Nhà văn già và cô bé gù
Cô bé gù có một cái tên rất đẹp do bà mẹ, một giáo sư Văn lựa chọn kỹ càng đặt
cho. Nhưng cả nhà và sau này họ hàng lẫn bà con xóm giềng chỉ gọi cô ngắn gọn
là Bé. Cái tên hai chữ đẹp tuyệt ấy chỉ dùng trong học đường, một thế giới khác
khá biệt lập với môi trường chính cô bé sống bên trong. Một con người tật nguyền
thường thu gọn lại trong cuộc sống gia đình, trong một ngôi nhà, một khu vườn
nào đó. Ở trong không gian ấy, cô mãi mãi chỉ là Bé thôi.
Mẹ cô khi còn con gái là hoa khôi của một trường trung học ở Đà Nẵng, có làn da
trắng và thân hình nẩy nở chứ không mảnh mai như mấy nàng tôn nữ xứ Huế. Bà đã
truyền phần lớn nhan sắc mình cho cô con gái duy nhất không may bị gù này. Vậy
thì Bé vào năm mười bốn tuổi đã có khuôn mặt đẹp, nhưng đôi mắt sâu hơn vì di
truyền từ phía bố, đôi môi hơi ngắn nhưng mập căng. Nếu ngực Bé phát triển
nhanh và lớn như bà mẹ, mười ba tuổi mẹ đã phải mua nịt vú cho Bé mặc lúc đi học,
thì một chân lại ngắn hơn chân kia, làm ngay từ lúc đi học lớp một, Bé đã phải
dùng nạng.
Cô bé có hai người anh đã vượt biển thành công sang Úc nhiều năm và học ngành kỹ
sư điện toán. Hai anh thừa hưởng khả năng toán từ ông bố vốn là một giáo sư dạy
toán nổi danh của nhiều trường trung học Sài Gòn. Nhưng hai đứa con này làm
lương cao gửi được nhiều tiền về cho gia đình hơi trễ, do đó bố mẹ cô đã phải
bán căn nhà rộng có vườn trong thành phố để thanh toán số vàng đã hứa phải chi
khi hai con trai vượt biển thành công. Hai ông bà mua căn nhà gỗ lợp tôn nằm
nhô trên con rạch gần cạn đầy bùn cuối một cư xá gần vùng ngoại biên. Nhưng dù
trong hoàn cảnh nào, cô bé vẫn được săn sóc chu đáo, nuôi dưỡng đầy đủ. Dù tật
nguyền hay không cô vẫn là đứa con gái duy nhất trong một gia đình năm con.
Không ai biết cô bé ý thức mình là một người nữ tật nguyền vào lúc nào tuổi
nào, nhưng không mấy ai thấy cô than thở, khóc lóc vì chuyện đó. Có lẽ tại cả
gia đình họ hàng cưng chiều, có lẽ một phần do cô sinh trong một gia đình theo
đạo. Từ lâu lắm rồi cô được giảng rằng Chúa, vì một lý do nào đó không thể hiểu
được, đã đưa cô vào cuộc đời này với tật nguyền bẩm sinh như vậy. Ông cha đỡ đầu
cho cô, bây giờ tóc đã bạc lắm rồi, luôn luôn nhấn mạnh cô vẫn có hạnh phúc, nếu
cô biết bằng lòng với phần hạnh phúc Chúa đã định sẵn cho cô.
Vậy thì cô bé là một cô gái tật nguyền yêu đời yêu người. Cô ngày ngày chống nạng
đi học và học rất khá, xếp hạng thứ ba trở xuống là ít khi xẩy tới. Học giỏi,
quần áo đẹp, cô tham dự vào mọi sinh hoạt ở trường, chơi cùng bạn những trò nào
không đòi hỏi sử dụng đôi chân. Hơn nữa bố mẹ cô vốn là nhà giáo kỳ cựu có danh
trong thành phố, biết cách giải quyết vấn đề. Đầu niên học nào cũng vậy, không
bố thì mẹ đến gặp trước thầy cô ở tiểu học, gặp giáo viên chủ nhiệm ở trung học,
để gửi gấm cô gái tật nguyền. Đôi khi họ còn lựa một buổi không có cô đi học để
nói với cả lớp là hãy thương cô, che chở giúp đỡ cho đứa con gái không may mắn.
Hơn nữa trong cặp cô bao giờ bà mẹ cũng để sẵn hàng ngày một khoản tiền không
những đủ cô ăn quà mà còn dư để bao các bạn bè thân. Bởi thế cô bé đã lớn lên
khá bình thường. Chỉ có điều càng lớn, đôi mắt sâu trong xanh dưới hàng mi rậm
đen mượt càng có một vẻ buồn bã mà người ngoài chỉ bắt gặp khi cô tưởng không
có ai quan sát mình.
Chỉ có cô bé và bà mẹ mới biết nỗi buồn trong đôi mắt ấy bắt nguồn từ đâu và
vào lúc nào. Gia đình cô dọn vô căn nhà gỗ trên con rạch này vào năm cô bắt đầu
dậy thì. Trước kia cô có một phòng riêng tiện nghi trên lầu ngay cạnh phòng bố
mẹ, trong biệt thự ngoài thành phố. Bây giờ sang nhà mới chật hẹp hơn nhiều, cô
vẫn có một phòng nhỏ vách gỗ thùng thô sơ, sát cạnh phòng bố mẹ. Nhưng vẫn đẹp
vì bố cô và hai đứa em trai đã bỏ cả một ngày chủ nhật ra sơn lại tất cả một mầu
xanh ngọc bích. Riêng cái cửa sổ thô sơ chống lên hạ xuống thì được sơn mầu hồng
nhạt như lời cô yêu cầu.
Chính tại căn phòng xinh xắn này cô thấy kinh lần đầu vào một buổi sáng trước
khi đi học. Bà mẹ, một cô giáo đầy kinh nghiệm, không để cô hoảng sợ hay kinh
ngạc lâu. Bà vừa chuẩn bị những điều cần thiết về y phục cho cô bé vẫn có thể
đi học, vừa cắt nghĩa bằng những lời lẽ cụ thể rõ ràng để cô gái hiểu thế nào
là thân phận người nữ mới xuất hiện. Nhưng kể từ đó cô bé bắt đầu có những đêm
khó ngủ, nhất là kể từ khi hai đầu vú bắt đầu nhô lên, nhiều khi nhức nhối. Cô
than thở với mẹ và được cho biết rồi điều đó sẽ qua đi. Nhưng bây giờ cô không
còn ngủ kiểu con nít nữa, cô trằn trọc và nhiều đêm bỗng thức tỉnh. Chính vào
những khoảng khắc như thế cô đã đi vào thế giới dục tình của người lớn. Vách gỗ
ngăn hai phòng quá mỏng và nhiều khe, cô bé đã nghe thấy tiếng bố thở hổn hển
và sau cùng là tiếng mẹ rên rỉ và có lúc kêu lên như bị đau đớn vô cùng.
