Con quỷ truyền kiếp 4
Chương 10. BÍM TÓC ĐÁNH LỪA
Về đến nhà rồi, Goddard vừa thay quần áo khô xong và ngồi
trong phòng sách dưới ánh đèn thân mật, là chàng đâm ra nghĩ ngợi và ngạc nhiên
với nghi hoặc hoài, chỉ có tiếng gầm quái gở với tiếng kêu khóc tuyệt vọng của
Swanhild mà chàng còn nhớ cho chàng tin rằng lúc nãy không phải là chuyện chiêm
bao.
Cả thái độ cư xử của chàng cũng thấy không thể hiểu được. Đáng lẽ chàng bảo
ngay cho Oliver biết và bắt buộc hai người đàn bà đem việc giữ kín ra nói với
chàng mới phải chứ? Đáng lẽ chàng có trăm ngàn điều làm mà chàng đã bỏ qua.
Đến lúc chàng bình tĩnh dẹp được sự bối rối suy xét, nhận ra rằng thái độ của
chàng như thế là phải. Swanhild và Luna không việc gì, hai người hứa với chàng
sẽ không làm lại việc kia một mình nữa, vậy thì chàng phải yên lòng mà tin lời
hai người.
Chàng lại nghĩ: ở trần gian này liệu có giống nào đã rú lên được những tiếng mà
chàng nghe thấy chăng? Những truyền ngôn cũ lại hiện đến trí chàng: nào ông tổ
truyền kiếp, nào giống vật nửa người nửa thú cách ít lâu lại thác sinh trong
dòng họ nhà Hammond và bị nhốt vào căn phòng kín, nào những người chết, sống lại,
thành những giống trùng hút máu người… Chính miss Bartendale cũng nói đến một sự
thực đáng ghê sợ không xa những chuyện phao đồn kia lắm. Còn về việc vong hồn
hiển hiện thì chàng là người rất thiết thực, không hề tin.
Một điều khiến chàng để tâm là Luna với con quái vật đều ra khỏi phòng trong
cái thì giờ chàng phải qua cái ngạch nước thông dưới trường. Con quái vật biến
đi hay sao? Cái tiếng “xuất ngoại tinh chất” lướt đến ý nghĩ chàng. Miss
Bartendale liệu có phải dùng đến cách này để làm xuất hiện vật hư ảo chăng?
Chàng không nghe tiếng Luna trong lúc có tiếng rú: hay lúc ấy nàng đã ra ngoài
phòng rồi?
Sau nữa, chàng lại không biết thế nào mà đoán về cái câu Swanhild reo lên: “Gía
anh đến sớm được 10 phút nhỉ!” Mà Luna cũng đồng ý mong mỏi này.
Bấy nhiêu điều có vẻ trái ngược nhau. Nhưng rút lại chỉ có điều sau này, chàng
thấy quan hệ hơn cả: hai người đàn bà liệu có được vô sự trong lâu đài Dannow
không? Một sự nhầm lẫn của miss Bartendale hay bất cứ một sự rủi ro nào cũng vẫn
có thể xảy ra được.
Goddard gọi điện cho Oliver xin lỗi đã làm phiền chàng và hỏi chàng về những
công việc ngày hôm sau. Trong lúc nói chuyện, Goddard cho len vào câu hỏi mà
chàng vẫn băn khoăn nghĩ ngợi mãi, thì Oliver cho chàng biết rằng Swanhild với
Luna mệt nhoài vì cả một ngày làm việc vất vả. Sau bữa cơm tối, trong chàng ngồi
nói chuyện với bà Yorke, thì em gái chàng rủ Luna vào nhà kho, rồi lúc trở ra
thì nàng mặt mày xanh như sắp ngất.
Goddard không lấy làm lạ. Người thiếu nữ bị khuynh động dữ dội và sự hoảng loạn
của nàng đủ để cho chàng hiểu cái lẽ quyên sinh của những người đã trông thấy
con quái vật. Nhưng đã thế, thì sao nàng lại tiếc ra rằng Goddard không được gặp
thấy nó? Dù sao, trong vài ba hôm nữa chàng sẽ biết rõ. Vài ba hôm nữa! Từ nay
tới đó biết bao nhiêu chuyện có thể xảy ra được! Cả cái tiếng mà miss
Bartendale nhắc đến cũng khiến chàng nghĩ ngợi hoài: có phải nàng tưởng đến cái
tiếng thiếu mất ở đầu câu thứ ba trong bài hát chăng ?
Goddard định tâm tìm trong tự điển tất cả các tiếng sáu chữ bắt đầu bằng chữ C,
G, O, Q và chữ cuối cùng là L hay là Z. chàng chắc hẳn sẽ không buồn ngủ được
và tức khắc khởi công tìm. Nhưng chàng là một gã trai trẻ, người khỏe mạnh,
không phải lo lắng về phần Swanhild lắm nữa, mà một quyển tự điển thì không còn
gì làm đờ đẫn người hơn. Dần dần, đầu chàng gục lên tập sách dầy. Chờ mãi đến
sáng ngày, nghe thấy con chó cào mãi cửa phòng sách, chàng mới thức dậy.
Trống ngực đập rõ, chàng tức khắc gọi điện thoại đến lâu đài Dannow. Tiếng nói
bình tĩnh rõ ràng của Oliver cho chàng biết không có gì đáng ngại hết, duy có
Swanhild là thấy bối rối một cách lạ lùng. Bốn người ở đằng ấy đang lại khởi
công lục lọi các bản cảo cũ và chàng rủ Goddard đến giúp một tay. Nhưng Goddard
chối từ, chàng muốn soát lại một vài điều trước khi đem những điều chàng dò tìm
được cho mọi người biết.
Được những tin vững tâm kia, sau lúc tắm gội và ăn điểm tâm rồi, chàng thấy
khoan khoái, phấn khởi: chàng không áy náy như trước nữa,. Miss Bartendale mà
bình tĩnh được đến thế trong căn phòng kín cả trong lúc cầm cái bàn tay ướp
kho, tất hẳn là vì nàng có thể trấn áp được những tà lực hung ác đó. Nhưng cứ
phải ngồi mà chờ đợi những điều người ta sẽ nói cho chàng biết thì không thể giải
thích lấy một mình.
Quá trưa, gặp một đoạn khó khăn khá lớn bắt chàng ngừng lại., Goddard đi dạo
bên ngoài một lát và gặp Swanhikd cũng muốn hưởng một lúc trời quang. Nàng giật
mình khi chàng tiến gần lại. Swanhild gượng gạo hỏi:
- Hullo(1) ([Tiếng chào hỏi thân mật lúc gặp nhau.]), Goddard!
Giọng đổi khác của nàng nhận thấy cũng dễ dù ở trong tiếng chào vồn vã. Trông
nàng như già đi, nhọc nhằn hết cả hơi sức.
- Ồ, Swanhild! Rõ may mắn chưa! Anh chắc hai ta cùng muốn chuyện trò với nhau một
lúc trước khi gặp mặt bọn kia.
- Em… ấy, … À anh… anh tưởng…
Nàng liếc mắt, không dám nhìn thẳng chàng:
- Em nghĩ rằng ta tránh gặp nhau trong ít lâu thì hơn.
- Được, cái đó anh xin tùy em. Có lẽ như thế tốt hơn thực.
- Anh Goddard! (Nàng vừa nói vừa âu yếm cầm lấy tay chàng). Anh bao giờ cũng hiểu
lòng em!
Không có gì khác thường trong vẻ người của nàng, duy chỉ thấy đôi mắt quầng
thâm, trong đó lộ ra một sự thất vọng ghê gớm. Song mới từ hôm trước đến hôm
nay mà nàng già hẳn đi đến mười năm trời!
Chàng xót thương bảo nàng:
- Em ạ, anh hiểu em là vì anh yêu em. Nhưng anh chắc rằng cái điều miss
Bartendale, giữ kín là một sự nguy hiểm.
- Không bao giờ xảy ra việc gì được, nếu Oliver cứ giữ đúng lời hứa tránh xa
khu rừng và căn phòng kín.
- Nhưng cứ cấm đoán như thế suốt đời được sao!
- Đàng thế. Dẫu sao Luna với em đợi vài ba hôm nữa đã, còn thì nhất định không
nói một điều gì cho anh ấy biết vội. Về phần anh, anh cũng đừng nói gì hết nhé!
- Được, anh nghe rồi. Nhưng em cũng nên biết anh áy náy đến chừng nào!
Nàng ngượng ngùng nhìn bạn:
- Goddard ơi, về việc nhân duyên của đôi ta em muốn nói cho anh biết trước điều
này: nếu có ai bị buộc vào tội ám sát cô Kate, nếu Oliver với em phải nói rõ sự
thực, thì…
Nàng ngưng bặt, đuối nhược quá, đôi mắt chứa đầy vẻ kinh hoảng. Chàng tái hẳn
người đi, đón hỏi:
- Thì em trả lại lời giao ước cho anh sao? Thế ra cớ sự kia ghê gớm đến thế kia
ư?
- Vâng ghê tởm hết sức! Các báo sẽ gây thành một vụ vỡ lở nhục nhã vô cùng!
- Thôi, em đừng nói nữa. Về phần em, anh không muốn em sẽ phải theo một cuộc
sum vầy vội vã, nhưng nếu tình thế bắt buộc thì anh sẽ xin một phép giá thú đặc
biệt. Anh muốn có quyền được công nhiên chia sẻ nỗi lo buồn với em: anh lại cho
rằng Luna mà bỏ Oliver giữa đường thì thực là hèn lắm.
Swanhild ngửng phắt đầu lên:
- Goddard, em cấm anh không được nói thế đấy! Hai người ấy không thể còn mong
gì với nhau được nữa.
- Sao vậy? Đôi bên vẫn mến nhau kia mà…
- Từ đêm vừa rồi thì tình thế đổi khác hẳn.
Chàng khẽ nói:
- Trừ có em với anh.
Hai người đã bỏ đường rộng đi tới một chỗ có bóng cây to. Swanhild gieo người
ngồi lên một thân cây để úp mặt vào hai bàn tay. Goddard đến ngồi bên cạnh
nàng. Một lúc lâu, nhờ có sự âu yếm thầm lặng kia phấn khởi lòng, nàng mới nói:
- Giá em mà có thể nói được hết mọi điều với anh thì cũng cam.
- Thôi, không nhắc đến chuyện đó nữa. Anh đố em biết em đã tìm được gì rồi nào.
Nàng khẽ reo lên:
- Lập cảo của Culpeper!
Chàng lắc đầu:
- Phải, nhưng ta không nên mừng vội. Bản thuật lại việc cụ Pháp sư khai ngôi mộ
cổ với các việc do đó mà xảy ra, nhưng bản ấy không cho thấy một tia sáng nào về
con quái vật cả.
- Thế thì Luna nói đúng đấy. Đi, ta về nói chuyện này cho chị ấy biết đi!
- Thì anh đến cũng để nói việc ấy. Nhưng anh chỉ sợ rằng chúng ta lại bị những
“bím tóc vàng ánh” kia đánh lừa thôi.
Chương 11. ĐẦU MỐI CÁC MANH MỐI: 1520 – 1651
Vào tới gian Holbein, trong đó Oliver, bà Yorke với cô cháu gái
của bà đang nói chuyện, việc thứ nhất của Goddard là đưa mắt nhìn bức chân dung
của Warlock treo trên tường.
Luna vẫn giữ thái độ thường ngày; dịu dàng và vô tư lự. Tuy thế, chàng cũng nhận
thấy một vết nhăn sâu vừa xuất hiện ăn ngang trên vùng trán nàng.
Oliver bảo chàng:
- Buổi sáng nay chúng tôi không tìm được cái gì đáng để ý cả, Swan chắc cũng chẳng
nói chuyện cho anh biết rồi.
Goddard:
- Tôi thì may mắn hơn đôi chút. Tôi đã dò được một bài thuật sự dài (chàng ngoảnh
nói với Luna) mà có lẽ cô thấy có ẩn một nghĩa kín: đó là bài kể thuật lại việc
cụ Magnus khai ngôi mộ.
Ồ! Thế à?
Bà Yorke với Oliver đồng thanh kêu lên, trong khi đôi mắt của miss Bartendale
lóng lánh sáng. Nàng nói:
- Hay lắm đó. Ông đem tập cảo tới đó phải không?
- Tôi đã chắp, dán từng đoạn ở nguyên bản lên một tờ giấy bóng, nhưng khó đọc lắm.
Vì thế tôi mới biên thành một bản tóm tắt để đọc cho cô nghe. Rồi sau cô dò xét
ở nguyên bản cũng được.
Oliver cố gắng hết sức, đem kéo ghế quây quần lấy chung quanh chàng. Goddard nói:
- Culpeper thoạt tiên trình bày cái việc nó đã khiến ông ta để công tra xét.
Hình như nhà quý phái ở Dannow, là Sir Gilbert Hammond, một đêm kia đã cùng người
con trai nhỏ tuổi nhất, đi từ Dannow hạ thôn trở về nhà. Nhưng chỉ có một trong
hai con ngựa trở về lâu đài cổ và bị cào xéo rất kinh khủng, mà trên lưng không
có người cưỡi. Tức thì người ta chia các ngả đi tìm và thấy trong khu rừng cậu
Hammond, một cậu con trai mười ba tuổi nằm chết và bị ăn mất nhiều chỗ ở mình.
Thi thể Sir Gilbert Hammond với xác con ngựa thì nằm ở đường cái, ngay chỗ núi
Beacon thoải xuống. Theo các điều nhận thấy thì biết rằng người ngựa đều bị hại
vì chống nhau với con quái vật, vì cạnh sườn con ngựa bị cào nát. Ông Culpeper
mới đến Dannow xem vì có lời mời của bạn ông là Reginald, con trưởng cụ
Gilbert; Reginald hồi ấy có tư tưởng bảo hoàng nên phải ẩn một nơi, không dám
ra mặt. Đây, tôi đọc cho mấy người nghe những đoạn rút ở một “bức thư của
Nicholas Culpeper, viết ở nhà hàng Sư Tử đỏ, Spitafield Lenden, gửi cho ông
Reginald Hammond, không rõ địa chỉ, ngày tháng mười hai năm 1651. dòng đầu thư
bị cụt mất, đây tôi đọc những hàng tiếp theo:
“… câu chuyện người ta kể lại rằng họ Hammond là một dòng giống trùng hút máu.
Và nếu một người trong chi họ chết non thì thuở sinh thời y đã đúng tuần cữ,
hút được máu người sống nhiều chừng nào là y có thể sống mãi trong mộ được lâu
chừng nấy. Đó là những lời mọi người kể lại ngụ ý chỉ đại huynh của ngài là ông
Oliver,(1) ([Trùng tên với Oliver, anh Swanhild bây giờ]) bỏ mình trong trận
Wecester và an táng ở đấy hai tháng về trước.
“Tôi khởi cuộc điều tra vào hồi trăng tròn, xét rằng như thế hợp ích cho công
việc. Tôi chủ tâm ghi lấy đúng những ngày nào giờ nào con quái vật xuất hiện từ
xưa đến ngày nay, để có thể nhờ phương pháp thần bí của khoa chiêm tinh mà tìm
ra được một phép linh nghiệm ngõ hầu đời gìn giữ được ngài, hỡi Reginald quý hữu,
rồi những ngài chủ nhân sau này của đất Dannow khỏi gặp những tà ma, vong linh,
hiện hồn, yêu tinh quỷ quái và các linh hồn khác”
Goddard phải ngừng lại để thở. Chàng giảng giải:
- Đến chỗ này có một khoảng lớn bị rách mất. Mà cái đoạn mở đầu vừa rồi tôi
cũng không được rõ nghĩa lắm.
Luna…
- Rõ đấy chứ. Culpeper là một nhà chiêm tinh học có tiếng, ông trông ở khoa học
ấy để định rõ được căn nguyên con quái vật, cũng như tôi vẫn nhờ đến khoa khảo
cổ học và thôi miên học ấy mà. Ông đọc tiếp đi.
- Từ đoạn này, tôi chép thành lối văn mới cho tiện.
“Tôi đã điều tra các trường hợp khi cụ tổ ba đời nhà ông gặp thầy con quái vật.
Theo những cảo cũ nhà ông thì cụ gặp nó ngày mười tháng Mười Một năm 1556. Ông
cụ thân sinh ra cụ đã gặp nó từ ngày tám tháng hai năm 1526, còn giờ nào thì
không thấy nói đến, ở lần trước cũng như lần sau. Sau khi được nghe một câu của
thân mẫu ông nói cho biết mọi điều, tôi đi hỏi các người lân cận nhà ông ở
Dannow, ở Danny và ở Newtimber và sau cùng tôi biết rằng ở Steying vẫn còn sống
một người tên là Jos Blount, lão khoe rằng ngày còn trẻ đã quen thân với John
Slinfold là con đồng của Magnus Pháp sư. Người tên là Blount này, làm nghề thầy
lang, vẫn nhất định không bao giờ chịu nói gì về những điều Slinfold đã kể lại
với lão. Nhưng tôi cũng cứ đến Steying tìm lão và được Mr. Willian Blount, một
người đàn ông trạc tuổi tôi, đón tiếp nhã nhặn, Willian Blount cũng làm nghề thầy
lang.
Willian dẫn tôi đến nhà cụ tổ ba đời của ông ta, một cụ già sọm, bé choắt,
nhưng đôi mắt còn giữ được vẻ tinh anh trẻ trung lạ thường. Người cháu nói tên
tôi với cái mục đích tôi đến thăm cho ông cụ biết, rồi ra.
- Chính phải đó, ông Culpeper ạ (đó là lời ông cụ Jos Blount bảo tôi) chính tôi
đã học tập ở nhà ông John Slinfold trước đây chín mươi năm rồi đó. Đến lễ Dâng
(mồng hai tháng Hai) sang năm tôi sẽ đúng một trăm linh chín tuổi, con trai tôi
thì lại chết già từ ngày lễ Saint Martin rồi.
Tôi nói:
- Cụ Blount ạ, tôi chỉ sợ làm phiền vô ích. Vì cái việc tôi muốn biết đây đã
lâu quá mất rồi.
- Không, ông đừng tưởng thế. Đời người như một vở kích khéo đóng mà người ta chỉ
nhớ có đoạn mở đầu với lúc hạ màn thôi. Đến nay lão vẫn nhớ được cái mùi kẹo ngậm
với bánh bột hạnh nhân hồi còn bé vậy mà lão ăn những gì hôm qua lão đã quên mất
rồi! Lão có thể kể lại cho ông nghe đúng từng lời mà ông Slinfold đã nói với
lão năm 1559. Hồi ấy Slinfold bắt được lão đang đọc trộm một cuốn sách Ảo thuật,
ông ấy nổi giận và cấm lão không được đọc nữa. Ông ấy bảo lão thế này… “Từ bảo
thạch tràng sinh người ta bị lôi kéo dần đến tà thuật, tôi có thể lấy ngay cái
gương mẫu của ông cố chủ tôi là Sir Magnus Hammond kể cho anh coi. Sir Magnus
là một vị quý tộc can đảm và đức hạnh đã làm danh dự cho nước Anh và xứ Sussex;
vậy mà tên của người chỉ vì những sự dại dột của người mà thành nguyên do bao
nhiêu khủng khiếp cho con cháu về sau”. Lão năn nỉ ông Slinfold kể chuyện cho
lão nghe. Ông ta kể:
“Sir Magnus không chè rượu, không bao giờ nhìn một người đàn bà nào khác ngoài
vợ mình, ngài coi rẻ vinh hoa, phú quí. Làm tướng có ra trận, ngài chiến đấu
oanh liệt ở Beswerth. Vua Harry Richmond ý rất muốn với ngài thủ chứa trong triều
nhưng Sir Magnus ưa sống ở Dannow hơn và chuyên tâm đọc sách khảo cứu.
“Hồi ấy tôi mồ côi, nên Sir Magnus đem tôi về nuôi nấng, rồi trong bao năm trời
tôi làm con đồng đọc những trang triệu hung cát trong thiên lý kinh cho ngài.
Ban đầu, công việc của ngài thực vô hại: ngài chỉ tìm đá luyện trường sinh cho
vua Harry thôi, riêng phần ngài, ngài mong tìm được trường sinh dược tửu. Suốt
năm suốt tháng ngài sống giữa những dược cao, bình cất, những gà nuôi bằng rắn
độc và cho uống dấm, với bao nhiêu cái dị kỳ. Khi tôi không ở với ngài nữa thì
hình như ngài đang chuyên học hắc thuật và cúng tế ma quỷ cũng như giáo chủ
Retz bên Pháp, nhưng ta không có gì làm bằng. Tôi biết là biết những việc ngài
làm trong mộ các đạo sĩ Chủ tế ngày xưa kia!
“Theo lời đồn từ xưa, trong mồ này có một kho củalớn, kẻ thì bảo là có Bò Vàng
của Aaron, kẻ thì bảo là những bình tế lễ của các Đao sĩ. Khi Sir Magnus gọi
tôi, đến bàn việc ngài muốn khai mồ thì tôi có nhắc ngài nhớ rằng con quỷ giữ ở
trong mồ xưa nay vẫn không để ai phạm được tới. Nhưng Sir Magnus liền cười mà bảo
tôi rằng: “- Này Jack, ta tìm được bao nhiêu vàng ở trong đó đều cho mi hết để
đền công mi. Phần ta, ta chỉ tìm cái bảo bối với câu bùa để khiến những tâm
linh hiện lên hay biến đi theo ý muốn của ta thôi”. Rồi hai mắt lóng lánh lên,
ngài lại nói: “Thế nào ta cũng thành công Jack ạ, mà ta sẽ dùng những quỷ thần ấy
một cách khôn ngoan hơn thầy Faust nữa(1) ([Một nhân vật kỳ dị, người Đức, bán
linh hồn cho quỷ Mephisteles để đổi lấy phú quí và hạnh phúc, kể cho Jack
Slinfold, vị thủ tướng bất tử của đức Magnus Hammond, hoàng đế bất tử của Trái
đất, của Cuộc đời và Thời Gian vĩnh viễn.]) kia! Ta sẽ sai khiến họ lấy dâng ta
luyện thạch bảo bối và thuốc trường sinh. Đến lúc ấy thì không một vị đế vương
nào là không sẵn lòng đem hết của cải để đổi lấy phép bất tử. Mà ta thì sẽ làm
hoàng đế cả thế giới. Rồi biết đâu đấy, độ vài ba thế kỷ nữa, đến năm 1800 chẳng
hạn hay sang năm 1900, những sứ thần các nước chư hầu có lẽ sẽ đến bái chúc ta
trong những căn phòng hèn hạ ở lâu đài Dannow này. Thế rồi họ ban tước lộc
không biết bao nhiêu mà
Goddard ngừng lại lần nữa và bao nhiêu con mắt đều bất giác nhìn về bức chân
dung của Magnus. Oliver tấm tắc nói:
- Sống muôn đời… Làm chúa tể Trái Đất! Có quyền kiểm sát thế gian và quỷ thần! Ồ!
Chỉ vì lòng ham muốn đáng sợ kia xúi giục ông cụ khai tìm trong ngôi mộ!
Luna gắt đáp:
- Phải! Thế rồi ông cụ phải đến nước van xin hậu thế cầu nguyện cho linh hồn
mình. Ông đọc nữa đi, ông Corvert.
- “Nhưng dám bẩm cụ lớn (tôi dịu lời thưa với Sir Magnus thế) làm thế nào mà cụ
lớn lại biết rằng câu thần chú ấy giấu ở trong Thunder’s Barrow? Được, để ta giảng
giải cho mi biết. Nhờ có cuộc đời hãm mình trong kham khổ, cụ Ẩn tu, cụ tổ nhà
ta, đã luyện được phép giam giữ con quái vật trong mồ. Vì thế, từ ngày cụ mất,
con quái vật không còn quấy nhiễu dòng họ nhà ta nữa. Một linh vật lâu đời như
nó và cái quyền hư nó thì làm cách nào mà xích lại được nếu không nhờ có phép yểm
thế của Salomon là đấng đã cai quản được các thần linh về bên chính cũng như
bên tà? Vì thế ta mới muốn tìm trong mộ những dấu hiệu và cái câu thần chú giữ ở
đó.
- Nhưng lỡ đánh xổng con quái vật thì sao?
- Không sợ, vì ta sẽ không thay đổi động chạm đến vật gì trong đó. Ta chỉ vẽ lấy
một bức họa rất cẩn thận để đem về nhà bình tĩnh dò xét thôi.
- Tôi chưa chịu ngay, hỏi thêm nữa.
- Bẩm, trước kia người ta cũng đã tìm tòi trong mồ nhiều lần rồi. Con quỷ kia
không để người ta thấy có gì trong ấy hết.
- Sir Magnus cười:
- Ta có những thứ bảo vệ giỏi hơn các tiền bối của ta: ta sẽ mang theo một bàn
tay danh vọng.
- Thế ra là tà thuật rồi sao?
- Jack! Ta là chủ nhân, ta sẽ chịu trách nhiệm về mọi sự.
“Đến đêm, Sir Magnus đến chỗ cột hành hình dựng ở trên núi người khổng lồ và cắt
một bàn tay của Will Stredwick là người bị xử giảo ba hôm trước vì tội giết người…”
Goddard nói:
- Đoạn này ngừng lại chỗ này, còn đoạn sau bắt đầu ở giữa câu:
“… và ở đầu những ngón tay thầy trò chúng tôi gắn những mồi nến làm bằng mỡ nấu
ở cái xác của Will. Xong đâu đấy, thầy trò chúng tôi đến Thunder’s Barrow đêm đầu
tháng Hai, mang theo cái bàn tay, một cái xẻng và một cái cuốc. Ông chủ tôi nhận
lấy việc xách đèn và vác một bao lớn đầy những đất đã làm phép lấy ở nghĩa
trang. Mỗi người đeo một vòng kết bằng cỏ hái ngày lễ Saint Jean để ma quỷ sợ,
với những nhánh tỏi giắt ở thắt lưng. Con chó săn lớn của Sir Magnus cũng đi
theo. Tới mộ, thầy trò chúng tôi rải đất thành ra một bên rồi Sir Magnus lấy
túi gươm vạch xuống đó một hình sao ngũ giác. Ngài bảo tôi rằng đứng trong những
vạch ấy thì ta không lo tai nạn gì. Nhổ bật được mấy thân cây thì thấy đến một
lần đá phấn, rồi đến một phiến đá lát. Ngài không thấy trên mặt đá có ấn hiệu của
Salomon nên lại để vào nguyên chỗ rồi lại đào thêm. Giữa lúc đó, những mồi nến
cháy gắn trên bàn tay danh vọng tất cả, làm thầy trò chúng tôi phải ngừng tay.
Hai người đến gần sáng mới trở về nhà để nghỉ ngơi và đúc những mồi nến khác.
“Đêm thứ ba, gió thổi mạnh. Thời tiết đóng giá và trên trời lấp lánh đầy sao.
Phải đào một lỗ hỏm ở trong vạch huyệt để cho ngọn lửa khỏi bị tắt. Vào khoảng
nửa đêm hai thầy trò chúng tôi đào thấy một hình tượng lớn mà thoạt trông tưởng
ngay là Bò Vàng…”.
Oliver vỗ tay nói:
- Ồ! Miss Bartendale! Cô thực đã đoán được hết tất cả!
Bà Yorke bảo:
- Ông Covert, ông đọc nốt đi. Cái nhà ông cụ người cổ kia, cũng lạ lùng lắm đó.
Chương 12. ĐẦU MỐI NHỮNG MANH MỐI: 1651 – 19…
“Rồi sau thầy trò chúng tôi đào thấy một mặt ván, Sir Magnus
thấy không có dấu hiệu gì trên đó mới sai tôi bẩy ván lên. Tôi kinh sợ lắm
nhưng Sir Magnus nói cho tôi vững tâm rằng không việc gì mà sợ, vì con chó
không tỏ vẻ gì là lo sợ cả.
“Ngài tìm một khe ván ghép, lách mũi cuốc vào đó rồi hết sức ấn xuống. Để có rộng
chỗ, ngài bảo tôi lên khỏi huyệt. Mấy mồi lửa nến được kín gió nên cháy thẳng
ngọn, trong khi ấy gió bao vây quấn lấy người tôi dồn lăn những tiếng cành gẫy
và bụi cây xào xạc. Sau cùng Sir Magnus nậy lên được một tấm ván. Một hơi gió
tù hãm hôi thối ở dưới hố xông ùa lên khiến tôi quay đầu đi và làm tắt những mồi
nến.
“Tôi mê mẩn tâm thần đi mất một lát. Bỗng nhiên tiếng hét lên của Sir Magnus làm
tôi tỉnh lại:
- Nó đến đấy! Nó đến đấy! Cút ngay, Satan nhân danh Cha và Con Thánh Thần! Phải
coi cừng đấy, Jack! Đứng vào chỗ đất thánh kia, mau!
“Tiếng thét lớn của ngài đưa từ dưới huyệt lên, the thé chẳng kém gì tiếng kêu
của đàn bà. Con chó bắt đầu rền rít. Thốt nhiên thoát ra một thứ tiếng kêu
không phải là cười, không phải là khóc, không phải tiếng người, không phải là
thú, hay tiếng quỷ quái mà là có đủ thứ các thứ tiếng kia. Thoắt một bước, tôi
nhảy vào giữa chỗ đất phép, nắm lấy quai đèn và đứng lặng ở đó, mấy nhánh tỏi
lăm lẳm trong tay. Tiếng gầm quái gở kia vẫn từ dưới huyệt đưa lên, lẫn với tiếng
con chó cứ rít. Rồi tôi thấy Sir Magnus lên khỏi huyệt trước một tia sáng của
ngọn đèn., ngài quay mình lại vung cái gậy lớn cứ nhè nhè phía sau mà phang.
Ngài đứng được một lúc thì quỵ xuống, ngã gục trên đám đất thánh, ngay bên cạnh
tôi, tôi lại vạch một hình ngũ giác nữa quanh hai thầy trò tôi; trong khi ấy
thì ngài thở cho lại sức. Rồi hai thầy trò mỗi người ngồi cạnh một phía đèn,
ánh sáng chiếu lên hai bộ mặt kỳ dị và kinh khiếp. Sir Magnus thì nước mắt tầm
tã, quần áo rách mướp, máu me nhễ nhại, bàn tay với cánh tay đầy những vết
thương. Ngài hầm hầm lẩm bẩm nói:
- Nó chạy mất rồi! Ta không biết nó hình thù thế nào, cũng không biết nó đến như
thế nào. Chỉ thấy như sự gì tiến lại gần ngay khi mồi nến vụt tắt, rồi trong vừng
tối tăm hung đỏ, ta cứ như người nhắm mắt mà chống cự, cào cấu vung lên. Thế rồi
ta trông thấy ánh sáng đèn.
- Bẩm, thế còn con chó thì sao?
- Thì nó cũng chống cự như ta.
“Tôi nhìn ra thì thấy con chó tội nghiệp ấy nằm ở phíc trước mặt tôi; nó chết rồi,
mình bị xé nát trông rất kinh sợ. Đầu con chó gần như bị rứt đứt. Thấy cảnh tượng
ấy, Sir Magnus thở ngắn than dài mãi rằng con chó bị hại chỉ vì đã trung thành
với chủ. Ngài kéo con vật lại chỗ hai người chúng tôi để thi thể của nó không bị
phạm đến nữa. Rồi ngài lại vẽ lại cái hình ngũ giác mà nét vạch hơi bị xóa
nhòa…”
- Hay đấy! (Lời Oliver) cử chỉ kia đủ để chứng rằng Magnus chưa hẳn đã quá hư hỏng.
Phải thế không, miss Bartendale?
Luna nhìn chàng một vẻ lạnh lùng. Swanhild thì cau mày. Goddard lại đọc tiếp:
- Bẩm, bây giờ thì ta làm gì ạ? (Tôi vừa hỏi vừa soi mói nhìn vừng đêm đen tối
trong đó kẻ thù có lẽ đang ngồi rình)
- Đợi cho trời sáng.
Ngài trả lời rồi đưa ngọn đèn cẩn thận chiếu sáng chung quanh. Đèn vẫn sáng mãi
đến lúc giải trời ban mai lờ mờ hiện sau vừng cây cối. Thầy trò tôi tưởng chừng
như ngồi đó chờ đợi đã cả một đời người. Ngài bảo tôi:
- Jack ạ, thầy trò ta đi vào huyệt xem xét xem có những gì đi. Cái vật xổng mất
đêm vừa rồi không thể tác hại được khi có ánh sáng ban ngày nữa. Nội hôm nay ta
phải xong việc mới được.
“Thầy trò chúng tôi khai một ngôi mộ ra xem: dưới một tấm ván, một bộ xương nằm
an giấc trong bộ áo giáp, đầu quay về hướng tây. Bộ giáp bằng da gò có đeo những
khuy bằng sắt hay bằng sừng đập dẹt. Sir Magnus lúc đánh nhau với con quái vật
đã dẫm gẫy một xương đùi và đã rải rác ra chung quanh những mảnh giáp chân và
đôi giầy. Phía trên bộ giáp có một cái mũ trụ bằng đồng dát vàng, trong mũ thò
ra hai bím tóc lớn màu hung nâu. Một cái khiên tròn mang dấu thập tự của tướng
hiệu đậy lên bím tóc tay trái, một thanh gươm lớn và to bản, đã hoen rỉ hết,
thì đặt chéo đè lên bím tóc tay phải. Ngang trên đùi, một cái búa chiến; giữa
hai chân, một cái cán tay gươm mạ vàng và chạm trổ, với một miếng đồng lớn đúc
theo hình một chiếc lá gẫy làm ba đoạn.
Sir Magnus mơ màng khẽ nói:
- Ta biết rằng ngày xưa đã có một thời các vị quí tộc vẫn mang bím tóc. Tiếc
thay! Con quái vật từ nay đã xổng, mà sự tai hại đã gây nên mất rồi! Vậy ta có
thể mang được thanh kiếm vàng rất đẹp này về, vì có những chữ khắc trên đó xem
chừng ta đã biết qua. Phải đó là nhờ vong linh vị tổ tiên của ta ở đây mách bảo
ta chăng? Mà ta biết chắc chắn rằng ta đang đứng trên sàn một chiếc hải thuyền,
ta lai biết rằng cái hình tượng kia là một thứ hình ở đầu mũi. Jack ạ, tại sao
ta lại biết được những điều ấy nhỉ?
Oliver vội ngắt lời:
- Tôi cũng đã biết như thế.
Luna bảo chàng:
- Những ký ức tổ truyền ở ông cũng là những ký ức ở cụ Pháp sư đó.
Goddard nói:
- Bản đại lược của tôi đến đây là hết. Đoạn tiếp theo, tôi chỉ dò xét qua loa
thôi. Sir Magnus với Slinfold về sau lấy đất nghĩa trang phủ lên bộ xương khô rồi
trả lên mặt ván sau khi đã đậy lại nguyên chỗ, rồi sau cùng lấp kín huyệt lại.
Cụ Warlock nói cam quyết với người thợ giúp cụ rằng cụ không trông thấy con
quái vật một lúc nào, mà nhờ có điều ấy, cụ mới khỏi chết. Ngay sau việc này,
Slinfold mất hẳn cái khiếu xem thiên lý kinh và xin vào học nghề ở nhà một thầy
lang. Hắn chắc rằng cụ Pháp sư lấy con trai cụ làm con đồng và trong một phiên
phụ đồng con quái vật thình lình hiện đến. Lòng hối hận đã để nó xổng đẩy Sir
Magnus đến sự quyên sinh. Bản cảo từ đây trở đi không thể nào đọc được nữa,
thành thử ta không biết Cukpeper kết luận ra sao. Đáng bực mình thực (vừa nói
chàng vừa xếp lại tập giấy)vì ông Culpeper này cũng chẳng cho ta biết được điều
gì lạ lắm.
Luna đáp:
- Không, ông lầm. Những tài liệu không được việc cho ông Culpeper ba trăm năm về
trước lại rất có ích cho tôi ngày nay đó. Thôi, bây giờ tối rồi, chắc những bọn
tò mò đã không còn trên gò nữa. Vậy ai muốn đến Thunder’s Barrow tìm cho tôi
phiến đá trên có khắc những cổ tự nào?
Goddard hỏi:
- Thế nào? Lấy đem về…
- Phải, lấy phiến đá mà lúc tìm thấy cụ Pháp sư đã bỏ qua. Ông không nhớ những
lời cụ nói sao?
- Ông cụ nói rằng cái dấu Salomon không có trên phiến đá…
Nhưng vừa nói thế Goddard đã ngừng bặt: chàng chợt hiểu hết ý nghĩa của câu vừa
rồi.
- Ừ nhỉ, tại sao ông cụ không nói ngay là phiến đá nhẵn mặt, mà lại nói thế nhỉ?
- Ấy đó! Là vì tuy không có cái dấu yểm phép nhưng mặt đá có khắc chữ. Phiến đá
hẳn có trong khoảng ta tìm tòi. Ông với Swanhild có thể tìm thấy dễ lắm; còn
ông Hammond sẽ giúp hai người mang về.
Mọi người liền lên xe hơi đi cùng với hai cái xẻng và một giờ sau phiến đá đã đặt
nằm trên mặt cỏ trên gò. Phiến đá bề dài cũng bằng một tấm bia mộ thường, nhưng
dầy gấp đôi và bề ngang chỉ bằng một nửa. Luna đã đem theo hai cái chổi quét
sơn và một bản sao chép những chữ cổ trên thanh gươm. Nàng quỳ xuống, chải sạch
đất ở những chữ đục sâu trên mặt phiến đá. Rồi nàng bắt đầu ra hiệu cho
Swanhild và đưa mắt cho nàng ra vẻ đắc thắng. Những chữ khắc kia thấy đúng in
như những chữ trên đốc gươm.
Oliver hỏi:
- Có phải chính là cái cô vẫn ước ao tìm được đó không?
- Tôi chưa thể nói gì chắc chắn bây giờ được, ông Hammond ạ. Phiến đá này ta
không thể giao cho sở hỏa xa được. Vậy tôi lấy máy ảnh chụp rồi gửi một bản cho
giáo sư Meikellin theo chuyến xe lửa thứ nhất vào sáng mai.
Oliver trách:
- Ô! Nhưng mà cô hứa ở lại đến chiều mai kia mà!
Nàng cười.
Thấy Goddard có vẻ hoài nghi, nàng hỏi:
- Ông thấy tôi cho việc tìm ra được phiến đá này quan trọng sao? Không có một sự
gắng công nào là vô ích hết, ông ạ. (Nàng nói thêm, vì thấy đôi mắt Swanhild
lóng lánh vẻ mừng rỡ) nhưng ta cũng nên coi chừng, chớ nên hy vọng sớm quá. Ta
còn có cả một ngàn năm bí mật nữa để khám phá cho ra.
Đêm hôm đó, Goddard lại tìm trong tự điển đủ các tiếng bắt đầu có những chữ C,
G, O, Q, và S, thầm mong rằng lần trước đã bỏ sót mất cái tiếng ở câu vè. Nhưng
công toi. Mà câu chuyện do Slinfold thuật lại thì càng làm cho chàng không biết
đường nào mà suy nghĩ nữa.
Chương 13: VẪN CÁI CHUYỆN TÌM CHỮ: ? ? ? HAMMOND
Sáng hôm sau Luna và bà Yorke ra ga từ sớm. Goddard đưa họ đến
Hassock rồi ở lại nói chuyện với Oliver và Swanhild đến hết ngày. Cái tin đồn về
việc khai thác ngôi mộ ại quyến thêm một làn sóng: những phóng viên nhà báo và
những người hiếu sự lại ùa đến ám Dannow.
Oliver đưa ra cho bạn một bức ảnh chụp những câu vè khắc trong căn phòng kín.
Goddard vừa xem đến đã thấy mình được đền công lại sự cố gắng ban đêm: chàng tưởng
nhớ lại lúc Luna xem xét những câu khắc trên đá. Nàng đọc tới giữa chừng câu:
“Under satrs sans…” thì ngừng ngay lại. Cái tiếng “sans” Pháp Lan này chàng vẫn
thường thấy dùng trong Anh ngữ hồi trung cổ, cũng như bao nhiêu tiếng mượn ở
Pháp ngữ khác. Vậy cái tiếng mất ở đầu câu vè kia có phải cũng là một tiếng
Pháp chăng?
Chàng về nhà tra tìm trong quyển tự điển dùng hồi đi học, nhưng không ăn thua
gì, chàng mới rắp tâm hôm sau sẽ đi London mua một quyển khác đầy đủ hơn, lại
có cả những tiếng cổ ngữ.
Ngày thứ năm, bọn phóng viên lại đổ đến nhiều thêm. Trưa hôm ấy, một bức điện
tín của Luna đánh về: chữ trên phiến đá đêm vừa rồi đã dò được, nàng muốn mời cả
nhà chiều nay đến nhà nàng ở London để dự một buổi thôi miên nữa.
Goddard để ý ngay đến sự đổi khác ở Luna trong hai hôm nay: một đường nhăn lớn
ăn sâu ngang trán nàng, và hai tay nàng luôn luôn run rẩy. Xem chừng nàng khó tự
chủ được tâm thần, cả đến bà Yorke – bà ra chiều không muốn có những buổi thôi
miên – hình như cũng không được bình tĩnh.
Miss Bartendale không chịu cho xem bản dịch những chữ cổ tự. Nàng chỉ giở ra
hai tờ giấy đánh máy và bảo Oliver:
- Lúc nào ông bị giấc thôi miên, ông Covert sẽ đọc cho ông nghe một tờ và ghi lấy
những tiếng nào hoặc câu nào mà ông nhận ra. Lúc tỉnh dậy, ta sẽ cùng thử làm
theo cách ấy với tờ giấy thứ hai rồi ta sẽ đem hai lần trả lời của ông ra so
sánh.
- Thế sao cô không đọc lấy?
- Vì lỡ vô tình dằn giọng ở một tiếng có thể là một dấu chỉ dẫn cho ông biết
trước mất. Chúng tôi lại đi ra cả, để một mình ông lại với ông Covert để tránh
sự truyền giao tư tưởng bất cứ của người nào trong lúc vô tâm, vì bà cô tôi và
cô Swanhild đều biết chuyện như tôi cả.
Bây giờ thì Luna chỉ đưa tay qua một cái cũng khiến Oliver bị thôi miên được. Ở
lại một mình với chàng, Goddrad lấy thế làm khó chịu hết sức. Vừa xong việc,
chàng gọi ngay bọn đàn bà vào.
Tay run, mắt lấp lánh, Luna xem xét những câu hỏi. Nàng đưa một liếc mắt đầy ngụ
ý cho Swanhild lúc đó đứng đọc sau vai mình. Nàng khẽ nói:
- Cũng khá đó chứ!
Rồi đánh thức Oliver dậy. Nàng bảo chàng:
- Ông Hammond, ông đọc mảnh giấy này đi trong lúc chúng tôi xếp đặt chỗ ngồi.
Mọi người ngồi quây quần lai trước lò sưởi, thì Oliver đọc những câu hỏi trên:
- Những cái sau này ông có biết là gì không: Salvator, Rosa, Rattoska, Hvareno,
Vishnu Siranguan… (chàng lẩm bẩm nói tiếp) lạ chưa! Những tên hỗn độn kì dị
quá!
Luna:
- Là vì tôi để những tên chính lẫn vào những tên vu vơ đó.
- Tôi hiểu ra rồi: cô muốn xem tôi có phân biệt được những tên nào là tên đúng
không, chứ gì? Thế thì đây: Salvator Rosa là một nghệ sĩ Vishnu là một vị thần Ấn
Độ. Những tên khác thì tôi không biết. À mà có, có một tên tôi quen biết đã
lâu, biên ở dưới những cái tên ấy, là :Odin.
- Odin nhắc ông nhớ đến chuyện gì?
- Tôi tưởng tượng thấy tôi ngồi bên chân giường Swanhild hồi chúng tôi mới lên
sởi vừa khỏi và đang đọc những truyện cổ tích Bắc Âu cho em tôi nghe.
Chàng lại nhận thêm được mấy tên cổ điển nữa và giải thích một vài tên:
- Thor là một vị thần khác của xứ Bắc Âu, Baldur cũng vậy. Teste David cum
Sybilla là một bài hát mà tôi không thuộc lời, nhưng điệu thì thế này:
Chàng đâp tay lên đùi đánh nhịp điệu Dies Iroe(1) ([điệu hát lễ cầu cho linh hồn
kẻ vừa chết]).
Ngẫm nghĩ một lát, chàng lại nói:
- Assir Lok cũng giống như Loki: tôi chắc đó là thằng gian tặc trong truyện cổ
tích tôi đọc hồi lên sởi. Sigmund là tên trong bản tuồng Wagner, Miolner thì
tôi nhớ lờ mờ thôi…
Chàng đã xem hết tờ giấy. Luna bảo cho chàng biết:
- Ông vừa tìm ra được năm tiếng đáng chú ý đó. Lúc nãy, trong giấc thôi miên,
ông đã nhận được năm tiếng khác: Rattotskar, Ygdrasil, Jormund-gander,
Einheirar và Fimbulveter.
- Nhưng tôi không biết gì về những tên ấy.
- Những tên ấy là do ký ức tổ truyền của ông nhắc cho ông nói ra đó. Những tên ấy
đều là tên trong điển chế tôn giáo cổ miền Bắc Âu đó. Dòng dõi nhà ông mới theo
đạo Cơ Đốc được nghìn năm trở lại đây, nhưng trước kia, hàng bao nhiêu thế kỷ,
tổ tiên nhà ông còn thờ những thần thánh khác. Nhưng hoài niệm phảng phất về
các điều tin tưởng của các cụ vẫn còn sót lại trong trí não ông và vẫn có thể nổi
lên khi ông bị thôi miên đó.
Nàng xem lại những chỗ Goddard ghi trên giấy.
- Ông chỉ nhớ lờ mờ rằng Sigmund là một vị anh hùng oai vệ, nhưng ông mô tả
Odin như vị chúa cả muôn vật; Thor ông coi là vị chủ nhân cái búa thần Miolner.
Baldur là thần Mùa xuân, Lok là yêu quái, Ygdrasil là cây thiêng. Einheirars là
những anh hùng hiển thánh, Yormundgander nhắc tưởng đến một vật dài và tròn,
còn Fimbulveter là cuộc tranh đấu cùng tận.
Oliver ngẩn người ra vì ngạc nhiên. Chàng nói:
- Ồ! Thế ư? Nhưng tôi đã bảo rằng tôi không hề biết những chuyện đó kia mà!
Luna giảng giải vắn tắt cho chàng hiểu rằng Jormund-gander là con rắn lớn giữ
nước bể lại chung quanh trái đất. Dưới bóng cây ô-liu thần, hồn bọn Einheirars
ăn mừng để đợi cuộc tranh đấu vô cùng tận. Họ đi qua cầu Vồng hay Băng kiều để
giúp sức Odin và các thần khác thắng được lũ quỷ Helmein. Nàng nói tiếp:
- Ta đi lên xa quá những việc đang tra xét hiện nay nhỉ, có phải không? Nhưng rồi
ông sẽ thấy cái đoạn đường trường từ con quái vật truyền kiếp nhà ông đến cái
ngày Phán đoán sau cùng của dân Đan Mạch cổ, không phải là xa cách đến thế đâu.
Khi trở về nhà, Goddard lại cắm cúi vào việc tra quyển tự điển chữ Pháp. Gần nửa
đêm chàng mới thấy được cái tiếng chàng có ý tìm và đến gần sáng chàng vẫn mải
mê xem xét các ý nghĩa của tiếng ấy. Một vài nghĩa giải thích chàng không hiểu
tới được, nhưng cái nghĩa ghê gớm phũ phàng thì rõ rệt. Luna nói phải: chỉ sáu
chữ cái là đủ cắt nghĩa được hết mọi điều, là đủ cho biết vì sao cụ Reginald
Hammond và cụ Pháp sư quyên sinh, vì sao mà những người khác phải chết vì buồn
phiền và vì sao mà Swanhild không thể nói với chàng một điều nào được.
Hàng mấy ngàn năm đã cách biệt Oliver và Swanhild với tay hải khấu torng mồ mà
hai ngày trước đây họ đã quấy rối giấc an nghỉ vĩnh viễn. Cái mảnh đồng kia lại
hình như chứng minh rằng thời dĩ vãng ấy đã bắt đầu từ thời đại kim khí. Không
biết bao nhiêu thế hệ của dòng họ Hammond đã kế tiếp nhau và vẫn đời đời bị con
quái vật truyền kiếp theo dõi.
Theo dõi truyền kiếp! Nhờ trời, chỉ có Oliver phải chịu tai ương đó thôi. Nhưng
nếu cuộc điều tra các nhà chuyên trách lập ở cái quán trong làng kia mà buộc tội
lầm hai anh em tên đánh bẫy nọ thì cái nhục nhã kỳ quái của nghìn đời kia tất sẽ
phơi bày trên khắp các mặt báo. Trước mặt cả toàn cầu.
Phần III
CÁI ĐÊM BA NGÀN NĂM TRƯỚC - M
Chương 1. HỒN THỜI ĐẠI GHI MỘT ĐIỂ
Hôm ấy thứ sáu: Goddard dậy sớm. Sau hai ngày sụt sùi mưa, buổi
sáng đó trời tạnh ráo và gió thổi mạnh. Giá băng đóng lại trên các miền cao, có
ánh mặt trời chiếu nhẹ.
Càng bước gần tới lâu đài chàng thấy cái sự thực kinh khiếp như càng thêm hà khắc.
Một ý muốn chợt đến dun dủi bước chàng vào xem bức hình nổi trong nhà thờ. Thiếu
chút nữa chàng vấp phải Oliver: cử chỉ đầu tiên của chàng là trốn chạy, chàng
lùi ngay lại trước hiện thân linh hoạt của cái tiếng ghê gớm mà từ nãy chàng đã
biết rồi.
- Ồ này! Godd! (lời Oliver). Sao giật thót mình lên như thế! Không khí nhà thờ
làm anh dễ hoảng lắm nhỉ.
Goddard lảng chuyện:
- Tôi định vào xem bức hình…
Chàng không tìm được câu nào khác. Chàng sợ không giữ kín được vì cái cử chỉ
không tự chủ được vừa rồi, hoặc sợ không thể chịu nổi đôi mắt nhìn thẳng thắn của
bạn. Trong một thoáng chàng tưởng lại cái anh chàng nhã nhặn mà mình vẫn quen
biết xưa nay, cái anh chàng bao giờ cũng đáng mến. Sao chiến tranh để chàng còn
sống lại làm gì!
Oliver hỏi:
- Anh có tìm ra điều gì mới nữa không?
- Không.
Miss Bartendale đã nhận được thư trả lời những điều cô ấy hỏi: cô ấy không ngờ
sớm được đến thế và đã mời Swanhild đến Chelsea từ sáng sớm. Hai người tối nay
sẽ cùng về đây với bà Yorke để thiết lập một buổi phụ đồng trong phòng bí mật.
Cô ấy muốn rằng anh cũng dự vào buổi đó. Vậy anh ăn cơm tối với chúng tôi nhé.
- Xin vui lòng.
- Tôi phải đến Steying có việc đây, độ bốn giờ tôi trở về qua nhà sẽ rủ anh cùng
đi nhé.
- Càng hay.
Lúc đó một chiếc xe chở khách chạy qua phủ lên hai người trong một vừng mây bụi
trắng và khói dầu xăng. Những tiến chỉ dẫn oi ói đưa đến tai hai người. Người
lái xe lắng nhắng hét:
- Kia kìa, chính trong khu rừng các ngài trông thấy kia đó! Hắn ta không ăn thịt
con bé tội nghiệp đâu. Các ngài không đọc báo Daily Post với lời khai của mấy
ông bác sĩ sao? Thực đáng thương quá! Tôi thì tôi cứ nghĩ bụng: hai người làm
gì trong ấy, giữa lúc đêmkhuya…
Những câu sau nghe không rõ. Oliver hầm hầm mắng:
- Đồ ngu!
Chiều hôm ấy, trời rét thêm lên. Từng khối mây lớn phủ trên từng không, dồn lai
bởi những hơi gió buốt da thịt. Mới sáu giờ mà trời đã gần tối sẫm. Miền thung
lũng lẫn biến trong sương mù, còn khu rừng, úa đỏ và um đen, trông có vẻ nộ nạt
hơn bao giờ hết. Lúc chui vào xe hơi của Oliver đến rủ, Goddard lo ngay ngáy sẽ
gặp một đêm thuận tiện cho con quái vật hiện về.
Ngồi xe trên đường Dannow, hai người im tiếng. Tới chỗ quặt thẳng đến trước lâu
đài, Oliver bỗng nói:
- Ta về muộn quá, mấy người đàn bà hẳn về trước ta. (Không thấy tiếng trả lời,
chàng hỏi) kìa, Godd! Ngủ đấy à?
Đang trầm ngâm trong suy nghĩ, Goddard giật mình: chàng vừa nghĩ bụng rằng sự
thực lại còn kinh khủng hơn hết cả bao nhiêu chuyện hoang đường đặt ra về con
quái vật.
- Ê! Này! Ai đi kìa! (Oliver lớn tiếng hỏi).
Người chàng vừa trông thấy là Will Cadorole, lúc ấy đang trở về nhà, lưng cúi
gò xuống ghi đông xe đạp. Mặt tái xanh vẻ khiếp sợ, hắn ta đạp hối hả một tay
giữ lấy mũ trên đầu. Oliver hãm xe lại. Hắn he hé lên mách Oliver:
- Ông Hammond ơi! Họ giết chết bà ta mất, thực thế nếu không có ai can thiệp
ngay. Ở trong rừng ấy ông ạ. Chính tôi nghe thấy bà ta kêu…
Oliver:
- Thế nào? Anh nói cái gì?
- Người đàn bà đi vào rừng với cái ông vẫn chụp ảnh đăng nhật báo ấy! Bọn họ
nhiều người cùng ngồi một chiếc xe hơi lớn. Tôi đã theo hút họ mãi, nhưng bà ta
kêu lên dữ quá, tôi đành phải quay ngay về.
Hắn bị ngắt hơi, ngừng lại. Oliver hỏi:
- Anh đừng cuống lên thế. Anh vừa bảo rằng một người đàn bà sắp bị hại, phải
không?
- Thưa ông vâng. Đứng đây cũng trông thấy được ánh đèn xe hơi của họ.
Ở chỗ ấy một hàng dậu cây ăn khuất khu rừng, Oliver với Goddard trên xe nhảy xuống
rồi chạy đến một chỗ trống. Bên kia miền thung lũng, ở cuối đường ngang, họ thấy
một ánh lửa đỏ ở ven rừng. Oliver cáu kỉnh vừa bước lên xe vừa nói:
- Giờ này không ai còn việc gì được vào trong rừng hết.
Goddard giữ tay chàng lại:
- Anh đừng vào! Anh phải nhớ lời anh đã hứa mới được.
Oliver sẵng tiếng đáp:
- Một người đàn bà bị nạn phải có người cứu giúp mới được. Miss Bartendale cũng
sẽ đồng ý với tôi.
Goddard cũng trèo lên xe:
- Thế thì anh cứ ở đây. Để tôi đi cho.
- Không anh ạ. Việc ấy chỉ liên quan đến tôi thôi.
- Oliver! Anh không hiểu! Chỉ có anh là có thể gặp tai nạn được… Chỉ có…
Chàng ngưng bặt, thấy Will đứng bên đường đang tò mò nghe chuyện. Xe mở máy,
Goddard vội kêu lên:
- Đừng đi! Trời ơi, anh đừng đi!
Chàng ôm chặt lấy người Oliver, nhưng bạn chàng đẩy được dễ dàng như gỡ một đứa
trẻ, Goddard bị hất xuống bên kia mép đường, ngã lăn xuống chân bờ dậu. Chàng
khó nhọc gỡ được những gai góc chằng chịt thì thấy ánh đèn sau xe biến xa vào
bên ngoài phía xóm làng. Không nói nửa lời, chàng chộp lấy cái xe đạp của Will,
nhảy lên rồi cắm cổ đạp. Nhưng ánh đèn chàng đuổi theo mỗi lúc một thêm nhỏ, rồi
biến hẳn lúc chiếc xe rẽ vào đường dãy phố chính, đến chỗ rẽ ngang cứ tự nhiên
rẽ về một nẻo, rồi xông bừa vào đám sương thung lũng mịt mù. Trước mắt chàng nhảy
chập chờn những chữ mà chàng đã tìm ra được.
Goddard trên xe đạp nhảy xuống phía sau chiếc xe hơi nhỏ của Oluver lúc đó đỗ cạnh
một chiếc xe lớn năm chỗ ngồi, rồi đưa mắt nhìn thoáng chung quanh. Chàng trông
thấy lấp ló một ngọn lửa trong khoảng âm u của cây lá và nghe thấy gió đưa vang
lại một thứ giọng đàn bà. Vâng theo một ý tưởng mơ hồ chàng lấy khoác lên vai tấm
chăn của Oliver để lại trên xe, rồi bước về phía ánh lửa chiếu ra hình như từ
khoảng rừng quang rộng. Trong khi tiến lên, chàng nhận thấy có những câu nói
chen lẫn với những tiếng than vãn và tiếng kêu giật giọng. Hốt nhiên chàng đứng
dừng lại để tránh một vật gì đang bò phía trước chàng. Chàng nhận ra bạn chàng
lúc đó ẩn sau một bụi cây.
- Oliver! May quá!
- À Goddard đấy ư?
- Thôi, đi về với tôi đi! Anh cũng biết rằng anh không nên ở đây mới phải.
Oliver càu nhàu:
- Chính bọn kia mới không được ở trong này. Chính cái thằng quấy rầy nói giọng
Oxford đầu bù lối nghệ sĩ kia, cái thằng quỷ quái mà miss Bartendale đã…
Chàng uất lên vì cơn giận cố nén. Goddard năn nỉ:
- Anh đã hứa với cô ấy rằng sẽ không vào rừng ban đêm rồi. Thôi anh về đi, để
mình tôi đối phó với họ.
- Không, anh ạ, đây là đất của tôi.
Một thứ cung điệu chầu hát đưa đến tai chàng. Goddard kiễng chân lên nhìn: một
cái đèn xe hơi đặt trên một thân cây để soi vào người Curtiss, phóng viên tờ
báo Post đang đứng dựa lưng vào một gốc cây, tay cầm sổ và bút chì, mắt nhìn
cây thông sét đánh. Cái hôm cây đã bị những người tích kỷ vật đục khoét vơ vét
hết nhẵn. Một người đàn bà đứng ngay giữa hõm, chung quanh có ba người đàn bà nữa
cầm tay nhau quây thành vòng. Cả bọn đàn bà cùng cất tiếng cầu: “Hỡi ánh sáng tốt
lành hãy dẫn đường chúng ta!” Oliver bảo bạn:
- Thì ra chỉ là một buổi phụ đồng. Cứ nghe mà xem.
Người đàn bà trong hốc cây liền nói lên một giọng trầm trầm nghe ghê rợn:
- Hỡi vong hồn Katherine Stringer, hồn có đây chăng?
Im một lát rồi một người đàn bà trong bọn the thé kêu: đó là cô hồn lên tiếng,
cô hồn lấy giọng mũi bắt chước giọng nói của người bị nạn và rền rĩ:
- Katherine Stringer đang ở chốn này.
Oliver lớn tiếng nói:
- Anh buông tôi ra, tôi không muốn nghe thêm nữa. Thằng nói láo ấy lại dám đến
tận chỗ cô Kate bị giết mà lôi thôi à! Đàn bà hay chẳng đàn bà, cũng không cần
nhã nhặn với họ nữa.
Chàng từ chỗ ẩn nhảy xổ ra. Goddard ra theo không nghĩ ngợi. Chàng khổ tâm hết
sức, cảm thấy tai họa sắp đến, nhưng lại sợ một sự can ngăn vụng chỉ khiến cho
nó đến mau thêm. Chưa hiểu thấu đầy đủ được các điều, chàng chẳng biết xử sự ra
sao. Chàng đành phải đợi xem và thầm mong một thế lực bất ngờ nào đến làm cho
con quái vật phải gờm sợ.
Oliver tiến vào khoảng ánh sáng đèn và đứng lại trước mặt Curtiss. Chàng sừng sộ
hỏi:
- Ông làm gì ở đây?
Người phóng viên ngạc nhiên quá, chưa tìm được lời phân giải, chỉ đáp:
- Làm phóng sự.
Vừa nói Curtiss vừa lùi lại cái bóng hiển hiện bất thình lình kia. Oliver lại
nói:
- Đây là đất nhà tôi, ông biết không?
Rồi túm lấy da cổ anh chàng trong nắm tay dữ tợn, Oliver lắc rất mạnh người
phóng viên. Cô hồn lúc đó há miệng ngừng bặt nửa chừng câu, còn những người đàn
bà khác thì đờ người ra vì kinh dị. Họ cùng kêu lên:
- Con quái vật đấy!
Thì Oliver ôn tồn bảo ngay:
- Không phải đâu, các bà ạ, tôi không phải là con quái vật, mà chỉ là chủ nhân
của khu rừng này thôi. Xin các bà làm ơn ra khỏi rừng này cho.
Chàng buông Curtiss ra để cúi nhặt cái khăn quàng của một người đàn bà đánh rơi
và nhã nhặn đưa cho người ấy. Chàng mỉm cười bảo người đàn bà:
- Con đường rặng thông kia là lối ngắn nhất để các bà trở về chỗ đỗ xe đó.
Curtiss chững chạc nói:
- Tôi rất lấy làm ân hận vì đã phiền ông, ông Hammond ạ, nhưng tôi không thể hiểu
được tại sao ông đối xử với tôi một cách thô bạo thế! Chúng tôi đến đây chỉ cốt
khám phá ra sự bí mật của những việc xảy ra ở đây thôi, mà bà Robinson đây, ông
hẳn cũng đã biết tiếng bà…
Oliver ghìm giọng bục tức, ngắt lời:
- Ông bước ngay đi! Đừng để tôi phải nổi giận. Cũng chỉ vì có các bà kia ở đây
nên tôi mới tha cho ông một trận đấy!
Goddard cũng nói vào:
- Phải đấy, ông ạ, tôi van ông, ông đi đi! Ông không biết được ông đang nhúng
tay vào việc nguy hiểm đến bực nào đâu, mà rồi có xảy ra chuyện gì đều là tại
ông cả đấy.
Curtiss vẫn nói cứng:
- Xin lỗi ông. Tự tôi, tôi không nghĩ ra việc xét nghiệm này làm gì, đây là tôi
chỉ theo lệnh của nhà báo phải làm thôi.
Oliver càu nhàu:
- Này, ông đừng có cãi cọ lôi thôi, chỉ thêm trái lè ra thôi!
Chàng đặt cái đèn chiếu vào tận tay người phóng viên: thế là anh chàng liền hết
bướng. Người cô hồn cũng vừa kéo tay Curtiss rồi cùng mọi người lảng xa.
Goddard luôn tay khoác cánh tay bạn, định dìu chàng theo bọn kia, nhưng Oliver
nói:
- Khoan đã. Để họ đi khỏi hãy hay.
Mặc dầu trời rét, Goddard cũng toát mồ hôi lo sợ, lòng bị dầy vò khổ sở bởi sự
hiểu biết bỡ ngỡ của mình.
- Chả nhẽ ta cứ đứng mãi đây cho đến lúc bọn ngốc kia ra khỏi rừng sao?
Oliver mỉm cười trong ánh sáng cuối cùng của ngọn đèn xe và đáp:
- Tôi không muốn lại phải mắng vào mặt họ một trận nữa. Kìa sao anh lại run lên
thế này?
Ánh sáng đã khuất hẳn, hai người chìm trong vừng bóng tối dày đặc. Goddard nghe
ngóng một lát rồi lại kêu:
- Trời ơi, tôi van anh! Đừng ở đây nữa! Tôi, tôi thấy kinh sợ quá.
- Thì nào có việc gì đâu mà sợ! Mà sao anh lại khoác tấm chăn kia thế?
- Tôi… À, cứ khoác bừa, thế thôi. Anh ạ, tôi nói thực đấy, tôi sợ lắm.
- Rõ khéo cái thằng cha Goddard này! Lại Swanhild giao cho anh phải coi giữ
tôi, chứ gì? Nhưng tôi đã bảo rằng không việc gì hết kia mà. Chỉ có tôi là gặp
nạn được thôi, mà tôi cũng biết nhiều điều kia!
Goddard kinh dị hỏi:
- Anh biết con qúai vật là ai rồi ư?
- Không, nhưng tôi biết phải nói lời gì để xua đuổi được con quái vật, cái ký ức
tổ truyền của tôi đã mách tôi điều ấy. Vậy nếu nó đến thì phải hét lên Heysaa!…
Heysaa!… Tại sao mà… Gì thế này… (chàng quát lên), Goddard nó đến đấy!!!
Lời nói chàng rú lên ở tiếng sau rốt.
Chạy đi! Trốn ngay đi, chạy, chạy mau lên, Goddard. Đã bảo nó đến đấy mà!…,
Heysaa… a… a!!!
Tiếng thét thoạt cất bằng giọng người, sau phá lên chuyển thành tiếng trống
quái gở dị kỳ mà Goddard đã nghe thấy đưa ra từ trong phòng bí mật.
Chương 2. ĐI CỨU GODDARD
Chiếc xe bọn Luna về tới lâu đài giữa lúc Will ra tới đường
cái.
Swanhild hỏi thì lão Walton thưa rằng cậu Hammond chưa về. Bất giác nàng đưa mắt
nhìn bao quanh: sao trời lấp láy, gió thổi lạnh và khan – một đêm thuận tiện
cho con quái vật. Luna đoán được ý nàng, khe khẽ nói:
- Ông ấy đã hứa với ta rồi, lo gì.
Bà Yorke lên phòng riêng của bà, Luna đứng trong đại sảnh để ngắm kỷ vật săn bắn
mà Swanhild nói cho nàng thấy cái đẹp. Bỗng chuông điện thoại kêu ran. Hai người
giật mình. Swanhild vội vàng đến trả lời. Nàng lại nghe những câu đúng như hai
tuần lễ trước.
Tiếng Will hỏi:
- Allo! Lâu đài Dannow phải không. Đi gọi hộ miss Hammond, mau lên!
- Tôi đây. Việc gì thế?
- Con quái vật đấy, thưa Miss. Mà ông Hammond thì đang ở trong rừng, trong ấy
đang có người bị giết. Tôi nghe thấy tiếng kêu… Tôi liền chạy về và kể đầu đuôi
cho ông Hammond biết. Ông Hammond gạt ông Covert đi rồi đi một mình.
- Còn ông Covert sau đó làm gì không?
- Ông Covert lấy xe đạp của tôi đuổi theo xe hơi. Lúc trước ông Covert toan giữ
ông Hammond không cho vào rừng nhưng ông anh cô đẩy ông ấy vào bờ rào.
- Được anh mở cổng ngoài ấy ra.
Nàng chạy đến nhà xe. May quá, Stredwick chưa cất chiếc Mercédès vào, mà xăng vừa
đổ đầy sẵn. Nàng ra lệnh:
- Đánh xe đến cửa ngay tức khắc cho tôi.
Nàng trở về thì thấy Luna mặt tái ngắt, nhưng rất bình tĩnh. Duy chỉ có đôi mày
cau lại và đôi mắt lóng lánh tỏ ra tinh thần nàng đang căng.
Luna hỏi:
- Liệu ta có thể theo kịp ông Covert không?
Swanhild đáp:
- Ta đi tắt phải qua lối “borstal” mới được.
- Họ cũng có những ba người… (nhưng Luna chữa lại). À không! Tôi quên rằng người
đàn bà đã ở trong ấy; thế nào cũng phải đến cho kịp mới được. Lối “borstal” là
thế nào?
Trong khi nói, hai người vô tình cùng cài cúc áo măng tô lại. Swanhild đáp:
- Đó là một đường nhỏ ven đồi dẫn đến khu rừng. Lối này khó đi và không được chắc
chắn anh Reggie độ trước đã bị lăn xuống cả người lẫn xe, nhưng tôi cứ đi, rồi
có bị gãy cổ ra nữa cũng không cần. Theo đường cái thì không mong gì kịp anh
Goddard được. Theo lối nhỏ này thì một là tôi bị chết, hai là năm phút nữa đã đến.
Lão Walton vẫn bước theo Luna, lúc đó nói:
- Nhưng thưa miss Bartendale, mấy trận mưa vừa rồi đã làm nước dưới suối dâng
to, thế thì cầu hẳn không đi được.
Không đáp, nàng chạy ra ngay cửa xe, vì xe hơi đã ghé đến ngoài thềm.
Chiếc Mercédès như nhảy vượt qua cái cầu treo rồi rầm rầm leo lên đường cái. Chạy
trên đó một lát, rồi xe rẽ vào một khoảng đường cỏ rộng lớn, có một lối nhỏ ăn
thành một đường mờ trắng vắt qua. Hình núi Beacon nổi lên trước mặt hai người.
Phía dưới cảnh thôn quê phủ sương nằm soài trong bóng tối mù mịt. Mây bay từng
lúc che khuất ánh sao. Luna ngồi trong một góc xe, hít hơi vào như một con chó
săn. Swanhild mắt dán lên cái vệt sáng mờ của con đường hết sức chăm chú và người
giá ngắt. Đường bỗng thêm dốc xuống làm thiếu nữ chao đầu vào kính chắn gió.
Nàng ngã người về phía sau, dò cái vệt đường bắt ven theo chỗ lên dốc phía tay
phải. Tiếng nàng quát trong máy ầm ầm để bảo Luna:
- Cô nhận rõ chỗ cái cầu đấy!
Cô bạn nàng nghển người lên, tay bíu lấy chỗ ngồi cho khỏi ngã. Nàng trông thấy
cách đó một độ có khoảng nước sủi ngầu cắt đứt quãng đường. Ngay lúc đó, cái tiếng
rống kinh tởm của con quái vật vang đến tai hai người lần thứ nhất.
Swanhild nóng nảy hỏi:
- Đến cầu, hả? Có bị ngập không?
- Tôi chỉ thấy như có nước cuồn cuộn với một chỗ ngắt quãng giữa nguồn suối, thế
thôi.
Swanhild bảo:
- Ngồi xuống. Tôi cố vượt. Ta đến ngụp xuống nước nữa là cùng.
Đường dốc đã thoải hơn. Nàng cho xe đi gần sát hẳn trên mặt cỏ, tăng thêm tốc lực
và lạng nhanh tay lái sang bên phải khi chiếc đèn xe lao xuống nước với một tiếng
kêu bưng. Một bánh xe thụt, rồi lại nhô, rồi, vừa hộc vừa phì, chiếc xe qua
trên cái cầu không trông thấy. Chỉ có thân xe là ở trên mặt nước. Một lúc, xe
đã đứng hẳn lại và như chỉ chực lùi. Rồi sau, khác nào một con ngựa lấy đà xe
rướn lên và tới bờ bên kia trong những tiếng gầm rú. Chiếc cầu kêu lắc rắc sau
xe tưởng như gãy đổ.
Bây giờ đã gần tới rừng rồi.
Hai người đàn bà nghe thấy một loạt tiếng kỳ quái.
Luna bỗng kêu:
- Ô kìa! Có chiếc xe hơi chạy biến về phía làng kìa. Không hiểu sao lại…
Nàng ngừng lại, kinh dị, trong lúc chiếc Mercédès đỗ ngay sau xe hơi của
Oliver.
Từ khu rừng chốc chốc lại đưa ra những tiếng rống quái gở. Luna, cằm ngược lên,
cố tìm xem những tiếng ấy ở đâu mà đến, rồi, cái đèn bấm trong tay, nàng bước
vào. Swanhild theo sau. Nàng đi lên như người mơ ngủ, lần theo những lối gốc
cây bụi rậm quanh co. Tiếng kêu mỗi lúc một nghe rõ thêm. Khi hai người bước tới
chỗ rừng quang thì tiếng gầm ma quái dữ dội kia lại vang lên, lẫn với tiếng kêu
của Goddard.
Luna chĩa ngọn đèn thẳng trước mặt và bước lên một bước: một bầu im lặng như chết
ám khắp khu rừng.
Chương 3. CON QUỶ XUỔNG XÍCH
Ngay từ lúc Oliver cất tiếng rống đầu tiên. Goddard đã lùi lại
một bước. Mắt đã quen tối. Chàng nhận được các cử chỉ của bạn chàng, Oliver chồm
hỗm ngồi, bộ điệu hung hăng, khiến chàng nhớ ngay đến những câu của Kate nói
trong lúc mê sảng: “Cái gì trông y như một cái nhà vậy”. Mắt Oliver sáng lên một
cách dị kỳ.
Hai người cứ thế dò xét nhau một hồi, Goddard đờ người không nhúc nhích. Hai
con mắt trân trân kia sau lóe lên, đỏ lừ lừ. Ngay lúc đó chàng kín đáo nhích
ngang sang một bước rồi vung sang phía trước cái chăn dạ, hai tay thì nắm chắc
lấy hai góc. Tức khắc cái chăn bị xé rách bươm, trong lúc tiếng gầm rống lại nổi
và cái thân hình to hơn lăn xả đến chàng.
Goddard lại tránh sang bên cạnh một bước nữa, vừa kịp thì giờ quấn một mảnh
chăn quanh cánh tay giả của mình. Hai con mắt đổ lửa dồn mãi lại. Chàng che chở
cổ họng mình bằng cánh tay mạnh, còn tay gỗ thì đưa ra phía trước giữa lúc
chàng bị vấp mạnh không thể cưỡng được đẩy ngã bẹp về phía sau.
Nằm ngửa dưới đất, chàng đem hết sức tuyệt vọng chống lại, lòng vẫn biết rằng
như thế chỉ làm chậm lại được một lúc sau cùng của bước rủi ro. Chàng cứ đưa
hoài cánh tay lắp của chàng vào hai hàm răng nghiến ngấu kia cứ nhè cổ họng
chàng mà húc và sau cùng nó cũng tìm được cánh tay mạnh của chàng mà ngoạm và dầy
xé một cách ghê gớm. Hết sức bình sinh, Goddard lấy bàn chân đạp, lấy đầu gối đẩy,
cố đẩy ra cái thân hình ngồi đè lên chàng. Cái chăn, dù rách mướp, lúc ấy cũng
được việc, nhưng sau cùng những ngón tay thèm khát tìm được một chỗ: áo của
chàng bị giằng xé, rồi những móng sắc lẩn vào ngực chàng mà cào bới, trong lúc
một tiếng rống đắc thắng vang dậy làm rung động mặt đất dưới đầu chàng. Ráng một
sức cuối cùng chàng gỡ được cánh tay bị thương ra. Tiếng rống chợt ngưng bặt
ngay và trong lúc im lìm – quả tin Goddard tưởng chỉ chực vỡ – chàng nghe răng
rắc tiếng cánh tay gỗ chàng gẫy trong sức nghiến của hai hàm răng khỏe dị thường.
Một luồng ánh sáng làm chàng lóa mắt. Chàng nhắm mắt lại và ngất lịm đi.
Nhưng chàng tỉnh lại ngay. Từ cánh tay còn nguyên nhỏ xuống cằm chàng những giọt
nước nóng. Cánh tay giả bị gãy và nghiến nát, chỉ giữ lại được nhờ có những mảnh
chăn rách buông thõng xuống tận ngực chàng. Nhìn lên, chàng thấy trước mặt
chàng cái nét trắng muốt hàm răng của Oliver với sự biến hóa quái quỷ trên mặt
bạn.
Oliver lúc ấy vẫn quỳ khom, hai bàn tay úp xuống đất, mười ngón máu me quào
sâu. Luna tay áp trên trán con người tội nghiệp ấy đang cố lôi chàng ra phía
sau. Không thấy chuyển, nàng bèn lấy đèn bấm soi một luồng sáng lên bộ mặt con
quái vật.
Không đời nào Goddard quên được cái hình ảnh lúc bấy giờ.
Bạn chàng khác nào bị quỷ nhập tràng và hóa thành một giống hằn học và độc dữ.
Mớ tóc thì dựng ngược lên, hai tai vểnh dài ra và kéo về sau đầu, môi trên biến
thành một cái mõm hung ác. Mồm Oliver ngầu những máu và nhớt dãi, căn rộng và
nhách toạc đến tận mang tai. Hai hàm nổi lên răng nhe ra chỉ chực cắn, còn phần
trên mặt co ngắn và quắt hẹp lại, chỉ thấy có đôi mắt đỏ lừ. Trông chàng y như
một con chó sói quái dị có thêm sức khỏe của một người trai tráng và uy lực của
một giống quỷ quái và hùa vào với sự hung ác bản nhiên.
Thế rồi mặt Oliver dần dần đổi nét. Hai mắt biến hết ánh lửa và chứa đầy vẻ
kinh hoàng. Hàm răng thu cả vào vừng trán, và hai tai trở lại như thường và mái
tóc lại giữ nguyên nếp cũ. Sự biến đổi ấy chỉ trong giây phút là hoàn thành.
Swanhild theo sau. Luna khi bước tới chỗ ba người thì dáng người Oliver đã lại
được như thường ngày rồi mặc dầu miệng chàng và ngón tay chàng bê bết những
máu. Tuy vậy chàng vẫn còn lại một vẻ đờ đẫn kinh hoàng.
Swanhild quỳ gối xuống bên mình Goddard:
Oliver chậm chạp đứng lên, mắt không rời khỏi mắt Luna đang chăm chú nhìn đầu
tóc mình. Chàng đến cạnh người bạn trai và nói một giọng không thành tiếng:
- Tôi… tôi hóa điên rồi! Không, tôi không mê đâu, tôi giết mất Goddard rồi!
- Không đâu, anh ạ (Goddard nói to có ý cho bạn vững tâm). Không! Tôi chỉ bị
đánh đo ván thôi.
Swanhild ôm lấy anh nàng, ép chàng buông thấp hai bàn tay nắm chặt xuống.
- Không, anh không điên đâu anh ạ, mà rồi cũng không bao giờ anh hóa điên hết.
Nàng áp mình khăng khít lấy anh và kiễng chân lên để hôn anh trên má. Máu dính
bên má nàng. Oliver nhìn nàng đôi mắt sầm tối. Chàng nói:
- Swan, máu bết trên mặt em đây này.
Chàng gỡ một cánh tay mình ra, ngắm nghía những ngón đỏ lòm, đưa lên miệng xem
và bỏ ra tay lại càng nhuốm thêm máu. Chàng lẩm bẩm:
- Một là tôi hóa điên, hai là tôi mơ ngủ. Tôi thấy con quái vật nó đến, nó ám
quanh người tôi, nó nhập vào tôi. Rồi tôi muốn giết chết anh Goddard ạ, giết
anh và cắn cổ anh mà xé. Ồ, làm phúc bảo cho tôi biết là tôi hóa điên rồi, đi!
Goddard thân mật vừa cầm lắc tay chàng vừa nói.
- Cái đó chẳng có gì đáng quan tâm hết. Anh không phải chịu một trách nhiệm
nào, mà việc kia rồi sẽ không xảy ra nữa đâu.
Oliver ngạc nhiên:
- Nhưng sao anh biết? Mà anh đã biết rõ được những gì rồi? Trước đã xảy ra rồi
sao?
- Xảy ra đến mươi mười lăm lần, rồi mà không ai đáng khép tội cả. Anh đừng nghĩ
đến chuyện ấy nữa mà cũng đừng làm to chuyện ra làm gì.
Oliver đưa tay lên trán và nhìn Luna. Một lát chàng yên lặng nói.
- Không mấy nỗi nữa tôi đến hóa điên mất thôi.
Luna đến bên chàng, nhìn thẳng vào mặt chàng rồi chậm rãi:
- Ông Hammond, tôi tưởng cứ nói cho ông biết hết còn hơn. Ông không điên đâu, mặc
dầu ông đã xông đến bắt ông Goddard như một sài lang đói, đúng như ông đã hại
Kate Stringer cách đây mười lăm hôm…
Swanhild ngắt lời van:
- Ồ! Luna!
Nhưng Luna vẫn không chuyển lòng. Nàng cứ nói:
- Cứ nói tất cả ngay thế này lại hay hơn và đỡ khổ cho ông ấy hơn. Con quái vật
kia không bao giờ có hết. Nó chỉ là một vật do trí não ông tạo nên đó thôi.
Swanhild vẫn ôm anh nàng trong vòng tay và Goddard vẫn nắm bàn tay bạn. Nói lời
gì bây giờ vẫn đều vô ích. Chỉ nên làm thế nào cho Oliver hiểu rằng tình cảm của
mọi người đối với chàng không hề đổi thay.
Tiếng nàng thuật sĩ lại cất lên, dõng dạc như tiếng nói của định mệnh:
- Ông là nạn nhân của chứng bệnh điên ma sói đó, ông Hammond ạ. Đó là một chứng
điên thất thường nó xui khiến người mắc bệnh tưởng mình là chó sói và hành động
như chó sói thực. Bệnh đó thường hay lan truyền rất mau, như một bệnh thiên thời.
Trong dòng họ ông bệnh đó là bệnh gia truyền và bệnh nổi phát lên khi nào người
bệnh ở giữa rừng thông, một đêm trời rét và sao sáng và chỉ có trọi một người nữa
đi bên cạnh.
Goddard khẽ reo lên:
- À ra thế! Thì chính điều ấy là điều tôi biết đó.
Oliver đăm đăm suy nghĩ, chàng lẩm bẩm:
- Tôi tưởng mình là chó sói… ừ, bây giờ tôi nhớ ra rồi. Người ta gọi những hạng
này là Wehrwolves, có phải không?
Luna đáp:
- Đó là theo tiếng Đức. Theo tiếng cổ ngữ Ăngle thì đó là Turnskins, mà theo tiếng
Pháp là loups-garou. Cổ ngữ Pháp thì gọi là “garoul”: đúng như những chữ khắc
trên phiến đá ở phòng bí mật đó.
Oliver êm lặng nói:
- Giờ thì tôi bắt đầu hiểu ra rồi. Thế các người biết việc này từ bao giờ?
Swanhild:
- Từ hôm thứ Hai.
Goddard:
- Từ đêm vừa rồi.
Luna thú thực:
- Tôi thì tôi đoán biết được hết từ khi xem thấy bức hình nổi trong nhà thờ,
kia.
Oliver:
- Vậy ra, ngay từ hôm cô mới đến đây sao?
Chàng hỏi câu đó một cách bình tĩnh lắm và như thế càng làm cho gớm ghiếc thêm
vẻ hỗn loạn kệnh cỡm trên bộ mặt bết máu của chàng cùng với cái vết toạc lớn do
Goddard để lại trên đó trông lúc vùng vẫy để thoát thân.
Chàng nói tiếp:
- Ngay từ hôm đó, cô đã biết rằng tôi vẫn có những cơn điên muốn giết người, biết
rằng tổ tiên nhà tôi là những giống ăn thịt đồng loại, biết rằng nếu tôi có con
thì sau này con cái cũng sẽ như tôi, cô biết cả như thế rồi chứ gì. Cô biết rằng
tôi đã tàn hại và đã gần ăn thịt một người đàn bà ngay ở đây…
- Mà tôi cũng biết rằng đó là một việc làm vô tâm gây nên chỉ do tội lỗi của một
người trong tổ tiên nhà ông bà ngàn năm về trước.
- Cô tìm cớ che tội ác cho tôi như thế thực tế quá… Hừm! Giờ thì tôi thấy rõ được
mỗi lần xảy ra như thế nào rồi kia: chính ông thân sinh ra cha tôi đã giết chết
người đàn bà mà ông đưa vào rừng; còn cụ Pháp sư ngày trước đã bắt đầu ăn thịt
đứa con ông cụ. Tôi, tôi sẽ quen dần dần đi với những điều thảm khốc này, tôi
chắc thế… Thôi, ở đây lạnh lắm, ta về đi thôi. Phải gọi diện cho bác sĩ và chữa
ngay cánh tay của anh đi, Goddard ạ.
Chàng nói rồi bước vào đường thông. Swanhild chạy theo và luồn một tay dưới tay
chàng. Oliver nhìn em một lúc lâu; chàng nhỏ tiếng nói:
- Thì ra hai người đã biết từ một tuần lễ nay rồi. Dẫu sao, thì anh cũng là người
cuối cùng trong dòng họ.
Không đáp. Nàng ôm sát chặt lấy người chàng.
Luna với Goddard, mỗi người một ngọn đèn, bước theo sau họ.
Chương 4. VẪN KHUYẾT MỘT VÒNG
- Hãy chờ một lát đã! Phải tìm duyên cớ cho những vết thương
của ta để có ai hỏi thì đem ra mà nói mới được. Swanhild, em lấy cái xe đạp kia
mà quăng thật mạnh xuống đường, ở đầu xe hơi này. Mọi người hiểu ra cái kế của
tôi đấy chứ? Tôi bị một tai nạn nhẹ mà! Xe tôi đâm phải xe hơi của Oliver, vì
thế mới có cái cánh tay bị gẫy này và những vết máu này trên mặt. Cứ thế, nghe
chưa?
Swanhild làm theo lời chàng.
- Oliver thì ngồi chiếc xe Mercédès với Swanhild nhé. Còn miss Bartendale thì
lái cái xe Maxwell, được không?
Trong khi hai chiếc xe qua miền thung lũng, Goddard nói cho Luna nghe những điều
mình biết. Ngồi trên chiếc xe khác, Oliver lẳng lặng nhìn mặt hai bàn tay máu
me của chàng úp trên đùi. Đến chỗ đường rẽ, Swanhild đưa tay nắm chặt tay anh.
Chàng ngoảnh nhìn em, đôi mắt tha thiết và nói:
- Bây giờ thì mọi việc đều đã rõ rệt cả. Điều cần thiết nhất là em đối với anh
trước thế nào sau vẫn thế.
Nàng đáp:
- Mà cả mọi người cũng vậy, không ai thay đổi đâu, anh ạ.
Chàng mỉm một nụ cười chán chường:
- Không thế nào lại thế được, Swan ạ. Thà anh cứ đành tâm chịu lấy điều đó từ
bây giờ còn hơn.
Trên đường làng, từng đám người hình như ở cùng một chỗ nào vừa trở về. Tâm trí
còn bận về các mối lo riêng, bọn Oliver không nhận thấy có gì khác thường hết.
Ở lâu đài Dannow, từ ngoài sân cho tới đại sảnh mọi người nhốn nháo cả lên. Khắp
mặt gia nhân xúm lại quanh bà Yorke. Bà thì một mực nài Sredwick làm thế nào
cho bà có được cái xe để đi tìm cháu gái.
Trông thấy bọn kia về cả nhà đều im tiếng. Oliver cất tiếng nói tự nhiên để
đánh lừa bọn đầy tớ:
- Mọi sự hoàn hảo cả, bà Yorke. Chỉ có mấy người cô đồng đến phu hồn trong rừng
thông, Goddard với tôi đi đuổi họ ra thành thử ngã bị thương chút đỉnh thôi. Nếu
có cần phải đi mời bác sĩ hay có bất cứ chuyện gì thì độ mươi phút nữa em cứ
trong phòng Holbein mà tìm anh nhé.
Luna đưa mắt cho mấy người hiểu ý. Nàng nói nhỏ:
- Cứ để mặc một mình ông ấy thì hơn.
Sau đó một lúc, nàng theo vào phòng Holbein. Oliver đang đứng dựa bên lò sưởi
trên đó chỉ thắp một ngọn đèn. Khuôn mặt chàng hình như phẳng dẹt và mờ xám - một
kiểu kì dị đối lại khuôn mặt cụ Warlock treo phía trên đầu chàng. Mặt chàng bây
giờ đã đờ đẫn mất hết mọi nét linh hoạt. Hẳn trước kia, ông cụ Pháp sư cũng đã
có một vẻ y như thế mà nhìn trân trân bà vợ mình khiếp sợ điếng người đi trong
căn phòng bí mật. Oliver cố tình lấy giọng bình tĩnh hỏi nàng:
- Thế nào?
- Thương tích ông Covert chẳng có gì là nặng hết. Swanhild cùng với cô tôi băng
buộc cho ông ấy sắp xong rồi. Mời bác sĩ vô ích.
- Cô vào an ủi tôi đóphải không? Luna ơi, cô đã rõ lòng tôi mơ ước thế nào rồi
đó? Thế mà nay tôi biết ra cái cớ sự này…
Chàng nói gần như khóc, hai tay đưa ra.
Nàng toan cầm lấy tay thì chàng rút ngay lại, lẩm bẩm:
- Tay tôi đầy những máu.
- Nhưng lương tâm ông vẫn trong trắng!
Nàng nói lớn tiếng, chực nắm lấy tay chàng lần nữa nhưng Oliver giấu ra sau
lưng. Nàng thôi ngay và đặt tay nàng lên hai vai chàng, nói một giọng chua xót:
- Oliver của em! Em cũng đau khổ chẳng kém gì anh đâu.
Nét mặt se lại, đôi mắt chan chứa nỗi lo âu, nàng bỗng nhiên giống như một con
trẻ sắp sụt sùi khóc. Oliver chỉ nghĩ đến một điều: là an ủi vỗ về nàng. Nhưng
chính cái lúc chàng đưa tay toan dìu nàng sát mình thì cái ý niệm về sự thật
kia đâm vào lòng chàng một nhát. Cánh tay muốn ôm khăng khít ngừng ngay lại để
gỡ hai bàn tay kia ra khỏi vai chàng.
Chàng dịu dàng nói:
- Tôi biết. Tôi biết rằng mặc dầu bao nhiêu điều cô đã biết rõ, cô vẫn chung với
tôi một mộng ước. Nhưng từ khi tôi đã hiểu rõ các chuyện, cái mộng đó không thể
nào thành được nữa và tôi tưởng cô nên tránh xa tôi thì hơn.
Nàng lùi lại, trấn tĩnh được như trước rồi yên lặng đến ngồi cạnh lò sưởi.
Chàng cũng ngồi xuống đối diện với nàng và nói chuyện với nàng bằng một giọng đều
đều.
Oliver:
- Kể cũng lạ thực: tôi cứ thấy tôi rất bình tĩnh thôi. Cũng gần như khi ở ngoài
trận ấy: sau một phen tai họa lớn người ta mụ hẳn đi, không có sức phản động
nào cả. Tôi đã sống trong một giấc mộng đẹp trong cái khoảng thời gian từ cái
thực cảnh gớm ghiếc của phen tàn sát lớn lao cho đến lúc thực hiện các chứng
điên gia truyền này.
Luna:
- Không phải là một chứng điên! Nhưng là một thứ hoang tưởng đó!
- Muốn gọi là gì thì cũng vẫn thế.
- Nhưng hoang tưởng thì cả đến trí não rất lành mạnh cũng có khi mắc được.
- Có lẽ. Nhưng thứ hoang tưởng này lại đưa người ta đến tội giết người kia! Thế
mà tôi là mấu chốt để cho dứt tuyệt được. Tôi sẽ là cái vòng cuối cùng của sợi
dây chuyền đó.
Nàng lặng im.
- Vậy mà Luna đã biết rõ cả trong lúc tôi vẫn mù tịt không biết gì!
- Là vì tôi vẫn mong ngăn ngừa được, không để cho một lần nào chứng bệnh phát
hiện ra. Tôi vẫn tin chắc ở lời anh hứa.
- Tôi nghĩ không việc gì phải tự trách mình rằng đã sai lời. Nào ai biết trước
câu chuyện xảy ra đến thế được?
- Mà tình thế lúc đó đã như vậy, nếu giữ lời hứa mà không can thiệp thì mới thực
là điều tôi phải lấy làm lạ.
Chàng khẽ nói:
- Hai ta tâm đầu ý hợp đến thế đấy! Mà như thế mới càng thêm cay độc!
Chàng nhìn lên bức chân dung cụ Pháp sư, giọng nói bỗng thành cay đắng:
- Bất công thực! Về phần ông cụ, ít ra ông cụ cũng đã được hưởng hạnh phúc rồi,
đã có gia đình con cái để mà yêu dấu! Trời! Thà đừng sinh ra tôi làm gì còn
hơn!
Luna úp mặt giấu trong tay. Chàng mạnh mẽ nói tiếp:
- Dẫu sao, tôi cũng sẽ làm trọn bổn phận của tôi. Ồ! Giá bổn phận ấy cứ dễ dàng
như trong hồi chiến tranh thôi nhỉ. Đằng này còn phải chịu mất em kia! Kìa, em
khóc đó sao?
Giọng chàng ân cần âu yếm. Nàng đáp. Lời nói qua mấy ngón tay che:
- Không đâu. Mà dẫu cho em có khóc nữa, cũng chỉ vì lòng em cảm tạ trời đã cho
em được lòng yêu ở một người như anh.
- Tình thế bắt phải như thế, chứ anh thì chẳng có gì đáng khen. Cố nhiên là anh
sẽ vẫn cứ để mình sống, sống để mà chống giữ lấy cái danh dự nhà cho đến ngày
dòng dõi anh sẽ cùng với anh tiêu diệt hẳn.
Chàng bỗng ngừng lại, kinh ngạc:
- Trời ạ! Tôi quên bẵng mất bọn đánh bẫy trong rừng cấm đấy. Nếu bọn ấy bị bắt
thì…
Miss Bartendale ngẩng lên nhìn chàng.
- Nếu tôi bắt buộc phải ra trước công chúng thu hết cái nhục nhã của tổ tiên và
của chính tôi thì thực là tai họa đến nước! Thực là ngàn năm nhơ nhuốc.
Chàng không nói hết, vùi mặt vào lòng bàn tay. Rồi chàng thấp giọng tiếp:
- Có em, tôi sẽ đương đầu được với hết mọi điều…
Nàng quỳ xuống trước mặt chàng:
- Anh Oliver, thế này thì khổ anh quá. Không, em sẽ là của anh, không còn chi
chia rẽ đôi ta ra được hết! Số trời đã định cho ta sống với nhau rồi mà trời
không thể bắt ta chịu hình phạt vì một quá khứ xấu xa tội lỗi được đâu.
- Nhưng em ạ, tương lai lại chịu quả báo của ta…
- Cần chi phải nghĩ đến tương lai? Tổ tiên của anh cũng đã từng khinh thường
cái nghiệp chướng nó ám mãi các cụ đó thì sao?
- Là vì các cụ không biết mới thế. Còn ta mà cứ thế thì ta lại chủ tâm mà làm
ngơ: đốii với con cái ta, ta sẽ phải mang trách nhiệm rất nặng.
- Vâng, thế đã sao? Ta chỉ sống được có một lần.
- Hiện giờ, em hy sinh cả tâm hồn em cùng với mọi của báu khác ở đời để cho anh
được hạnh phúc, nhưng không đành nhận sự hy sinh kia được vì lòng anh đã quá
yêu em rồi.
Nàng ngả đầu ra phía sau và nói:
- Tôi lại biết người tôi yêu lại có tấm lòng cao quý hơn tôi: như thế lại góp
thêm phần đau khổ tôi phải chịu.
Chàng buồn rầu đáp:
- Anh không phải là người siêu việt được như em tưởng đâu. Đáng lẽ anh phải giấu
kín lòng anh yêu em mới phải.
Nàng ra vẻ đắc thắng:
- Nhưng em đã đoán biết được kia! Em có ý hứa sẽ kết duyên với anh nếu em tìm
thấy cái vòng nó khuyết mất trong chuỗi dây chuyền luận đoán của em. Em vẫn
mong tìm được phương pháp trừ sức quỷ ám kia cho anh.
- Thế à? Anh cũng nghe nói có những nhà giải phẫu có những phương chữa rất thần
diệu, trả lại ký ức cho những người mắc bệnh quên và ban thông minh cho những
người ngu đần mà chỉ có việc giải phẫu một chút ở óc là được.
Nàng bật buồn cười:
- Đó là những chuyện ngớ ngẩn trên báo chí tuốt! Một chứng bệnh tâm thần có thể
chữa được nếu người ta tìm ra được nguyên nhân. Nguyên nhân bệnh của ngài em chắc
đã tìm ra được rồi đó! Ồ, nhưng xin ngài đừng có mừng vội. Đó chỉ là điều phỏng
đoán ấy mà sai thì ngài là người sau cùng của dòng dõi Hammond. Nhưng nếu điều ấy
mà đúng, thì ngài với em sẽ sánh vai nhau mà đi trên đường đời đó ngài ạ.
Bên ngoài có ai bước tới, Oliver vội vàng đỡ Luna đứng lên. Swanhild vào, theo
sau là Goddard, một tay quấn băng và một cánh tay áo rỗng thõng buông xuống và
sau cùng, bà Yorke, Swanhild gọi:
- Anh Oliver! Bọn nhàAdes vừa bị bắt trước đây một giờ. Vì thế lúc ta ở bên rừng
về mọi người trong làng mới đổ ra cả ngoài phố. Anh Will anh ấy bảo là bọn Ades
bị khép vào tội giết chết cô Kate.
Oliver ngoảnh về phía Luna, mỉm một nụ cười thất vọng:
- Thế là đi đứt: cái nhơ nhuốc của họ Hammond sắp đến lúc phải công khai.
Chương 5. TỪ TUỔI ĐỒNG ĐẾN NGÀY PHÁN XÉT
Mấy người sững sờ nhìn nhau. Sau cùng Oliver nói:
- Tôi phải gọi điện thoại cho nhà chức trách mới được. Không nên để cho bọn kia
phải chịu tù ngục như thế.
- Không! Luna khăng khăng nói. Hãy nghĩ cho kỹ đã rồi hãy quyết định, để cho họ
phải giam một vài giờ cũng chẳng có hại gì.
Oliver với Swanhild cùng nói:
- Thế nhưng vợ con người ta…
Luna đáp:
- Này nhé: thử nghĩ lại mà coi họ phải chịu như thế kể cũng đáng kia đó. Ba giờ
nữa Swanhild sẽ đến thăm người nhà họ và nói cho họ vững tâm. Lấy lý mà xét thì
họ bị bắt như thế chính là tại tôi đó, trong việc này tôi đã đem nghề nghiệp với
tên tuổi của tôi ra mà thử thách đó.
Oliver băn khoăn hỏi:
- Sao vậy?
- Nói vắn tắt thì thế này: đáng lẽ chính tôi phải ngồi trên ghế bị cáo mới phải.
- Ồ! Luna!
Bà Yorke chua chát phân giải hộ nàng:
- Qủa thực như vậy đó. Đáng lẽ Luna phải thú thực cái duyên cớ nó xui khiến
mình đã phải phi tang mấy vật làm chứng và để cho những người vô tội bị ngờ oan
thế mà ngay từ hôm đầu Luna đã tìm được mọi chứng cớ.
Oliver ngạc nhiên nhìn người thiếu phụ. Nàng ôn tồn nói:
- Chính đó. Trong mõm con chó có một mảnh khăn phu là của ông với những thương
tích con chó có dính những sợi râu của ông, nếu thấy những thứ đó thì bất cứ
người nào của sở liêm phóng cũng có thể đoán được ông là thủ phạm ngay. Tôi mới
đánh cắp những tang chứng đó và liệng qua cửa sổ trên xe lửa rồi.
Sắc mặt nàng bừng lên và đôi mắt nàng lấp lánh ánh sao nhìn mọi người vẻ khiêu
khích. Nàng lại nói:
- Nếu tôi không tìm được cách cố bịt đi, để cho cớ sự vỡ lở, thì tôi không bao
giờ hết hối hận và nếu tôi xao lãng bỏ lỡ mất cái cơ hội mong có thể chữa khỏi
được ông thì tôi đến hóa điên mất. Vậy tôi phải có hạn ba giờ kia để làm xong
cuộc thí nghiệm sau cùng.
Oliver hỏi:
- Cuộc thí nghiệm sau cùng?
- Phải, mà làm trong căn phòng kín. Những cố tật lưu truyền kia có một căn
nguyên và một duyên cớ. Có khi chỉ có trời mới làm mất được những cố tật kia do
một phép lạ. Lại có khi trời để cho một người trong hạng người có khiếu riêng
làm được phép diệu kì đó. Tôi đây mong có thể trừ được con quái vật cho ông.
- Nếu thế, xin cô làm phúc thí nghiệm ngay tức khắc đi.
Luna giữ thái độ bình tĩnh như trước. Cái công việc khó khăn nàng sắp phải làm
nốt kia cần phải có đủ hết đảm lực ở nàng.
- Tôi hãy nói qua cho ông biết đại thể cái đã, rồi sau sẽ sửa soạn buổi thí
nghiệm. Đại khái lai lịch con quái vật dòng họ Hammond kể từ thời đại tuổi đồng
cho đến ngày tận thế theo tín ngưỡng dân Bắc Âu như thế này.
Lúc đó Oliver ngồi trong bóng tối, bên phải lò sưởi, và đối diện miss
Bartendale. Swanhild ngồi bên cạnh và cầm tay chàng. Bà Yorke và Goddard vừa
quây thành một vòng.
Luna:
- Về hồi cuối tuổi đồng trong lịch sử Bắc Âu nghĩa là vào khoảng bảy trăm năm
trước Tây lịch Sigmund Volsung, vị tổ tiên của ông, là một bực vua chúa rất có
quyền thế. Người chỉ có một cô em gái tên là Signy. Nàng bị một con chó sói cắn
chết mặc dầu Sigmund đã đem hết sức bình sinh ra chống cự để cứu nàng. Trong cuộc
vật lộn ấy người sinh cuồng dại, phần vì phiền não, phần vì đau đớn, tâm lực
không giữ được. Người đâm ra nguyền rủa vị thần thánh vẫn tôn thờ. Người nguyền
rủa rằng đến ngày Phán xét tuổi đồng sau này, khi các đấng anh hùng sống lại để
cùng thần Ases chiến đấu với những hung thần các loài yêu quái, thì một mình
Sigmund sẽ biến thành chó sói mà đứng về phía quân thù. Một câu nguyền rủa như
thế ta khó lòng mà lượng được sự quả báo đến chừng nào chỉ biết về thời đó phép
giải tội chưa có và khi cụ Sigmund hồi tâm lại thì người bị ám ảnh hoài bởi những
lời người đã thốt ra. Việc thảm khốc kia xảy ra trong một khu rừng thông một
đêm đông sao điểm vằng vặc. Về sau, bao nhiêu năm đã qua rồi, bỗng tình cờ một
đêm người ở trong rừng thông với một người con trai của người. Sự liên tưởng diễn
ra trong trí, người nghĩ ngay là thần Odin giáng họa xuống cho mình; thế là người
nổi cơn điên ma sói. Con trai cụ về sau, phần thì do sự di truyền, phần do ám
thịt, cũng chết vì chứng điên đó, rồi lại đến lượt những con cháu còn mang
trong tiềm thức dấu vết những mối kích động dữ dội của ông cha. Bao giờ cơn
điên cũng nổi lên trong những trường hợp trùng nhau: đi với một người trong rừng
thông, một đêm có sao và có rét.
Swanhidl nói:
- Những điều nhớ lại khi ngửi thấy mùi hắc ín cũng thuộc vào hiện tượng này đấy
nhỉ.
Luna:
- Chính vậy đó. Khi nhắc tới chuyện Covert, tôi gây ra được những kỷ niệm ấy
thì biết ngay là mình đi không lầm đường… cụ Sigmund chắc thế nào cũng đem việc
mình thỉnh giáo các thầy cả trong đạo mình và chắc bọn họ nói quyết với cụ rằng
câu nguyền rủa kia sẽ đời đời trói buộc vào dòng dõi nhà cụ. Một người trong bọn
con trai cũng tên là Hammond có một thanh gươm đồng tuyệt quý. Thanh gươm ấy,
cha truyền con nối cho nhau giữ rồi thuộc về cái người làm hải tặc sang cướp
phá bên Anh. Hồi bấy giờ người ta đã dùng khí giới bằng sắt, nhưng Magnus tha
thiết với thanh gươm lắm, đến đỗi sai làm thêm mảnh vàng khắc lên đó và để chôn
theo với mình. Trên ngôi mộ có đặt một phiến đá ghi tên họ mình và tổ tiên
mình; về sau phiến đá ấy người ta chôn xuống đất, coi như một kỷ niệm thiêng
liêng của những đạo sĩ đời thượng cổ.
“Lời thề độc hóa làm chó sói kia vẫn cứ theo ám ảnh hoài những con cháu nối dõi
cụ Magnus, mà họ thì không biết rõ nguyên do. Bệnh ma sói, là một bệnh rất thường
về đời trung cổ, không làm cho người ta ghê sợ như ngày nay.
Oliver:
- Hãy khoan, thế chứng bệnh kia không truyền ra các chi họ bọn con cháu Magnus
sao?
- Không. Người ta công nhận rằng con quái vật chỉ theo dõi những chủ nhân trại ấp
này thôi. Người nào trong chi này cũng vô tình mà chờ đợi con quái vật hiển hiện,
mà tổ tiên nhà ông với những chủ ý tốt nhất đời đã lập ra một thói tục tồi tệ
nhất: các cụ đặt ra một bài hát kể những điều kiện cần thiết cho con quái vật
hiện hình.
- Sao lại thế?
- Vì có những cây thông mọc gần cửa sổ. Cánh cửa mở để ánh sao sáng bên ngoài
soi vào, các điều kiện gồm có đủ cả, thế là người chủ động không thể thoát được
cơn điên, con cháu sinh ra không những đã sẵn tật di truyền huyết thống, mà người
ta còn dàn xếp cho họ nổi diên lên. Điều đó rất quan trọng. Những người hành sự
biết cách làm tắt cơn bằng cách chiếu ra một luồng ánh sáng.
- Oliver nghĩ ra một ý:
- Tại sao tổ tiên tôi lại không nhổ hết mọi cây thông trong ấy đi thế nhỉ?
Luna cười:
- Tránh trên địa hat mình thì lại gặp bất cứ ở đâu cũng có. Cụ Ẩn tu tìm cả được
cách cho mọi người tưởng rằng cụ đã giam xích nó trong mồ Thunder. Số trời cũng
giúp cụ vì bao nhiêu người tế lễ tục lưu truyền kia đều chết trong hồi phân
tranh Lưỡng Hồng. Ấp Dannow vào tay một người dòng họ Hammond không biết gì về
những việc làm trong phòng bí mật, người ấy lại tin rằng con quái vật đã bị nhốt
trong mồ. Điều tin tưởng ấy hợp với điều tin tưởng trên, giá cứ thế thì chỉ mấy
đời nữa dòng họ Hammond khỏi dứt được cái ác bệnh nếu không có cụ Magnus Pháp
sư. Lúc trông thấy trước mắt cái tượng mũi thuyền ký ức cổ truyền của ông cụ thức
dậy trong tâm não Oliver, thế rồi khi ngọn nến tắt sự kích thích não cân của
ông cụ làm cho cơn điên dễ nổi lên, làm cho sự hoảng hốt lúc đó. Và từ đó biết
rằng chính mình đã gây ra vạ. Về sau, lấy ngay con trai ông cụ làm người giúp
việc thí nghiệm, ông cụ giết con chết trong một hồi lên cơn điên, bà vợ giữa
lúc tàn sát kia, cầm đèn bước vào: bà chết ngay tại trận, còn cụ hồi tỉnh dần,
và đủ bình tĩnh để giấu giếm mọi sự việc. Sức ám ảnh theo dõi mãi con cháu cụ
sau này. Sự thực không thể nào tả ra được vì lần nào người tá độc nhất trông rõ
cơn điên cũng đều bị giết cả.
Oliver trầm tiếng nói:
- Bây giờ thì tôi hiểu tại sao con Holder lại không báo hiệu gì để mách tôi… Tội
nghiệp con chó, giá nó chạy trốn đi có hơn không. Trời, thực là ghê tởm! Nhưng
mà sao hôm ấy tôi lại bị một chỗ sưng u trên đầu thế nhỉ?
- Ông tất bị ngã lúc quật con chó vào thân cây, mà chính việc đó đã tạm giữ được
cho ông không quyên sinh đó. Nhưng lúc nãy, khi tôi tới nơi, ông đã bắt đầu lờ
mờ hiểu ra những việc xảy ra những phút trước.
Goddard vừa cười vừa nói:
- Anh làm hỏng cả cái cánh tay chắp rất đẹp của tôi rồi đấy. Giờ thì tôi xin
thú thực rằng lúc đó tôi bối rối quá, vì tôi chưa biết làm cách nào để tránh
cho anh nổi cơn điên. Tôi chắc rằng miss Bartendale đã đoán biết cả.
Luna mỉm cười nói Oliver:
- Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bàng hoàng với tất cả những điều “đoán biết” đó.
Jessie D. Kerruish Dịch giả: Thế Lữ
Jessie D. Kerruish
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét