bại lộ, vậy mà Thành vẫn còn nghênh ngang mũ áo, đứng trên bách quan, còn gì là triều đình thể thống?

Triều đình là chốn tôn nghiêm, làm mẫu mực cho thần dân thiên hạ trông vào. Nay tên Thuyên đã bị giao cho đình thần xét xử lại được yên ổn về nhà; phép luật thi hành thế ấy làm sao treo gương ra mẫu cho thiên hạ?

Huống chi Thành làm luật, tự tiện rút bỏ khoản này khoản kia, lại cất nhắc tên Trần Hựu, là đứa gian phi mà giấu bịt cái tội nó cưỡng dâm vợ người đi, thế là ngầm kế bè đảng dối vua hại nước. Đến nỗi xây mộ cho mẹ cũng làm trái phép quá phận, kể đạo làm tôi, thế là tội to lắm.

Bệ hạ có thương xót y có công lao, thì cũng nên đưa ra công luận, lấy phép sửa trị, sau sẽ lấy ân mà bảo toàn cho, có thế quốc pháp mới được công bằng, gian thần mới biết kiêng sợ v.v..."

Vua trao sớ này cho đình thần bàn xét, ông Thành chỉ nhận lỗi mình cất nhắc Trần Hựu sai lầm, còn các khoản khác thì đều biện bạch cãi chối.

Nhân đấy vua nhắc đến bài thơ bội nghịch của Thuyên, và nói:

- Ý thơ bài thơ sao mà trái ngược thế nhỉ? Phải biết có Lương Vũ Đế, mới có Sơn trung tể tướng chứ. Thằng Thuyên là người gì mà dám ao ước có Sơn trung tể tướng?

Các quan im lặng cả, vì chẳng ai ưa gì ông Thành mà hòng bênh vực. Vả lại ở thời đại ấy, mấy ai dám nói trái ý vua? Trừ ra Hình bộ tham tri Võ Trinh thường ngày có cảm tình với ông Thành, nay muốn nhân dịp bào chữa hộ cha con ông đôi chút.

- Tâu bệ hạ, bài thơ ấy quả thiệt ý tứ "bội nghịch". Nhưng ở trong có câu "U cốc sinh lương thiên lý viễn" chữ Hương ấy đáng là chữ Lan mới phải vì chữ Lan thì lạm húy cho nên Thuyên dùng chữ Hương. Cứ xét nội một chữ ấy, nó còn biết kiêng sợ không dám dùng đến, vậy thì không phải nó thực lòng muốn bội nghịch".

Câu nói như thế bất quá là cách biện hộ của một thầy đồ gàn, chỉ kiếm chuyện bào chữa vu vơ, chứ không dám nói thẳng vào vụ án. Thế mà cũng đủ cho vua Gia Long nổi giận lôi đình, cho là tùng đảng, tức khắc lột chức Võ Trinh mà giam vào ngục. Rồi vì tội đó mà sau ông bị án phát phối làm lính ở Quảng Nam.

Sự thật, thâm ý vua Gia Long cùng chẳng ưa gì ông Thành. Lẽ quan hệ nhất là thường tình ông vua sáng nghiệp, một khi đánh xong giặc, lên ngôi tôn rồi, bao giờ cũng ngờ vực công thần khai quốc. Săn hết thỏ thì giết chó, săn bắn hết chim thì muốn bẻ ná, trò đời xưa nay vẫn thế. Huống chi ông Thành cũng có ỷ mình công to, vả lại vua tôi thân mật từ những khi còn bôn ba hoạn nạn với nhau, cho nên lời nói việc làm không khỏi đôi khi sơ suất hay quá bộc trực, khiến vua lấy làm bất mãn. Ông lại hay năn nỉ xin lập Hoàng tôn Đán (con ông Hoàng tử Cảnh) làm vị trừ quân mai sau, điều đó trái hẳn ý vua, vua sinh ra ngờ vực rằng ông muốn có ấu quân để rồi chuyên chính lộng quyền cho dễ. Tuy nhiên, một người có công to như Thành, không thể bỗng dưng đem giết đi; nhưng nếu tự Thành làm nên tội vạ để cho vua có cớ trừ khử, hoặc là hạ bớt uy quyền và kiêu khí của Thành xuống, chắc hẳn vua được khoan tâm trúng ý.

Chẳng thế sao vụ án cha con Thành chưa xong, đã vì một câu nói mà buộc tội Võ Trinh tùng đảng, cho đến cách chức bỏ tù?

Tháng Hai, đến kỳ tế Nam Giao. Triều thần cùng tâu rằng Thành đang có tội, không nên cho dự vào lễ tế trọng thể ấy.

Vua nói rằng: Thành là đại thần nhà nước, dù thằng con y phạm vào bội nghịch, nhưng việc còn mập mờ, đang xét chưa xong, vậy không lẽ mới nghe lời nói của một bên, đã vội sơ tình với người bầy tôi huân cựu? Đoạn, vua cứ cho Thành được dự tế.

Thành trông thấy cả triều thần xúm lại trị mình lấy làm ức quá, tự nghĩ không còn chỗ dựa nào khác hơn là chính vua. Một hôm, vua ra triều xong, đứng dậy về cung, Thành rảo bước theo đến tận cửa, nắm lấy áo vua mà ngăn lại khóc lóc và nói:

- Tôi nhỏ lớn theo phò bệ hạ cho đến ngày nay, vốn không có tội gì cả. Bây giờ bị người ta xúm nhau vu hãm, bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn cho người ta giết tôi, mà không nhủ lòng cứu gỡ hộ ư?

Nguyễn Đức Xuyên thét mắng:

- Nhà ngươi có tội hay không, sẽ có công luận xét xử, cớ sao dám vô lễ ở chốn triều đình như thế.

Vua không nói gì, dằng áo về cung, giận Thành về cử chỉ ấy, cho nên từ đó không cho vào chầu nữa.

Đầu tháng Tư, người chứng quan hệ là Đỗ Văn Chương ở Gia Định đã ra tới Kinh. Trước mặt đình thần, Văn Chương khai đúng như lời Trương Hiệu, nghĩa là bài thơ chính Thuyên làm và chữ Thuyên viết. Tóm lại, Thuyên quả có mưu nghịch.

"Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết" vì thế, Thuyên bị bắt vào ngục, mà Thành bị thu quyền chức Trung quân đại tướng.

Vua hỏi ông Phạm Đăng Hưng:

- Thế, tên Thuyên đã chịu phục tội nó chưa?

- Bẩm, chưa!

- Nó manh tâm làm phản có chứng như thế, sao còn gân cổ chối cãi là nghĩa làm sao?

- Tâu bệ hạ: tên Thuyên tự nghĩ nó là con nhà công thần, hẳn bệ hạ không nỡ giết; mà đình thần tra hỏi, cũng không dám tận tình hết phép, cho nên nó cứ gân cổ chối cãi vì đó.

Lời tâu của Phạm Đăng Hưng có nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay: Muốn cho nó phục tội, thì đưa ra "bó giò" hay "tra điện" thử xem!

Hẳn lúc bấy giờ vua Gia Long cũng hiểu như thế, cho nên ngày hôm sau ngài phú thác cho ông Tả quân Lê văn Duyệt công việc tra hỏi Thuyên.

Ta nên nhớ Duyệt vốn thù cay ghét đắng Thành, nay con Thành vào tay ông tra hỏi, có chắc gì được công bằng nhân đạo không? Thêm một chuyện vừa mới xảy ra: tên Hữu, lính đào ngũ ở Trung quân, không hiểu sao lại đăng vào Tả quân, làm bộ hạ ông Duyệt. Được mấy hôm, nó lấy trộm quả ấn Tả quân trốn đi; lúc bị bắt, khai rằng ông Thành xui bảo, cốt là đầu độc hay ám sát ông Duyệt, nhưng việc không xong, nên chỉ trộm lấy quả ấn. Cố nhiên tên Hữu bị chém, mà ông Duyệt thì căm tức ông Thành hơn.

Rồi thì vua hạ lệnh trao truyền cho ông Duyệt tra hỏi.

Sử chép rằng: ông Duyệt tra hỏi, Thuyên chịu phục tội ngay, không còn gân cổ chối cãi gì nữa. Đến nỗi Lại bộ Tham tri Trần văn Tuân nói riêng với ông Duyệt: "Trung quân với Tả quan như là anh em ruột thịt. Bây giờ Trung quân chẳng may như thế; ngày khác đến lượt ông thì sao?" Duyệt nghe nói giật mình, sắc mặt buồn rầu, nhưng sự đã muộn.

Vin vào cớ Thuyên đã thú nhận tội lỗi, đình thần buộc tội cả ông Thành, tâu xin xử tử.

Vua truyền xét lại vụ án một lần nữa.

IV

Râu ông nọ, cằm bà kia

Dần dà đến tháng 11 năm ấy, ở Thanh Hóa có việc Lê Duy Hoán, con cháu vua Lê ngày trước, toan mưu khởi, tin tưởng câu sấm "Phá điền thiên tử xuất" là ứng nghiệm vào mình. Mưu sĩ tán rằng: Phá điền là chữ thân mà Duy Hoán tuổi Thân, vậy là điềm có thể khôi phục ngôi vua nhà Lê. Nội bọn đã uống máu ăn thề, sửa soạn khởi binh thì cơ mưu bại lộ, bị bắt cả nút.

Các quan Bắc Hà đã hội đồng xét án một lần, lại đóng cũi đưa Duy Hoán về Kinh, để Hình bộ phúc thẩm.

Trong khi đó, Thành vẫn bãi chức ở nhà, Thuyên vẫn bị giam trong ngục, hai cha con bị cáo hơn một năm nay mà chưa thành án.

Không ai ngờ vụ án cha con nhà này với vụ án Duy Hoán lại có liên lạc với nhau.

Chỗ ám muội nhất, đáng nghi nhất, là khi trước Duy Hoán đã bị tra tấn xét hỏi ở dinh Tổng trấn Bắc Hà, chẳng hề nói gì đến Thuyên. Vậy mà mấy tháng sau, giải về Hình bộ phúc thẩm, Duy Hoán lại khai rằng Thuyên âm mưu với hắn, viết thư bảo hắn làm phản.

Tại sao lời khai hệ trọng như thế, mà nay có trước không?

Chuyện thật ám muội.

Ta có thể quyết đoán rằng: triều thần xin làm tội cha con ông Thành, nhưng vua còn ngần ngại chưa y, nhân nay có Duy Hoán khai thế kia, cố ý làm cha con ông Thành chóng chết và tất phải chết vậy. Họ thừa biết như thế là trúng vào ý muốn kín đáo của vua.

Khi Hình bộ dâng án từ lên ngự lãm, vua xem rồi nói:

- Lạ! Tên Thuyên bị nhốt trong ngục bấy lâu, làm sao xui bảo ai làm phản được kia? Lời khai này tuồng như trẻ con, vậy đình thần phải xét đi xét lại để cho minh chính tội trạng mới được.

Bọn thù ghét lại tìm cách dúi thêm:

- Tâu bệ hạ, chúng nó ngầm mưu với nhau, hẳn là từ khi Thành làm Tổng trấn Bắc Hà, chứ không phải đợi lúc có tội ở ngục mới viết thư xui bảo đâu!

Lý luận ấy được vua Gia Long cho là phải. Đến đây, ta có thể ngờ luôn cả vua Gia Long cũng có quan hệ ít nhiều trong lời khai của Duy Hoán. Vì chính ngài muốn tìm một cớ đích đáng để khép Thành vào tội, cho khỏi bị thiên hạ hậu thế chê mình bất công. Ví bằng chỉ một bài thơ của Thuyên, chẳng qua phạt Thành dạy con bất nghiêm, thì đến giáng chức của nhau là cùng, có lý nào đè ra mà chặt đầu cho phải?

Mấy hôm sau, đình thần lại tâu rằng đã tra hỏi Duy Hoán đôi ba phen, y đều khai đúng như trước, tỏ thật cha con Thành quả có phản nghịch, vậy xin trị tội. Bấy giờ vua nói nhân nghĩa:

- Trẫm đãi Thành không bạc, nay hắn đã tự tác nghiệt làm vầy, Trẫm không thể vì tình riêng mà bỏ phép nước.

Thế rồi ngài ra lệnh bắt Thành cùng các con, giam ở trại lính Thị trung, và sai triều thần định án.

Hồi này là đầu tháng 5 niên hiệu Gia Long thứ 16 (dương lịch 1817), nghĩa là vụ án cha con Thành lòng dòng trải một năm rưởi.

Triều thần hội đồng hỏi Thành:

- Ông có làm phản không?

Thành đáp:

- Không?

- Ông có dự biết việc con ông làm không?

- Cũng không.

Đó là mấy câu vấn đáp ghi chép trong sử.

Lúc trở ra, nét mặt Thành hằm hằm tức tối, về nhà giam nói với Thị trung Thống chế Hoàng Công Lý rằng: "Án xử như thế là xong rồi. Vua bắt tôi chết, mà tôi không chết, thì không phải là trung".

Tối hôm ấy, Thành ngồi viết tờ biểu trần tình để lại, rồi uống thuốc độc chết. Trong biểu có câu này thiết tha đau đớn: "Người ta sớm rèn tối luyện, thêu dệt ra cực ác cho cha con tôi. Không còn chỗ nào kêu ca, đành chỉ có chết".

Vua xem thương khóc, nhưng lại giận sao Thành không gỡ tội mà chết, té ra càng tỏ mình lỗi thật.

Thử hỏi Thành còn gỡ tội bằng cách nào trong khi từ vua tới triều thần đều muốn cho chết; từ một bài thơ không đâu cho tới lời khai dụng tình của Duy Hoán, người cố đặt điều thắt buộc để dồn đến chỗ chết mới thôi?

Xem những người như Võ Trinh, như Trần văn Tuân, muốn kêu gọi công tâm nhà vua, và bênh vực Thành đôi chút, thì đều bị quở phạt trừng trị, hoặc bỏ tù, hoặc cách chức, vậy thì bảo Thành còn gỡ mình vào đâu, kêu ca với ai cho khỏi phải chết?

Mà xét cho cùng Thành có tội tình gì? Có chăng là tội đã làm công thần quá to, có danh vị quá lớn mà bị vua chúa nghi kỵ. Có chăng là tội đã sinh ra đứa con làm một bài thơ ngông cuồng ở giữa thời đại chưa được nguôn luận tự do. Rút lại chỉ có thế thôi. Ấy là chưa nói bài thơ có thật phải tự Thuyên làm và viết ra không; hay chỉ là một tang chứng giả mạo do bọn cừu địch bịa ra để báo thù hãm hại.

Điều ấy đến nay vẫn là một vết hoài nghi trong sử. Nhưng các quan tòa ở đời ấy chẳng hoài nghi chút nào, cho nên họ kết án Thuyên cũng như Duy Hoán đến cực hình lăng trì: đánh một tiếng trống, xẻo một miếng thịt.

Ta đem so sánh, thấy sự bất công hiển nhiên. Duy Hoán đã có hành vi khởi loạn, chứng cớ rõ ràng, bị bắt tại trận, bảo rằng phép nước phải xử đến cực hình, cũng cho là được đi. Trái lại, Thuyên chỉ mới có ý nghĩ bội nghịch tỏ ra ở hai câu thơ, mà lai lịch rất hồ đồ, tự tích còn ngờ vực, cho đến Duy Hoán khai rằng Thuyên viết thư xui bảo khởi loạn, cùng là vô bằng vô chứng. Lấy lẽ công bằng, Thuyên dù có tội, cũng nên được hưởng luật giảm nhẹ một bậc mới phải. Thế mà đình thần làm án Thuyên cũng phải tùng xẻo như Duy Hoán, nhà vua nỡ lòng chuẩn y án ấy và cho thi hành, không chút nào châm chước tình lý, như vậy chăng phải người ta dụng tâm và đồng ý hãm hại cha con ông Thành ư?

Mấy hôm sau, trong khi Thuyên bị trói tay gông cổ, điệu ra pháp trường để cho quân đao phủ cắt từng miếng thịt, Trương Hiệu nghênh ngang đi vào kho, lĩnh 500 quan tiền của vua ban thưởng. Tai vạ kẻ nọ làm nên lợi lộc cho người kia, là thế.

V

Phải chăng quả báo nhãn tiền?

Chúng tôi đã nói ông Thành chẳng những là một danh tướng ở đời Gia Long mà thôi, lại là một tay chính trị sắc sảo, một nhà sửa sang luật lệ phần nhiều còn lưu truyền đến nay.

Nước ta từ đời Gia Long về trước, còn chia biệt Đàng Trong, Đàng Ngoài, chính trị pháp luật khác nhau. Đèo Ngang trở ra, thuộc về trị quyền vua Lê - chúa Trịnh, dân sự tố tụng đã có luật Hồng Đức rành rẽ. Quảng Bình trở vô, từ khi chúa Nguyễn trấn thủ, mở mang bờ cõi thẳng tới bể Nam Hải, trong khoảng hơn hai trăm năm, mọi việc phép tắc cai trị thường phải tùy chỗ thời mà châm chước biến thông, chưa có mực thước nhất định. Kế đến triều đại Tây Sơn, luật phép trong nước lại trải một phen sửa đổi bất nhất nữa.
Đến khi vua Gia Long đã thống nhất toàn quốc, liền nghĩ tới việc sửa sang luật pháp cho được nhất trí và hợp thời. Vì một nước đã thống nhất, thì luật pháp là sự quan hệ sinh mạng tài sản của dân, rường mối trật tự nhà nước, cố nhiên không thể như xưa, thi thố mỗi nơi một khác. Ngay luật Hồng Đức, nay đem áp dụng trọn vẹn cho toàn quốc, cũng không hợp nữa. Đời mới phải có luật mới.
Bởi thế, năm Gia Long thứ 10 (Dương lịch 1811), vua truyền cho đình thần lập một hội đồng chuyên việc làm luật.
Ngài chọn ông Nguyễn văn Thành làm chức tổng tài, tức là chủ tịch hội đồng ấy. Chẳng nói ai cũng biết nhiệm vụ ông quan hệ to tát đến đâu. Không những quan hệ đối với lòng vua tín dùng mà thôi, lại còn quan hệ đối với quyền lợi nhân dân, cả hiện tại lẫn tương lai, từ đương thời đến hậu thế. Một người phụ trách trông coi công việc soạn ra sách luật, há phải chuyện chơi?
Thấy sử chép rằng ông làm công việc ấy ròng rã hai năm: xét lại luật cũ từ đời Hồng Đức nhà Lê nước ta tham chước với luật nhà Thanh bên Tàu, làm ra một bộ luật mới gồm 398 điều thành 22 quyển.
Ấy tức là bộ luật Gia Long, như ta thường gọi. Nhiều khoản trong đó, tới nay người ta còn phải dùng để xử phân kiện cáo; ngay ở Nam phần trong thời Pháp thuộc cũng vậy, nhất là về những vụ hương hỏa điền thổ.
Sách luật này, ông Thành làm xong dâng lên vua duyệt. Vua liền sai khắc bản in để ban hành trong nước.
Khi bắt đầu phát ra vụ án bài thơ giết người, nghĩa là vụ án con ông Thành, sách luật do ông trông coi biên soạn đã được nhà vua ban hành rồi. Các ngài hẳn nhớ năm Ất Hợi niên hiệu Gia Long thứ 14; vụ án Thuyên phát khởi vào giữa tháng Chạp năm ấy.
Ta cần biết - điều này rất quan hệ - bộ luật Gia Long tiếng rằng theo luật Hồng Đức mà sửa lại, nhưng kỳ thật ông Thành sao chép gần hết luật Thanh, chỉ sửa đổi chút ít thôi.
Tệ hại nhất là cụ lớn chép cả những điều khoản "yêu thư yêu ngôn" trong luật Thanh cốt trói buộc ngôn luận tư tưởng của dân Trung Hoa; không khác gì tự đánh lấy sợi dây để thắt cổ cậu ấm nhà ta trước nhất.
Nhà Thanh nguyên là giống người Mãn Châu thiểu số, hồi thập thất thế kỷ thừa được cơ hội Trung Quốc rối loạn, mượn cớ lân bang cứu cấp, đem binh lực đến chinh phục mà làm vua, cai trị cả Hán tộc đa số, đến nỗi uy hiếp người Hán tộc phải róc tóc để bím như mình. Cố nhiên Hán tộc âm thầm phản đối; nhiều người thương nòi yêu nước, kế tiếp nhau bạo động hoặc tuyên truyền bài Thanh, chẳng lúc nào ngớt. Thường tình con người ta, trừ ra bị sức mạnh đè nén, không bao giờ thích để kẻ lạ ở đâu đến, làm chủ đất nước mình, cai trị bà con mình.
Vua Càn Long nhà Thanh, khi làm sách luật đặt ra mặt luật "yêu thư yêu ngôn" (sách bậy nói bậy) cốt để ngăn ngừa trừng trị những người Hán tộc tuyên truyền bài Mãn. Phàm một lời nói, một câu văn, một bài thơ, một quyển sách, hơi có ý tứ gì châm biếm triều đình thời cuộc hay động chạm đến uy quyền Mãn Thanh, tức là yêu thư yêu ngôn, âm mưu phản nghịch, xử vào cực hình.
Dưới triều Mãn Thanh, bốn chữ vắn tắt, lỏng lẻo và ghê gớm ấy đã trói cứng tư tưởng ngôn luận của người Tàu, mất tự do; bao nhiêu chí sĩ văn nhân vì nó mà chết oan uổng!
Đằng này, Nguyễn triều làm chủ Việt Nam không như trường hợp Mãn Thanh ở Trung Quốc, vậy thì ông Thành không nên chép y mặt luật yêu thư yêu ngôn vào sách luật nước mình mới phải. Nhưng bắt chước người ta cả điều khoản cay nghiệt ấy, cố ý ngăn cấm tự do tư tưởng ngôn luận của bà con đồng bào chăng? Hay là thấy dân tâm Bắc Hà lúc bấy giờ còn tưởng nhớ khôi phục họ Lê, nên ông nghĩ phải dùng mặt luật ấy để áp chế phong trào?
Chỉ biết rằng ông Thành làm ra sách luật vừa xong, người phạm vào khoản yêu thư yêu ngôn mà chết trước nhất, chính là con ông.
Tòa án đình thần quả thật đã vin ngay khoản ấy mà khép được Thuyên vào tội chết đấy. Không có thì một bài thơ đùa bỡn ngông cuồng, làm gì đến nỗi tác giả nó bị xẻo từng miếng thịt?
Bởi thế, người đời lấy thuyết nhà Phật ra phân đoán vụ án này nói rằng ông Thành bị quả báo nhãn tiền chẳng phải vô lý.
Nhân tiện, ta nên biết qua cái chung cuộc của Nguyễn Trương Hiệu, người rất khả nghi đã giả mạo cả bài thơ lẫn tự tích để tố giác vu hãm Thuyên mà lấy thưởng.
Sau khi lĩnh thưởng 500 quan tiền, hắn về quê nhà sinh nhai thế nào không rõ, cách ít lâu lại bước chân lên đường giang hồ. Loanh quanh 17 năm sau, thấy làm môn hạ của Bạch Xuân Nguyên, Bố chánh tỉnh Gia Định. Mùa hạ, năm Minh Mạng thứ 14, Lê văn Khôi dấy binh chiếm thành bắt được Trương Hiệu đem ra chặt đầu, nói rằng: "Đây là một thằng tiểu nhân vu cáo lập công, cho nó đi theo Xuân Nguyên luôn thể!"
Cái chết của Trương Hiệu cũng là chuyện quả báo; người tin thuyết nhà Phật nói thế.
Đào Trinh Nhất 
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...