Đêm đầu tiên nghe thấy như thế, cô bé đã lo ngại cho mẹ. Sáng sớm cô đã thức dậy,
vào ngồi chiếc bàn ăn trong bếp và khi bà mẹ đi ra trong chiếc áo ngủ hở ngực hở
tay và một phần đùi, cô đã đảo mắt thật nhanh xem trên người mẹ có vết thương
nào không. Cô chưng hửng khi thấy thân thể mẹ vẫn nhẵn nhụi, và hơn nữa, còn
như hồng hào hơn. Cô đưa mắt ngắm nghía hơi kỹ làm mẹ, khi bưng tô bún riêu
nóng hổi lại đặt trên bàn, đã phải hỏi:
- Bé làm gì mà nhìn mẹ kỹ vậy?
- Bố làm gì mẹ đêm qua mà mẹ kêu vậy? Bố làm mẹ đau hả?
Bà mẹ cười, vừa ăn bún vừa cắt nghĩa. Mẹ bảo mẹ kêu không phải vì bố làm đau mà
vì bố làm cho mẹ sướng. Bà cũng cắt nghĩa thêm cho Bé hiểu là từ xưa đến nay mọi
sự vẫn là như thế, từ thời có ông Adam lẫn bà Eve kia. Nếu những năm trước Bé
không nghe thấy tiếng kêu rên là tại hồi đó ở nhà biệt thự tường gạch. Vậy
thôi.
Cô bé rất tin ở mẹ về những chuyện đó, cũng như tin ở bố khi bố kèm toán lý hoá
hay nói về thế giới đàn ông, thế giới bên ngoài. Một thứ thế giới rất là hỗn độn,
dữ dằn. Nhưng những tiếng kêu thất thanh của mẹ vẫn làm cho Bé băn khoăn. Cô muốn
coi thực sự những gì xẩy ra và điều đó không khó. Với một chiếc đinh, cô đã tẩn
mẫn khoét được một lỗ nhỏ nhìn sang phòng bên. Và khuya hôm đó, khi thấy tiếng
giường lay động dữ dội và tiếng mẹ bắt đầu kêu, cô đã xoay người áp mặt vào lổ
hổng. Lỗ ở vị trí hơi cao nên cô chỉ thấy mẹ đang ngồi lắc lư trên người bố nằm
ngửa. Tóc mẹ xoã tung và đôi vú của mẹ căng lên, thẳng băng. Mẹ bỗng kêu thất
thanh và hai bàn tay của bố phóng lên úp lên hai vú mẹ. Sau một khoảng khắc tê
cứng, mẹ bỗng úp sấp lên bố và sau đó Bé nghe thấy tiếng cười nhẹ chế giễu của
bố và giọng thì thào như ngượng ngùng của mẹ.
Ngày hôm sau là ngày thứ tư, ngày tắm có gội đầu của Bé vì sáng hôm đó mẹ không
có giờ dậy. Kể từ khi dọn vào ngôi nhà gỗ này Bé đã dư sức tắm một mình. Chỉ
khi nào tắm có gội đầu mới cần tới mẹ phụ giúp. Mẹ để Bé ngồi trên chiếc ghế thấp
để dễ múc nước từ thùng phuy. Bà thường chỉ mặc một quần lót bởi vì gội đầu cho
Bé xong, bà cũng ướt nhẹp. Những lúc tắm chung như thế là những khoảng khắc
thân mật nhất giữa hai mẹ con, giữa hai sinh vật nữ. Bởi thế khi lớp mao bắt đầu
che phủ nhè nhẹ phần dưới, Bé đã không ngạc nhiên vì đã quen với phần đó của mẹ
dầy đặc hơn. Bé thường hỏi mẹ những câu hỏi khó khăn khi cúi đầu cho mẹ vò tóc.
Và đã có lần mẹ nói rằng những lúc ấy người đàn bà thường sướng nhiều và dữ dội
hơn đàn ông. Mẹ bảo Chúa đã an bài như vậy để bù lại những lúc mang nặng đẻ
đau.
Mẹ nở một nụ cười rất vui khi xoa xà bông lên đôi vú cho Bé. Mẹ khen Bé có bộ
ngực còn đẹp hơn của mẹ lúc còn trẻ. Mẹ bảo hồi ấy vú mẹ to hơn nhưng trĩu nặng
xuống, chứ không được như của Bé. Nếu Bé có mặc nịt vú khi đi học, thì chẳng
qua là y phục đòi hỏi phải như vậy. Mẹ cũng dặn dò Bé khi quàng tay kéo cô gái
lên lau người rằng Bé đừng có bao giờ lo ngại khi thấy mẹ kêu lên nữa, rằng mẹ
mê bố vì bố biết làm cho mẹ kên lên như thế. Dĩ nhiên có một vấn đề cả hai mẹ
con cũng chẳng bao giờ nhắc tới, là Bé tật nguyền như vậy, có bao giờ hi vọng
Bé được biết đến tình yêu như thế không.
Vậy khi cô bé gặp ông nhà văn già, cô không phải là một trinh nữ ngây thơ không
biết gì về chuyện nam nữ trên cõi đời này. Ông nhà văn già không phải vốn có sẵn
trong khung cảnh quen thuộc của cô, mà ông một ngày nào đó bỗng tự dưng xuất hiện.
Trên con đường đi học hàng ngày của Bé có một quãng Bé rất thích. Một phía toàn
là vách tường có hai cây dương cổ thụ, một phía là nhà làm thêm không nhà nào
giống nhà nào. Tại nơi đó có căn nhà tôn một tầng đối diện cây dương lớn Bé vẫn
hay ngừng nghỉ chân những hôm trời nắng, căn nhà có một cây bông giấy lớn có
cành bò sát trên đất của lòng đường. Vào mùa hoa bông giấy nở, Bé hay ngừng lâu
vì cây này cho hoa hai mầu khác nhau.
Ông già bỗng dưng xuất hiện đều đặn, lúi húi lên luống chạy dài suốt bờ tường
bên kia. Ông trồng rau trồng cà. Tất cả đều tươi tốt vì ông không sợ dơ, đi xin
phân heo các nhà về bón và tưới bằng nước cống. Bé chú ý một cách sơ sài thôi
vì cảnh một ông già trồng rau thì có gì lạ. Tới một hôm đi học về, Bé thấy luống
rau đã biến mất, chỉ còn hai cây cải già đang nở hoa mầu vàng và tím đẹp tuyệt
vời. Bé ngưng ở dưới gốc cây dương hơi lâu gần đấy chỉ vì hai cây cải nở hoa rủ
rê bướm trắng vàng bay lượn trong nắng. Chính ông già mở lời nói với Bé trước.
- Bác chẳng trồng rau nữa đâu. Chắc bác trồng hoa suốt khúc này.
Ông nói giản dị như Bé là người quen thuộc đã lâu lắm rồi. Thái độ đó Bé cho là
tự nhiên vì ngày nào Bé chẳng đi qua đây hai lần. Chưa kể chiều chủ nhật theo cả
nhà đi lễ Nhà Thờ nữa. Bởi thế Bé đã hỏi lại tự nhiên.
- Bác bán hết luống rau được tiền không?
- Bác bán hồi nào đâu. Sáng sớm nay chẳng biết kẻ nào mang thúng đến đây chĩa sạch
rau của bác mang ra chợ bán.
Ông già nói bằng một giọng điềm tĩnh, không một chút nào tức giận. Ông làm như
cái thế giới đầy hỗn loạn trộm cắp và áp bức này vốn là như thế, không khác được,
như cây dương Bé đang đứng dưới gốc, như hai cây cải đang nở hoa và bầu trời
đang chói chang nắng, đầy gió.
Mà ông trồng hoa thực. Ông làm lại luống thật cẩn thận, cời đất thật kỹ, không
để lại một viên sỏi, một cọng rác nào. Bé theo dõi công việc của ông hàng ngày
và vẫn trao đổi những câu nói với ông. Không nhiều về phần Bé vì tính Bé vẫn vậy,
vẫn dè dặt với thế giới mà Bé cho là thế giới của bố, đầy biến động dữ dằn. Ông
già kể cho Bé nghe là ông mới đi cải tạo về. Ở trên trại, bất cứ trại nào, ông
vẫn trồng hoa mỗi khi có thể được. Ông vẫn chiều chiều pha cà phê bằng cái phin
và ly sứ dầy cộp của Nhật có hoa văn đỏ do vợ gửi lên. Ông bầy tỏ một thán phục
rõ rệt khi biết Bé đã học lớp tám và đầu lớp dài dài.
Không bao giờ Bé dừng lại quá lâu vì sợ ở nhà cho người đi đón, nhưng hầu như
ngày nào Bé cũng ngưng lại ít phút nơi quãng đường này. Khi không thấy ông già
thì Bé ngó những mầm cây non, xem chúng đã lớn tới đâu. Một lần, khi Bé tựa lên
nạng ngay cạnh luống hoa, ông già đã ngửng lên nhìn rồi khen:
- Áo cháu mặc hôm nay đẹp lắm. Ở Úc gửi về hả?
Bé đã kể cho ông nghe Bé có hai người anh sắp ra trường kỹ sư ở Úc, cũng như
ông già đã kể ông cũng có bảo lãnh đi Hoa Kỳ. Chiếc áo Bé đang mặc may bằng một
thứ lụa xốp mỏng mầu xanh da trời, để lộ rõ chiếc nịt vú mầu đen mà trong thư
hai anh cứ gọi là bra. Mẹ vẫn nhấn mạnh là Bé có bộ ngực còn đẹp hơn của mẹ lúc
còn là hoa khôi, và mẹ bảo làm con gái không có gì là xấu hổ khi tìm cách phô
ra ưu điểm của mình. Nhưng Bé chỉ thực là sung sướng, và sượng sùng nhiều ngày
sau đó, khi Bé rụt rè hỏi ông:
- Bác thấy... cháu thế nào?
- Cháu biết là cháu xinh mà, đâu cần phải ý kiến bác. Mắt cháu đẹp lắm.
Ông già nói xong mỉm cười, cúi xuống dùng bàn tay xới đất vun vào mấy cây hoa
đã cao chừng mười phân. Ông nói, không nhìn Bé:
- Cháu biết không, chính lòng yêu hoa và mọi vẻ đẹp của thiên nhiên đã giúp bác
tồn tại qua những năm cải tạo. Và cả bây giờ nữa cháu. Vẻ đẹp có ở bất cứ chỗ
nào nếu chúng ta chú ý tìm. Cháu nhìn kia kìa, bông hoa tím đang thò ra khỏi
hàng rào kẽm gai...
- Cháu thấy rồi. Coi hay thật đấy.
Bé ngừng nói, tập tễnh với đôi nạng đi về nhà vì đường lúc đó đã đông học sinh
cấp ba mới tan học. Ngày hôm sau khi hai mẹ con tắm chung để mẹ gội đầu hàng tuần,
Bé kể lại chuyện quen ông già trồng hoa ven đường. Và Bé ngạc nhiên khi thấy mẹ
thở dài nhẹ nhàng và nói mẹ biết ông đó từ lâu. Từ khi mẹ rất trẻ.
Vì cô bé cứ hỏi hoài nên tối hôm đó mẹ ngồi lên giường và kể chuyện-ngày-xưa-khi-còn-trẻ
của mẹ. Mẹ bảo hồi còn học lớp mười một đã mê đọc văn ông già, đọc lén lút với
bạn bè thôi vì người lớn hồi đó bảo ông viết bạo quá, con gái mới lớn không nên
đọc. Mẹ bảo nhờ đọc văn ông mà biết rằng tình yêu nam nữ trên đời không phải chỉ
là những hoa bướm mộng mơ và chỉ ngừng ở cái hôn trên môi. Năm lớp mười hai, một
buổi trống giờ đi lang thang với hai người bạn vùng chợ Cồn, mẹ đã gặp ông ta.
Một chiếc xe jeep ngừng lại và hai người thường phục xuống xe. Cả hai đều cao lớn
và đều ngậm ống điếu. Một cô bạn nhận ra họ là hai nhà văn nổi tiếng đương thời,
không những vì văn chương mà vì nếp sống mạnh mẽ của họ. Cả hai đều là sĩ quan
tác chiến, nay đơn vị này mai đơn vị khác, viết mạnh cũng như sống mạnh. Một
người sững lại nhìn mẹ trong áo dài trắng đồng phục nữ sinh mỏng, lướt mắt trên
phần ngực căng dưới nịt vú đen, dừng lại đọc bảng tên thêu trên vải áo. Mẹ cùng
hai bạn vội vã đi nhưng vẫn còn nghe thấy người đó nói:
"Chưa bao giờ tôi thấy tên con gái trùng hợp với người như hôm nay. Tên
con bé là Tiểu Tuyết và quả thực da nó trắng tối đa."
Người nói câu trên chính là ông già trồng hoa bây giờ. Mẹ kể mẹ chỉ gặp ông nhà
văn này nhiều năm về sau. Lúc đó mẹ đã tốt nghiệp Sư Phạm, đã lấy bố và đang
mang bầu đứa con trai đầu. Mẹ được cử đi làm giám thị coi thi Tú Tài I và vì đến
hơi trễ, mẹ lách vào ngồi bàn thứ hai trước khi nhận ra Thư Ký Hội Đồng đang đọc
tên kiểm diện các giám thị kia chính là ông nhà văn gặp ngày nào ở chợ Cồn Đà Nẵng.
Ông ta đã đi lính bốn năm, được giải ngũ trở về dạy học như xưa.
Bà mẹ đứng dậy tháo chiếc gậy chống, hạ cửa sổ xuống ngăn đàn muỗi đã bắt đầu
bay vào mỗi lúc một nhiều, trước khi kể tiếp rằng buổi sáng hôm đó ông nhà văn ấy
đã nhìn xuống cái bụng to của mẹ trước khi trao nhiệm vụ chỉ cần ngồi tại chỗ
trong suốt kỳ thi. Có một lúc nào đó ông ta nhìn vào mắt mẹ, nhưng mẹ không thể
biết là ông ta có nhớ được thiếu phụ mang bụng bầu này chính là cô Tiểu Tuyết
ông đã say sưa thưởng ngoạn nhan sắc nhiều năm về trước, trên vùng ven chợ có
nhiều cát và đầy người ồn ào ấy không.
Cô bé ngái ngủ hỏi khi bà mẹ tấn màn cho cô:
- Như vậy mẹ đâu có quen ông ấy phải không?
- Đúng vậy. Nhưng mẹ biết ông ta. Văn chương làm cho nhà văn gần gũi với người
đọc ghê lắm đó.
Trước khi đi vào giấc ngủ, cô bé nhớ đã yêu cầu mẹ kiếm cho cô đọc sách của ông
già. Mẹ đã ưng thuận nhưng cũng phải hai tuần sau mới mượn được tập truyện ngắn
đầu tiên — chính quyền mới đã để tên ông nhà văn này ngay từ những tháng đầu
tiên cầm quyền ở miền Nam vào danh sách hai mươi nhà văn bị cấm theo tên, nghĩa
là cứ thấy bút hiệu đó là cấm, tịch thu và tiêu hủy liền. Bé đã ngồi rồi nằm đọc
suốt một buổi tối cho xong tập truyện, định sẽ mang kiến thức ấy ra bàn cho ông
già ngạc nhiên. Nhưng sáng hôm sau, khi dừng lại cạnh luống hoa bây giờ đã có
những cây ra nụ đầu tiên, cô lại chỉ hỏi:
- Sao bây giờ bác không hút pipe nữa?
Ông già ngửng lên, ngắm chiếc áo màu tường vi buông vạt ra ngoài chiếc quần
jean của cô bé, khen màu sắc hoà hợp, rồi mới trả lời. Và với cái giọng thản
nhiên, cho rằng Bé có biết nhiều về ông như vậy là chuyện bình thường.
- Chiếc pipe bác thích nhất đã bị gẫy trong lần đi lấy tre bị té trong rừng.
Bây giờ thì bác không đủ tiền mua thuốc Half & Half bác thích. Vả lại thuốc
lào cũng được lắm cháu... Bao giờ được sang Hoa Kỳ, bác sẽ hút pipe lại.
Ông già hỏi thăm về kết quả thi học kỳ và tỏ ra thán phục khi Bé lại chiếm danh
hiệu học sinh giỏi lần nữa. Nhưng thực ra thì Bé lại không quan tâm về vấn đề
này. Điều Bé muốn hỏi là về một truyện ngắn đã đọc kia. Chàng trai trong truyện
đã không đi xa hơn với nàng chỉ vì bỗng dưng nhận thấy tay mình bám đầy cát. Bé
muốn biết nếu không vì tình cờ tay dính cát, thì câu chuyện sẽ dẫn tới đâu. Bé
chỉ đặt ra được câu hỏi ấy hai ngày sau khi đi học về. Bé sững người nhìn cây
hoa cosmos đầu tiên nở hoa. Chỉ có một bông thôi, vươn lên cao và những cánh
vàng êm mượt không thể tả được đang lắc lư trước gió. Bé thèm bông hoa hết sức
nhưng phân vân sợ ông già giận. Bông hoa nở đầu tiên của ông mà... Nhưng ông
già đã từ trong nhà bước ra từ lúc nào, cất tiếng ngay phía trên đầu của bé:
- Cháu cứ hái đi. Tặng cháu đó.
Khi Bé đã sung sướng cười với bông hoa trên tay, Bé mới hỏi về vấn đề thắc mắc
từ mấy hôm nay. Ông già cười:
- Nếu tay chàng không dính cát, thì chàng đưa tay vào trong áo của nàng. Và sau
đó thì chưa biết mọi sự sẽ đi tới đâu.
- Bác là nhà văn mà bác không biết sao?
- Không biết thật chứ. Khi đã tạo dựng ra nhân vật cho rõ nét, đầy đủ cá tính
thì nhà văn đâu có ép nhân vật cư xử theo ý mình được nữa. Cứ ép, là hư hết
truyện, giống như mấy ông nhà văn xã hội chủ nghĩa ngoài Bắc thôi.
Bông hoa vàng ấy hai hôm sau mới tàn vì Bé cắm vào ly nước để ngay trên bàn học,
trước cửa sổ nhìn sang một vườn chuối bên kia con rạch bùn lầy. Bây giờ Bé hiểu
tại sao ông già thích loại hoa này: khi rụng, cánh hoa vẫn còn giữ nguyên màu sắc
và hình dáng. Nhưng đó là lần duy nhất Bé cắm một bông, bởi vì suốt trong mùa
hoa năm ấy, Bé được ông già cho phép mỗi lần đi học về, muốn lấy bao nhiêu hoa
thì lấy. Đây là một đặc ân hiếm có trong cuộc chiến-tranh-về-hoa xẩy ra giữa
ông già và bầy bé gái trong cư xá. Con gái khu này trong tuổi thích hái hoa thật
là đông đảo nên ông già giao hẹn là mỗi cô đi qua chỉ được phép hái đúng một
bông thôi.
Chiến tranh bùng nổ liền vì chẳng cô gái nào có thể chỉ ngắt một bông khi luống
hoa mãn khai tưng bừng lắc lư khêu gợi như thế kia, dưới nắng và gió. Bởi thế
cô nào mà ngắt tới bông thứ ba là thấy ông già lớn tiếng từ trong nhà: "Đừng
có hái bông của bác nghe!" Thế là các cô túa chạy ào ào... Lớp cành lá
bông giấy quá dầy nên các cô không thể biết lúc nào có lúc nào không ông già
trong hàng hiên. Bởi thế các vụ chĩa hoa và chạy cứ diễn ra hàng ngày, trước sự
chứng kiến đầy thích thú dịu dàng của những người lớn chung quanh.
Ông già bảo với Bé:
- Cháu biết không, thời xưa ở bên Tàu có một nhà văn nói thế này: Trồng hoa là
để mời bướm, trồng trúc để mời gió... Bác thấy còn là để mời các cô bé gái nữa.
Nhưng cô nào bác cũng để cho hái một bó như cháu thì chỉ hai ngày là bác cháu
ta chẳng còn hoa mà ngắm, chứ đừng nói tới bướm tới gió và mây nữa.
Những cây hoa móng nước trổ hoa trễ hơn, nhưng thật mập mạp khoẻ mạnh. Mẹ cô bé
cũng như những người khác trong cư xá đều bảo rằng chưa bao giờ thấy ở đâu có
hoa móng nước to cao như vậy. Lại đủ các mầu nữa. Dù Bé được đặc quyền thao
túng vườn hoa của ông già, Bé vẫn không lấy hoa móng nước vì đó chẳng phải là
thứ có thể cắm vào bình. Một buổi trưa Bé than với ông già như vậy thì ông cười,
hẹn mai đi học về, sẽ có cách.
Và đúng như đã hứa, ngày hôm sau ông già trao cho Bé một tô nhựa đầy những hoa
móng nước ông đã cắt tỉa từ những cây đẹp nhất. Ông bảo Bé về nhà kiếm một cái
đĩa lớn, thả hoa cho nổi lên trên, sẽ thấy đẹp lắm. Mẹ kiếm cho Bé một cái đĩa
lớn thường chỉ sử dụng đựng mứt trong ngày Tết và chính vào những lúc thả hoa
cho trôi nổi bập bềnh như thế, Bé đã chứng kiến một tình yêu diễn ra.
Bên kia con rạch xưa kia là một vườn chuối gần như bỏ hoang. Trong hai năm gần
đây được quân đội miền Bắc chia lô cấp phát lại cho các sĩ quan của mình để họ
làm nhà đón thân nhân vào. Bé không quan tâm lắm đến sự thay đổi bên kia rạch
vì cửa sổ Bé mở ra chỉ nhìn vào một góc hoang vu nhất đầy cây chuối dầy đặc, thỉnh
thoảng mới có một chàng trai đến đó lấy hoa chuối về nấu canh hay nuôi heo.
Nhưng chiều nay thì chàng trai tầm thường ấy dẫn tới góc đó một cô gái. Họ hôn
nhau thì Bé cũng ngó thôi vì hôn môi nhau thì Bé quen rồi, từ trong xi nê đến
ngoài đời Bé thấy thiếu gì. Bé chỉ bỏ trang nhật ký viết dở mà nhìn chăm chú
khi thấy chàng trai bỗng dưng úp tay lên ngực cô gái. Cô gái đưa tay mình lên
giữ chặt lấy tay chàng khoảnh khắc. Khoảng cách khá xa nên Bé không nghe thấy họ
nói gì, nhưng cô gái buông tay ra và người con trai đưa bàn tay qua khe áo vào
vuốt ve ngực cô gái. Đến đây thì Bé hiểu trong truyện ngắn của ông nhà văn già,
nếu bàn tay nhân vật nam không dính cát thì chuyện gì sẽ xẩy ra kế tiếp. Thường
thường đến đó hai kẻ lại hôn nhau tiếp, thật say sưa dưới các tàu lá chuối.
Với thời gian, Bé để ý mỗi lần gặp gỡ nhau ở đó, bàn tay người con trai lại lục
lạo xuống thấp hơn. Và Bé chỉ thực sự xúc động buổi chiều nhìn thấy bàn tay ấy
đưa hẳn vào phần dưới của cô gái. Bé không nhìn rõ bàn tay ấy làm gì nơi ấy bởi
vì bụi cỏ nước ven bên kia rạch đã che khuất. Đêm đó Bé thực khó ngủ và khi vừa
thiếp đi không lâu đã thức tỉnh vì tiếng kên rên của mẹ bên kia vách gỗ. Buổi học
sáng hôm sau trôi qua thật chậm chạp vì Bé chỉ mong đến giờ tan học để gặp ông
già, kể cho ông nghe. Không, Bé không bao giờ kể hết mọi chuyện của mình, nhưng
chỉ cần nói rụt rè và ngắn gọn thôi là ông hiểu ngay chuyện gì. Và khi Bé đang
ngập ngừng kiếm lời nói cần thiết, thì ông già đã đứng dậy vươn vai cho đỡ mỏi
và hỏi:
- Cháu đêm qua ngủ không được phải không?
- Sao bác biết?
- Dưới mắt cháu có quầng. Nhìn biết liền.
- Như vậy trông cháu xấu lắm hả bác?
- Không đâu. Nhiều phụ nữ khi trang điểm còn vẽ quầng giả cho hấp dẫn.
- Sao vậy bác?
- Vì đàn bà tối đến mà ngủ khì liền thì đàn ông chê chứ sao?
Bé không hỏi nữa vì Bé đã nhận thấy tối nào bố uống cà phê mà mẹ uống ké là đêm
đó về khuya thế nào cũng nghe thấy tiếng mẹ kêu thất thanh bên kia vách.
Khi Bé lên lớp chín và ông già đã trồng đến mùa hoa thứ hai thì chuyện trục trặc
xẩy ra. Hôm đó trời hơi lạnh và nhiều gió, gió thổi ào ào trên cao. Bé thật
vui. Vì không gian vì thời tiết, và cũng vì trong thùng quà chót gửi về, anh lớn
có bảo rằng bên xứ Úc, y khoa đã tiến kinh khủng và người ta đã làm được nhiều
việc thần kỳ trong địa hạt chỉnh hình. Bé đã lựa một áo thung dài tay mầu vàng
và một quần jean mỏng mầu nâu nhạt. Ông già bao giờ cũng biết thưởng thức những
chi tiết ấy. Nhưng Bé khựng lại khi nhìn thấy trong vườn chuối bên kia rạch, cô
gái học trên Bé hai lớp đang đứng nói chuyện với ông già. Khi Bé tập tễnh chống
nạng tới gần, cô gái cười thật tươi chào ông già rồi quay đi. Điều trục trặc là
ông già ngưng xới đất, ngẩn ngơ nhìn ngắm bộ mông tròn căng trong chiếc quần
jean đen đang lắc lư nhịp nhàng xa dần.
Bé bỗng dưng thấy mặt nóng bừng lên và cảm thấy một thứ nghẹn ngào. Bé biết chắc
chắn là chẳng bao giờ ông già nhìn theo Bé như thế. Bé hỏi thẳng:
- Bác thích cô ấy lắm hả bác ?
Ông già cười, tiếp tục thưởng thức phía sau cô gái đang đi xa dần:
- Cô ấy có thân hình đẹp lắm.
- Cô ấy là con cán bộ mà bác...
Ông già lại cười, rồi dịu giọng khi nhìn thấy dáng điệu bất an nơi cô bé:
- Người đẹp thì không hề có mầu da, lập trường chính trị hay giai cấp nào hết.
Đẹp là đẹp, vậy thôi.
- Cháu không hiểu.
- Dễ hiễu thôi. Để bác nói cho cháu nghe là từ xưa đến nay con người vẫn vẽ vẫn
tạc tượng đàn bà khoả thân, chính là vì vẻ đẹp thôi.
Bé biết ông già nói đúng. Trong tủ sách của bố ở nhà có hai tập tranh các hoạ
sĩ nổi danh của Pháp vẽ phụ nữ khoả thân, nhưng vấn đề không phải là chuyện ấy...
Rồi mặc dù ông già vẫn thưởng thức bộ quần áo mới của Bé, bầy tỏ tin tưởng ở
khoa chỉnh hình xứ Úc xa xôi, Bé vẫn không thấy vui. Bởi thế, mặc cho mây xám
xì đang kéo tới, Bé không đi thẳng con đường quen thuộc về nhà, mà quẹo sang
trái đi tới ven con rạch. Vì vậy, cơn mưa lớn đã chụp được Bé một cách tàn bạo.
Mẹ mở cánh cổng, lao ra mưa dìu Bé vào, vội vã cởi quần áo ướt, lau khô người
cho Bé. Mẹ đặt Bé ngồi tựa lưng vào vách, lấy khăn khô chà xát vai rồi hai vú
cho Bé trước khi mặc cho Bé chiếc áo ngủ mầu xanh viền trắng, lấy hai sợi băng
đỏ cột tóc Bé sang hai bên tai. Trong lúc mẹ bận bịu như thế, Bé kể không mạch
lạc về những gì đã xẩy ra với ông già nơi luống hoa chạy dài theo lòng đường.
- Mẹ biết không, cái cô bác ấy ngắm say sưa là cái cô con cán bộ có bồ bên kia
lạch ấy.
- Mẹ biết. Thỉnh thoảng mẹ có thấy con bé đó. Nó xinh đấy chứ. Gái Bắc mà được
như thế là hiếm...
Tự dưng người mẹ ngưng nói, chăm chú nhìn qua khung cửa sổ nhỏ. Bé nghiêng người
nhìn theo. Bé vừa kịp nhận ra bên kia rạch vẫn là đôi trẻ ấy thì thấy cô gái bỗng
quì xuống, hai tay ôm vòng lấy chàng trai. Khoảng cách và lớp cỏ nước mọc cao
không cho phép Bé nhìn thấy rõ chi tiết, nhưng đủ để Bé biết cô gái đang làm một
việc mà trẻ nít khi chửi nhau thường hay văng ra. Mẹ không để Bé nhìn lâu, từ từ
rút thanh chống ra, hạ cánh cửa xuống.
Chiều hôm đó Bé bỏ cơm và đến đêm thì lên cơn sốt. Đến khuya thì bố phải lấy xe
gắn máy ra đi đón ông bác sĩ gia đình tới. Sau khi đã chẩn bệnh và chích thuốc,
bác sĩ ra về, dặn mẹ chườm đá tiếp cho Bé trong nửa giờ nữa. Mẹ leo lên ngồi hẳn
trong giường cho khỏi muỗi và Bé thì thào:
- Ngày mai con sẽ báo cho bác biết là cái cô ấy xấu lắm dơ lắm. Dám...
Bà mẹ dịu dàng đưa chiếc khăn bọc đá lướt nhẹ hai bên thái dương cho Bé, nhỏ nhẹ:
- Mẹ nghĩ là con chẳng nên nói gì thì hơn. Bởi vì có nói cũng vô ích.
- Sao vậy mẹ?
- Bởi vì khi đàn ông đàn bà yêu nhau, người ta có thể làm cho nhau tất cả mọi
thứ. Không có gì là xấu là dơ khi yêu nhau đâu con.
- Thế mẹ có làm thế với bố không?
Bà mẹ cười khe khẽ rồi mới trả lời:
- Đôi khi thôi con. Khi nào bố tán mẹ gẫy lưỡi ra đã...
Bé sững sờ trong khoảng khắc nhưng rồi chấp nhận. Có bao giờ mẹ nói dối Bé về
những chuyện như thế đâu. Nhưng Bé không có thì giờ để ngạc nhiên lâu vì mẹ bỗng
dưng hạ giọng xuống nói với Bé với một giọng khác thường. Không phải lối của một
bà mẹ nói với con mà ngang hàng hơn, như một người nữ trưởng thành với một người
nữ trẻ.
- Con nên nghe mẹ đây. Con tưởng ông nhà văn ấy già lắm rồi sao?
- Già chứ. Tóc ông tiêu muối hết trơn rồi.
- Hồi mẹ bằng tuổi con, mẹ thấy ông ngoại cũng già ghê gớm. Bởi thế mẹ đã tức
điên lên khi thấy ông ngoại ôm hôn cô vũ nữ hoa khôi của Văn Cảnh...
- Thiệt vậy hả mẹ?
- Ông ngoại đã cắt nghĩa cho mẹ và từ đó mẹ hiểu rằng trên năm mươi tóc bạc đàn
ông không hề già. Và họ chẳng bao giờ quá già để hết mê những cô gái đẹp trên đời.
Con hiểu chứ? Con hiểu tại sao mẹ bảo con chẳng nên kể những gì con thấy chiều
nay cho bác ấy biết làm chi. Chẳng thay đổi được gì hết đâu con.
Bé ngủ thiếp đi rồi mê sảng vào gần sáng. Vị bác sĩ lại được đón tới lần nữa.
Bé bị sưng cuống phổi thôi, không cần phải đưa đi bệnh viện. Nhưng Bé khó bình
phục một cách lạ thường. Mỗi khi cô bé tỉnh táo ngồi lên nuốt những thìa sữa và
cháo, bà mẹ lo ngại khi thấy đôi mắt buồn bã của cô gái tật nguyền. Cô bé không
muốn chống trả với bệnh, cô cứ chìm ngập trong một chán nản thầm kín. Bởi thế đến
ngày thứ ba bà đã ngồi ra bàn trước cửa sổ nhìn xuống con rạch lầy lội mà viết
thư cho nhà văn già. Bà kể đã đọc đã gặp đã biết ông ta như thế nào trong nhiều
năm trong quá khứ trước khi nói mình chính là mẹ của cô bé gù mỗi ngày đi học về
vẫn ngừng trước luống hoa. Bà xin ông ngày mai hãy đến thăm cô bé vào buổi chiều
vì bé đau nặng và... Người mẹ ngừng lại một khoảng khắc khá lâu, vẩn vơ nhìn dẫy
cỏ nước và hàng chuối phía bên kia con rạch, trước khi cúi xuống viết những
dòng chót xin ông già hãy làm tất cả những gì có thể làm được cho cô gái tật
nguyền.
Ông nhà văn già không ngạc nhiên khi nhận được bức thư ấy. Là nhà văn thành
danh từ đã quá lâu, ông đã từng nhận được những bức thư của những người nữ xa lạ,
yêu cầu ông làm những điều dị kỳ hơn nhiều. Ông mỉm cười bỏ thư vào ngăn kéo
khi nhớ lại nhiều năm về trước ông nhận được một bức thư của một người xa lạ từ
trên cao nguyên. Thiếu phụ ấy năn nỉ ông viết vài chữ xác nhận ông không phải
là "người tình đầu tiên" của nàng. Lý do trong một lúc ghen tuông với
chồng là một sĩ quan trên vùng đất đỏ, nàng đã phịa ra ông là người tình đầu.
Bây giờ hai người đã hoà thuận, ông chồng lại khổ sở dằn vặt vì câu chuyện bịa
của vợ...
Ngày hôm sau là chủ nhật, đến giờ hẹn, ông già tắm rửa, chải tóc cẩn thận trước
khi mặc bộ quần áo của những tháng năm chưa phải đi cải tạo. So với thứ khó
khăn ông đã phải trải qua khi viết bức thư "giải oan" tức cười để cứu
nguy hạnh phúc một gia đình xa lạ trên cao nguyên ấy, thì chuyến đi thăm cô gái
tật nguyền đang đau ốm này đâu có đáng gì. Ông chỉ hơi ngạc nhiên một chút khi
tháo then cổng gỗ bước vào sân, ông thấy nhà không có ai. Tiếng cô bé vui vẻ cất
lên chào và ông theo tiếng nói tiến vào.
Trước khi cùng cả nhà đi lễ Nhà Thờ, bà mẹ đã chuẩn bị thật kỹ càng mọi sự. Cửa
sổ nhỏ được chống thẳng lên, ánh sáng buổi chiều tràn vào như một ô vuông đóng
khung lấy bình hoa nhỏ đặt trên bàn. Cô bé được đặt ngồi trên giường tựa lưng
vào tường, da mặt hồng hào và da thịt phần vai và ngực để hở cũng thế. Bà mẹ đã
trang điểm cho Bé một cách nhẹ nhàng, như mọi khi bà vẫn làm khi hai mẹ con đi
dự tiệc cưới của bà con bạn bè. Ông già ngồi xuống chiếc ghế trước bàn học,
ngay cạnh giường. Ông châm một điếu thuốc, thở khói ra ngoài cửa sổ rồi mới hỏi,
với giọng vui đùa quen thuộc:
- Này cháu, làm gì mà cứ nhìn bác như người lạ vậy?
- Tại bác lạ quá đi. Không giống bác mọi khi.
Ông già mỉm cười thông cảm. Từ biết bao tháng ngày cô bé này chỉ nhìn thấy ông
trong y phục làm vườn tồi tàn. Một chiếc áo thung quân đội cũ đã úa vàng và
lưng thủng lỗ chỗ. Một chiếc quần đùi may ở nhà hay một chiếc quần lính trận do
chính ông vá đắp tùm lum ở các trại cải tạo trên rừng.
- Bác cũng thấy cháu lạ lắm.
- Sao bác?
- Tưởng cháu ốm liệt giường lết bết kia chứ. Ai dè cháu xinh đẹp hồng hào như vậy.
Cô bé sung sướng cười. Và như thường lệ, ông già lại thưởng thức chiếc áo ngủ mới,
khen mầu đẹp tuy hơi hở nhiều da thịt và quá mỏng để ông có thể nhìn thấy rõ đường
nét của cặp vú tròn và lớn — dĩ nhiên nhận xét sau cùng này ông giữ cho riêng
ông. Ông tự lấy bình trà nóng đã pha sẵn rót ra chiếc ly duy nhất và không ngạc
nhiên khi cô bé đòi uống chung một chút. Rồi câu chuyện diễn ra như thường lệ về
mọi đề tài linh tinh. Đang tả cho cô bé nghe thủ đô nước Úc mà ông đã có lần tới
buồn hiu như thế nào vào ngày chủ nhật, ông bỗng nhìn thấy đôi trẻ xuất hiện ở
góc vườn chuối bên kia con rạch. Ông nhìn họ hôn nhau say đắm một lúc rồi mới
nhận ra cô bé gù cũng đã nghiêng người nhìn ra ngoài như ông. Đến một lúc nào
đó người trai đẩy người con gái vào thân cây chuối rồi quì xuống gục đầu vào phần
dưới.
Bây giờ thì ông già hiểu tại sao cô bé tật nguyền này có những hiểu biết chính
xác về tình yêu nam nữ đôi khi làm ông phải ngạc nhiên. Đến một lúc nào đó ông
chợt nhận ra sự im lặng bất thường trong phòng. Ông quay lại và nhận thấy cô bé
đã tựa lưng vào vách và nước mắt chảy đầm đìa, từng giọt xuống phần ngực để hở,
lăn sâu xuống phía dưới. Ông hiểu tại sao cô bé khóc, hay là ông cho rằng ông
hiểu rằng bé biết bé chẳng bao giờ có một cuộc đời một người nữ bình thường, rằng
bé mãi mãi là kẻ lạ, là kẻ bị loại trừ trong cõi đời này.
Ông nhà văn già rất thương phụ nữ và trẻ em. Ông chỉ dữ dằn với những đàn ông
mà thôi. Ngay bây giờ cũng vậy, mỗi khi đạp xe đi ngoài đường thấy trẻ con đánh
nhau, ông vẫn ngừng xe can thiệp và săn sóc đứa nhỏ bị đánh đau. Và có lần ngồi
trong quán, thấy ông bố bên vườn hàng xóm đánh túi bụi đứa con gái bé bằng
thanh tre lớn, ông đã nhẩy sang can thiệp, giằng thanh tre vứt đi. Bởi thế lúc
này ông thực lòng tìm cách an ủi cô bé tật nguyền. Ông đã sống quá nhiều, kinh
nghiệm quá trải rộng để hiểu rằng khi một người nữ đang buồn khổ, không thể
dùng một lý luận nào cả. Phản ứng tự nhiên của ông, do kinh nghiệm tích lũy, là
đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt đẫm nước mắt. Ông vuốt hai ngón cái lên hàng mi mượt
của cô gái để cô phải từ từ nhắm mắt lại cho ông dễ dàng lau nước mắt cho cô
trên má. Ông không hề định hôn cô bé này, nhưng rồi mọi sự cứ diễn ra rất tự
nhiên.
Ông đã hôn lên môi cô bé. Mới đầu nhẹ nhàng để an ủi nhưng mỗi lúc đôi môi ấy
nóng lên, mấp máy đầy quyến luyến. Thế rồi mọi sự lôi cuốn ông đi. Ông từ tốn dạy
cho cô bé cách hôn, từ hôn hé miệng cho đến kiểu hôn ẩm ướt trộn lẫn vào nhau.
Ông đã định chỉ ngừng ở khuôn mặt, ở đôi môi với chiếc lưỡi hồng nhỏ ấy thôi. Bấy
nhiêu đủ để an ủi một trinh nữ đang buồn. Nhưng tới một lúc nào đó, cô gái tự
dưng cầm bàn tay đang đặt trên vai cô, đứa xuống một bên vú. Khi đầu vú nhọn
căng cạ vào lòng bàn tay ông, ông bị lôi cuốn đi xa hơn. Ông mở vạt áo ngủ ra,
ngắm nghía say sưa bộ ngực đẹp tuyệt vời căng phồng trước khi cúi xuống đưa đôi
môi phiêu du trên phần da thịt thơm ngọt. Rồi đến một lúc nào đó, bỗng dưng vú
cô bé bỗng cong lên trong miệng ông trong một rung động cực điểm.
Ông già dịu dàng đặt trả cô bé êm ấm tựa vào vách, chặn gối cho thật tiện nghi.
Đây chẳng phải là lần đầu ông đã làm một người nữ đạt tới khoái lạc cực điểm chỉ
bằng đôi môi và bàn tay ông trên đôi vú mà thôi. Ông rót nước trà đầy ly cho cô
bé uống rồi tiếp tục nói thêm về những đề tài bình thường để cho cô bé đủ thời
gian trấn tĩnh, trở lại trạng thái bình thường. Ông thật bằng lòng khi thấy
ngoài đường đã lác đác những người đi lễ về. Ông đã đi vào buổi thăm viếng người
đau này xa hơn mức dự trù như vậy là quá nhiều. Ông châm một điếu thuốc nữa,
hút hết trước khi giã từ. Khi gặp bà mẹ trở về ngoài con lộ lớn, ông cười nhẹ
nhàng báo hiệu là mọi sự đều tốt đẹp, bình thường.
Khi cô bé gù khỏi bệnh và lại chống nạng đi học, mọi sự đúng là bình thường. Cô
bé vẫn ngừng lại bên luống hoa, vẫn nói chuyện lung tung với ông. Thân mật hơn,
và chẳng ai nhắc xa gần gì đến chuyện đã xẩy ra ấy. Ông chẳng bao giờ ngỏ ý muốn
trở lại căn phòng vách gỗ nhìn xuống con rạch sình lầy với vườn chuối phía bên
kia. Cô bé vẫn chiều chiều loay hoay viết nhật ký, vẫn thỉnh thoảng nhìn ngắm cặp
tình nhân âu yếm nhau đến tận cùng phía bên kia. Nhưng cô bình tĩnh hơn, bằng
lòng hơn với mọi sự chung quanh.
Cho đến một hôm đi học về trên con đường quen thuộc, cô ngạc nhiên thấy một đám
đông đang ồn áo xúm xít chặt nát cây bông giấy cổ thụ trước hiên nhà ông già.
Cô tập tễnh len vào và được mọi người cắt nghĩa rất nhanh rằng gia đình này đã
lên xe sáng nay ra phi trường đi Mỹ. Nhà phải trao lại cho Nhà Nước. Bởi thế bà
con đến chặt cây bông giấy làm củi đun ít bữa trước khi có cán bộ ngoài Bắc đến
ở. Một thanh niên vừa kéo một cành bông giấy sang luống hoa bên kia đường, vừa
nói với cô bé:
- "Dân cối" 1 đâu có biết thưởng thức hoa. Chặt hết đi
là phải. Cũng được mấy bó củi đun đỡ...
Cô bé tập tễnh rời đám đông tiến sang đứng nép bờ tường nhà bên cạnh. Cô lắng
nghe những nhát dao chặt, cô nhìn những cây hoa ông già tưng tiu biết bao bị đạp
nát dần, nát dần. Khi đám đông giải tán, cây bông giấy biến mất như chưa từng
bao giờ có mặt. Lòng đường đầy những cành nhỏ và lá rụng tơi tả. Lần này cơn
mưa lũ lại chụp lên cô gái, dữ dội hơn lần trước. Và lần này cô không tập tễnh
tìm đường về nhà như lần trước. Cô đứng đó, tê dại cho đến khi gia đình túa đi
tìm ra cô, và chính ông bố phải bồng về vì cô không còn sức đứng vững.
Lần này cô bị sưng phổi nặng. Và dĩ nhiên là không còn gì trên thế gian này có
thể cứu được cô nữa.
Nhiều năm tháng nữa trôi đi trên ngôi mộ cô bé cỏ đã xanh um từ lâu trong đất
thánh không xa nhà, gia đình cô mới đến lượt được đi Úc đoàn tụ gia đình. Phải
đợi đến đêm cuối cùng ở Việt Nam, khi cho cô gái hàng xóm chiếc nệm của cô bé vẫn
nằm, bà mẹ mới khám phá ra cuốn nhật ký của cô dấu bên dưới. Bà vội vã cất đi,
đợi đêm khuya khách đến tiễn đưa đã về hết, mới mang ra đọc. Bà đã khóc rất nhiều,
nhưng khóc nhiều nhất vì đoạn cô gái ghi lại những gì đã xẩy ra buổi chiều chủ
nhật có ông nhà văn già đến thăm. Người bố, dù đang còn ngây ngất men rượu tiễn
hành, cũng đọc và buồn. Sau cùng người mẹ nói:
- Dù sao con bé tội nghiệp cũng đã biết đến tình yêu rồi mới chết. Chúa đã
thương nó hơn chúng ta tưởng.
Ông chồng đồng ý. Trong đêm khuya về sáng, một đêm không thể ngủ nổi ấy, họ đã
đồng ý cùng nhau mang cuốn nhật ký ra đốt nơi cửa sổ căn phòng của cô gái. Bà mẹ
lại khóc một lần nữa. Bà chỉ chùi nước mắt, vứt tro xuống con rạch khi đã đến
giờ đánh thức cả nhà dậy ăn sáng chuẩn bị ra phi trường.
Hai năm đầu ở xứ Úc cả gia đình bận bịu biết bao trong việc mưu sinh tự lập
cũng như học hành. Thậm chí đến năm thứ ba cư ngụ nơi vùng đất mới, họ mới nhớ
chuyện xưa cũ kịp thời để làm giỗ cho cô bé tật nguyền. Bà mẹ đã năn nỉ hai đứa
con lớn phải kiếm ra bằng được hoa cosmos và hoa móng nước mang về tưởng niệm
cô em đã chết. Nhưng họ chỉ kiếm được hoa cosmos nhiều màu khác nhau, không hề
có màu vàng tươi như thứ đã mọc lên từ luống hoa chạy dài theo lòng đường của
ông nhà văn già ngày nào tại quê cũ.
Khi cắm bó hoa ấy vào bình, bà mẹ bỗng dưng nói với chồng:
- Có lẽ mình nên báo cho ông nhà văn ấy là Bé đã chết. Và Bé đã yêu ông ấy.
Ông chồng đồng ý. Ông nhà văn ấy đã viết văn nhiều và lại nổi tiếng một lần nữa.
Báo chí tiếng Việt xứ Úc thỉnh thoảng vẫn trích đăng lại một vài bài. Gửi một bức
thư cho ông ta qua một tờ báo không phải là điều khó. Nhưng rồi hai vợ chồng cứ
lần lữa rồi quên đi.
Điều đó cũng không sao. Tại phần đất phía bắc của đất nước Mỹ rộng lớn bao la,
ông nhà văn vẫn tiếp tục trồng hoa vào mùa xuân để cho nở vào mùa hè. Ông vẫn
trồng như ở Việt Nam, bao quanh khu vườn rất rộng nơi ông đang ở. Hai năm đầu
ông chỉ trồng được hoa cosmos ôn đới với các màu trắng, tím, hồng... Không có
thứ màu vàng tươi của nhiệt đới Việt Nam. Mãi đến năm nay ông mới nhờ người
quen từ trại tị nạn Bataan bên xứ Phi mang sang được ít hạt giống loại màu vàng
mà ở quê nhà dân thường vẫn gọi là hoa sao nháy, và những đôi trẻ yêu nhau ở
vùng Đà Lạt vẫn gọi là hoa cánh bướm.
Vào ngày giỗ của cô bé cử hành dưới nam bán cầu ấy, khi bố mẹ cô bàn tính tới
chuyện viết thư cho ông, thì ông đang lúi húi săn sóc bụi hoa màu vàng ấy đang
nở những bông đầu tiên. Không cần phải có bức thư nào cả, ông cũng đã biết từ
lâu cô bé gù ấy đã yêu ông. Khi vin bông hoa mới nở to nhất xuống cà lên môi
mình, ông dường như nhìn thấy rõ ràng từng nét khuôn mặt có hàng mi mướt dài của
cô gái. Ông dường như thấy đôi môi nóng của cô mấp máy trong miệng ông, và khi
ngậm hai cánh hoa vào miệng, ông còn hồi tưởng được mơ hồ đâu đây cơn bùng nổ
khoái cảm đầy rực rỡ của cô gái trong buổi chiều chủ nhật đã thật xa ấy.
Ông đã già rồi. Bởi thế ông ý thức hơn bao giờ hết rằng đó là lần cuối cùng
trên trần gian này ông được một người nữ yêu thương. Sau cô bé, sẽ không còn một
ai khác nữa. Chỉ có một chi tiết ông không biết, đó là cô bé tật nguyền ấy đã
chết cùng với luống hoa bị dẫm nát trong cơn mưa nhiệt đới tầm tã từ đã lâu lắm
rồi. Nhưng điều đó sau cùng cũng chỉ là một chi tiết thôi. Biết hay không cũng
thế mà thôi, vì ông vẫn tiếp tục trồng hoa như thế, suốt những năm tháng còn lại
của ông trên cõi đời này.
Chú thích:
1 |
"Dân cối": chỉ chung cán bộ miền Bắc và gia đình vì họ hay đội nón cối (hiện nay nón cối chỉ còn xuất hiện ở miền Bắc mà thôi). |
Thế Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét