Bóng chiều 1
Bóng chiều
Ở đây âm khí nặng nề
Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa
(Kiều)
Buổi sáng rất trong. Chùa lặng. Thầy trụ trì từ trai phòng đi
lên.
- Mô Phật đệ tử đến đây có việc gì chăng?
- Bạch thầy con xin nương nhờ cửa Phật thời gian, nguyện công
quả cúng đường Tam Bảo cho tâm hồn con tìm chút bình an.
- Mô Phật. Cửa chùa luôn rộng mở tịnh độ những trầm luân.
- Bạch thầy, đời con nhiều sóng gió quá, con cầu xin đức từ
bi nhiệm mầu dìu ba đào về hướng khác. Nhiều khi muốn từ bỏ chôn trần gian này
nhưng thọ thân con còn vướng nghiệp chưa trả hết.
- Mô Phật! Con có lòng hướng nguyện về bờ giác, ơn trên gia hộ
cho con sớm thoát cõi vô minh.
Tôi bước vào chùa, để lòng lắng dịu. Hy vọng những đau thương
dồn nén bây lâu theo kinh kệ mà hóa giải phần nào. Tôi quyết định ra đi trước
đám cưới Thông. Quyết định như vậy vì không thể chịu đựng được nhiều hơn nữa.
Thông khóc rất nhiều. Tôi nói: “Không được đâu em ơi, đời chị chắc phải thế.
Đây là nghiệp quả mà, kiếp này chị phải trả. Em ở lại vui hạnh phúc”. Nhưng
kinh kệ chưa được mấy hôm, tôi phải quay về. Chiều nay tôi trở lại miền đất đỏ
bazan lòng nặng nhiều hơn lúc ra đi. Còn nhớ cách đây không lâu Phượng trong
chiếc áo dài bẽn lẽn. Ánh mắt sóng sánh hạnh phúc chắp tay bên Thông khi tôi
nói lời thưa gửi. Tôi làm chủ hôn trong lễ đính hôn này. Trầu cau đã được mua sắm
nơi phiên chợ ồn ào, mồ hôi và bụi đỏ. Phiên chợ vùng biên xa ngái. Từ ngày
sinh bé Bi, tôi cố quên mình, quên tất cả. Cay đắng và ngọt ngào. Tất cả dồn
nén thành nước mắt. Nước mắt tê cóng, lạnh lẽo thê thiết len vào cõi đêm cao
nguyên. Hy vọng sau đám cưới Thông mọi chuyện có thể đổi thay.
Tôi là con gái lớn, niềm kiêu hãnh của gia đình. Ngay năm đầu
đỗ ba trường đại học. Ba bỏ quê lên phố đạp xích lô. Nắng mưa và bụi bặm. Ba sạm
lại nhưng ước mơ cứ roi rói tươi lên. Ngày tôi mặc áo cử nhân, nhận bằng tốt
nghiệp hạng ưu, thầy trưởng khoa và bạn bè tặng hoa chúc tụng. Bất chợt cuối hội
trường, có ánh mắt ngọt ngào rưng rưng hạnh phúc. Ánh mắt của người đàn ông đen
đủi, quần áo tuềnh toàng. Tôi òa khóc, lao về phía ấy. Người đàn ông kịp lách
đám đông ra khỏi cổng trường, mọi người ngơ ngác nhìn theo. Thấp thoáng lưng áo
trắng vệt mồ hôi mặn mãi lòng tôi đến bây giờ. Ở một góc phố nào đó, nơi quán
cóc vỉa hè, vài ly rượu đế, mấy trái xoài già, chia sẻ cùng bè bạn, niềm vui
tràn qua khóe mắt. Niềm vui vớt lên từ khổ ải, lóng lánh khát khao. Tôi chưa thấy
núi Thái Sơn lấy gì sánh được? Tôi làm ở công ty nước ngoài. Ba bỏ phố về quê.
Bỏ càn xe, cầm cày cầm cuốc, đọc sách và làm thơ. Tôi nhận lời cầu hôn. “Khi
người ta đến xin dâu. Mẹ cười rất tươi mà bố thì rưng lệ. Lời thưa ngập ngừng
nghẹn giữa câu. Bố chẳng buồn đâu, ai lại buồn trong một ngày như thế?. Bố chỉ
thương con vất vả từ thuở bé...”, ba đọc thơ Nguyễn Hoàng Sơn trong tiệc cưới.
Ba khóc. “Xe hoa đưa con đi, căn nhà đột nhiên trống trải...”. Đây là ngày tôi
về nhà chồng. Chồng tôi, một sinh viên khá điển trai, hào phóng. Cách tư duy và
quan niệm của anh, tôi thích. Dân toán yêu văn. Văn thơ giúp tâm hồn mềm lại
trước xơ cứng cuộc đời. Ngày xưa ba hay nói vậy. Yêu và đang yêu trần gian toàn
hoa hồng và mật ngọt. Nhưng cuộc đời thì khác. Cuộc đời không giống như ta
nghĩ. Cuộc đời đã làm anh thất bại ngay từ bước khởi đầu. Sự thất bại đã đẩy
anh về khởi điểm, về lại hoang sơ của tâm hồn. Sự trở về đầy bất trắc cho anh
và cho tôi. Thời gian đã vênh tróc các mỹ từ. Một ngày anh nói:
- Bỏ việc, ngày mai em phải bỏ việc về quê.
- Bỏ việc? Rồi làm gì? Tôi hỏi. Tôi hỏi mà nghe cổ họng đắng
chát, về đâu? Vùng đất đỏ xa ngái, quanh năm nắng gió và sương. Sương chiều,
sương sáng. Sương dày đặc vây tỏa những cánh rừng. Tiếng trẻ khóc chênh chao
lưng mẹ khập khiễng len theo dốc đỏ ráng chiều. Những dúm tóc hoe vàng. Tôi
nghĩ đến những điều không dám nghĩ... Tôi không phủ nhận nhưng nghi ngại những
gì anh nói. Cánh cửa ở lại thành phố trong anh đã khép. Có nghĩa là tôi phải từ
giã nơi đây. Từ giã phố phường náo nhiệt. Từ giã thiên đường ánh sáng, từng lấp
lánh trong tôi. Từ giã ước mơ của ba, của mẹ. Tôi rẽ sang ngã khác. Và từng đêm
uống cạn ly rượu đời mình. Ly rượu đã hết hơi men còn đọng lại đáy lòng mùi đắng
chát.
Ngày chuyển dạ, anh đưa tôi xuống Từ Dũ. Tôi yêu lắm. Không
sinh được. Đành phải mổ. Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi hiểu thế nào là đớn đau
và hạnh phúc. Hạnh phúc nào cũng ngầm chứa đớn đau. Có thật vậy không? Những
câu hỏi mơ hồ lẩn khuất chìm dần vào cơn mê. Tỉnh dậy, quanh tôi trơ trọi. Ba
không, mẹ không. Giọt máu của tôi người ta cách ly đâu đó. Lẻ loi ngập tràn...
Cố lắm mới mở được mắt, tôi cần thấy anh. Tôi cần anh bón cho tôi thìa nước, cần
anh nắm lấy bàn tay hỏi han. Cần sự chia sẻ chính anh. Nhưng không. Tôi ngơ
ngác, bơ vơ. Chưa bao giờ tôi thấy mình đau đớn hụt hẫng đến vậy. Con tôi nằm
trong lồng kính. Người y tá nói anh đã bỏ đi. Tôi biết lúc này anh đang ở đâu.
Lớp hào hoa rách toạc. Chuyến xe rẽ sang hướng khác. Tôi bàng hoàng đau đớn.
Tôi cắn răng từng đêm chịu đựng. Giữa đất khách quê người, giữa núi rừng xa lạ,
tôi chia sẻ với chính tôi. Tôi để lòng mình lạc vào những cơn gió cao nguyên.
Vào những đêm mưa rừng ướt sũng. Những cơn gió thê thiết từng đêm xoáy vào sườn
đồi, đá núi. Bóng dáng của cha, tình yêu của mẹ, hơi ấm gia đình, tôi khát thèm
những nụ cười quen thuộc. Khát thèm những lời nói chân thật. Những lời nói khô
hiền ấm nóng yêu thương. Như dự cảm được điều gì sau lần tôi về thăm, ba viết:
Mai con về lại quê chồng, mẹ đâu có khóc mà lòng rưng rưng.
Tất cả hy vọng, tất cả ước mơ, tất cả những gì ba mẹ đặt vào
tôi, cuộc đời đã giật phắt, quăng quật vào một xó xỉnh nào đó. Nhìn dáng vẻ gầy
gò tiều tụy lần tôi về giữa khuya, ba buồn thăm thẳm. Chẳng hỏi gì, ba mải miết
nhìn vào khoảng không. Tôi biết trong sâu thẳm lòng ba đang nấc lên từng tiếng.
Và nỗi đau đang lớn dần trong ba. Có lẽ những cuốc xe trưa rước khách về ngoại
thành hồi ấy không làm ba rã rời như lúc này đây. Tình yêu? Hạnh phúc? Những
cám dỗ đời thường, những khát khao hy vọng chợt khói sương, mơ hồ lãng đãng.
Lúc bùng lên, lúc lắng xuống, lúc vò xé nát tan. Tạo hóa bày ra trò chơi nghiệt
ngã. Tạo hóa đặt con người trước những đam mê phỉnh dụ. Tôi dấn thân vào tình
yêu như bước vào cõi mộng, không tính toán so đo. Với tôi, tình yêu là thiêng
liêng, cao cả. Tình yêu rạng ngời ánh sáng. Thứ ánh sáng vĩnh cửu bùng cháy
trong tim, trong một không gian tình người chân thật. Tôi đi về phía anh, trông
chờ và đón nhận. Tất cả nhẹ nhàng. Tất cả dịu êm. Để một lần giữa khuya, ướt
sũng say khướt tả tơi, anh mò về. Tôi đón lấy những xỉ vả đau đớn, những lời lẽ
thô tục, tưởng chừng anh hốt lên từ đám bùn đen nào đó. Hôi tanh tởm lợm.
- Mày là cái đinh rỉ gì? Hả? Cái bằng đại học của mày đem mà
vứt đi. Đ.m. mày là người hay là giống gì?...
Tổn thương. Tâm hồn tôi đã bị tổn thương. Vết thương ấy thành
tỳ chứng đớn đau. Tôi không còn là tôi nữa... Nhiều khi thắt thỏm giữa khuya,
tôi ôm con tháo chạy khỏi mùi rượu trộn lẫn mùi thức ăn đã lên men. Tiếng quát
tháo, tiếng ly vỡ, bàn ghế ngã đổ. Bi mới dúm tuổi nhưng đã cảm nhận được sự chẳng
lành “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Nó co rúm người lại, rồi nôn thốc tháo ngụm sữa vừa mới nuốt.
Nước mắt, nước mưa hòa lẫn. Gió cao nguyên lạnh lùng táp vào da thịt. Lạnh lùng
se thắt niềm đau. Sỏi đá dưới chân, núi rừng trước mặt. Bóng tối mênh mông đồng
lõa với bao điều bất trắc. Liệu tôi có bước qua được nghịch cảnh này không? Bao
nhiêu ước mơ thắp lên ở sân trường đại học lụi tắt trong bóng đêm giá lạnh này.
Bi tím tái sợ hãi. Ký ức non nớt của một đứa trẻ, có lưu giữ lại hình ảnh này
không? Cầu Trời Phật cho nó chóng quên. Nhưng nó là đứa bé thông minh, nhạy cảm.
Sợ rằng ngày kia khi nhận ra điều bất hạnh này tâm hồn nó sẽ ra sao? Nghĩ đến
đó lòng tôi thắt lại. Không biết kiếp trước tôi có nợ nần gì với anh không? Kiếp
này tôi đang phải trả? Tôi xin được việc làm ở cơ quan kinh tế huyện. Lương chẳng
là bao nhưng dẫu sao cũng còn chỗ cho tôi bám víu với cuộc đời. Còn chỗ để mỗi
ngày nuôi dưỡng thêm hy vọng. Hy vọng rằng anh sẽ bình tâm. Sẽ tìm thấy giá trị
đích thực cuộc sống ngay chính trong mỗi bình minh thức dậy. Rằng anh sẽ không
chối bỏ những gì tôi dành cho anh. Nhưng không, những cơn say như ngựa hoang chở
anh về thật gần với cánh đồng bản năng tội lỗi. Anh tung phá chệnh choạng giữa
bóng tối và ánh sáng, giữa thiên đường và địa ngục. Giữa người và ma. Bàn tay
anh không đủ sức níu kéo quá khứ và cũng không chạm nổi đến tương lai. Nhiều
lúc bình tâm tôi nghĩ lại liệu mình có góp phần tạo nên ẩn ức cho anh? Tuyệt
nhiên là không. Ngọn lửa nào đã thiêu rụi tâm hồn anh? Câu hỏi còn bỏ ngõ. Có
điều chắc chắn trong cuộc tình này tôi đã trắng tay. Làm gì bây giờ? Tôi biết về
đâu? Giá như...! Hạnh phúc lẩn ra ngoài tầm ước vọng. Anh không còn là anh nữa.
Là hiện thân hãi hùng những đêm khuya. Tiếng kêu cửa, tiếng bước chân khệnh khạng,
những lời lẽ tục tằn thô bỉ. Bao lâu đã dìm tôi vào những cơn ác mộng... Bỗng
dưng tôi thấy mình thừa thải bên anh... Một “Đời thừa” thật sự đang hiện hữu.
Mà anh đâu phải là “Hộ” tài hoa. Một “Hộ” luôn nuôi ước vọng lớn lao, muốn mang
lại hạnh phúc cho người khác. Và sẵn sàng “Giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của
mình”. Anh nát rượu như Chí “chửi trời và chửi đời”. Nhiều khi tôi thấy mình
hoài phí cho một điều vô ích. Cứ nghe tiếng anh ngoài cổng là con bé lấy tay
chùi nước mắt. Những giọt nước mắt trong vắt ấy lẽ ra là thứ vũ khí vòi vĩnh
trong vòng tay âu yếm. Nhưng không, nó đã rơi xuống từ sợ hãi, rơi xuống bóp
nghẹt trái tim tôi. Người ta nói mọi cái đều có giới hạn. Không biết chịu đựng
của tôi đến giới hạn nào? Tôi cố nhai lấy nhạt nhẽo mỗi ngày. Nhạt nhẽo khốc liệt.
Ngày tôi đi hỏi vợ cho Thông, anh đang vùi đầu trong những
cơn say. Những cơn say lú lẫn, say tiếp nối, say điên cuồng, say mê muội, say vật
vờ, say cuộn tròn trong những cơn say. Thông, đứa em trai kế anh ít học nhưng tử
tế. Hy vọng nó sẽ là người đàn ông bản lĩnh gánh vác công việc gia đình. Và sự
thật nó đã gánh vác gia đình từ khi bố anh mất. Hy vọng Thông sẽ xốc lên, sẽ tạo
dựng lại nền nếp gia phong. Và chỗ dựa cho con tôi sau này. Nhưng mà... Chiều
nay ra khỏi chôn thiền môn bước về thế tục. Lẽ ra hoa đăng và nhạc sống. Những
ly rượu tràn môi hạnh phúc. Những lời chúc tụng nói cười cho đôi uyên ương
Thông - Phượng. Nhưng....
Lại mưa. Cao nguyên đang vào mùa mưa. Mưa chiều ào ạt, mạnh mẽ,
tàn nhẫn và lạnh lùng. Tiếng nấc vỡ òa trong mưa. Con đường phía trước nhão
nhoét bùn đỏ. Phượng lịm trong tiếng nấc. “Một tuần nữa thôi anh ơi!” Lời tiếc
nuối. Một đau đớn tột cùng của kiếp người. Ảnh chụp cho đám cưới ngày hôm qua
còn đây. Môi anh vẫn cười, mắt anh vẫn sáng. Thứ ánh sáng của hạnh phúc. Em sẽ
về bên anh, sẽ làm dâu nơi này. Em gác bỏ mọi thứ. Em không ước mơ gì hơn. Em cần
có anh. Phượng lảo đảo trong bóng chiều nhá nhem. Lảo đảo trong thân phận tình
yêu. Phượng biết rồi ngày mai, ngày mai mình cô lẻ hơn cả gốc thông già đang bật
gốc ngả nghiêng kia. Mình sẽ chơ vơ, chông chênh trên vùng đất bazan này. Liệu
mình có chịu nổi những cơn gió xé lòng vào những đêm khuya? Tại sao cuộc đời bẻ
bàng cay đắng đến thế? Tại sao anh không kịp nói điều gì? Anh lặng yên trong
chiều nay. Và đời cũng lặng yên nơi đây. Trên đỉnh đồi hoang vắng này. Cỏ lau
và gió hú. Hố huyệt thẳm sâu đen ngòm khép lại. Hết rồi, vùi chôn tất cả anh
ơi! Có và không, mất và còn, đớn đau và hạnh phúc trong cuộc tồn sinh này. Một
kiếp người! Em bỏ cho anh nắm đất hay một trái tim, một mối tình, hay một tâm hồn
và nhiều ước vọng. Chiều đi đã hết! Không gian mênh mông, thời gian thăm thẳm.
Chúng ta đã cưới nhau ư? Chúng ta đã đến với nhau trong tận cùng đớn đau này.
Mà chỉ có em là người cảm nhận tất cả. Đôi dép anh để lại dưới cầu thang. Đôi
dép còn hơi ấm. Chút hơi ấm cuối cùng trước lúc anh đi. Dòng điện nghiệt ngã
qua anh. Lưỡi dao ngọt ngào qua trái tim em!
Đây là những đau đớn khi tôi dìu Phượng từng bước trở về. Đám
cưới của Thông và Phương vĩnh viễn không còn bao giờ có được. Tôi nghĩ đến Phượng
đến tôi, đến những số phận mỏng manh và bèo bọt. Tại sao anh không nhận ra điều
này. Tại sao anh không biết quý trọng những giây phút bình yên. Những khoảnh khắc
vô giá trong cõi đời này để sưởi ấm cho nhau bằng thứ tình cảm thiêng liêng:
TÌNH YÊU.
Chúng tôi dìu nhau đi trong bóng chiều đã hết, những bước
chân hụt hẫng trên khoảng đường trước mặt, gió cao nguyên lạnh lùng thổi qua
khoảng đồi vắng lặng... Đâu đó mang mang tiếng chuông chùa.
Ngõ sau
Kính tặng mẹ và chị K
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
(Ca dao)
Con bé lia vội túi xách xuống hè, chạy đến ôm chầm lấy ngoại.
Ngoại đưa tay che mắt hỏi phải con Hoa không? Con về hồi nào đó? Mẹ của con
đâu? Mắt ngoại rưng rưng. Bao giờ cũng vậy, sung sướng hay đau buồn, mắt bà vẫn
thế. Đôi mắt ấy như một định mệnh đeo đẳng suốt một đời người. Bà hỏi: “Thành
phố đông người không con? Có đứa nào ăn hiếp con không?”. Trong ký ức của bà
hình như Hoa nhỏ lắm, mới năm ba tuổi. Tháng Bảy, nó tốt nghiệp đại học. Chuẩn
bị làm đề tài. Trường cho nghỉ. Nghe ngoại yếu, nó tranh thủ về. Lấy ra một gói
nhỏ trong túi xách, nó nói: “Ngoại cầm đi, khi nào ra trường đi làm, con sẽ mua
nhiều quà cho ngoại”. Ngoại xoa đầu nó: “Cái con này, để mua sách vở, mẹ mày cực
lắm con ơi!”. Tôi đứng bên, nhìn tay mẹ run run mà nước mắt cứ tràn ra. Tôi cực
khổ vất vả sao bằng đời mẹ. Những đau đớn mất mát của mẹ dường như thời gian
không làm chìm khuất được. Năm tháng ấy đã lùi xa, sao trong tôi vẫn còn mồn một
như mới vừa hôm qua...
Chúng tôi có bốn chị em. Chị Nghị lớn nhất. Khi chúng tôi có
chút ít trí khôn đã nhận ra những điều không may của cuộc đời. Lúc đó, Thành đứa
em trai út, còn nhỏ. Chị Nghị thường cõng nó trên lưng. Chị cõng nó thơ thẩn đi
qua những buổi chiều, qua những đám ruộng nứt nẻ. Những đám ruộng đã bị chúng
tôi nhổ hết gốc rạ đem về nấu bếp. Thứ gốc rạ khô, âm âm cháy khói quần ngập
kín căn nhà. Trên gác bếp, đen thui mòng hóng, mẹ treo mấy chùm lúa và mấy trái
bắp làm giống cho mùa sau. Chúng tôi nhổ gốc rạ chất đống, bỏ vào giỏ ngựa gánh
về. Những buổi chiều như vậy, mẹ thường ra ngõ sau ngồi đợi. Ngõ sau hun hút
hàng tre. Ở đó, mẹ có thể nhìn thấy cánh đồng, thấy núi Hông Lân sừng sững tím
ngắt rồi đen thẫm chìm trong hoàng hôn. Và hoàng hôn cũng đầy trong mắt mẹ. Nén
tiếng thở dài, mẹ đứng dậy trở vào. Bao nhiêu buổi chiều như thế, bao nhiêu đêm
đã qua. Mẹ lặng lẽ. Chỉ những lúc nhìn chúng tôi cười đùa dưới trăng, mẹ tươi
hơn một chút. Nhưng thường những đêm trăng sáng là những đêm mẹ mất ngủ, sáng
ra mắt mẹ quầng thâm. Cũng vào một đêm trăng. Có lẽ là trăng tháng Tám. Trong ký
ức mẹ, một đêm trăng lạnh và trong suốt. Đêm đó, ở vườn chuối sau nhà, giọng mẹ
khẽ khàng. Lời mẹ chìm vào đêm. Nó như những hạt sương rơi động trên tóc, trên
vai, trên mắt mẹ. Mẹ nói điều gì? Những âm thanh chùng xuống, quá nhỏ chỉ đủ
chuyền qua người nghe bằng đôi bàn tay ấm nóng. Rồi bước chân hai người lặng lẽ
dưới trăng, ra khỏi ngõ sau, về phía cánh đồng. Và mẹ biết đi hết cánh đồng sẽ
đến dòng sông. Ở đó có con đò đang đợi. Chuyện sắp đặt đã ba hôm trước. Vào một
buổi trưa, người bán chiếu, đưa cho cha miếng giấy nhỏ. Và từ đây mẹ bắt đầu thấm
đẫm những ngày cô đơn. Những ngày trong căn nhà đã thực sự vắng bóng đàn ông.
Thằng Thành thi thoảng hỏi cha đâu hở mẹ? Mẹ buồn buồn nói cha đi cày. Cha đi
cày sao hổm rày không thấy về? Mẹ quay đi, giấu cái nhìn vào vạt áo. Cây cỏ, ruộng
đồng và dòng sông rất đỗi hồn nhiên. Nhưng chúng tôi lớn lên không chút hồn
nhiên. Không có bàn tay cha, cuộc sống cả nhà vốn khó khăn giờ trở nên thảm hại.
Mỗi ngày chị em tôi cắt đầy bốn giỏ ngựa cỏ. Bốn giỏ cho bốn con bò. Đó là tài
sản của cha để lại. Mẹ đập đất trên đồng từ lúc hừng đông, khi mặt trời đứng
bóng mới về. Mùa đông, trời lạnh cắt da. Mẹ biểu dắt bò ra đồng. Đi sau, mẹ vác
cày. Cái áo tơi mẹ để cho tôi. Còn phần mẹ là một tấm lá. Tấm lá chuối mẹ khoét
ở giữa gấp lại mang vào che mưa. Tôi bì bõm lội trong bùn, dắt bò cho mẹ. Những
đường cày xiên xẹo. Con bò giở chứng, lúc đứng, lúc đi. Mẹ quất roi vào nó. Mưa
quất roi vào mẹ và tôi. Mắt mẹ ướt đẫm. Trên cánh đồng mùa đông lạnh lẽo ấy, những
cây mạ non cấy xuống cứ run rẩy mãi. Chúng không đủ sức chống chọi với cái rét
để cuối mùa cho ra những dé lúa toàn là hạt lép. Những hạt bui ấy còn biết phơi
khô rồi đun bếp. Chúng tôi trông chờ vào những vạt củ lang, củ mì trồng tít
trên gò. Ăn củ lang nhiều ngày quá! “Nhuận trường” quá! Thằng Thành đi ngoài suốt.
Phân toàn vỏ củ lang tím vắt. Da nó hơi xanh, bụng nó õng ra. Mẹ nói nó phát thủng.
Đó là bịnh thiếu chất cám gạo. Mẹ đi đâu không biết xin về được ít cám, rang đều
rồi trộn mật vào viên tròn, cho nó ăn. Ăn được hai hôm, Thành nghe bụng đau âm ỉ.
Rồi đau thắt. Bịnh lỵ đã hành hạ nó. Cứ một chặp nó lại đi cầu. Đi suốt đêm, đi
lòi trôn trê. Mẹ cũng thức suốt đêm. Gà gáy, mẹ đem chiếu ra sông giặt. Mất ngủ
nhiều, mẹ gục xuống nước, cả chiếu và người trôi đi. Nhưng dòng sông không trôi
hết nỗi buồn. Cuộc đời đã níu mẹ lại. Người ta vớt lên đưa mẹ về nhà. Chúng tôi
cả ngày ngồi quanh mẹ. Mắt mẹ đượm buồn. Mẹ nhìn ra sân. Nắng xiên khoai. Nắng
đổ dài bóng cây ổi trước nhà. Cây ổi Tàu ra trái quanh năm. Nó mọc ngay ở chân
hè, chỗ bước vào cửa chính. Nhiều khi đói quá chúng tôi bứt cả ổi già xuống ăn
với muối “Ăn nhiều vào rồi chết nghe con”. Mẹ nói mà không đành ngăn. Thứ ổi
già chà xát qua từng đoạn ruột chúng tôi, mà lòng mẹ đau thắt lại. Cái đói triền
miên vây hãm. Đói cả trong giấc ngủ, cả khi cắt cỏ, tắm sông. Một hôm, hình như
mẹ đi rửa dùm chén cho đám giỗ ở nhà họ xa bên ngoại. Lúc về, mẹ gói trong vạt
áo nắm cơm. Nắm cơm to bằng trứng ngỗng. Chính giữa mẹ chôn hai lát thịt. Bốn
chị em bập vào, loáng cái hết ngay. Thằng Thành trợn ngược nuốt thẳng cổ, mẹ ứa
nước mắt. Chị Nghị không đành, chị nhịn phần mình cho em. Bây giờ nghĩ lại
thương chị quá chừng. Mọi chuyện trong nhà, mẹ giao cho chị. Chị quán xuyến mọi
việc và chăm sóc em. Mười sáu tuổi, chị xinh đẹp như trăng. Có người nói vậy.
Dãi nắng, dầm mưa mà sao da chị trắng như bông bưởi. Tóc chị suông và dài chấm
mông. Mỗi lần gội đầu, chải tóc cho chị, mẹ thường nhìn xa xăm. Mẹ nghĩ sẽ có
ngày chị phải xa mẹ, làm dâu nhà người. Chị cũng sẽ một nắng hai sương trên đồng.
Sẽ lam lũ héo hắt vì chồng vì con. Chị cũng sẽ chắt chiu hạnh phúc từ những lá
rầu riều, bọ hôi, mè đất. Những lá rau tập tàn hòa quyện với mùi cơm lúa mới mà
chị nghe hạnh phúc đâu đây. Hạnh phúc hiền hòa giản đơn như lá rau cộng cỏ. Nó
giống như ngày mẹ về với cha. Sau bữa cơm ngày cưới là tiếp nối những bữa cơm độn
củ thật nhiều. Buổi sáng, cha dậy sớm xách nước vô lu, và vội miếng cơm rồi vác
cuốc ra đồng. Buổi tối, cha đi chặn đăng bắt cá. Những con cá chép, cá trê mẹ rộng
trong ảng. Thi thoảng mẹ đem ra chợ bán, mua thêm lon gạo. Cha cười cười lau mồ
hôi trên tóc mẹ. Cha đốn tre đan thúng, đan sàng. Những sợi nan cha chuốt mỏng
tang mềm mại. Tay cha thoăn thoắt đan cái giỏ, cái lờ, mẹ nhìn mà mê lắm. Mẹ
bưng bát nước chè tươi nóng hổi và cục đường đen ra nói cha nghỉ tay uống nước.
Không biết mẹ yêu cha từ đâu? Có lẽ từ cái rắn rỏi, giỏi dang và cả tính cương
nghị của cha. Thỉnh thoảng cha còn đọc vài câu Chinh Phụ Ngâm và lẩy Kiều cho mẹ
nghe. Cha nói nội là người giỏi chữ, là cụ đồ nho thế hệ cuối mùa. Cha học được
phong cách khí khái nhà nho của nội. Đêm cuối cùng rời khỏi căn nhà, cha đi từng
bước nhẹ nhàng, bưng đèn soi mặt bốn đứa con. Rồi cha lặng lẽ quay ra. Ngoài
kia trăng vẫn sáng. Sợ làm chúng tôi thức dậy, cha nói gì rất khẽ với mẹ ở phía
sau nhà. Đó là đêm cuối cùng mẹ nén lòng mình để khỏi bật ra tiếng nấc. Cha đi
chưa được ba năm, hơi hướng chiến tranh đã đến. Mẹ thường giật mình trong tiếng
đại bác cầm canh. Tấm mành mành che cửa đã mục. Ánh hỏa châu lập lòe xuyên qua
kẽ nan. Ánh hỏa châu vàng võ rơi ở cuối trời có hình giọt nước mắt rơi. Mẹ thở
dài. Chị Nghị càng lớn càng xinh. Đã có tiếng sáo con trai thổi nơi đầu ngõ.
Chúng tôi vẫn thường cắt cỏ ngoài đồng và dắt bò ra sông uống nước. Vào một
ngày mùa hạ, nước sông trong vắt mát lành. Chúng tôi lùa bò ra sộng, tập bơi, rồi
tắm. Đó là một buổi sáng kinh hoàng trong đời tôi. Một buổi sáng, mẹ như điên
như dại, chạy vụt ra cánh đồng chết giấc. Tôi điếng hồn ngẩn ngẩn ngơ ngơ.
Không còn gì nữa! Hết rồi. Trong mắt mẹ bầu trời đen lại. Tất cả đang sụp đổ.
Hàng tre già ngõ sau oằn xuống trong gió sớm. Người ta xúm lại khiêng chị Nghị
về đặt dưới bóng tre. Mẹ đau đớn tận cùng, nửa tỉnh nửa mê. Chị nằm đó, bụng
xáp ve. Chén củ lang mẹ để phần cho chị còn nguyên. Chị Nghị ơi, chị vĩnh viễn
xa rồi! Chị đi vào cõi khác ở tuổi trăng mười sáu. Chị hụt chân lạc vào vùng nước
xoáy. Mẹ hụt hơi kêu khản đứa con mình. Lòng tôi quặn lại từng cơn. Nấu nước bồ
kết, lá bưởi, mẹ gội đầu cho chị lần cuối cùng. Tóc chị đen và dài quá. Mẹ vuốt
từng lọn tóc mà lòng se thắt. Những mơ ước giản đơn của mẹ ngày xưa không còn nữa.
Không còn những đêm trăng sáng, chị em đùa chơi trước ngõ. Thằng Thành hái hoa
dũ giẻ thơm lừng cài vô tóc chị. Bây giờ, chiều nào mẹ cũng ra ngõ sau đứng
mãi. Mẹ đứng như ngóng, như trông bước chân ai đó trở về. Ngoài kia, một nắm cỏ
xanh. Và phía núi xa, hoàng hôn rượi rượi xuống. Nắng ngoa ngoắt thắp lên màu
võ vàng trên cánh đồng. Cây chiêm chiêm đầu ngõ ơ hờ trổ mấy chùm hoa khắc khoải.
Mẹ nói đó là cây cha trồng. Cha đào đâu ở bờ sông đem về làm cây chất rạ, chất
rơm. Bây giờ nó đã to ra, cái đọt nhong nhỏng cao vươn khỏi tầm hàng tre như cố
nhìn về phía núi Hông Lân. Nhìn về phía núi. Mẹ nhìn như thế bao nhiêu năm rồi.
Và bóng người đi đã chìm vào bóng núi. Tôi đã có chồng và sanh con. Con Hoa gần
tốt nghiệp đại học. Mỗi lần thăm mẹ, về lại vườn xưa, lòng tôi nao nao buồn. Mẹ
đã già lắm rồi, mắt mẹ không nhìn thấy rõ. Mẹ vẫn lần hồi ra đứng ở ngõ sau.
Chiến tranh kết thúc. Tôi nhớ vào một ngày tháng Sáu. Hôm ấy,
mẹ đang sàng gạo. Ngoài ngõ có tiếng chó sủa rồi một người khách cao cao đi
vào. Người khách mặc bộ kaki màu nhạt. Khách đưa cho mẹ tờ giấy. Mẹ đi giật
lùi, tay vin vào bậu cửa. Mẹ đánh rơi sàng vung vãi gạo ra sân. “Thôi, chiến
tranh mà!”. Người khách nói. Chúng tôi vỡ òa trong tiếng nấc. Tất cả vì chiến
tranh. Khi cha đi tóc mẹ còn xanh, bây giờ tóc mẹ đã có nhiều sợi bạc. Có còn
chăng là niềm sâu thẳm trong lòng. Nhưng lòng mẹ mơ hồ như bị ai vò xé. Rồi từng
chiều, mẹ nhìn về phía ngõ sau. Cái ngõ sau đêm nao lênh láng ánh trăng, mẹ tiễn
cha đi. Cái ngõ sau kê bộ ngựa cho chị Nghị nằm chờ khâm liệm. Và cái ngõ sau
ngó ra cánh đồng trong ráng đỏ hoàng hôn.
Chừng ấy tháng năm. Chừng ấy thời gian đi qua trong một đời
người. Đủ cho dịu lại những vết thương. Nhưng vết thương trong lòng mẹ thì bao
giờ mới dịu? Đời mẹ sao mãi còn những rêu xanh. Mẹ giấu nỗi buồn vào ngõ tối.
Thằng Thành bây giờ tệ lắm, là nhà báo, nhà thơ gì đó, nó đi đâu đi miết. Mẹ yếu
nhiều, vẫn nắng xiên khoai ngoài sân. Mẹ cười cười nắm tay con Hoa, mắt mẹ xa
xăm...
Minh Long tháng 03/2007
Chuyện xóm bên cầu
Hồi trước, tôi dạy học một trường miền núi. Trường bên sông.
Sông hơi rộng. Có cầu bắc qua. Một phần ba cây cầu là bê-tông, phần còn lại là
cọc tre và gỗ bạch đàn ghép lại. Đầu cầu có chợ chồm hổm, năm ba lều quán xúm lại.
Buổi sáng, tôi ghé quán bà Móm dằng bụng mấy cái bánh xèo trước khi lên lớp. Bà
Móm hồi ấy cũng đã móm, nhưng các thứ còn tinh lắm. Đặc biệt là tai và mũi. Rất
xa, nghe tiếng sên líp rọt rẹt, bà biết tôi sắp tới. “Lấy cho thầy chén nước
châm thiệt ngon, đôi đũa thiệt ráo với trái ớt thiệt cay, nghen con”. Bà kéo
dài tiếng “thiệt” ra dẽo như bột bánh, trong khi bà khom lưng chỏ ống thổi lửa
vào bếp . Đứa con gái mới lớn leo xuống giường, vừa dạ, vừa dụi mắt đi tới đi
lui, cái đầu chênh chao nặng trịch như những giấc mơ còn đặc quánh trong ấy
chưa tan. Đứa con gái mười sáu hay mười bảy gì đó da trắng như bông bưởi, mặt
tròn, má hồng như hồi nào cũng đang thổi lửa. Có điều khi cười mắt nó híp lại,
chân mày nở ra, rất con cháu Thúy Vân.
Vào một ngày mùa đông, nước trắng sông. Cây cầu gầy nhom run
rẩy. Nước hùng hổ, bọt bèo hăm hở đổ về. Nước liếm chân hè quán bà Móm. Không
sao, nước khách ấy mà, nói xoan qua chút đỉnh rồi đi, không ở lại đâu. Nhưng
quán bà Móm hôm ấy có ông khách cố tình ở lại. Từ ngoài chợ, ông khách khom
lưng chui vào kêu rượu và bánh xèo. Khách chưa già, chân cao, mang theo cây
súng nòng dài. Loại súng săn. Không biết là khách đi săn hay bọn sơn tràng?
Khách uống mấy xị rượu thuốc, cũng không mời ai, cứ xếp bằng trên cái chõng tre
rung đùi mà uống. Đứa con gái bà Móm đi lên, đi xuống dọn hàng, khách ngó
nghiêng ngó dọc. Khách nhìn từ chân lên đùi, lên mông, lên ngực con bé rồi cúi
xuống đánh ực một cái, làm như con bé là đồ nhấm. Trời không lạnh, nhưng gió
nhiều. Gió lật mấy tấm tôle che bếp, nước vào tro bếp lễnh loãng. Bà Móm dọn dẹp,
làu bàu “Ông trời n.c. máu, mới hồi sáng nắng đây bây giờ lại mưa”. Bà muốn tống
ông khách đi, sập cửa tôle lại cho đỡ gió, nhưng chưa được. Đến tối mịt, khách
mới chịu đứng dậy kêu con bé lại tính tiền. Khách đưa cho con bé gấp nhiều lần
số tiền phải trả. Con bé chưa kịp hỏi, khách kéo nó lại hun đánh chụt lên má rồi
lách chân ra cửa. Bà Móm lụi cụi dưới bếp. Con bé so se nắm tiền. Trong đầu nó,
quần jean, giày cao gót mũi nhọn và quần lót Thái đang nhảy múa. Thiệt tình mà
nói con bé cũng dễ nhìn. Các thầy qua đây, thỉnh thoảng cũng nhìn một chút. Tất
nhiên là những cái nhìn từ tốn và rất mô phạm, trừ một ít thầy có máu xấu. Thầy
có máu xấu biết liền. Dò bài xong, chưa chịu cho điểm, cứ nhìn theo cái mông học
trò ngoăn ngoắt xuống lớp. Khi tôi về đây, con gái bà Móm đã nghỉ học. Nghe nói
hồi ấy thầy thể dục hay dò bài thực hành con bé. Sau vụ uống rượu cãi vả với phụ
huynh, suýt nữa bị xô xuống cầu, thầy được cấp trên điều đi trường khác. Con bé
học đến lớp chín thì nghỉ. Thầy Liễm chủ nhiệm dạy môn công dân đến động viên,
nhưng con bé không học. Ở trường, thầy Liễm vào hạng nhất nhì. Trừ thầy hiệu
trưởng ra, thầy Liễm là người duy nhất có xe máy. Xe 81 đời chót. Sau soạn bài,
thời gian còn lại thầy “đầu tư” nhiều nhất vào việc kỳ cọ cái xe. Thầy cũng ít
khi về nhà. Thầy nói mùa mưa đi về nhiều hao nhông hao sên (xích) lắm. Tôi nói
mùa mưa về nhà nhiều hao sức khỏe lắm! Trước khi mùa đông năm đó đi qua, trời để
lại một cơn bão lớn. Bão thổi từ lúc chặp tối đến gà gáy đầu mới dứt. Các thầy
chuôi dưới gầm bàn tránh bão. Bão giằng từng cánh cửa sổ lớp học quẳng ra sân.
Bão nhổ cây gòn hơn người ôm ở cổng trường để nằm chằng ngang xuống đó. Buồn
hơn, bão lột gần hết mái quán bà Móm nhận xuống sông. Sáng ra, bà Móm khóc đứng
khóc ngồi nhìn dòng sông u u chảy mà không biết nó vùi mái nhà bà ở chỗ nào?
Khóc xong bà biểu con bé theo người ta xuống chợ huyện mua ít khuôn bánh xèo và
mấy cái rổ nhựa. Con bé cũng khóc ít, nghe nói đi chợ huyện thì nín ngay. Ở chợ
về, nó dẫn theo hai người đàn ông với mấy tấm tôle. Bà Móm chưa hiểu gì, họ đã
kéo tôle lợp nhà. Xong xuôi họ leo xuống ra về. Bà Móm đòi trả tiền, họ nói đã
có người trả. Nhà lợp hai hôm, bà không ngồi ở bếp. Ngồi ngay trên giường, bà
khóc. Bà nghẹn ngào: “Nó bỏ đi rồi thầy ơi!”. Tôi há miệng nhìn lên mái nhà. Bà
cũng nhìn theo, tôi biết lúc này lòng bà đang thắt lại vì một cơn bão lớn. Quán
bà Móm vắng con bé, coi vậy mà buồn xo. Ở chợ người ta xì xào rằng con bé ăn
trúng bùa ngãi của lão sơn tràng. Lão sơn tràng đã giương nòng bắn con chim
non. Nòng súng dài thòng hằng chi đạn nó độc quá! Mấy bà bán thịt cười giòn
tan, còn bà Móm thấy như có ai xát muối trong lòng.
Ở miền núi nghiệt lắm. Nắng dữ và lạnh cũng hung. Thiên nhiên
vốn thích bạo liệt, còn con người vẫn ưa hiền hòa. Nhưng ưa mà có được đâu. Năm
ngoái bão, năm nay lụt. Mới mưa có một đêm mà nước trắng lăng. Vừa mở mắt đã thấy
nước xấp xỉ đoạn cầu gỗ rồi. Trường đánh một hồi trống bãi. Học sinh nháo nhào
đội mưa chạy ra coi nước. Thầy nói phải đi về nhà, ở đó sụp nước chết trôi. Có
đứa không nghe cứ ở lỳ coi người ta vớt củi. Củi ở đây không thiếu. Nhưng người
đời cứ hay tiếc của giữa trời. Vì tiếc của giữa trời nên đôi khi mang họa. Năm
kia cũng vớt củi đã có người lộn nhào xuông sông, bảy ngày sau mới tìm được
xác. Vậy mà bây giờ họ không sợ. Họ cầm cuốc chĩa, bồ cào, cù nèo đứng trên đoạn
cầu bê-tông vớt củi. Đoạn bê-tông này là phần còn lại của cây cầu sau khi chiến
tranh đi qua. Bây giờ người ta chắp thêm một đoạn bằng tre và gỗ vào để thông
thương qua lại hai bờ. Đoạn cầu gỗ ưa nhún nhảy, đỏng đảnh như đứa con gái. Đi
xe qua, cầu nẩy lên bần bật. Bây giờ thì nước đã xoan. Nước ngập đoạn cầu này
hơn mắt cá chân. Không biết có gì đột xuất không, sao hôm nay thầy Liễm lại dắt
xe ra về? Có đứa học trò định nói ở lại đi thầy ơi qua cầu nguy hiểm lắm. Nhưng
sợ thầy la nên làm thinh. Tôi nói trời thế này thầy về làm gì cho mệt với lại
nước mưa hại xe lắm. Thầy chần chừ một lúc nói là ở nhà có chuyện nên đẩy xe
qua cầu. Thầy ra được một quảng, cách bờ độ mươi mét, phía thượng nguồn lừng lững
trôi về hai khúc gỗ mục. Gỗ cạp vào thân cầu. Có tiếng kêu “rắc”, đoạn cầu tách
rời chỗ nối chậm rãi đưa thầy và xe trôi về phía hạ lưu. Đám học trò kêu khóc
thất thanh trên bờ. Bọn người vớt củi cầm bồ cào, cuốc chĩa chạy tới chạy lui
giống như đám đệ tử Đường Tăng gặp nạn nhưng có làm được gì đâu! Thầy Liễm đã
mười mươi cầm chắc cái chết trong tay. Mạng thầy mỏng manh hơn sợi tóc. Chỉ cần
chao một cái nhẹ là thầy và xe vùi sâu dưới dòng nước bạc. Các cô giáo nín thở
lấy tay che mặt, nức nở quay vào trường. Nước đã lên đến ngực thầy rồi. Thầy cứng
ngắc như trời trồng. Chân thầy như có đinh đóng xuống mặt cầu. Hai tay thầy nắm
chặt cây xe như nắm chặt bàn tay người tri kỷ cùng thầy trong chuyến đi định mệnh
này. Bỗng như có bà đỡ, đoạn cầu vươn vào bùi nhùi chà chơm đâu chỗ mé sông ngoặc
thầy tấp vào bụi tre cuối bãi. Đưa thầy lên bờ, đám học trò vừa la vừa khóc. Mắt
thầy cứ mở to nhìn vào khoảng không vô tận nào đó. Có lẽ thầy vừa ra khỏi giấc
mơ.
Mấy hôm sau nước rút. Thầy đến trường thần sắc chưa hoàn hồn.
Mừng từ cõi chết trở về, thầy nhờ phụ huynh tìm mua một con heo. Loại heo đen
chạy rông ngoài rẫy. Làm mâm cơm tạ ơn trời đất đã cứu thầy thoát chết, cứu chiếc
xe 81 cáu cạnh của thầy khỏi phải đăng ký lưu hành ở chôn thủy cung. Mọi người
đang chấp tay đăng đàn vái tạ ơn trên, bỗng có tiếng khóc òa của bà Móm. Bà Móm
nhìn trân trân con bé da tái xanh ôm bọc quần áo bước vào nhà. Bên kia đầu cầu,
thằng Dũng khùng ở trần cà thọt chạy tới kêu: “Em Liễu ơi (con gái bà Móm) cho
anh thương cái đi. - Rồi cũng tự nó nói - Thương gì được nữa. mà thương, chửa
hoét rồi mà thương?” Bà Móm nghe thắt lòng, nước mắt càng chảy dữ.
Buổi tiệc bên bờ sông hôm đó, kẻ khóc, người cười. Buồn vui lẫn
lộn. Thằng Dũng cỗm đâu một cái tai heo cuộn tròn lại làm mi-cờ-rô cứ đi vòng
quanh đọc hoài câu thơ không biết ở đâu nó có:
Nòng dài đạn độc Liễu ơi!
Ăn nhằm bùa ngãi nát đời gái tơ
Con Liễu nằm trong buồng khóc rấm rức. Nó nẩy lưng gỡ bớt móc
quần jean.
Nghe nói khi nó tháo bớt móc quần, thì lão sơn tràng cũng vào
tù. Con Liễu nơ cái bụng chang bang ra sông giặt áo. Nó soi mặt xuống sông mơ hồ
không nhận ra mình, mơ hồ làm rớt tuổi thơ xuống nước. Nước xao xuyến chảy, xao
xuyên trôi đâu mất cái tuổi mà thầy giáo dạy văn hay nói là đẹp và hồn nhiên nhất
cuộc đời. Tuổi thơ nó đã theo sông ra biển tan vào mênh mông . Cũng như nắm tiền
lão sơn tràng đưa cho nó thành nắm lá mục tan vào rừng thẳm. “Ăn của rừng rưng
rưng nước mắt”, nó thường nghe lão nói như vậy. Người ta đã lục túi xách lấy đến
đồng bạc cuối cùng trước khi đuổi nó ra khỏi chỗ ở. Bây giờ nó nhận thấy bếp lửa
của mẹ là ấm hơn cả và dòng sông bên cầu này là trong nhất. Nhưng chắc chắn
không thể rửa sạch vết nhơ nặng trĩu nó đang mang nặng trong lòng.
Minh Long Mùa Lũ năm 2000
Gió se
Không thể chờ hơn, Thành băng bộ qua cánh đồng làng. Lũ cò
rúc trong lúa hốt hoảng bay lên rồi liệng quanh nuối tiếc. Chúng tiếc nuối vì
lúa qua thì con gái, nòng nọc đứt đuôi nhảy lên bờ mơ việc đổi đời. Những cú nhảy
ngây thơ thường hấp dẫn kẻ săn mồi. Còn người làm ruộng thì hơi bị phiền. Cò đẳm
bừa, đẳm phứa lên lúa, thấy ghét. Đấy là hồi Thành còn làm ruộng, còn sục chân
trong bùn, theo mẹ nhổ cỏ. Thành không thích lũ cò, mặc dù chúng có dáng thư
sinh trắng trẻo. Thành nhớ cả mùi bùn, mùi cỏ. Tết này về khi chán hãy ra thành
phố. Với lại ở phố, bụi và ồn. Ồn ào trong mưu sinh quá... Kẻ danh, người lợi
ma mảnh và tinh vi.
Phía bìa làng, thấp thoáng hoa sầu đông tim tím. Thành chợt
nhớ màu tím hoa xương rồng bên những bờ rào ngày xưa...
Tháng Chạp, gió lướt nhẹ trên sông. Mặt sông gợn sóng. Thành
thức dậy trời còn đẫm sương. Sương ngái ngủ là đà trong bờ tre, chòm cỏ. Sương
tràn vô mui thuyền, se lạnh. Mẹ trên bờ cát, loay hoay bên bếp lửa. Mùi cá kho
lá gừng thơm phức. Bờ cát màu ngà ngà, ngổn ngang dấu chân bò và chân lũ trẻ. Cảnh
ấy cứ lặp lại ở mỗi đoạn sông. Thành theo mẹ đi chài lúc lên ba, suốt ngày ngồi
trong mui chơi vỏ ốc. Cha quăng chài, thả lưới, mẹ gõ vào mạn thuyền. Tiếng gõ
đều, vang vang thành thứ âm thanh kỳ lạ. Thỉnh thoảng cha rút mái chèo đập mạnh
trên mặt nước. Nước tung tóe bắn cả lên thuyền. Nghe hoài thành quen, Thành
trôi vào giấc ngủ bằng điệu ru sông nước này.
Tháng Chạp, những bãi mía ven sông xao xác gió. Tiễn mùa đông
năm cũ, cờ mía màu trắng bạc lơ phơ. Gió mang theo mùi nước chè hai, có cả mùi
hoa cau, mùi lúa, trộn lẫn mùi bùn đất ẩm sau những ngày mưa dài.
Bảy tuổi cha cho Thành lên bờ ở với ông bà nội, kiếm cái chữ.
Nội dắt Thành tới lớp cũng trong một ngày tháng chạp. Tháng Chạp, đường làng
hơi khô, những vết bùn cong lại, nham nhở chân người. Ông giáo già có đôi guốc
mộc và cái mục kỉnh xệ xuống sống mũi. Ông nhìn chằm chằm như muốn nuốt chửng.
Nội nói: “Tôi gửi thầy thằng cháu, nhờ thầy cho nó cái chữ...” Ông thầy, gỡ mục
kỉnh ra, cúi xuống :
- Ngó mặt cũng sáng, chắc là học được, nhưng có nghịch lắm
không?
Nội nói: “Cũng có”. Ông giáo chỉ vào đống xơ mít góc hè: “thuốc”
kia. Đây là “thuốc” ông giáo biểu đám học trò lượm về từ chợ. Bài thuốc coi vậy
mà hiệu nghiệm. Nó trị dứt bịnh thọc lét, búng tai, bôi mực. Không đứa nào dám
ho he. Thành học nửa năm thì biết đọc, biết đồ. Tháng Chạp năm sau đã thông được
vần ngược, vần xuôi. Cha Thành mừng quá, bán mớ cá mua cho Thành áo mới. Hoa
xương
rồng chút xíu lẫn vào với bao thứ gai góc bên rào, vậy mà bọn
trẻ phát hiện ra sớm nhất. Hoa xương rồng báo hiệu mùa đông đã hết. Và cũng đồng
nghĩa với việc được ăn những cái bánh nổ, bánh in. Những cái bánh mẹ ngồi cả buổi
lượm thóc rồi bỏ vào khuôn, trộn đường đóng huỳnh huỵch. Những cái bánh thuẫn
hình hột xoài trơn lu, trọc lóc. Mẹ giận hờn quăng ra: “Đó ăn đi, đứng trù ẻo
hoài”. Rồi mẹ đốt thêm vào bếp cây nhang, van vái cho những cái bánh sau đừng
láng o tịt lít. Bọn trẻ ngược lại. Chúng xớ rớ đâu đó chực chờ cơ hội là nhào
vô kiếm chác. Kiếm chác đâu riêng gì lũ trẻ. Người lớn kiếm chát còn độc địa
hơn! Mẹ vùng vằng nói tại cái vía mày nặng quá, sang năm chắc làm ăn chẳng ra
gì. Gì thì gì lũ trẻ cũng chẳng sao. Miễn bây giờ được ăn bánh, và được mặc áo
mới. Được hít thở gió se từ cánh đồng làng. Những sợi gió thổi vào bếp hừng niềm
vui con trẻ và cháy lên âu lo người lớn. Nhưng lo thế nào Tết vẫn đến. Gác lại
mớ nợ nần năm cũ, mẹ bưng mủng đi chợ. Mua ít củ kiệu, củ gừng, mấy lon gạo nếp.
Mẹ chung thịt heo với người hàng xóm. Con heo đen mõm dài, thường ngày xổng chuồng
ủi trốc vồng lang đầu ngõ. Con heo như trái bí đèo. Mỗi người một xâu thịt cỏn
con treo lơ lửng trên dàn, nước còn nhỏ tong tong xuống bếp. Mẹ nói với cha:
“Ra sau vườn cắt cho tôi tàu lá chuối.” Tàu lá mẹ trải ra nong gói bánh. Những
cái bánh thon dài buộc bằng lạt tre thật chặt, chặt như mối tình của mẹ và cha.
Cha đi đâu về kẹp trong nách áo một chai rượu trắng. Tay kia cầm gói gì đó so
se. Cha nói: “Mua cho mẹ mày cái này”. Mẹ ngạc nhiên cầm lấy mở ra. Một niềm
vui lướt qua trên khuôn mặt âu lo. “Trời, chi mà phí quá, bày đặt guốc dép làm
gì, để tiền đong thêm vài lon gạo, ông này thiệt tình”. Nói vậy nhưng hạnh phúc
lấp lánh trong mắt mẹ và mẹ cũng thấy hình như Tết đã về đâu đây.
Thời gian cứ trôi đi. Tết rồi lại Tết. Thành lớn lên không
theo nghiệp của cha, cũng chẳng nghề của mẹ. Có ít chữ trong đầu (đọc thông viết
thạo). Thành theo bạn đi buôn. Người ta nói “có phước làm quan có gan làm
giàu”. Thành có gan. Chẳng mấy chốc đã là ông chủ hiệu. Thành là người phố thị.
Phố thị, Tết rộn ràng phía ngoài cửa hiệu còn trong nhà thì tỉnh queo. Vợ Thành
không phải bưng mủng đi chợ. Không cắt lá chuôi, không chung thịt heo.
Sáng nay, vợ Thành mở két rồi nghiến lên: “Thôi chết rồi, hết
rồi”.
- Có việc gì vậy em? - Thành ngạc nhiên hỏi.
- Năm cục tiền tôi để trong này ai lấy đi một cục?
- Coi lại chớ, mấy đứa nhỏ chưa đứa nào về, ai vô đây lấy? Kẻ
trộm thì không thể...?
- Tất nhiên đây không phải người ngoài. - Vợ Thành đưa mắt về
phía chồng.
Mặt Thành đỏ lên. Bấy lâu sống với người đàn bà lúc nào cũng
tiền và tiền, còn mấy ngày nữa, hết năm mà không qua được. Thành ngán ngẩm. Hay
con mụ đưa nhầm cho người ta. Tháng Chạp lu bu, thức đêm đoảng người. Đàn bà mất
tiền như hổ mất con. Con mụ lồng lên, như ai bóp hầu, bóp họng. Thôi kệ, Thành
lên xe. Ở quê yên lành thật. Mặt quê phẳng phiu, không nhăn nhúm. Không cau có
hằn học. Quê không tất bật vội vàng. Tiền bạc thì ai chả quý nhưng lấy nó làm cứu
cánh cho đời thì buồn biết mấy!
Thời gian làm đổi thay tất cả. Vẫn cánh đồng làng ngày xưa
nhưng dáng mẹ không còn nữa. Cả ông giáo già và những miếng gai mít nhọn hoắt
đâm nát da đầu gối chỉ còn lại trong ký ức. Thành ra nghĩa địa, đốt nhang cho mẹ,
cho thầy. Gió đồng se thổi, cờ mía và lò đường cũng biến đi đâu. Đám học trò lớp
vở lòng ngày ấy, giờ lên lão, lên ông. Thành tìm lại chút gió Tết ngày xưa, một
chút thôi nhưng gió chỉ miên man thổi qua miền ký ức... Bỗng máy điện thoại
reo.
- Alô, anh đó hả, em tìm ra gói bạc rồi nghe, trong đầu tủ
đi-văng, quên tưởng để trong két. Bao giờ về?
- Không về gì cả, tôi ở đây...
- A! Anh nói sao? Hay là đang ôm con nhà quê nào đó hả? Đang
đốt tiền của tôi đấy hả?
- Tôi đang ở nghĩa địa, không có con nhà quê chỉ có ma quê.
Ma quê hiền hơn ma chợ. Người gì mà... Tút tút.
Trời buông gió, Thành nghe se thắt trong lòng.
Minh Long, tháng chạp Đinh Hợi 2007
Những con ốc chữ
Tôi cẩn thận gói những tờ bạc. Mẹ cẩn thận lựa ốc vào rổ. Rổ ốc
mẹ cất dưới gầm. Tờ bạc tôi mua phiếu thầy. Thầy nói tôi cần tiền, các em cần
chữ. Cứ đầy rổ ốc, tôi mua được một phần năm buổi học. Học nhiều buổi quá, mẹ
phải độn rau câu, ghẹ đá vào phiếu. Cha nói thiên hạ cùng mình. Lưng cha cháy
đen kéo từng tay lưới. Những tay lưới lấp lánh hy vọng. Và cha kể: “Từ buổi hồng
hoang trời sai một vị thần đem xuống cho trần gian chiếc bình đựng đầy các thứ,
chờ đến bình minh thì mở nắp. Vì hẹn lỡ cuộc nhậu với bè bạn trên thiên đình,
thần đã mở nắp trước khi trời sáng. Các thứ trong bình vụt bay đi, chỉ còn hy vọng”.
Cha nói sự sống sẽ héo khô nếu hy vọng không còn. Hy vọng của cha đuổi nhau
trên đầu con sóng. Cha nhặt nhạnh gói trong mồ hôi đem về. Cha biểu cầm đi. Tôi
cầm đến lớp học thêm.
Lớp học như nêm cối. Những cái nêm bị thúc bách từ nhiều
phía. Cha nêm tôi đến lớp. Thầy nêm tôi chỗ ngồi. Không sao, nêm càng nhiều,
túi càng chặt. Thầy dùng loa rắc từng nắm chữ như người ta rắc thóc cho gà. Những
con gà không háu đá, không cựa quậy (chật quá làm sao cựa quậy), yên lặng nhặt
thóc. Lép có, bui có, tất nhiên là có những hạt chắc. Phải chăm nhặt vì ngoài
kia có biết bao nhiêu gà đang chầu chực bơ phờ. Những con gà đến đây thảy hiểu
một cách tường tận rằng trong mỗi chữ nhặt lên đều thấm đẫm ngọt ngào và mặn
chát. Còn thầy, thầy đã lèn kỹ chữ trong bồ. Trước khi làm cuộc đổi trao này,
thầy vốc ra từng vốc ngâm vào khay đạo lý và rắc một ít hạt tâm lên đó. Nhưng
có thầy đã lia ra những hạt sần sùi, thô mộc. Những con gà có chút “sĩ khí” phải
“rụt rè” nhặt lấy. Có khi bội thực. Có khi nghiền nát cả diều mà không thấy
nghĩa đâu! Nghĩa lặng lẽ chùi ra khỏi chữ, ngúng ngoẩy, ném chuỗi cười diễu cợt,
trôi về phía thị trường. Cái vỏ chữ buồn xo, ơ hờ lăn lóc. Tôi lơ ngơ nhặt được.
Chưa kịp chào thầy đã có tiếng ai chõ vào tai. “Thầy chưa cần đâu”. Hóa ra đàn
gà đến lớp để so cánh, đánh vai, để có tên trong sổ học thêm. Tôi học thêm tất
thảy các môn. Học nhiều quá sinh mụ mẫm. Tôi gù lưng cõng dãy Trường Sơn bài tập.
Tôi gục trên bàn và thiếp đi khi đang làm bài. Tôi thấy mình hóa thân thành Tề
Thiên Đại Thánh có bảy mươi hai phép thần thông, cùng lúc, học bảy mươi hai lớp
học thêm. Đến lớp thứ bảy ba thì không thể. Tôi bị vòng “kim cô” quay bài siết
lại. Bài không thuộc, tôi khóc đi xuống lớp. Mẹ hỏi sao vậy con? Giật mình, dụi
mắt đã đến giờ học thêm, tôi đạp xe thục mạng.
Bình minh hay chiều tối? Nắng gắt hay mưa dầm? Có gì phải để
ý? Thế giới chung quanh với tôi gần như vô cảm. Có lẽ cha hiểu được điều này.
Cha tìm đâu ra những bài thơ. Cha nói đây là bài Đất Nước, đây là bài Quê Hương
và đây là bài Tình Mẩu Tử, hay lắm đọc đi con. Đọc cho tâm hồn mềm đi một chút.
Tôi đọc một lèo. Nhìn vào mặt tôi khô lạnh, cha thở dài. Dúi bài thơ vào tay
cha, đã đến giờ học thêm rồi, tôi chạy. Cha nói không được. Con phải ngồi lại.
Hôm nay cha sẽ dạy con một chữ. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Cha có chữ nào trong bụng
đâu? Cũng chẳng có giáo án, giáo trình, làm sao cha dạy? Tôi nghi ngờ. Cha
không theo trình tự “năm bước”, không có những câu phát vấn vỡ vụn. Sợ cha chẻ
nát bài văn, sợ cha không có năng lực làm khô cứng những bài thơ thấm đẫm tình
người. Làm sao cha có bài mẫu cho tôi học thuộc? Nhưng không, cha bắt đầu bằng
một cái nhìn xa xăm ngoài sân vắng. Tuổi thơ cha theo sợi gió lùa về. Cha nói
điều gì, không rõ. Chỉ nghe trong hơi thở cha có lụa vàng của nắng. Có những
bình minh rực rỡ ngoài kia. Có những viên bi lăn tròn trong ký ức. Chập chờn
cánh bướm, giấc ngủ trưa hè. Cha gửi tuổi thơ vắt vẻo mạn thuyền, ê a trang
sách. Trang sách có dấu chân còng gió, dã tràng, có tiếng sóng ầm ào một ngày
biển động và một dòng sông trong vắt ngây thơ. Tôi lắc đầu không chịu. Bây giờ
sông bẩn lắm cha ơi! Đầy rác rưởi... nghẽn dòng, trôi không được. Cha nói rác
rưởi rồi sẽ trôi đi. Cha lại kể về chuyện thằng cháu ông Hai. Ông Hai vác cuốc
ra đồng, thấy hang dế mới, ông lấy nón vục nước đổ vào, con dế trồi lên. Mừng
quá, ông cho vào túi áo. Gọi thằng cháu khản tiếng, ông mới thấy nó từ đầu xóm
chạy về. Ông thọc tay nó vào túi. Nó cầm con dế lia mạnh xuống sân. Rồi mò tiếp
túi ông kẹp được tờ giấy hai ngàn, nó vù ra quán chơi game. Ông ngẩn ngơ chống
cuốc nhìn theo... Bỗng cha vùng dậy nắm tay tôi đi về phía bờ sông. Trời chiều,
những sợi khói thuyền chài mỏng manh lặng lẽ. Những sợi khói mơ màng thong thả
gửi lưng trời những nỗi niềm riêng. Tôi à lên một tiếng, con nhớ rồi cha ơi.
“Nhớ gì” - Cha hỏi. “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thấy khói, con nhớ bếp!
Cha cúi xuống, bước chân nặng nề dẫm lên bờ cát ướt như có gì đau đáu trong
cha.
Tôi lại phải đến lớp học thêm. Thầy hơn hẳn các vị thần xưa.
Thầy không đời nào hẹn lỡ. Kẹp bình đựng chữ vào nách, thầy ầm ầm phóng xe đến
lớp sau khi vui vẻ tới bến với bạn bè. Thầy bật nắp, những con chữ mang hình đồng
xu bay lượn.
Cũng may trong tôi còn hy vọng và mớ ốc mẹ mới xúc chiều qua.
Minh Long 10/2007
Máu chó
Vút. Oẳng! Rờn rợn tiếng xe máy tốc độ cao. Đêm mênh mông.
Sáng, thằng Lưu lầm bầm trong miệng. Con vợ quét sân vừa chửi.
Chửi không ai nghe, chửi cho hả giận. Chửi cho máu bớt dồn lên não, bớt ứ lên mắt,
cho nhìn nhau khỏi nghiến răng. Lưu nghĩ, con người đôi khi cũng dã man. Rất dã
man. Mà không phải bây giờ từ buổi hồng hoang. Từ hồi nguyên sơ, ngơ ngác đứng
nhìn hoàng hôn đỏ ngầu màu máu. Con người ngấu nghiên cắn vào miếng thịt đỏ
tươi, cắn vào đam mê và tỉnh táo. Khi thò được một chân vào cánh cửa văn minh,
con người đã tỉnh táo hơn. Đã biết cách tân bản năng. Đã phỉnh phờ được chính
mình và đồng loại. Rồi đứng hẳn hai chân trên nền văn minh, thỉnh thoảng lại ưa
thò một chân về nơi hoang dã. Thình lình và tinh vi, những cú thò làm rách nát
cái vốn dĩ muốn được nguyên lành. Thằng Lưu cũng muốn nguyên lành. Nó cắc củm
con chó trong nhà. Nhưng đêm khuya có đứa thò vào. Cái thòng lọng siết cổ con
chó lôi đi. Tức trào máu họng.
Buổi chiều, Lưu về mặt đỏ phừng, lắc đầu nhìn vợ: “Dò la khắp
nơi rồi, không thấy hơi hướm con Mun đâu hết”. Lưu nghĩ Mun đã nhảy lên cái đĩa
nghi gút khói, thơm phức, béo ngậy mùi riềng, mùi sả, mùi lá mơ rồi. Người ta
nghiêng ngả cụng ly chúc nhau, gắp bỏ cho nhau từng miếng đau khổ của Lưu. Mùi
dồi chó theo gió tỏa ra. Theo gió chào hàng đó đây. Mẹ kiếp, thằng nào chả nuốt
nước bọt. Lưu cũng nuốt nước bọt. Đủ mọi cách quyến rũ phỉnh dụ nhau. Trần trụi
và tinh vi. Nhưng thịt chó vẫn là thịt chó. Thời nào chẳng ăn thịt chó. Chó biến
thành dồi, thành chả, thành tái chó, phay chó, còn ngón nghề hơn là tiết canh
chó... Vậy thôi. Cũ mèm. Người ta vẫn khoái ăn? Mẹ kiếp thằng “thực bất tri kỳ
vị”. Mẹ kiếp thằng xào nấu xỏ xiên. Lưu chửi lộn tùng phèo. Nó chửi hoảng vì mất
chó. Nó chửi vì có thằng hoang dã đêm khuya. Nó chửi vì hoang dã chưa chịu chia
tay với loài người. Và hình như loài người đôi khi còn nuối tiếc. Tiếc nuối rất
bản năng. Lắm kẻ thích nhìn ngó thiên đường bằng con mắt đớn đau của đồng loại,
thích theo đóm ăn tàn. Buồn. Thật buồn. Thượng đế chơi khăm, thằng hoang dã lấp
ló trong nách áo văn minh. Ừ lắm điều. Và nó chửi nó. Chính nó vừa làm mấy ly.
Chính nó bước đi không dứt vì cái mùi cách tân nghiệt ngã. Nó nhai vội vã, cố
nhai, cố nuốt. Cố trộn lẫn vào nhau. Trộn đam mê và tỉnh táo. Nó ngờ ngợ mình
cũng đang làm một cú thò chân. Đồng lõa với tội lỗi. Nhưng rồi nó lại tỉnh ra.
Nó thấy ngon. Ngon thiệt. Một ngụm rượu nữa. Mùi sả thơm lên tận óc. Thần kinh
giãn ra. Cơn giận chùng xuống. Có lý, ăn hút làm người ta dễ chịu. Mọi cái đôi
khi trở nên dễ chịu, trước chén rượu và đĩa mồi. Ít nhất cũng mở đầu cho đồng cảm
và chia sẻ! Nhưng mà không. Tại sao phải chia sẻ với thằng kẻ trộm? Trời ơi, mẹ
kiếp. Vậy thì còn cái thá gì? Không còn thá gì khi vợ Lưu đanh đá chõ mồm ngoài
đường. Khi con Mun đang đánh đu với số phận. Cuối cùng nó chẳng biết giận ai?
Ai nên giận? Tốt hơn là không nhân danh điều gì. Không khát thèm bông phèng
chân lý. Thứ chân lý rẻ tiền. Nhưng nó đau đớn lắm, xót lắm. Đêm nằm nghe chó
hàng xóm sủa, giật mình ngồi dậy. Nó ngây ngây trong đầu. Nó nhớ con Mun hồi mới
đem về tròn như hột mít. Mắt đen láy ngây thơ. Chỉ biết ăn và ị bậy. Vợ Lưu vừa
giải quyết hậu quả vừa cằn nhằn. Còn Lưu ôm Mun nựng như một đứa trẻ. Động vật
được thuần dưỡng thường đánh mất tính đa nghi. Dễ tin vào hành vi thân thiện. Kể
cả những cái thân thiện chết người. Những cái thân thiện trở tay không kịp!
Nhưng Lưu đã thân thiện chân thành. Không mưu toan ve vuốt. Mun tin Lưu, tin
người, bằng niềm tin thuần khiết, không phản trắc. Mà cuộc đời thì trái khoáy.
Đôi khi sự phản trắc đến từ phía vuốt ve. Cũng may, Lưu còn chút đa nghi. Bây
giờ chỗ con Mun thường nằm đã lạnh. Nhưng trong đầu Lưu vẫn nóng, cảm giác Mun
quanh quẩn đâu đây. Tiếng xe máy giữa khuya vun vút. Tiếng xe lao vào đêm sắc
nhọn. Gầm rú điên cuồng. Lũ chó hốt hoảng sủa toáng lên. Loài động vật trung
thành phản ứng ngây thơ bản năng. Ban ngày chúng lim dim ngủ, con đường xe cộ lại
qua. Những cuộc gặp gỡ vồn vã của loài người. Nụ cười và tiếng khóc. Niềm vui
và nỗi buồn. Người ta bịt mặt, bịt mồm, từ chối mọi nhận diện, xa lạ trong thế
giới quen thuộc. Phía sau lớp vải và miếng kính là cái rất thật. Cái thật đáng
được tôn vinh, bảo vệ và gìn giữ. Bóng tối bảo vệ hoang dã? Loài chó không quan
tâm, gác mõm lên chân, lim dim nhìn đời. Và đời cứ trôi đi trên bề mặt tĩnh lặng
dửng dưng.
Hai đêm không ngủ. Đêm thứ ba về sáng, Lưu bật dậy. Một tiếng
động lớn. Tiếng động từ phía ngoài đường. Tiếng động đột ngột cắt đứt một đoạn
âm thanh xe máy. “Rầm”. Khô và lạnh. Tiếng chó sủa vang.
Trời sáng, Lưu đến. Hai vũng máu. Một con chó gầy nhom thoi
thóp. Sao lại là con Mun? Trời ơi con Mun đã thoát lưới tìm về? Mầy chịu đói
bao nhiêu ngày? Chiến đấu với bao nhiêu đồng loại trước khi lết về đây? Còn mấy
sải tay nữa thôi. Còn mấy sải là đến được bến bờ bình yên. Mày đã băng qua đột
ngộ khi nhận ra thứ âm thanh rờn rợn đó. Lưu đứng lặng rất lâu nhìn xuống hai
vũng máu. Hai vũng máu cùng màu đỏ sậm không thể phân biệt được.
Thoại Văn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét