Những ý nghĩ của bọt biển
Tất cả những đoạn văn sau đây chỉ là những ý nghĩ biểu lộ
thái độ của một người trẻ tuổi chấp nhận cuộc chiến tranh hiện tại cùng tất cả
những khốn khổ của thân phận làm dân một nước nhược tiểu. Hắn không hề nghĩ rằng
những ý nghĩ cùng thái độ của hắn là đúng nhất bởi hắn không phải là một nhà đạo
đức hay một quan tòa. Cùng lắm, hắn cho rằng bất quá hắn đã chỉ làm công việc của
một chứng nhân – một chứng nhân trong cuộc.
Thế Uyên
Ý nghĩ vẩn vơ
Từ nhiều năm nay, ít khi tôi suy nghĩ tới một điều gì xa quá
một năm trong tương lai bởi vì vị trí của một người dân trong xã hội miền Nam đầy
biến chuyển bất trắc này không cho phép. Nhưng rồi cũng có một buổi sáng trời
không có nắng, không khí hiu hắt làm tâm hồn lắng xuống làm xuất hiện một câu hỏi
vẩn vơ nhưng day dứt, một câu hỏi giản dị đến ngây ngô: Thế nào là một người
Việt Nam?
Tôi là người Việt Nam – hiển nhiên là vậy. Nhưng có chắc thật thế không? Trước
tầm nhìn của tôi là hàng rào kẽm gai, khung cửa sổ, vách tường, bàn ghế. Những
vật này không biện minh được gì: kẽm gai từ Tây phương nhập cảng, kiểu cửa sổ,
lối xây tường, kiểu bàn ghế, v.v... đều là của Tây phương. Trên mình tôi, kiểu
tóc, quần áo, thắt lưng, ví đựng tiền, giầy vớ, v.v... Tôi châm một điếu thuốc
hút, thấy điếu thuốc bật lửa cũng là của Tây phương nốt. Tôi ngừng cuộc tìm kiếm
qua sự vật và khung cảnh bao quanh vì hiển nhiên chúng không thể chứng minh tôi
là người Việt Nam. Căn cứ vào chúng, tôi sẽ có thể là Tàu Chợ Lớn, Tàu Đài
Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, v.v... cũng như có thể là Pháp, Ý, v.v... Có lẽ tôi có
thể xác định tôi là người Việt Nam căn cứ vào hành động và sinh hoạt chăng? Trước
kia tôi làm giáo sư, chương trình giáo dục, lối dạy học trò, lối chấm bài, gần
đây nhập ngũ, thể thức động viên, cách tổ chức quân trường, phương thức huấn
luyện quân sự, lối chào kính, quân kỷ, v.v... đều là của Tây phương. Nửa giờ nữa,
có kẻng hết giờ làm việc ấn định theo thời khắc Tây phương, tôi ra về bằng
phương tiện nào cũng vậy, phải là do Tây phương mang tới. Tôi đọc một tờ nhật
báo, một tờ tuần báo, tôi đọc sách, tôi đi xem xi-nê, tôi đi phòng trà nghe nhạc,
khiêu vũ, khuya về đi ngủ vặn đồng hồ, v.v... Chẳng có một vật gì, điều gì chứng
tỏ tôi là người Việt Nam, và đến khi ân ái với đàn bà, phương pháp Ogino-Knaus,
phương pháp nhiệt độ, v.v... tôi cũng chỉ làm như một người Pháp, người Mỹ, người
Ba Tây cùng thành phần xã hội.
Tôi biết tôi là người Việt Nam, hiển nhiên là vậy. Nhưng cái gì chứng tỏ? Nhiều
cụ già khả kính nói đến TRUYỀN THỐNG. Bắt chước một đại tướng đã mở một cuộc
“truy tầm hạnh phúc”, tôi mở một cuộc truy tầm truyền thống. Tôi tìm mãi, tìm
hoài, mở hết trang sách này đến trang sách khác, cầu cứu tới cả các cụ Nguyễn
Gia Tường, Hồ Hữu Tường, v.v. cũng không thấy nó đâu. Mặc áo bà ba hút thuốc lá
rê thuốc lào là truyền thống chăng? Tôn trọng tam cương ngũ thường, tam tòng tứ
đức, nam nữ thọ thọ bất thân là truyền thống chăng? Ở nhà tranh vách đất, bàn
ghế kiểu cổ, nhuộm răng đen đi guốc gỗ là truyền thống chăng? Càng tìm kiếm tôi
càng ngỡ ngàng. Thiên hạ không hiểu tại sao ai cũng tìm thấy ngay TRUYỀN THỐNG
dân tộc, bốn ngàn năm văn hiến mà tôi thì “truy tầm” nó mãi không ra. Tôi chỉ
tìm thấy hệ thống giáo lý Khổng Mạnh của Tàu, đồ đạc cung điện kiểu Tàu, Tàu
Tàu và Tàu… chỗ nào cũng thế sau khi gạt hết lớp bụi phủ. Theo các nhà khảo cổ
học và nhân chủng học lên tít mù trong bụi thế gian, tôi cũng chỉ thấy cái trống
đồng Đông Sơn – mà các vị bác học khả kính lại kết luận là “lai Tàu”. Sau cùng
tôi kết luận rằng muốn theo cho thật đúng truyền thống, hợp lý nhất là nhập Hoa
tịch cho rồi. Nhưng thế cũng không ổn vì chính thế hệ trẻ Trung Hoa Chợ Lớn và
Đài Loan cũng đang đốt đuốc lên coi lại cái truyền thống của họ xem nó ra làm
sao.
Cuộc truy tầm ở ngoại giới không đưa đến đâu, tôi quay về tra hỏi bản thân.
Hoàn cảnh sinh hoạt, khung cảnh quanh tôi là Tây phương dĩ nhiên rồi. Nhưng tệ
hơn nữa là tôi suy nghĩ theo cùng phương pháp với sinh viên Sorbonne, Harvard,
Oxford. Tôi thích khiêu vũ, ăn uống, xem chiếu bóng y hệt một anh chàng trí thức
cùng tuổi bên Tây bên Mỹ. Như vậy, xét đến ý thích, khuynh hướng cá nhân, tôi
cũng không tìm thấy gì chứng tỏ tôi là người Việt Nam.
Vẫn bắt chước vị đại tướng, sau khi “truy tầm” không có kết quả, tôi phải sang
một giai đoạn khác là tra hỏi. Tra hỏi không ra thì phải “tra tấn”, tôi tra tấn
ý thức, tư tưởng tôi đến cùng thì thấy rằng tôi là người Việt Nam có lẽ chỉ vì
khi còn nằm nôi, tôi nghe mẹ ru cho ngủ bằng những câu ca dao cổ kính, khi đã
biết đi biết chạy, tôi đi tôi chạy giữa các ruộng lúa nhà tranh ao bèo giếng nước,
tôi cưỡi trâu, cưỡi bò, nghe sáo diều kêu văng vẳng trên không gian buổi chiều.
Tôi là người Việt Nam chỉ vì tuổi ấu thời yêu nước sông đỏ phù sa, tuổi niên
thiếu yêu những người con gái có áo dài lả lướt, yêu Tết Nguyên đán có bánh
chưng, trầm hương, hoa và lễ chùa, yêu rằm Trung thu có đèn kéo quân, đèn xếp,
đèn ngôi sao làm đen lánh cặp mắt người con gái tôi yêu. Tôi là người Việt Nam,
sau cùng có lẽ chỉ vì trong tâm hồn có dấu vết chồng chất của bao nỗi đau buồn
vui sướng quá khứ, những đau buồn vui sướng tôi đã cùng trải qua cùng anh em bố
mẹ họ hàng, cùng các bạn đồng lứa còn sống, cùng những người già đã chết… Tôi
là người Việt Nam vì những điều như thế, bắc có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nam
có Việt Nam Cộng hòa.
Đôi khi tôi còn nghĩ vẩn vơ rằng nước Việt Nam của chúng ta chỉ có thể thống nhất,
chỉ có thể hòa bình khi nào từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ Chủ tịch, cán bộ,
Quốc trưởng đến công dân, ai cũng nhớ rằng mình chính thực ra là người Việt Nam
trước khi là bất cứ cái gì khác. Và chúng ta, những người miền Nam, chỉ nên
nghĩ đến giải phóng miền Bắc khi nào quan niệm nó như một công trình khôi phục
con người Việt Nam.
Lời giảng chót gửi học trò cũ
“Đi lính ba năm, trở về thăm trường cũ, thầy cảm thấy gì?”
Mỗi lần có em hỏi tôi câu trên, tôi không khỏi muốn mỉm cười vì liên tưởng tới
những đề luận loại: “Trò vừa được dự một cuộc diễn binh (một buổi lễ chào cờ
hay một đám tang), hãy thuật lại và cho biết cảm tưởng”, tôi thường ra cho học
sinh nhiều năm về trước. Tuy muốn mỉm cười nhưng tôi vẫn làm một bài luận cho
các em với lời giao ước không phải là bài luận mẫu. Đứng trên thềm nhìn sân đất
đỏ lầy ướt nước mưa, những cây trứng cá xanh um lá, tôi đã nói với các em những
gì, tôi không nhớ rõ. Hình như tôi nói tới một thứ tình cảm vui nhẹ khi được trở
về khoảng đồi quen thuộc, niềm thích thú khi biết những học trò cũng đã biến đổi
ra sao, em nào đi lính như thầy, em nào ra trường học đâu, em nào đỗ em nào trượt
trung học phổ thông, Tú tài, và nhất là những nữ sinh xinh xắn, cô nào đã lấy
chồng cô nào còn tuyển phu.
Sau buổi gặp gỡ lần đầu, tôi trở về nhà với một thoải mái dễ chịu. Giả thử công
tác phải thi hành hoàn tất một ngày, tôi rời thị trấn cao nguyên có nhà trường
mái tôn xanh đỏ này sáng hôm sau, chắc tôi trở về với đời lính, với doanh trại
mang theo thoải mái dễ chịu. Nhưng tôi đã phải ở lại thêm một tuần, và vì thế
tôi đã hối hận. Hối hận vì đã trở lại thăm trường, đã làm bài luận: Thầy đi
lính ba năm, trở về thăm trường cũ, thầy cảm thấy gì? Tôi đã lầm ở một điểm: vấn
đề tư cách trở về và thái độ. Khi trở về thăm trường, tôi tới với tư cách người
lính nhiều hơn với tư cách ông thầy và các em coi tôi như ông thầy nhiều hơn là
người lính. Chính vì thế các em tiếp tục hỏi tôi những vấn đề về học vấn, về đời
sống, về tương lai như ngày xưa. Trước những câu hỏi, nếu tôi chỉ là một ông thầy
vào loại như các giáo sư mới lớn đang phụ trách dạy các em kia, chắc tôi sẽ giải
đáp tất cả những thắc mắc đủ loại với một giọng quả quyết, tin tưởng mình nắm vững
chân lý - những lời giải đáp sách giáo khoa in sẵn. Bây giờ, tôi không thể còn
thái độ ấy. Nhưng tôi còn giữ quan niệm một ông thầy không thể nói dối học trò,
không thể bảo một thứ đen xì ngoài đời là màu đỏ cho những kẻ ngồi trong lớp học.
Bởi thế tôi đã ngập ngừng trước các câu hỏi của các em, tôi đã ngập ngừng rất
nhiều.
Một em học đệ nhất hỏi tôi: “Có nên tiếp tục học nữa không thầy? Em muốn nhập
ngũ cho rồi!” Thoáng trong một giây, do một chút thói quen nghề nghiệp cũ, tôi
đã toan thốt ra một tràng ngôn từ cổ điển đại loại: Phải tiếp tục học tới cùng.
Học để mở mang trí tuệ, để trở thành một công dân hữu ích cho xã hội mai sau,
v.v... Cũng may tôi ngừng kịp, nếu không, chắc sẽ thấy trong đôi mắt thiếu niên
mười bảy tuổi trước mặt những ánh mắt chẽ giễu, không tin. Mở mang trí tuệ, trở
thành công dân hữu ích cho xã hội, v.v... dĩ nhiên là thành quả của học vấn rồi,
nhưng người học trò cũ này đâu có tìm đến tôi để hỏi một ông thầy đã nhập ngũ,
không phải chỉ để nghe những lời Công dân Giáo dục “đã được Bộ Quốc gia Giáo dục
duyệt y”, có phải đúng như thế không các em?
Tôi đã trả lời em đó một cách thật thực tế: “Em hãy cố gắng thi đỗ Tú tài II,
hãy cố gắng học thêm được tới đâu hay tới đó trước khi tới tuổi nhập ngũ. Cuộc
chiến tranh này không phải là vĩnh viễn, xã hội này là xã hội của cấp bằng, những
bằng cấp em có sẽ giúp ích rất nhiều cho em về sau này… Chưa nói xong, tôi đã cảm
thấy rõ rệt đó không phải là của một người chiến binh lớn tuổi. Trả lời như vậy
sẽ không làm hài lòng ai hết. Các em đang hoang mang trước chiến tranh, mất tin
tưởng ở tương lai, đang mong mỏi được nghe một lời khẳng định về giá trị của học
vấn. Tôi đã thoái thác. Nha Chiến tranh Tâm lý Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng
không hài lòng, họ chờ đợi ở tôi một câu trả lời đại loại: Hãy tình nguyện nhập
ngũ ngay để bảo vệ non sông. Hãy hy sinh xương máu ngoài chiến trường cho tổ quốc!
Còn tôi, chính tôi cũng không hài lòng nốt, vì đã ba mươi tuổi, bốn năm dạy học
ba năm đi lính, mà không trả lời thẳng và dứt khoát được một câu hỏi giản dị
như thế.
Buổi tối, tôi tới dự đêm văn nghệ trường tổ chức. Ngồi nghe các em múa hát,
đóng kịch, một phần tâm hồn tôi chìm lắng trong không khí trẻ thơ, ngắm các em
gái ba năm về trước còn là những cô bé chuyên ăn vụng mận, me trong giờ học bây
giờ trở thành những thiếu nữ tuổi yêu đương, tôi chợt hiểu buổi sáng trả lời
như vậy là hơn cả. Thà trả lời với tư cách người lính còn hơn im lặng hay nói dối.
Mọi sự sẽ ra sao nếu tôi khuyên: “Hãy tình nguyện nhập ngũ để bảo vệ tổ quốc!”
và được nghe các em hỏi thêm: “Có thực thế không thầy?”. Có thực thế không? Có
thực là chiến đấu cho tổ quốc không, hay là chiến đấu cho những chính khách
phòng trà có hậu cứ an ninh làm chính trị xôi thịt hay là chiến đấu cho các con
ông cháu cha xuất ngoại trốn quân dịch, những người công du mang theo từng phần
gia sản của dân tộc Việt Nam nghèo khổ… Cuộc chiến này tự nó có một ý nghĩa: chống
cộng để cho những người miền Nam sông Bến Hải được tự do sống theo ý mình, được
yêu người mình yêu, được lấy người mình yêu. Nhưng mười năm liên tiếp, chính
nghĩa đó đã bị lợi dụng, bôi nhọ, trát bùn nhơ nhớp rồi… Chẳng lẽ tôi lại nói
điều đó với các em, những kẻ sắp vào đời. Nhưng không nói thì im lặng, câm nín
sao? Dù thế nào tôi cũng vẫn là một người trí thức.
Tôi chỉ nói tới trí thức, người lính, không nói tới ông thầy. Không phải vì
“chiến tranh đã giết chết ông thầy” như tôi đã nói với một em gái có đôi mắt
như hai vì sao cao nguyên, cũng không phải tại vì tôi đã từ bỏ tư cách ông thầy,
mà vì tôi đã nhận thấy tôi đã sai lầm.
Tôi, chúng tôi, đã dạy các em những gì nhỉ? Nào chí làm trai nam bắc đông tây,
lên đông đông tĩnh lên đoài đoài yên, chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, làm trai
phải chết chốn sa trường da ngựa bọc thây, v.v... Tôi, chúng tôi còn dạy các em
những gì nữa? Danh dự, khí tiết, liêm khiết, trinh bạch, bổn phận đối với tổ quốc,
đối với xã hội, v.v... Toàn những thứ các em vào đời, đốt đuốc đi tìm bảy ngày bảy
đêm liên tiếp cũng không thấy, để rồi sau đó chua chát thất vọng, để rồi sau đó
đưa tâm hồn mình vào tình trạng mất hết tin tưởng.
Rời cao nguyên vào buổi tối, khi nhìn đô thị Sài Gòn hiện hình như một cánh đồng
cỏ màu sắc và ánh đèn, tôi thấy vấn đề cũng không phải là đến chỗ tuyệt vọng.
Tôi còn có những lời giảng, những lời giảng chót, để nói với các em, những
học trò đã tản mát khắp nước cũng như còn ở thị trấn buồn muôn thuở. Tôi thấy
tôi còn là một ông thầy, vì buổi tối, sau khi suy xét kỹ, tôi thấy còn có thể
nói rằng: người thầy ngày trước không lừa dối các em khi nói tới một thế giới đẹp
đẽ trong đó mọi cư xử đều y như các ông thầy đã tả trong các giờ học. Chỉ có cần
bổ túc là thế giới ấy không phải có sẵn chờ đợi những người vừa rời bỏ ghế nhà
trường và tuổi thiếu thời, mà nó nhờ chính những người này, những người mang lý
tưởng ôm ấp từ lớp học tới xây dựng, hình thành. Tôi đã có lầm lẫn ngày trước
là đã để các em ngộ nhận. Nhưng lầm lẫn này, những ông thầy cũ và tôi đã trả
giá thay cho các em bằng cách chịu đựng một nỗi chua chát xao động thường xuyên
trong tâm hồn.
Những bàn tay không
Nhiều người thường cho rằng lớp trí thức trẻ hiện nay “nổi loạn”,
thích tung phá đạp đổ nên bạ ai cũng chê cũng đả kích. Sự thật không hẳn như vậy.
Tự xét bản thân và căn cứ vào tâm trạng bạn bè tôi thấy rằng thế hệ trẻ hiện
nay rất bơ vơ – họ muốn tin cậy ở người lớn lắm nhưng không tìm ra ai mà tin. Hệ
thống tổ chức xã hội và nền giáo lý cũ không còn thích hợp với nếp sinh hoạt và
biến chuyển mới của dân tộc và đất nước: các thanh niên rất cần người hướng dẫn,
rất cần người già để kính, để nương tựa về tinh thần. Nhưng vấn đề là ở chỗ, họ, chúng
tôi không tìm thấy ai. Thanh niên nào cũng đã hơn một lần muốn bám víu vào một
cái gì gương mẫu để giữ vững tinh thần trong dòng hỗn loạn hiện đại, nhưng rồi
cũng hơn một lần thất vọng chua chát.
Thanh niên hiện nay gần như chỉ có hai bàn tay không và công việc phải làm nhiều
vô hạn – trong khi đó vẫn gánh chịu trực tiếp cuộc chiến tranh tàn khốc không
do họ gây ra. Nếu Camus đã nhắc tới một câu nói người xưa mong được sinh vào một
thời đại không đáng chú ý, thì nhiều thanh niên Việt Nam cũng đã tiếc rằng đã đầu
thai nhầm thế hệ. Nhưng tiếc thì tiếc vậy nhưng họ biết không thể từ chối thân
phận mình, họ biết phải làm gì và nhận rằng nếu thế hệ năm mươi tuổi đã từ chối
trách nhiệm về một nửa nước Việt thì họ, thế hệ trên dưới ba mươi sẽ chịu trách
nhiệm với con cháu sau này, với lịch sử về số phận một nửa phần còn lại.
Khi khóa 14 sĩ quan trừ bị Thủ Đức mãn khóa, ông Diệm không tới, cử ông Trương
Công Cừu làm đại diện. Tôi thuộc đại diện khóa sinh đa số là trí thức và vì
thân cao thước bảy nên phải đứng hàng đầu hàng quân – sự kiện này có nghĩa là
không hy vọng gì cựa quậy cho đỡ mỏi. Mồ hôi đã bắt đầu chảy dọc gáy tôi cũng
như người cầm cờ phía trước khi ông Cừu tới duyệt hàng quân. Đúng lúc phái đoàn
quan khách đi ngang đại đội, một tiếng nói từ phía sau hàng quân cất lên tuy nhỏ
nhưng nghe rõ tới hàng đầu, nhắc lại câu nói của những người giác đấu nói với
quan khách trên khán đài trước khi bắt đầu cuộc tử chiến: “Ceux qui vont
mourrir te saluent!” 1… Tuy toàn thân tê cứng trong nỗ lực giữ đúng tư
thế chào, tôi cảm thấy như có một chuyển động rì rào phía sau. Có lẽ tôi bị óc
tưởng tượng đánh lừa? Có thể là vậy nhưng câu nói cuối cùng của những người
giác đấu thời xưa ấy, tôi nghe thật rõ như một tiếng thở dài. Ông Cừu đã lên vị
trí chủ tọa buổi lễ trên khán đài cao, dáng điệu ông trịnh trọng và trang
nghiêm. Lũ chúng tôi mồ hôi đầy người quỳ xuống trước mặt ông thề trung thành với
tổ quốc và nhận cấp bậc nhỏ nhất trong hàng sĩ quan. Vẫn trịnh trọng và trang
nghiêm, đại diện cho tổng thống, cho Quốc gia Miền Nam, ông Cừu khuyên chúng
tôi nhiều điều… Ceux qui vont mourrir te saluent, tôi không hề được biết anh đồng
khóa nào đã thốt ra câu ấy để tìm hiểu xem hiện nay anh đang ở phương nào.
Nhưng tôi biết chắc anh hẳn là người buồn nhất buổi sáng ngày hôm ấy khi quỳ xuống
trước mặt ông Cừu – nỗi buồn của anh chắc chắn phải bằng hay hơn nỗi buồn của
tôi khi viết đến dòng này.
Ý nghĩ người lính trong thành phố - Những người bơ vơ
Một sinh viên bạn tôi trong năm vừa qua, nhờ thế lực chính trị
và khả năng tài chính của gia đình, đã được phép xuất ngoại đi Pháp học. Đó là
một thanh niên biết suy nghĩ nên việc du học này đã đặt anh trước nhiều vấn đề.
Nếu anh xuất ngoại, anh sẽ có thể đỗ tiến sĩ và trở về nước sau này làm giám đốc,
tổng trưởng. Nhưng sự xuất ngoại này không do một tuyển chọn công bằng, không
do tài năng. Vậy vấn đề đặt ra cho anh là chấp nhận hay không chấp nhận xuất
ngoại này. Nếu không đi, ở lại, anh sẽ phải nhập ngũ một thời gian dài ngắn
không biết rõ là bao nhiêu. Nhập ngũ là chiến đấu. Anh không sợ khổ cực của đời
lính, anh có thể hy sinh mạng sống – nhưng cho ai? Anh ngó quanh, nhìn những
người bạn đã nhập ngũ, nhìn chính quyền, nhìn xã hội, anh thấy rằng chưa biết
chừng những người bạn ấy đã vô tình chiến đấu để bảo vệ cho những thương gia Ba
Tàu, các xí nghiệp ngoại quốc, các tham quan ô lại, các tướng lãnh bê bối, v.v...
Vậy anh chọn đường nào, đi hay không đi? Chọn đường nào cũng có lý và chẳng đường
nào hợp lý. Anh thấy anh là một con người bơ vơ.
Một giáo sư trẻ bạn tôi ở tỉnh nhỏ được một nữ sinh bày tỏ tình yêu. Anh tự hỏi
nên hay không nên nhận tình yêu này. Ông Hiệu trưởng, ông bạn già đồng nghiệp bảo
không nên nhận vì như vậy là trái nghĩa sư đệ. Nghĩa sư đệ? Nó là cái gì vậy?
Nghe có vẻ Tàu Tàu, anh mở sách cổ ra đọc, tìm xem người xưa nói làm sao về việc
thầy trò yêu nhau. Dĩ nhiên anh không tìm thấy vì thời trước không có học trò
con gái, lấy đâu ra việc yêu đương. Và nếu tìm thấy, chắc cũng không có được giải
pháp nào bởi vì ông thầy đồ có nhiệm vụ thay cha dạy học trò thành người.
Nếu thầy trò yêu nhau có lẽ có thể coi như một hành động loạn luân. Nhưng anh bạn
tôi là một giáo sư ở hậu bán thế kỷ hai mươi, và nhiệm vụ của anh là truyền bá
cho cô gái này các kiến thức về khoa học và văn hóa, chứ đâu phải dạy nàng
thành hiền phụ hay gái chính chuyên – mở tất cả các cuốn chương trình kể từ khi
người Pháp hủy bỏ nền học cổ truyền thay bằng nền học chánh mới cho tới hiện
nay, anh không thấy có điều khoản nào ghi giáo sư phải rèn luyện, đào tạo học
trò thành người cả. Anh chỉ biết rằng cho tới giờ, chương trình giáo dục được gọi
là nhân bản, khai phóng, v.v. Thế thôi. Ông giáo sư già nhất trong trường nhận
xét: “Dù sao chúng ta cũng có dạy nó thành người qua những lời khuyên răn và kỷ
luật áp dụng trong những giờ học trò tới trường…”. Anh bạn tôi không đồng ý vì
cho rằng một huấn luyện viên quân sự của các khóa đào tạo nữ quân nhân, cũng khuyên
răn, cũng áp dụng kỷ luật, cũng truyền bá những kiến thức. Và nếu một trung úy
huấn luyện viên và một khóa sinh yêu nhau rồi lấy nhau thì đó lại được coi là một
tình duyên thông thường, không ai buồn thắc mắc – trừ những tình địch của hai kẻ
này. Vậy tại sao anh và nữ sinh của anh lại không được yêu nhau tự do – như mọi
người? Hơn nữa nếu cấm lấy nữ sinh thì các giáo sư biết lấy ai làm vợ. Đa số
các cô bây giờ đều được đi học, do đó đều là học trò không của giáo sư này thì
của giáo sư khác… Tôi chen vào, góp ý kiến: “Con gái vị thành niên chưa được
coi là đủ óc suy xét, ông thầy lại tiếp xúc luôn, có được yêu thì tình yêu đó
chưa được coi là chín chắn. Hơn nữa, lôi thôi với gái vị thành niên có hai cái
nguy: thứ nhất là Bộ biết, sẽ bị đổi đến những nơi hổ về gậm gãy cột cờ, trăn
bò vào nằm trên bục; thứ hai là nếu bố mẹ cô nàng kiện thì đi ở tù!” Nói như thế
không giải quyết được gì cho vấn đề, anh bạn nhận xét, vấn đề ở chỗ là tìm xem
thầy trò yêu nhau có gì là tội lỗi như mọi người thường quan niệm hay không.
Đây là một vấn đề tinh thần, một vấn đề luân lý. Vụ tranh luận đến đây là ngừng,
và khi tôi rời trường, anh bạn tôi vẫn chưa biết nên chọn thái độ nào. Anh cũng
là một người bơ vơ.
Một anh bạn đồng môn cũ, mới thuyên chuyển đến ngành Cảnh sát Công an, sau ba
tuần nhận chức, nói với tôi: “Tao nghĩ hoài không biết có nên tổ chức tảo thanh
gái điếm hay không. Tao chưa vợ, vẫn thường đi tìm đĩ để giải quyết sinh lý, thấy
làm như vậy là tự nhiên. Đàn bà làm đĩ, tao nhân danh cái gì để cản, để đi bắt?
Đối với gái vị thành niên còn có thể bảo là chưa biết suy nghĩ nên bắt trở về đời
sống lương thiện hơn, nhưng còn đàn bà trưởng thành tự nguyện chọn làm nghề
này?” Dĩ nhiên, về phương diện tinh thần, anh bạn này không biết nhân danh cái
gì để kết án gái đĩ. Anh bơ vơ rồi.
Sau 1-11-1963, cả chính phủ lúng túng trong việc tìm một tiêu chuẩn để xác định
thế nào là thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Các người ham chuộng loại phim
thoát y đã thấy rõ sự lúng túng này ở những người tự-cho-có-nhiệm-vụ bảo vệ đạo
đức xã hội. Có thời kỳ, các nhà kiểm duyệt cho rằng cởi nịt vú nhưng giữ
xi-líp, được kể như không làm thương tổn đến thuần phong mỹ tục của “nước A Nam
ta”. Có thời kỳ cho rằng để lộ ngực cũng làm hại đến đạo đức của dân Đại Cồ Việt.
Có thời kỳ cho rằng nhảy twist vô hại, có thời kỳ lại cấm vì cho rằng twist sẽ
văng mất bốn ngàn năm văn hiến Giao Chỉ ra ngoài. Nói giản dị, các nhà đạo đức
trong chính quyền không còn biết vị trí, giới hạn của đạo đức ở-chỗ-nào-nữa. Họ
là những người bơ vơ rồi.
Cái gì cũng phải có một kết thúc, kể cả những bơ vơ. Anh bạn sinh viên đã đi
Pháp học nhưng viết thư về nói rằng: “Lắm lúc nghĩ, tôi tự hỏi tôi đi thế này
hơn hay ở lại đi lính để cùng liên đới chịu đựng cái phận khốn khổ của dân
mình…”. Anh bạn giáo sư tỉnh nhỏ viết thư về báo tin: “Tao sẽ phải nhập trường
Thủ Đức khóa tới, và con bé học trò ấy vừa đủ 21 tuổi tuần trước. Vấn đề đã được
đi đến cùng, nhưng tao vẫn thấy…”. Anh bạn trong ngành kiểm tục tuyên bố: “Tao
vẫn thứ bảy đi kiếm poule và khi nào có lệnh thượng cấp, vẫn đi bố ráp gái điếm…”.
Còn về công tác bảo vệ thuần phong mỹ tục dân nước Việt Nam Cộng hòa, ông đô
trưởng vừa trịnh trọng minh định đại khái như sau: “Mặc nịt vú và xi-líp sẵn
sàng bước ra múa là không hại đạo đức, nếu mặc quần áo rồi vừa múa vừa cởi
cho đến khi còn nịt vú và xi-líp là một hành động công xúc tu sỉ…”. (Tôi tự hỏi
như vậy có phải đạo đức và không đạo đức chỉ khác nhau ở chỗ “có sẵn” và “cởi dần”
hay không?).
Tại sao, vì cớ gì, người dân Việt đệ tứ cộng hòa (đệ nhất cộng hòa là của ông
Diệm, đệ nhị cộng hòa là của DIDOXI – Đính Đôn Xuân công ty, đệ tam cộng hòa là
của Chủ tịch Nguyễn Khánh) lại lâm vào tình trạng bơ vơ như vậy? Và làm thế nào
để cho những người hiện tại, nhất là thế hệ mai sau khỏi bơ vơ như thế?
Đó là hai vấn đề căn bản phải giải quyết cho xã hội miền Nam. Tất cả những vấn
đề khác về chế độ, về luật pháp, v.v. chỉ là những cái đến sau. Nếu giải quyết
được hai vấn đề căn bản này, người sinh viên sẽ biết nên đi Pháp học hay ở lại
đi lính với những bạn đồng môn nghèo hèn, người giáo sư sẽ biết nên nhận tình
yêu học trò hay từ chối, viên chức kiểm tục biết nên kết án hay dung dưỡng gái
điếm, nhà kiểm duyệt biết sử dụng chính xác cái kéo không cần phải coi lại các
chỉ thị co giãn tùy thời, người lính nên biết hay không nên hy sinh tính mạng của
mình. Có hết bơ vơ, viên chức thanh liêm mới tin rằng thái độ của mình là đúng
là đáng khen chứ không phải là “dại” là “ngu”, người thanh niên thiện chí phục
vụ xã hội mới tin rằng mình không phải là quân tử Tàu, người biết giữ liêm sỉ mới
tin là mình không lỗi thời hay chậm tiến. Không đưa được mọi người ra khỏi tình
trạng bơ vơ, mọi sự sẽ tiếp tục như hiện nay – nghĩa là mỗi người đều tiếp
tục đóng vai trò riêng trên một sân khấu riêng: Giáo sư đóng kịch trên bục vì dạy
học trò “không nên rượu chè, cờ bạc, trai gái, nghiện hút” nhưng vẫn đi chơi
gái, đánh bạc và uống rượu, những nhân viên kiểm duyệt sẽ bề ngoài nhăn nhó khi
cắt những đoạn phim “đồi phong bại tục” và những câu văn khiêu dâm, tả chân,
nhưng rất thích thú khi được coi Sexy show, Sexy girl nguyên bản, khi đọc
Mémoire d’une chanteuse allemande…
Một xã hội khi nào chỉ xây dựng trên những con người giả hình như vậy là một xã
hội đang đi đến chỗ tan rã chắc chắn.
Ý nghĩ của người lính thành phố - Trương Vô Kỵ
Trong tuổi thiếu thời, về phương diện đọc sách, tôi là một đứa
trẻ bình thường, nghĩa là đương nhiên phải mê đọc truyện kiếm hiệp. Mê đến độ
những hôm không có tiền đặt cọc, tôi tới thuê sách ngồi đọc ngay tại hiệu. Tôi
còn nhớ những phút say mê theo dõi Giang Đông tam hiệp, Long Hình
quái khách, lo âu cho những tráng sĩ nghĩa hiệp lao vào những ổ ác tăng cứu
nguy cho người đẹp, và ở cái tuổi còn tin rằng em trai ở trong nách mẹ chui ra
và đàn ông đàn bà cứ ngủ chung giường là tự động có con, tôi đã hồi hộp và rung
động trước những hoàn cảnh hiểm nghèo của những nữ hiệp khi sa vào tay dâm tặc.
Lớn hơn, khi bắt đầu thích mối tình Hồn bướm mơ tiên, những nhân vật kiếm
hiệp tan biến vào dĩ vãng ấu thời, không còn di tích. Năm ngoái khi Thi với tôi
ở một doanh trại miền Trung, nàng nằn nì tôi thuê cho bằng được Cô gái đồ
long để nàng đọc trong những lúc vắng tôi. Không những không chịu chiều ý,
tôi còn cười chế giễu. Gần đây trong một buổi gặp gỡ thân mật, tôi thấy các nhà
văn, có người sắp tới tuổi tứ thập nhi bất hoặc, bàn một cách hăng hái về những
Chu Chỉ Nhược, Vô Kỵ, Triệu Minh, Đao Đồ Long, Nhất Dương chỉ, v.v... và những
chưởng những ám khí quay lộn, đánh bật tất cả những Sartre, Camus, Hemingway
cùng các đề tài văn nghệ thông thường ra bụi mía trong vườn nhà mẹ tôi. Đến
đây, dĩ nhiên là tôi chỉ có thể làm một việc: đi tìm kiếm hiệp đọc để xem nó ra
làm sao mà đã có thể gây cả một phong trào đọc sôi nổi như vậy.
Để bắt đầu, tôi đọc cuốn kiếm hiệp đã được xếp vào loại “cổ điển” là cuốn Cô
gái đồ long. Qua được vài chục trang, tôi đã bị lôi luôn vào vòng chưởng lực của
các nhân vật. Và tiếp đó, dĩ nhiên bình thường như bao người, tôi đọc hết cuốn
này đến cuốn khác của Kim Dung, và cũng chỉ thích đọc có một tác giả này mà
thôi. Bây giờ đã khá quen thuộc với các võ công thượng thừa của các phái Thiếu
Lâm, Nga Mi, Võ Đang, v.v. tôi hiểu tại sao mọi người – trong đó có tôi, say mê
đọc loại văn này. Lý do quan trọng nhất là kiếm hiệp đã được Kim Dung viết với
nhiều nghệ thuật. Các nhân vật linh động, nhiều cá tính, nhiều tâm trạng không
như các nhân vật thông thường: loại gian tà và anh hùng hào kiệt. Gian tà bao
giờ cũng gian ác và đáng giết, anh hùng bao giờ cũng quang minh chính đại đáng
kính. Thiện ác phân minh. Các nhân vật của Kim Dung không như thế. Trừ một số
ít, còn chẳng có ai là thiên thần, chẳng có ai là ác quỷ. Tạ Tốn có tàn ác, Chu
Chỉ Nhược có giảo quyệt nhẫn tâm, không hẳn là tự thâm tâm họ muốn hành động
như vậy nếu không có những nỗi đau đớn, những vò xé bên trong. Họ có vẻ người
hơn, do đó gần gũi với chúng ta hơn. Về tả cảnh, những đoạn như Đoàn Dự bị bắt
dẫn đi trên thuyền đến nhà Cô Tô Mộ Dung trên hồ, có thể coi là một đoạn văn đẹp.
Các võ công được trình bày liên quan chặt chẽ với y lý Đông phương và triết lý
Dịch, Đạo cùng giáo lý đạo Phật làm người đọc trưởng thành có được một thứ ảo
giác sự thật. Đó là những lý do “nội tại” làm truyện kiếm hiệp Kim Dung trở
thành lôi cuốn. Nhưng lý do không phải chỉ có thế. Mọi người ở trong xã hội
này, bao nhiêu năm rồi, thấy những kẻ ác bao giờ cũng được hưởng xe hơi nhà lầu,
những kẻ thiện cứ úp mặt xuống hít khói và bụi. Nhưng nhu cầu muốn công bằng được
thực hiện, ác giả ác báo vẫn tiềm tàng trong tâm hồn nên mọi người vui thú tìm
sự thể hiện những ước vọng đó trong kiếm hiệp.
Trong tất cả những nhân vật của Kim Dung, Trương Vô Kỵ được người đọc chú ý hơn
cả. Gần đây, trên một tờ báo sinh viên, tôi đã thấy một bài chê trách Vô Kỵ mải
ngồi kẻ lông mày cho Triệu Minh quên cả sự hiện diện của quân Mông Cổ trên đất
nước. Đã từ lâu, khi còn làm thầy đồ miền núi, tôi hay tự hỏi nền giáo dục hiện
đại sẽ đưa thanh niên tới đâu. Mỗi một nền giáo dục đều bao hàm chủ đích đào tạo
thanh niên thành người theo một mẫu nào đó – tôi tạm gọi là mẫu người lý tưởng.
Trước kia người lý tưởng Việt Nam là kẻ sĩ. Người Pháp, vì nhu cầu thống trị,
đã phá hủy giai tầng kẻ sĩ, phá hủy hệ thống giáo dục cũ, thay thế bằng một hệ
thống giáo dục nhằm đào tạo những viên chức thừa hành và những trí thức quên gốc.
Thu hồi lại độc lập từ 1954, những người cầm quyền miền Nam chưa ai có một ý niệm
rõ rệt về một mẫu người lý tưởng mới để cho các nhà giáo dục lấy làm tiêu chuẩn
soạn thảo chương trình và dạy dỗ học sinh. Trong khi ấy, cộng sản chĩa mũi dùi
tấn công vào những kẻ sĩ biến thể, chê họ là anh hùng cá nhân, là trí thức tiểu
tư sản, v.v. Tất cả những sự kiện đó làm tôi chú ý nhiều tới Trương Vô Kỵ, một
thứ người hùng đặc biệt, Vô Kỵ võ giỏi nhưng không hiếu sát, không đánh kẻ ngã
ngựa, không thù hận và tàn nhẫn quá độ với kẻ thù. Đứng đầu Minh giáo, Vô Kỵ cư
xử hết lòng với thầy, tin cậy ở thiện tính của bằng hữu và thuộc hạ, không bao
giờ chịu dùng những thủ đoạn xấu dù có lợi cho chính nghĩa và thà để người phụ
mình còn hơn mình phụ người. Về tình cảm, Vô Kỵ yêu chân thành không để ý đến
chủng tộc, giai cấp, môn phái. Yêu một cách rất tiểu tư sản: khi chưa yêu ai thực
sự, muốn lấy cả Tiểu Siêu, Hân Ly, Chu Chỉ Nhược, Triệu Minh làm vợ (độc giả
nào đọc Cô gái đồ long mà không ước ao lấy cả bốn cô gái kể trên thì
người đó một là liệt dương, hai là đã trên 77 tuổi, ba là cán bộ cấp huyện ủy
trở lên). Khi đã yêu thực sự Triệu Minh thì thôi, tất cả vũ trụ trở thành vắng
ngắt. Về chính trị, tới thời kỳ sắp thành công, mọi lãnh tụ bắt đầu mở cuộc
tranh giành quyền lực. Vô Kỵ từ bỏ tất cả ra đi.
Thái độ sống, quan niệm xuất xử của Vô Kỵ, tôi thấy bắt nguồn từ lâu lắm, từ Phạm
Lãi treo ấn từ quan mang Tây Thi đi du ngoạn Ngũ Hồ, Trương Lương nhàn cư dưỡng
tính. Tôi thiết tưởng Vô Kỵ không đáng trách khi trao ngôi Minh chủ cho Dương
Tiêu, để kệ Chu Nguyên Chương giữ binh quyền thực hiện việc đuổi quân Mông Cổ
trong giai đoạn chót. Bổn phận đối với dân tộc đã làm xong, bổn phận đối với đồ
đệ, với nghĩa vụ, với thầy, với bằng hữu, đã thi hành trọn vẹn. Bây giờ rũ áo,
mang đao Đồ Long ra đi cùng Triệu Minh, Vô Kỵ đã làm một hành động đẹp nhất đời,
chàng theo quan điểm của tôi – một người trí thức tiểu tư sản.
Đọc trang cuối Cô gái đồ long, khi thấy Vô Kỵ cầm bút vẽ lông mày cho người
yêu, tôi chợt khám phá ra một điều: tôi đã có lý khi chọn thái độ chống Cộng bởi
vì các chính ủy ngoài bắc đã đốt hết sách Tự Lực Văn Đoàn để diệt người hùng tiểu
tư sản thì tất sẽ đốt hết sách kiếm hiệp của Kim Dung, tôi cũng đã có lý khi chọn
thái độ chống Cộng vì tuy lông mày người yêu tôi khá đậm không cần vẽ thêm,
nhưng tôi vẫn muốn mãi mãi giữ được quyền tự do điểm nốt ruồi lên má nàng bất cứ
lúc nào tôi muốn…
Mười năm văn hoá kiểm duyệt miền Nam
Gần đây trên các tạp chí văn học có một phù trợ dịch thuật những
bài tham luận, khảo luận, tự sự, hội thảo, v.v... của những nhà văn Tây phương,
nhất là những nhà văn Pháp về các đề tài như: văn nghệ dấn thân hay không dấn
thân, văn nghệ là vô bổ vô ích hay có tác dụng đối với xã hội, cái họa siêu
hình đối với văn chương ra làm sao, văn nghệ có nên để chính trị theo đuổi hay
không, v.v. Tôi theo dõi các bài ấy một cách khá chăm chú vì tò mò muốn xem
thiên hạ nghĩ ngợi ra làm sao ở bên Tây, bên Mỹ, bên Tàu. Đôi khi, gặp mặt bạn
bè, nếu có người nêu những đề tài ấy ra, tôi thường im lặng đứng ra ngoài cuộc
bởi vì đọc những bài ấy để mở rộng thêm kiến văn thì nên, còn đọc chúng để rồi coi
những vấn đề nêu ra ấy là những vấn đề của nhà văn Việt Nam thì lại là một lầm
lẫn lớn. Lầm lẫn lớn bởi vì thân phận nhà văn Pháp ở giữa Paris trong một quốc
gia tân tiến có chế độ tự do ngôn luận và tinh thần thái bình đã lâu không giống
một chút nào thân phận nhà văn nhược tiểu Đông Nam Á. Những Grillet, Berger,
Sartre, Camus đâu có phải tham dự thứ chiến tranh bi thảm, đâu có phải lo chế độ
bị tiêu tan, đâu có nghèo khổ quá mức, đâu có phải chứng kiến cảnh tượng chua
xót như… (Tôi xin miễn ghi tiếp bởi vì ghi tiếp thể nào cũng bị kiểm duyệt xóa
bỏ. Vả lại, không ghi tiếp đầy đủ, chúng ta, những người Việt Nam, ai cũng biết
rõ người cảnh tượng đó là như thế nào rồi).
Nhận xét như trên, tôi thấy rằng ở Việt Nam, vấn đề trọng đại đối với nhà văn
không phải là vấn đề viết thế nào, viết để làm gì. Cũng không phải là vấn đề cái
họa siêu hình, tiểu thuyết mới tiểu thuyết cũ, tiền chiến hậu chiến. Đối với
nhà văn Việt Nam mang thân phận nhược tiểu Đông Nam Á, thực sự ra chỉ có một vấn
đề cấp bách thường xuyên và trọng đại là VẤN ĐỀ KIỂM DUYỆT. Và nhà văn Việt Nam
chỉ có một ám ảnh, thắc mắc, một vấn đề thực sự là: VIẾT THẾ NÀO ĐỂ KHỎI BỊ KIỂM
DUYỆT BỎ.
Tôi không biết các cụ Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia
Thiều, v.v... khi sáng tác thơ văn, có bị kiểm duyệt hay không. Tôi mở lịch sử ra
đọc, và đọc mờ cả mắt mà không thấy triều đại nào đã thành lập một cơ quan kiểm
duyệt. Mới đầu tôi cho rằng nhất định phải có, bởi vì không lẽ gì vào thế kỷ
XX, chúng ta có cả một nền văn hóa kiểm duyệt rất phong phú mà lại không có một
nguồn gốc truyền thống nào trong bốn ngàn năm văn hiến. Tôi tìm đến một vị thâm
nho hỏi tiếp bởi vì tôi cho rằng quá kém chữ Hán, tôi đã không hiểu được những
tên chức vụ xưa như Đông các đại học sĩ, Tả tham tri, Hữu tham tri, v.v. Hơn nữa,
đọc sử, tôi đã thấy những ông đề đốc đô đốc của Quang Trung đã chỉ huy toàn đơn
vị bộ binh, thì suy ra dám có một ông Chánh sự vụ Sở Kiểm duyệt nấp dưới tên một
chức vụ như Đô sát Ngự sử Văn đàn chẳng hạn. Sau khi vị túc nho đã xác định là
trong suốt lịch sử Việt Nam từ hồi Đinh Bộ Lĩnh cho tới khi Tôn Thất Thuyết
xách gươm chạy sang Tàu, nhất định không có chức vụ kiểm duyệt nào, kể cả chức
Đa sát (xin lỗi, Đô sát) ngự sử văn đàn, tôi chợt nghĩ ra một điều thực hiển
nhiên là: Nếu trong quá khứ đã có những cơ quan kiểm duyệt, thì hẳn chúng
ta ngày nay chưa chắc đã có Đoạn trường tân thanh, Chinh phụ ngâm hay Cung oán
ngâm khúc. Bởi vì nếu có cơ quan kiểm duyệt, chắc Đoạn trường tân thanh bị
cấm phổ biến vì “tả chân” quá, Cung oán ngâm khúc bị cấm vì “xúc phạm
đến thuần phong mỹ tục” và Chinh phụ ngâm thì chắc chắn không những bị
cấm ấn hành mà thôi, tất cả còn dám bị truy tố ra trước tòa vì tội “làm suy giảm
tinh thần chiến đấu của quân đội”. Giả thử Nguyễn Du hay Nguyễn Công Trứ lấy tư
cách ông bự, xin lỗi, lấy tư cách đại quan thần trong triều, gây áp lực với
quan Đa sát ngự sử văn đàn, có thể những tác phẩm của các ông vẫn được lưu hành
với những đoạn kiểm duyệt bỏ cần thiết. Và như thế, trong Đoạn trường tân
thanh của chúng ta ngày nay, chắc chắn không còn có những câu như: “Rõ
ràng trong ngọc trắng ngà, Dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” (Đa sát ngự sử
văn đàn phê: “tả chân”, “khiêu dâm”) và trong Chinh phụ ngâm không
còn có những câu “Bước đi một bước lại vin áo chàng”. (Đa sát ngự sử văn đàn
phê: Tiễn chồng đi thi hành bổn phận quân đội gì mà lại thê thảm vậy, viết thế
là “hại tới tinh thần chiến đấu của quân đội”). Càng nghĩ lại quá khứ, tôi càng
mừng cho nền văn học, nếu không có ngày nay chúng ta còn gì? Vậy tôi tin rằng
những người thường chê trách các cụ nhất, đến đây chắc cũng phải nghiêng đầu
bái phục sự sáng suốt của tiền nhân bởi vì tiền nhân đã hiểu rằng văn hóa
không thể đi đôi với chế độ kiểm duyệt.
Lịch sử đã chứng tỏ rõ khi Việt Nam còn độc lập, chúng ta không có cơ quan kiểm
duyệt. Vậy có thể suy luận dễ dàng rằng chế độ kiểm duyệt hiện nay chỉ xuất hiện
kể từ khi quốc gia này đi vào vòng nô lệ ngoại bang và nó thiết yếu gắn liền với
sự nô lệ của dân Việt dưới một chế độ có hình thức cai trị khác nhau. Cơ quan
kiểm duyệt đầu tiên của Việt Nam dĩ nhiên do người Pháp thiết lập. Tôi không được
đọc những văn kiện căn bản quy định tổ chức điều hành và nhiệm vụ của cơ quan
này nên không hiểu rõ thực sự người Pháp muốn gì. Nhưng căn cứ trên những sự kiện
thực tế, tôi thấy người Pháp trọng văn hóa và vì thường rêu rao họ tới “khai
hóa” dân Việt, do đó chế độ kiểm duyệt của họ trung bình không lấy gì làm khắt
khe. Đôi khi còn có những thời kỳ thật cởi mở, người cầm bút là người đừng xúi
dân nổi dậy chống chính quyền bảo hộ. Còn ngoài ra muốn viết gì thì viết tùy ý.
Lắm khi, họ còn không cấm cả những cuốn đề cao con người cách mạng chống Pháp –
bằng cớ là những cuốn như Đôi bạn, Đoạn tuyệt của Nhất Linh,
v.v... đều ấn hành dưới thời Pháp thuộc.
Theo ý tôi, chính vì sự hiểu biết và chính sách cởi mở của các cơ quan kiểm duyệt
dưới thời Pháp thuộc, dân Việt đã có một thời kỳ sinh hoạt văn hóa phong phú từ
1925 tới 1945. Dù không ưa gì người Pháp, tôi cũng phải ghi nhận rằng nhờ sự tử
tế này, chúng ta mới có văn học sử cận đại đáng kể. Đọc đến đây, nhiều người
có tinh thần bài Pháp hơn tôi chắc không đồng ý. Nhưng nếu những người đó làm một
thí nghiệm giả tưởng là đem một vài tác phẩm của văn chương tiền chiến đưa ra
kiểm duyệt theo các tiêu chuẩn hiện nay, họ sẽ đổi ý kiến. Cuốn Hồn bướm
mơ tiên chẳng hạn, chắc chắn không thể được phép in vì nội dung thuật lại
một tình duyên có tính cách ép liễu nài hoa dưới bóng từ bi của Phật tổ – nhân
viên kiểm duyệt sẽ bôi bỏ. Cuốn Giông tố của Vũ Trọng Phụng chắc sẽ
được truyền tay nhau đọc để rồi cũng bôi bỏ trọn cuốn vì nội dung “phương hại tới
nền đạo đức truyền thống của dân tộc”. Cuốn Số đỏ cũng bị cấm không
những vì cùng lý do trên, còn thêm lý do đả phá giai cấp thống trị. Nói một
cách giản dị, một nhà văn như Vũ Trọng Phụng chắc chắn không thể ra mắt dân
chúng và thành danh dưới chế độ hiện nay. Tôi đã một lần tình cờ tìm được hai
cuốn kể trên ấn bản thời Pháp thuộc, đem so với những ấn bản mới phát hành gần
đây tôi đã thấy cơ quan kiểm duyệt hồi tố nhiều đoạn trong ấn bản sau. Một giáo
sư bạn tôi khi biết truyện này đã thốt ra một tiếng thở dài: “Cũng may là mấy
ngài kiểm duyệt còn thương các cụ, đã buông tha cho các tác phẩm của thế kỷ
XIX…”.
Sau khi người lính viễn chinh Pháp cuối cùng xuống tàu hồi hương, có một cơ
quan do chính quyền bảo hộ để lại được chính phủ đầu tiên Việt Nam Cộng hòa
nâng niu quý trọng nhiều nhất là cơ quan kiểm duyệt. Điều đó thực dễ hiểu vì
thành phần lãnh đạo mới đa số là cựu quan lại và phong kiến cũ – những người đã
từng bị nhà văn nhà báo tố cáo sự thối nát nhũng lạm ngay từ dưới thời Pháp thuộc.
Do đó, các quan Tuần vũ, quan Huyện, quan Phủ, quan Đốc phủ sứ, v.v. ngay sau
khi lên được địa vị chủ nhân ông nước Việt Nam, đã liên kết với nhau để thẳng
tay triệt hạ sinh hoạt văn hóa – họ hy vọng làm im được tiếng nói của dân chúng
biểu lộ qua các tác phẩm và báo chí, họ sẽ vĩnh viễn giữ được “triều đình mới”.
Họ đã không thành công trong việc duy trì “triều đình” quá 10 năm, nhưng đã
thành công trong việc làm tê liệt các sinh hoạt văn hóa và tạo ra cả một MƯỜI
NĂM VĂN HÓA KIỂM DUYỆT MIỀN NAM.
Trước khi viết văn, tôi đã từng nghe thấy tiếng kêu la của nhiều nhà văn về sự
khắt khe thiếu hiểu biết của Kiểm Duyệt. Và tôi va đầu vào bức tường kiểm duyệt
ngay từ truyện ngắn đầu tiên. Nhất Linh khi còn chủ trương Văn Hóa Ngày
Nay, nói: “Truyện cháu viết được nhưng kiểm duyệt không cho đăng đâu…”. Từ ngày
ấy cho tới nay, mỗi khi cầm bút viết, tôi đều bị ám ảnh bởi một câu hỏi: “Làm
sao đây cho khỏi bị Kiểm Duyệt bỏ?”. Theo lời khuyên của nhiều người giàu kinh
nghiệm, tôi tránh viết những bài khảo luận bởi vì chế độ Diệm sẵn lòng cho nói
chuyện văn chương chính trị bên Phú-lang-sa, bên Mỹ, bên Brésil nhưng lại rất kỵ
việc người cầm bút quốc nội đưa những ý kiến, bàn tới những lý thuyết đi ra
ngoài khuôn khổ “Cần lao Nhân vị”. Nhưng rút lui vào địa hạt sáng tác cũng
không xong bởi vì trong địa hạt này cũng có nhiều cấm điều. Chẳng hạn như muốn
rủa Thượng Đế một câu cũng khó, muốn viết một chút về quân đội cũng không xong.
Viết truyện tình cũng không yên thân vì Phủ Tổng Thống đã ban chỉ thị xuống cho
các nhân viên kiểm duyệt biết chỉ cho phép yêu như thế nào. Tôi có một thời kỳ
nhận thấy cứ tả hôn môi là bị bỏ nên đành viết đến chỗ chàng-bắt-đầu-cúi-xuống
hay nàng-bắt-đầu-ngửng-lên là ngừng. Một thời kỳ khác tôi nhận thấy nhân vật cấm
không được bàn cả đến vấn đề trinh tiết. Xoay sang viết về chiến tranh Việt-Pháp
trước 1954, cũng bị Kiểm Duyệt bôi xóa… Có lần bực tức quá, tôi nghĩ: “Thôi, có
lẽ cũng đành nghỉ viết cho rồi!”. Tôi đã nghỉ viết một thời gian khá lâu và khi
bắt đầu lại, mỗi khi cầm bút lại tự nhủ: “Cứ viết để đấy, viết cho độc giả năm
năm sau…”.
Nhưng chế độ của hai ông Nhu – Diệm đã sụp đổ sớm hơn lòng mong mỏi. Lợi dụng
khí thế cách mạng những tháng đầu, tôi vội vàng cho đăng những truyện đã chuẩn
bị sẵn. Nhưng thời kỳ cởi mở qua rất nhanh ....2 Các sáng tác của tôi đã bắt đầu xuất hiện
trên các báo với các vết đen ô nhục hay các khoảng trắng mỹ thuật.
Nhưng tôi chưa chán nản như dưới thời Nhu Diệm dù bị va đầu vào một loạt cấm điều
mới: cấm đả kích Viện Hoá Đạo, cấm đả kích Thiên chúa giáo, cấm tố cáo những xấu
xa của nhà cầm quyền, cấm phê bình chính sách của chính phủ, cấm nói động tới
các tướng lãnh... 3.
Tôi chưa chán nản bởi vì một buổi đi làm về tới nhà biết tin một người em họ
khá thân vừa bị Việt cộng bắt không biết sống chết thế nào, tôi chợt hiểu một
điều là tôi và các bạn tôi cần phải có bổn phận phải tiếp tục cuộc chiến đã mở
trên địa hạt văn hóa ít nhất cũng bởi vì nếu miền Nam mất vào tay cộng sản,
chúng tôi sẽ chịu cùng số phận với người em họ kia – chứ đâu có thể đáp phi cơ
đi ngoại quốc sống ung dung như những vị đang tưởng rằng chỉ cần dollar và súng
đạn là thắng được kẻ thù.
Văn hóa trong chiến tranh Việt Nam
Tại các nước có truyền thống dân chủ như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, v.v...
những người cầm bút thường được sử dụng ngòi bút của mình theo lương tâm của
chính họ và dư luận quần chúng. Vì thế, những nhà văn nhà báo tại các nước Tây
phương này có thể được coi như phát ngôn viên cho nguyện vọng nhân dân mọi tầng
lớp trong xã hội. Cũng vì thế, dân mua báo, mua sách và kết quả là những người
cầm bút có một mức sống khá cao và nguồn lợi tức không lệ thuộc vào chính quyền.
Trong những điều kiện ấy, văn hóa (trong đó báo chí là một bộ môn) có thể coi
như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là TỰ DO. Quyền
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận trở thành một thứ quyền thứ tư sau quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Những người hành xử thứ quyền thứ tư này được cả
chính quyền lẫn dân chúng tôn trọng.
Tại các nước theo xã hội chủ nghĩa như Nga Xô, Ba Lan, Trung Cộng, Bắc Việt,
v.v... những người cầm bút phải sử dụng ngòi bút của mình theo chỉ thị của đảng
và giới hạn trong chính sách của đảng từng thời kỳ. Vì thế, họ không phải là
phát ngôn viên cho dân, mà là phát ngôn viên cho đảng. Cũng vì thế dân ít mua
sách, báo và cũng vì vậy, đảng phải bao dưỡng nhà văn qua cơ quan trung gian và
thừa hành là Chính phủ, và hậu quả là nhà văn có mức sống khá cao và nguồn lợi
tức hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa có thể
coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là CHỈ
HUY. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận bị tiêu diệt hay hạn chế tối đa và
những người cầm bút được chính quyền đối xử như những cán bộ đặc biệt và đãi ngộ
xứng đáng. Còn người dân thì thờ ơ.
Như vậy, xét về phương diện thuần túy vật chất và quyền lợi, người cầm bút
trong chế độ dân chủ hay chế độ vô sản chuyên chính, đều được trọng đãi – dĩ
nhiên trong những điều kiện khác nhau. Còn tại Việt Nam và tại những quốc gia
cùng mang thân phận nhược tiểu Á Phi, chính sách văn hóa là gì và những người cầm
bút được đối xử và đãi ngộ ra sao?
Nói tới chính sách văn hóa, cần phải tìm hiểu xem chính quyền ở Việt Nam, từ
khi cựu hoàng Bảo Đại về nước làm Quốc trưởng cho tới gần đây, do thành phần xã
hội nào nắm giữ – bởi vì quan điểm văn hóa biến đổi tùy theo tầng lớp xã hội.
Điều hiển nhiên, nhưng cho tới giờ chưa ai nói ra, là các chính phủ quốc gia kế
tiếp nhau 10 năm nay tại miền Nam Việt Nam đều là do thành phần cựu quan lại và
phong kiến phối hợp với nhau nắm giữ. Đã là cựu quan lại và phong kiến, tất
nhiên họ phải có một chủ trương tiêu diệt hay cản trở mọi phát triển hay sinh
hoạt văn hóa, bởi vì yếu tính của văn hóa từ sau 1930 thường chống lại yếu tính
của giai cấp phong kiến và quan lại. Hậu quả là để duy trì địa vị thống trị của
mình, quan lại và phong kiến đưa ra một chính sách văn hóa tạm gọi là
ngu-hóa-quần-chúng. Chính sách này trên thực tế được biểu lộ bằng những khía cạnh
sau:
- Một chính sách kiểm duyệt khắt khe: Nói chung, quan lại và phong kiến cũ
không cho phép ấn hành một nhận định, quan điểm, biên khảo, không cho phép xuất
hiện một khuynh hướng hay trường phái tư tưởng nào xét ra có hại trực tiếp hay
gián tiếp tới địa vị thống trị của họ.
- Một chính sách bế quan tỏa cảng tinh thần: Các sách báo ngoại quốc chỉ được
nhập nội sau những biện pháp ngăn chặn khắt khe. Không những tất cả những cuốn
sách nào có nội dung hay đề tài về thế giới cộng sản bị cấm, hàng rào “quan thuế
văn hóa” còn cản cả những cuốn có nội dung đi ra ngoài khuôn khổ chính trị
chính quyền đã ấn định.
- Một chính sách văn hóa vị chính quyền: Chỉ nâng đỡ hay ưu đãi những người làm
văn hóa nào hoặc chịu suy tôn chính quyền hay ít nhất cũng chịu im lặng phục
tòng. Bỏ rơi, lơ là mọi hoạt động văn hóa thông thường mà một quốc gia trung
bình phải tìm cách nuôi dưỡng, phát triển không ẩn ý chính trị nhất thời.
Chính sách văn hóa (xin tạm gọi như thế) của chính quyền miền Nam Việt Nam
trình bày trên, đã được áp dụng tối đa dưới sự kiểm soát của Cố vấn Ngô Đình
Nhu. Và hiện nay, dù ông Nhu đã chết, và dù có vài cởi mở đáng kể, miền Nam vẫn
còn được thụ hưởng những điểm chính yếu của thứ chính sách trên.
Hiện nay có nhiều người trách ông Ngô Đình Nhu đã chỉ nghĩ tới địa vị cá nhân
và dòng họ, đã quá chú trọng tới chính trị giai đoạn, v.v. nên đã không để văn
hóa dân tộc phát triển – và như thế là làm hại tới một sinh hoạt có tính cách
trường cửu của cộng đồng xã hội. Những vị này – cho tới nay vẫn nắm giữ những địa
vị then chốt trong chính quyền, khi trách chế độ cũ như vậy, có ẩn ý cho rằng
văn hóa không có ích cho việc tranh đấu chống Cộng hay việc tranh đấu nói tổng
quát. Và ông Ngô Đình Nhu như vậy xét ra cũng có điểm có thể “thông cảm”, v.v...
Sự thực không phải như thế. Sự thực có lẽ chính những vị nghĩ như vậy đã bị ông
Nhu, giai tầng phong kiến và trí thức vong bản phóng thể (tạm dịch chữ aliéné)
mà không biết. Hơn nữa, chính một số trí thức không vong bản còn tự phóng thể lấy
mình bằng cách chấp nhận không xét lại những lập luận của các nhà văn Pháp về sự
không có giá trị chiến đấu của văn hóa. Những bài dịch thuật tham luận, khảo luận
của các nhà văn Pháp về đề tài: “Que peut la littérature” xuất hiện khá nhiều ở
Việt Nam gần đây chứng tỏ. Ít có ai đặt vấn đề lại như sau: Nước Việt Nam nhược
tiểu Á Phi với một chiến cuộc 25 năm không phải là nước Pháp.
Những người chấp nhận luận cứ văn hóa không có giá trị chiến đấu có bao giờ đặt
câu hỏi tại sao các nước cộng sản không những tiêu diệt văn hóa mà lại còn
trọng đãi các nhà văn? Đặt câu hỏi này rồi, vấn đề đặt ra kế tiếp sẽ là:
Chính quyền cộng sản ưu đãi nhà văn là tại họ trọng văn hóa, yêu chuộng nghệ
thuật hay là vì tại các nhà văn chính là những cán bộ rất hữu ích và văn
hóa chính là một thứ vũ khí lợi hại của chính quyền vô sản chuyên chính?
Mở các thánh thư của các đấng tổ phụ của chủ nghĩa cộng sản ra đọc, tìm hiểu mọi
nguyên tắc căn bản quy định cơ cấu tổ chức và sinh hoạt điều hành của các chế độ
cộng sản, thấy có một sự kiện hiển nhiên nữa là không có một khoảng đất nào dù
nhỏ và khuất nẻo tại các nước “xã hội chủ nghĩa”, các cán bộ cộng sản lại chịu
chấp nhận một người ăn rồi ngồi làm những việc vô ích theo quan điểm về lao động
của họ. Vậy khó có thể chấp nhận luận cứ cho rằng cộng sản ưu đãi nhà văn (dĩ
nhiên là những nhà văn không đi ra ngoài khuôn khổ Đảng đã ấn định) chỉ vì họ
trọng nghệ thuật, yêu chuộng người cầm bút. Làm một suy luận đơn giản, sẽ thấy
rằng cộng sản ưu đãi nhà văn, chú trọng tới sinh hoạt văn hóa, chính bởi vì các
người cầm bút là những cán bộ tốt và sinh hoạt văn hóa là phương tiện tốt cho
việc duy trì chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ xã hội
tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ tại quốc ngoại. Nói một cách đơn
giản coi như một vũ khí chiến đấu có hiệu năng ưu hạng. Vấn đề kế tiếp đặt ra
là tại sao văn hóa lại được các lãnh tụ cộng sản coi như là một vũ khí chiến
đấu có khả năng ưu hạng.
Trái với các ngộ nhận của người không cộng sản, chiến trường chính và đối tượng
của sách lược cộng sản là Ý THỨC CON NGƯỜI. Đọc đến đây nhiều người sẽ
không đồng ý bởi vì cho rằng cộng sản “chúng nó vô thần”, “chúng nó duy vật”,
v.v... tất không thể chú trọng tới một cái gì “dính dáng tới tinh thần”. Sự thực
ngược hẳn lại. Người cộng sản thắng chúng ta nhiều hiệp chính vì họ đã hiểu rằng
chiến thắng tùy thuộc Con Người và Sự Chinh Phục Được Ý Thức Con Người. Năm
1938, Mao Trạch Đông, khi ấy còn ở mật khu đối phó với hai kẻ địch Nhật Bản và
Quốc dân đảng Trung Hoa, đã viết như sau: “Trong một cuộc chiến tranh, vũ khí
là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố chính là
người chứ không phải là vật. Tương quan giữa các lầm lẫn không phải chỉ được
xác định là do tương quan giữa những sức mạnh kinh tế và quân sự mà cũng còn do
tương quan giữa những tiềm lực nhân sự và tinh thần con người. Để điều khiển những
sức mạnh quân sự và kinh tế, phải cần đến con người” (trích Trường kỳ
kháng chiến). Hai mươi năm sau đại tá Ch. Lacheroy, chỉ huy Sở Tác động Tinh thần
Bộ Quốc phòng Pháp, tuyên bố trong một hội nghị: “Ở Đông Dương cũng như Trung
Hoa, cũng như ở Triều Tiên và tại các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ
mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. Tại sao vậy? Tại vì những
tiêu chuẩn chúng ta dùng để đánh giá các lực lượng cho tới lúc này, những tiêu
chuẩn cổ truyền ấy, chúng đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải đối diện với một
hình thức chiến tranh mới, mới trong ý niệm và mới trong áp dụng. Đấy là cái
hình thức chiến tranh mà chúng ta gọi là chiến tranh cách mạng”.
Nói đến Ý Thức Con Người, lại sẽ có nhiều người thắc mắc: “Làm sao chống lại,
làm sao diệt được ý thức hệ cộng sản?”. Những người thắc mắc này cho rằng ý thức
hệ cộng sản phát sinh từ vô sản nông công, yếu tính của vô sản nên khó có cách
gì hủy diệt được. Để giải đáp thắc mắc này, bây giờ nếu tôi, người viết bài,
nói rằng vô sản công nông chẳng có ý thức quái gì hết, chắc những thắc mắc trên
không ai chịu tin. Do đó, để đơn giản vấn đề, xin trích dẫn sau đây một đoạn, vẫn
do chính Lénine viết từ 1902 trong cuốn Que faire?: “Còn về chủ nghĩa
xã hội, nó thoát thai từ những lý thuyết triết học, lịch sử kinh tế do những đại
biểu học thức của tầng lớp có của, do những người trí thức. Những người
sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, Marx và Engel, đều là những trí thức
trưởng giả xét theo địa vị xã hội của họ… Ý thức chính trị về giai cấp chỉ có
thể mang đến cho những thợ bên ngoài, nghĩa là bên lề tranh đấu kinh tế và ở
ngoài những tương quan chủ và thợ. Vậy ai đem ý thức chính trị về giai cấp đến
cho người thợ, người vô sản? Những người trí thức ở tầng lớp khác”. Như vậy,
những người trí thức đã đem ý thức chính trị (ý thức hệ cộng sản) đến cho công
nông, nghĩa là đã tạo ra cách mạng vô sản và chế độ cộng sản, thì người
trí thức cũng có thể tiêu diệt ý thức hệ cộng sản, hay mang lại cho người thợ,
người nông phu một Ý THỨC HỆ MỚI chống lại hoặc phá hủy được chế độ cộng sản.
Tất cả những điều đó thực hiện bằng gì? Dĩ nhiên không phải chỉ bằng dollar và
súng đạn. Hiển nhiên là bằng cái mà những người không cộng sản thường gọi là
VĂN HÓA và những người cộng sản thường gọi là TUYÊN TRUYỀN (hiểu theo định
nghĩa của Trường Chinh: “Tuyên truyền thực hiện đến tuyệt đích là văn hóa”).
Xét như vậy, văn hóa nếu biết sử dụng nó, là một vũ khí chiến đấu có mục tiêu
là chinh phục con người và ý thức con người. Vấn đề bây giờ là không nên nói
thêm về phía địch, những kẻ đã đạt tới mức thượng thừa trong việc sử dụng văn
hóa như một vũ khí, chỉ nên xét về phía chúng ta từ sau tháng 7.1954, và nhất
là từ sau 1.11.1963, xem các chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã làm được những gì
trong địa hạt này. Và vấn đề tương lai là làm sao trong một tương lai
không xa lắm, tại một phòng họp tại Pentagone, thống tướng Westmoreland đừng phải
nhắc lại câu nói của đại tá Ch. Lacheroy:
“Ở Đông Dương cũng như ở Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và các nơi khác nữa,
chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất.
TẠI SAO VẬY?”.
Quảng Ngãi tháng Mười
Quảng Ngãi có lẽ là thị trấn độc nhất có bãi cát ven sông
tương tự Hà Nội ở miền Nam sông Bến Hải. Nhiều lần nhìn qua cửa phi cơ, thấy
bãi cát lớn trắng chói êm ả, tôi đã ao ước sẽ có lúc được đặt chân lên nó vào một
mùa lạnh nào đó. Bây giờ mới cuối tháng 10, khí hậu chưa lạnh nên tôi, trong suốt
thời gian lưu lại tại tỉnh này, vẫn không thực hiện được cái thú ngày xưa, cái
thú vị nghe gió rít quanh tai và tiếng cát khô cứng dưới gót giầy.
Thị trấn Quảng Ngãi cuối tháng Mười nắng chói chang, gay gắt trên gáy, bụi trắng
bay từng lớp. Mùa mưa năm nay tới chậm. Người dân địa phương đã nói với tôi:
“Trời không mưa mau, lấy nước đâu mà cấy. Mạ đã già cả rồi…”. Bắt chước dáng điệu
người đối thoại, tôi cũng ngẩng đầu nhìn trời và cũng thoáng lo âu – một thứ lo
âu của một người không ở trong mối tai họa đang đe dọa. Năm ngoái lụt, rồi chiến
dịch lớn của Việt cộng, chiến dịch của ta, bây giờ nếu thêm nạn hạn hán, thì quả
thật người dân tóc bạc này nói đúng: “Trời không thương dân nghèo miền Trung”.
Người dân Quảng Ngãi nói chung khác hẳn những người dân Sài Gòn. Hơn mười tháng
trời phục vụ tại thủ đô, tôi đã quá quen với những thái độ chán chường tiêu cực,
những hành động hư không, những thứ tranh đấu không liên tưởng và không cả nhiệt
tình, v.v... nên khá ngạc nhiên khi biết rõ những người dân xứ Nam Ngãi. Ở nhiều
nơi cát trắng chói đất cằn này, con người dứt khoát hơn với cuộc đời và những
người đồng loại. Không có những vị trí mơ hồ, không có những hiệp hội đoàn thể,
chơi với ai cũng được và thực ra chẳng chơi với ai hết. Bất cứ người dân nào đến
tuổi đi bầu tại Quảng Ngãi, đều gần như đã chọn một lập trường chính trị.
Hoặc họ là Việt cộng, hoặc họ là Việt Quốc… Mà đã Cộng thì là thứ cộng trung
kiên, và đã Quốc thì cũng quốc tới hai ba đời. Và ngay trong nội bộ Việt Quốc,
ai đã thuộc hệ phái A thì nhất định là A, ai thuộc hệ phái B thì khăng khăng là
B. Nơi đây chiến tranh quốc cộng mang hẳn một hình thái cá nhân, một thứ thù
truyền kiếp. Đêm nay Cộng về giết hay mổ bụng hay chôn sống một bí thư xã Việt
Quốc, thì ngày mai căn nhà của anh chàng chỉ huy vụ ám sát đêm trước sẽ bị đốt
ra tro. Việt Quốc thù hằn Việt cộng và ngược lại. Và con người thật là nóng bỏng
như thứ nắng chói chang đang chiếu đến nỗi rằng du kích cộng địa phương đã chôn
sống cả tới những vợ con cha mẹ đối thủ khi họ thắng thế vào mùa mưa vừa qua.
“Giết được một Việt Quốc bằng giết mười chính quy” là khẩu hiệu của Việt cộng
nơi địa phương này.
Làng ta ta về… Trong phòng khách của tòa tỉnh, người thiếu úy bí thư thẳng thắn
trả lời câu hỏi của tôi: “Mấy tháng trước, chúng ta chỉ còn giữ được thị trấn
và vùng phi trường. Chính vì thế tỉnh chúng tôi mới phát động chiến dịch về
làng”. Một thiếu úy khác vạch ba nét tượng trưng cho sông Trà Khúc, sông Vệ và
bờ biển, giới hạn ranh giới khu vực chiến dịch về làng đã thành công.
Anh nói: “Chúng tôi đã đưa được dân hai xã về lấy đất hai xã đông nhất trong tỉnh.
Trong tháng tới, hy vọng sẽ sang miền phía Nam sông Vệ”. Ngày hôm sau, mượn xe
Jeep của sư đoàn, lấy khẩu colt của Duy Lam, tôi nhờ một người bạn giáo sư địa
phương đưa về thăm miền ngoài thị trấn. Sau khi vượt dăm ba cây cầu tạm (cầu cũ
đã bị Việt cộng phá hủy), rẽ vào con đường đất rộng đủ vừa bốn bánh xe; khung cảnh
đột nhiên trở thành quen thuộc. Những ruộng nhỏ có bờ đất, những con đường làng
sát cạnh các lũy tre – hình ảnh của quê hương ngoài Bắc. Dừng chân ở một ấp, một
trưởng đoàn công tác của chiến dịch về làng nói với tôi qua ly trà nóng bỏng:
“Sao thượng cấp không chịu phát cho chúng tôi súng lớn để giữ làng?”. Tôi lảng
tránh câu trả lời dù rằng phát súng cho họ là đưa họ vào đất chết. Có trung
liên đại liên những người dân sẽ chiến đấu đến cùng giữ mảnh đất riêng và trong
nhiều trường hợp, họ sẽ không đủ sức chống chủ lực địch. Thà để đánh bằng lựu đạn
và carbine để rồi phải phân tán mỗi khi địch về đông. Khi cho xe chạy qua một
cây cầu dẫn sang quận Mộ Đức bên kia sông Vệ, tôi hơi ngập ngừng vì vùng này,
theo lời dặn dò của người thiếu úy, khá thiếu an ninh cho một chiếc xe Jeep và
khẩu súng 6 viên đạn. Nhưng khung cảnh quá đẹp làm tôi tiếp tục cuộc hành trình
tìm tới một đoàn chiến dịch về làng đang công tác sát biển. Các cồn cát, hàng
phi lao bắt đầu xuất hiện nhiều.
Sau khi ra khỏi một làng, cảnh sông và bãi cát dưới nắng đẹp rõ từng nét gần
như bất động. Người hướng dẫn chỉ tay bên kia sông, nói: “Quê ngoại tôi ở trong
làng kia…”. Nhìn cảnh người bạn ngồi cạnh, nghĩ tới các người dân lúc nào cũng
tranh đấu chính trị miền này, tôi không chặn nổi một câu hỏi vẩn vơ: “Quê hương
các anh đẹp thế, đáng lẽ phải sản xuất thi sĩ nhiều mới phải…”. Người bạn cười
chỉ cất tiếng nói khi xe len lỏi vào trong một khu vực toàn nhà đổ nát, toàn những
cột cháy đen: “Tụi Cộng tấn công hồi đó đấy!”. Khi tới gần sát biển, tại thôn
An Chỉ, một thiếu úy than thở với tôi: “Anh đừng ngạc nhiên khi thấy tôi không
đeo súng. Đeo, tôi sợ dám bắn chết cán bộ dân chính ba gai lắm. Số ba gai tí
thôi, nhưng bực lắm! Hai trung đội B K của tôi nằm sương phơi nắng ngoài những
cồn cát kia giữ an ninh, các ông cán bộ ba gai lại tà tà, chịu sao nổi!”. Bữa
cơm thô sơ đã dọn ra vì tôi, vì lý do có buổi họp gần kề, rất tiếc không ở lại
được để cùng chia sẻ, với những người đang vì dân chúng đứng đầu gió miền ven
biển đất cằn.
Những Thanh niên Quảng Ngãi trong Ban Chấp hành của lực lượng thanh niên
cách mạng, một đoàn thể tư bao gồm hơn 1.500 đoàn viên, đều rất trẻ.
Đa số dưới 25 tuổi. Họ liên tiếp trình bày về những hiện tượng thối nát tại địa
phương, và sau mỗi sự kiện, họ lại hỏi một câu: “Sài Gòn có biết không?”. Tôi
tránh né một câu trả lời dứt khoát vì trả lời “có” cũng kẹt mà trả lời “không”
còn kẹt hơn. Không gian trong phòng họp đầy nghẹn ngào, đầy uất ức. Tôi cố giữ
khỏi bị chìm đắm vào tình tự ấy. Và tôi đã thành công nếu không phải biết tới
chuyện những bao gạo, bao cá khô, hũ nước mắm mà chính tôi, với tư cách một hộ
tống viên, đã mang ra sau cơn lụt tới miền này.
Trở dậy từ 4 giờ sáng, cài chiếc bi đông nước vào thắt lưng (ngồi cả ngày trên
phi cơ và hộ tống viên ít khi được phi hành đoàn cho uống nước) phóng xe tới cơ
quan theo xe thực phẩm ra phi trường để rồi khi tối mờ mịt mới đặt chân mệt lử
xuống Sài Gòn.
Tôi đã cứ tưởng như thế đã góp một phần nhỏ bé giúp dân cho tới lúc này, khi biết
những liên tục cứu trợ ấy đã lạc đi nơi nào hầu hết trước khi tới tay người dân
khốn khổ.
Khi rời phòng họp, trời đã về chiều nắng đã bớt chói trên cát nhưng tâm hồn tôi
vẫn nóng bỏng. Nóng bỏng bởi những người thanh niên này đã đặt quá nhiều tin tưởng
vào tôi và cơ quan tôi hiện đang phục vụ, khi tôi biết rằng, với tất cả nỗ lực
và thiện chí cá nhân những nguyện vọng của họ chưa chắc đã được thỏa mãn.
Mà nguyện vọng của họ – những người trẻ tuổi kết hợp với nhau dưới đoàn kỳ gồm
tới 7 ngôi sao trên nền đỏ ấy, có là gì đâu. Họ chỉ mong được giúp đỡ phương tiện
để hoạt động xã hội (số tiền trợ cấp của chính quyền địa phương không nhiều) và
nếu có thể được làm những kẻ trung gian chuyển những giúp đỡ của trung ương và
các nước bạn tới tận tay người dân thụ hưởng.
Chỉ muốn giúp dân như thế cũng khó – khó bởi vì giả thử có quá nhiều người thiện
chí thanh liêm thì những kẻ tham nhũng ở cái quốc gia này biết ăn chận để làm
giàu vào đâu. Nghĩ như thế là bi quan quá chăng? Chưa chắc!
Lương đống
Trong xã tắc ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.
Sau khi hai ông Nhu, Diệm chết rồi, kẻ sĩ nước Việt đua nhau phân tích tìm hiểu
các lỗi lầm, các nguyên nhân đã làm tan rã Ngô triều. Người thì bảo tại áp dụng
chính sách sai, kẻ thì bảo tại độc tài gia đình trị, người thì nói tại phong kiến
quan liêu, v.v... Lắng nghe tất cả các phân tích tìm hiểu ấy, sau khi suy nghĩ,
tôi đi đến một kết luận: có lẽ thực ra hai ông Diệm, Nhu thất bại chỉ vì lý do
nhân sự và chính sách nhân sự của hai ông.
Khi hai ông nắm được chính quyền tại miền Nam, xã hội Việt Nam còn là một xã hội
mang đủ thứ tính chất bán phong kiến bán thuộc địa: tại nông thôn, từ cơ cấu tổ
chức tới lề lối sinh hoạt, còn y hệt như một thế kỷ về trước, tại thành thị, từ
lề lối sinh hoạt tới cơ cấu tổ chức, tất cả y hệt như bất cứ một thành phố thuộc
địa nào trên thế giới, nghĩa là có đủ từ một tầng lớp trưởng giả công chức do
thực dân tạo ra để làm trung gian phục vụ đến các thương gia mại bản làm giàu
cũng bằng cách trung gian phục vụ mẫu quốc.
Xuất thân từ hàng ngũ quan lại phong kiến, trước thực trạng xã hội như thế, thật
không nên ngạc nhiên khi hai ông Nhu, Diệm thành lập chế độ là áp dụng một đường
lối cai trị hình thức là tổng thống, thực chất là vua. Và hiển nhiên là thứ chế
độ và đường lối này có thể giúp hai ông duy trì triều đại mình vài ba chục năm,
ít nhất cho tới khi thế hệ mới hai mươi tuổi năm 1954 trở thành các ông già năm
mươi, nếu không phạm lỗi lầm lớn về tôn giáo.
Đã chọn chế độ và thứ đường lối cai trị như thế rồi điều tất nhiên kế tiếp là về
nhân sự, hai ông Nhu, Diệm phải trọng dụng các quan lại cùng viên chức hành
chánh thừa hành cũ do người Pháp để lại. Nghĩ lại quá khứ, tôi thực đã quá ngây
thơ khi đã có thời tự hỏi tại sao Ngô triều lại trọng đãi và sử dụng các quan
huyện, quan phủ, đốc phủ sứ cùng các thư ký, tham sự, thông phán. Với thứ nhân
sự ấy, dĩ nhiên mọi cách mạng, dù là cách mạng tư sản, cách mạng tiệm tiến,
cách mạng nhân vị hay cần lao, v.v... đều không thể có được.
Tài lương đống của loại nhân sự này bất quá chỉ giúp được xã tắc trong cái thời
mà “hai kinh phẳng lặng, bốn phương vững vàng” theo kiểu Gia Tĩnh triều Minh.
Bởi thế khi cộng sản nổi lên, hai ông Nhu Diệm không sao chống nổi, để quốc gia
đi từ bước nhảy… lùi này sang bước nhảy lùi khác. Dĩ nhiên, với một quan thừa
tướng thông minh như ông Nhu, chế độ cũ cũng đã đưa ra nhiều biện pháp đối phó.
Trong địa hạt nhân sự, khi biết Trường Quốc gia Hành chánh huấn luyện lầm đường
(người dân trước đây vẫn thường gọi đùa nó là trường đào tạo các quan huyện mới,
khi biết các sinh viên tốt nghiệp ra không đủ khả năng làm quận trưởng trong
cái thứ chiến tranh gọi là du kích hay cách mệnh này, chế độ cũng đã bắt các
sinh viên phải theo học khóa huấn luyện sĩ quan trừ bị. Nhưng kết quả thu lượm
được không đáng kể. Rút cục, trong suốt 9 năm cầm quyền, hai ông Nhu, Diệm
không tạo được thứ lương đống thích hợp với nhu cầu đặc biệt của đất nước. Hơn
nữa, ngay về lượng, cũng không đáng kể. Nếu xét cho thật rộng rãi, cùng lắm
cũng chỉ khoanh cho chế độ cũ một điểm son về địa hạt đào tạo các chuyên viên,
nạn nhân mãn kỹ sư gây ra tranh chấp gần đây tại khu vực của Bộ Giao thông Công
chánh là một sự kiện chứng tỏ.
Đệ nhất Cộng Hòa sụp đổ, rồi đệ nhị Cộng hòa, đệ tam Cộng Hòa, đệ tứ Cộng Hòa,
v.v... kế tiếp theo nhau thật nhanh. Quá nhanh đến độ không chính phủ nào có thì
giờ nghĩ tới việc đào tạo những cán bộ mới làm lương đống cho xã tắc trong thời
kỳ nghiêng ngửa. Hậu quả đương nhiên là với thứ nhân sự cũ, cách mạng ôn hòa của
ông Thơ, cách mạng dân chi phụ mẫu của ông Khánh đều không thể đưa đến bất cứ một
kết quả nào. Rồi để rồi tới lượt ông Kỳ tuyên bố làm cách mạng xã hội. Nhưng
làm sao mà thay đổi khi không có cán bộ mới thay thế cho cán bộ cũ, lấy đâu rường
cột mới kiểu tối tân để thay thế cho các rường cột cũ đã mục và lỗi thời để xây
cất lại căn nhà Việt Nam. Quân Lực biết rằng với thứ chiến tranh này, chưởng
chính trị cũng quan trọng như chưởng 105 hay B-52, rằng chưởng phản du kích chiến
cũng quan trọng như chưởng chính quy chiến, nhưng thử hỏi đến giờ phút này, các
quân trường đã đào tạo được bao nhiêu sĩ quan đa hiệu để hạ được các chính ủy đối
phương. Bộ Thanh niên Thể thao có thể cũng biết rằng trong cái thời buổi này, vấn
đề chính là làm sao tranh thủ thanh niên với Cộng sản còn để các huấn luyện
viên giữ các chức vụ chỉ huy là lệch hướng. Nhưng tìm đâu ra cán bộ mới, giỏi về
hoạt động thanh niên để thay thế? Từ trước đến giờ, đã có ông Tổng trưởng Bộ
trưởng nào của các chính phủ tiền bối nghĩ tới việc đào tạo cán bộ thanh niên
đâu – xin hiểu cán bộ thanh niên đây là những người được huấn luyện kỹ về chính
trị và kỹ thuật tổ chức đoàn thể cùng động viên thanh niên.
Chính quyền của các Cộng Hòa kế tiếp nhau đã xao lãng việc đào tạo các cán bộ mới
cho quốc gia như vậy, còn thanh niên bên ngoài thì sao? Dĩ nhiên, những kẻ có
ôm chí lớn trong thiên hạ muốn trong xã tắc ra tài lương đống đã cố gắng tự đào
luyện lấy mình. Kẻ thì lấy chiến trường làm trường học, kẻ thì lấy sách vở làm
thầy, kẻ này lấy hoạt động xã hội làm trường thực tập, kẻ kia lấy việc xuống đường
làm vôi tôi thép. Để rồi kết quả tới giờ phút này chẳng lấy gì làm khả quan.
Người lấy chiến trường làm trường học tuy thu được nhiều kết quả nhưng học phí
thường quá đắt và thường chưa chắc sở học đã được đắc dụng vì e “chàng Siêu mái
tóc điểm sương mới về”.
Người lấy sách vở làm thầy thì vì đọc quá nhiều sách Tây, hóa thành déracinien,
cứ mưu toan đem lời dạy của các kẻ sĩ Pháp Lan Tây và Á Mỹ Lợi Ca áp dụng vào
cái xứ thân phận nhược tiểu bốn bề thù địch này.
Người lấy việc xuống đường làm vôi tôi thép thì lại hay tưởng rằng thực hiện được
dăm ba vụ tranh đấu tại thị thành, là mình đủ khả năng trở thành lãnh tụ sau
này.
Người lấy hoạt động xã hội làm trường thực tập lại đôi khi ngộ nhận rằng làm Bộ
trưởng trông coi một Bộ hay việc cai trị không khó hơn tổ chức hoặc điều khiển
một phong trào hay trại công tác xã hội.
Rút cục vấn đề lương đống là thế nào? Tôi chịu không biết trả lời sao vì chính
tôi cũng là kẻ đang đi tìm trường để học mà chưa tìm ra nơi thích hợp và trong
lòng thì đang lo rằng không tìm được ra mau thì chí lớn không về, bàn tay không
e cũng có lúc đựng không đầy hai con mắt mỹ nhân.
Hiện tượng chậm tiến trong bộ máy nhà
nước
Trước khi người Pháp dùng võ lực làm Việt Nam trở thành một
thuộc địa, bộ máy nhà nước tại xã hội xưa có truyền thống bắt nguồn từ Trung
Hoa. Ý hướng chủ chốt của thành phần lãnh đạo là duy trì triều đại một dòng họ
biểu lộ qua sự phát triển và củng cố ý niệm trung quân. Cơ cấu tổ chức tương tự
như của Trung Quốc. Tại kinh đô có triều đình tập trung cả ba thứ quyền: hành
pháp, tư pháp và lập pháp. Tại các địa phương có những quan đầu tỉnh, đầu quận,
đại diện cho nhà vua cai trị dân theo những quy tắc luật lệ phát xuất từ triều
đình. Phương thức cai trị được đề cao là phương thức nhân trị, lấy lễ nghĩa mà
giáo hóa cho dân nhiều hơn là dùng chế tài – chính từ chủ trương này đã phát
sinh thành ngữ quan là “dân chi phụ mẫu”. Về nhân sự, các quan (không kể
các lại là nhân viên thuộc hạ), đa số xuất thân từ đại chúng. Với lề
lối thi cử tuyển chọn trực tiếp nhân tài, dân Việt nào có học thì dù là quý tộc
hay bạch đinh, đều có thể ra làm quan. Cứ ba hay bốn năm tùy triều vua, bộ máy
hành chánh lại được tất cả một số viên chức mới từ đại chúng. Cứ mỗi một thế hệ,
gần như nhân sự của bộ máy nhà nước lại được đổi mới trung bình tới 1/3. Từ dân
mà ra, rồi lấy các quy tắc của Khổng Mạnh mà cư xử và trị dân, những ông quan
thời xưa quả thật đã là những nhà cai trị khá (dù không được huấn luyện về hành
chánh). Nhưng bộ máy nhà nước kiểu Khổng Mạnh này có nhược điểm là nương dựa
trên hai yếu tố MINH QUÂN và TÔI HIỀN. Vua có sáng suốt và thương dân thì các
quan mới khá và ngược lại, các quan có khá thì vua mới dễ trở thành minh quân.
(Trong các triều đình Việt Nam, vua không có quyền tuyệt đối vì có sự hiện diện
của các quan Đô sát Ngự sử và tại nhiều triều vua, thực quyền gần như do các đại
thần nắm giữ). Nói một cách giản dị, sự hay dở của bộ máy nhà nước thời trước gần
như tùy thuộc vào yếu tố nhân sự, nghĩa là tùy thuộc vào đức tính một người (vua) và
sĩ khí của đẳng cấp trí thức trong nước. Vấn đề cơ cấu tổ chức được xếp xuống
hàng thứ yếu. Cũng vì thế khi vua xấu, sĩ phu xuống dốc về tinh thần thì đương
nhiên quốc gia lâm vào một thời kỳ đen tối, và sử chép rằng: “Vua thì ham mê tửu
sắc bỏ việc triều chính, các quan tham nhũng, sưu cao thuế nặng, giặc cướp nổi
lên như ong, trăm họ điêu linh…”.
Trong những năm cuối thế kỷ XIX, người Pháp đã có nhiều lần định thực hiện chế
độ trực trị, sa thải quan lại cũ Việt Nam, tiêu hủy các cơ cấu tổ chức hành
chánh cổ truyền tại Việt Nam, nhất là tại Nam Việt. Nhưng sang thế kỷ XX, với
toàn quyền Paul Bert và vài toàn quyền kế tiếp, người Pháp đã áp dụng một chính
sách khác khôn ngoan hơn. Về nhân sự, họ trọng dụng các quan lại cũ trong khi
chờ đợi đào tạo được các quan lại mới theo tiêu chuẩn ấn định. Về cơ cấu tổ chức
họ duy trì cơ cấu cũ từ cấp huyện trở xuống. Về phương thức tổ chức họ đã theo
một phương thức làm cho bộ máy hành chánh ngược đầu: Tại các quốc gia độc
lập, bộ máy hành chánh được thành lập như thế nào cho có lợi CHO DÂN, CHO QUỐC
GIA. Tại Đông Dương cũng như tại các nước thuộc địa khác, bộ máy hành chánh được
tổ chức SAO CHO CÓ LỢI cho nước thống trị. Nghĩa là không những có các cơ quan
không có ích gì cho dân cho nước (công quản rượu, thuốc phiện, v.v...), tất cả
các cơ cấu khác đều được hướng về quyền lợi của nước thống trị, lấy sự
mang lợi cho mẫu quốc làm tiêu chuẩn chính.
Tháng 8-1945, Việt Minh thay thế người Pháp cầm quyền, hủy bỏ các cơ cấu cũ, loại
trừ các quan lại khỏi các chức vụ chỉ huy, đưa ra một phương thức tổ chức mới.
Vài tháng sau, vì chiến tranh Việt Pháp, bộ máy hành chánh được tổ chức lại cho
thích ứng với công cuộc kháng chiến. Sau 1950, Hồ Chí Minh công khai áp dụng chế
độ xã hội chủ nghĩa theo chiều hướng “tiến tới chế độ cộng sản”, bộ máy hành
chánh được tổ chức lại một lần nữa theo mẫu của Nga Xô và Trung Cộng.
Bộ máy nhà nước của Việt Nam Cộng hòa
Tại miền Nam, cho tới 1954, bộ máy hành chánh là bộ máy cũ do chính quyền bảo hộ
Pháp tạo lập trước kia. Sau 1954, ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, có chú ý tới
việc sửa đổi. Nhưng các sửa đổi chỉ có tính cách chi tiết và hình thức. Do đó bộ
máy hành chánh Việt Nam Cộng hòa hiện nay vẫn giữ đủ các đặc tính chính yếu do
chế độ thực dân mang lại. NGHĨA LÀ:
Về cơ cấu tổ chức
Bộ máy hành chánh vẫn được tổ chức ở thế tĩnh.
Tại Trung ương có các Bộ trưởng, Đổng lý, Giám đốc, Chánh sự vụ với các Bộ,
Nha, Sở. Tại tỉnh có các Ty và Chi. Sở dĩ gọi là tĩnh bởi vì lối tổ
chức này bao gồm các chức vụ ngồi bàn giấy và các cơ cấu có khuôn khổ nhất định
không thuận tiện cho các hoạt động linh động đặc biệt.
Cộng hòa Việt Nam đang phải giải quyết một thứ chiến tranh toàn diện gọi là chiến
tranh cách mạng hay chiến tranh nhân dân, tổ chức chính quyền thế tĩnh không
còn thích hợp. Thí dụ trường hợp sau: Tại thị trấn A, Việt cộng nhân dịp Thủy
quân Lục chiến Hoa Kỳ tới trú đóng, dự tính trong tháng sau sẽ xách động học
sinh sinh viên biểu tình chống Mỹ. Để thực hiện dự định này, Việt cộng tăng cường
cho Tỉnh ủy tỉnh A một đoàn cán bộ đặc biệt để trà trộn vào hàng ngũ học sinh
sinh viên để tổ chức đoàn thể trung lập với chính quyền hoặc thân cộng. Cục An
ninh và Cảnh sát Quốc gia theo dõi, tìm bắt cán bộ Việt cộng loại này thường
thường chỉ đạt tới hiệu năng 50 phần trăm, do đó cuộc biểu tình vẫn có thể hình
thành. Khi cuộc biểu tình hay xuống đường xảy ra dưới hình thức này hay hình thức
khác, Cục An ninh phối hợp Công an lo tìm bắt những kẻ cầm đầu, Cảnh sát phối hợp
với Quân đội lo giải tán. Nhưng dù dẹp được biểu tình, kẻ địch Việt cộng cũng
đã đạt được mục tiêu tuyên truyền hoặc chính trị của họ rồi. Như vậy biện pháp
hay nhất là các đoàn thể tổ chức thiên cộng để lũng đoạn và lôi cuốn họ về phía
Quốc gia. Nhưng lấy đâu ra cán bộ chính trị có khả năng để làm công tác này?
Bây giờ chẳng lẽ gửi về địa phương các giám đốc, chánh sự vụ? Gửi nhân viên cấp
nhỏ hơn thì vô ích vì những người này chỉ là những công chức hành chánh. Hơn nữa,
bây giờ giả thử gởi được chăng nữa thì họ hoạt động theo phương thức, quy chế
nào.
Bộ máy hành chánh không thích ứng với các công tác phối hợp.
Bộ máy hành chánh người Pháp lập ra theo thế tĩnh cũng có lý do chánh đáng: Họ
thiết lập guồng máy cai trị cho thời bình. Thời bình đòi hỏi những phân nhiệm
rõ rệt giữa các cơ cấu, các ngành, các bộ. Bộ Y tế lo chữa bệnh, công tác vệ
sinh. Giáo dục lo việc dạy học, Quân đội lo giữ an ninh quốc nội, chống ngoại
xâm, v.v... Người nào việc đó, cơ quan nào phân vụ ấy cứ thế mà làm, không ai giẫm
chân lên ai cả và công việc công tác sẽ được thực hiện hay giải quyết êm đẹp.
Các công tác phối hợp các ngành gần như không có và không cần thiết.
Hiện nay, cuộc chiến có tính cách toàn diện và thực chất chính trị, địch tấn
công ta trên mọi lãnh vực và trên mọi thứ trận tuyến quân sự, tôn giáo, văn
hóa, kinh tế, v.v... Một chiến dịch địch mở ra tự bao giờ cũng nhằm tối thiểu hai
mục tiêu: mục tiêu thứ nhất là hoàn toàn quân sự nhằm tiêu diệt chủ lực hoặc cướp
vũ khí ta, mục tiêu thứ hai sẽ hoặc là gây một tác động tinh thần, hoặc để hỗ
trợ cho một đợt tuyên truyền, hoặc để yểm trợ gián tiếp cho một phù trợ đòi hỏi
hòa bình với bất cứ giá nào hay đòi trung lập. Trong thời bình, một cây cầu gãy
phải sửa là việc của Bộ Công chánh. Nhưng bây giờ, cây cầu vì địch phá sẽ đặt
ra nhiều vấn đề. Quân đội cần cầu để chuyển quân, Bộ Kinh tế cần cầu đó để chuyển
lúa về thị trấn. Tòa tỉnh địa phương sợ thị trấn bị cô lập với Sài Gòn, công chức
mất tinh thần, vật dụng thiếu thốn. Cây cầu chiến lược này gãy rồi, mọi sự sẽ
diễn tiến như sau: Phải mượn phi cơ USOM của không quân Việt Mỹ để tản thương,
tiếp tế thuốc men, chuyển công văn giấy tờ cùng viên chức quan trọng. Đó là
giai đoạn khẩn cấp. Giai đoạn sau, Công binh tác chiến sẽ cấp tốc làm cầu cho
Quân đội sử dụng – trong khi chờ đợi Ty Công chánh địa phương trình một hồ sơ về
Trung ương để bộ Công chánh lo sửa hay làm lại cầu mới. Trong tất cả các giai
đoạn trên, công tác nào cũng gần như là công tác phối hợp giữa nhiều ngành khác
nhau của guồng máy Hành chánh và Quân đội cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ. Một thí dụ
khác: Tỉnh trưởng tỉnh Bình Định mở một chiến dịch bình định một quận đã bị địch
lũng đoạn. Công tác phối hợp sẽ phải làm ngay từ giai đoạn soạn thảo kế hoạch.
Và khi thực hiện, sẽ có nhiều ngành dân chính tham dự: Cán bộ tâm lý chiến, Cán
bộ y tế, Cán bộ xây dựng hương thôn, v.v... cùng các binh chủng khác nhau của quân
đội.
Những người đã soạn thảo ra những nét chính của cơ cấu tổ chức chính quyền hiện
nay, tất nhiên không thể trù liệu tới thứ chiến tranh toàn diện đang tiếp diễn
ngày hôm nay ở Việt Nam. Hậu quả là nếu cơ cấu tổ chức hiện hành không thích hợp
cho mọi công tác phối hợp, cũng là điều đương nhiên. Ông Ngô Đình Diệm đã cố gắng
giải quyết vấn đề bằng cách đưa quân nhân ra vài cơ quan mới. Các biện pháp này
chỉ là vá víu, không có hiệu năng mong muốn. Gần đây hơn nữa, Nội các chiến
tranh có tổ chức lại sự phân nhiệm, thành lập 5 Tổng Bộ để dễ phối hợp và thống
nhất chỉ huy. Nhưng sự cải cách tiến bộ này mới chỉ ở cấp lãnh đạo tối cao. Còn
từ cấp Bộ trở xuống Nha, Sở cho tới địa phương, chưa có gì thay đổi. Sự phối hợp
vẫn chỉ trông cậy vào một vài văn kiện lẻ tẻ, vào sáng kiến cùng cố gắng của
các cấp chỉ huy trung cấp.
Về thể thức điều hành
Trong thời bình, bộ máy nhà nước được lập ra để cai trị. Công tác quản trị,
điều hành là chính. Trong thời chiến, bộ máy nhà nước là bộ máy chiến đấu
chống địch và tìm cách thắng địch. Hai hoàn cảnh, hai chiều hướng. Chính vì thế,
nhiều quốc gia, khi có chiến tranh, đã thành lập Nội các Chiến tranh, Chính phủ
Kháng chiến, v.v... để có thể ứng phó được với tình thế. Bộ máy hành chánh Việt
Nam, dù có những cải cách mới đây, vẫn giữ nguyên cơ cấu để chiến đấu. Chính vì
thế, trong nhiều cơ quan, việc điều hành hoạt động vẫn theo thể thức có từ vài
chục năm về trước.
Nhiều công chức cao cấp do Pháp đào tạo, thường chủ trương duy trì thể thức điều
hành cũ, viện cớ các thể thức này thuận lợi cho việc cai trị và ngăn ngừa các
tham nhũng. Cớ thứ nhất chỉ hợp lý một nửa vì như đã trình bày ở phần trên, bộ
máy nhà nước hiện nay không những dùng để cai trị mà còn dùng để chiến đấu. Cớ
thứ hai không hợp lý vì các thể thức chi tiêu xuất nhập và kiểm soát tiền bạc
quốc gia hiện nay phức tạp và chi ly đến mức tối đa như từ năm 1954 tới giờ, thể
thức này không hề tỏ ra hữu hiệu trong việc ngăn ngừa tham nhũng.
Về nhân sự
Năm 1954, khi ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ bộ máy nhà nước hầu như chỉ gồm
toàn các công chức hành chánh. Trong các Bộ, sự phân nhiệm các ngành đã có,
nhưng nhân sự vẫn là thứ nhân sự do người Pháp đào tạo và tuyển mộ theo nhu cầu
về cai trị. Như đã trình bày nhiều lần, đó là bộ máy nhà nước được tạo lập để
cai trị và cho thời bình với thứ nhân sự đã được đào luyện cho thứ mục đích đó.
Phân tích ra, thứ nhân sự này có những đặc điểm sau:
* Thuộc từng lớp tiểu tư sản thành thị do chế độ thuộc địa tạo ra
Tầng lớp này mang nặng tính chất phong kiến quan liêu, và theo nhận xét của
giáo sư Nguyễn Văn Trung, họ có “một lý tưởng nhàn hạ, chiêm ngưỡng vô tri,
khinh chê lao động sản xuất, coi việc ăn học chỉ như một lối thoát khỏi sự làm
việc, nhất là sự làm việc mệt nhọc, cực khổ, không có hứng thú sáng tạo và
thích sáng kiến”. Đó là dưới thời Pháp thuộc. Muốn phân tích và xác định đặc
tính của tầng lớp này hiện nay, có thể dùng nhận định của ông Frantz Fanon:
“Trưởng giả Quốc gia lên nắm chính quyền sau khi chế độ thực dân chấm dứt là một
trưởng giả chậm tiến. Trưởng giả Quốc gia các nước chậm tiến không hướng về sản
xuất sáng tạo, xây dựng, cần lao, mà hoàn toàn giới hạn vào những hoạt động
trung gian, chỉ là sợi dây chuyền cho một chế độ tư bản bây giờ phải ẩn giấu dưới
hình thức một thứ chủ nghĩa thực dân mới… Trưởng giả thuộc địa rất sáng suốt,
thừa hiểu không thể kéo dài mãi tình trạng ưu đãi nên họ cố lợi dụng triệt để
khi còn thời cơ. Tinh thần của nó là một tinh thần hưởng thụ...” (Les damnés de
la terre).
* Chỉ được huấn luyện để trở thành nhân viên thừa hành trong bộ máy nhà nước
Hầu hết các công chức cao cấp hiện nay đều do người Pháp đào tạo từ 10, 15 năm
trước. Họ có hai đặc điểm sau:
Chỉ được huấn luyện về địa hạt tạm gọi chung là thủ tục hành
chánh
Chỉ được huấn luyện để làm nhân viên phụ tá hay thừa hành
Có thể chia công chức Việt Nam do Pháp đào tạo ra làm hai loại
chính. Loại thứ nhất, rất đông đảo, chỉ được huấn luyện cho có khả năng hành
chánh để ra làm thư ký văn phòng (dù tên gọi có nhiều và khác nhau,
đi từ thông phán tới tham tá, v.v...). Loại này không được huấn luyện hay hướng dẫn
một chút nào về địa hạt cai trị – có thể coi những viên chức này tương đương với
các lại dưới thời phong kiến. Loại thứ hai, rất ít, được đào tạo ra làm cấp
trung gian thừa hành (quan huyện, phủ, đốc phủ sứ, v.v...) và làm bác sĩ, y sĩ,
thú y, giáo học, lục sự, luật gia, v.v... Gọi là chuyên viên phụ tá bởi vì sau
khi có chuyên môn hầu hết các người này chỉ được phép bổ nhiệm vào các chức vụ
phụ tá trong các ngành hay cơ quan chuyên môn.
Sau khi người Pháp rút khỏi miền Nam, bộ máy nhà nước được trao cho Việt Nam
thì các cấp trung gian thừa hành (huyện, phủ, đốc phủ sứ, đốc sự, v.v...) và
chuyên viên phụ tá, do hiện tượng lấp đầy chỗ trống, đã trở thành cấp lãnh đạo,
các thư ký cũ được lên hàng cấp chỉ huy thừa hành. Tất cả những viên chức này,
vì lý do không được huấn luyện về cai trị, điều khiển nên đã lấy kinh nghiệm
thâm niên thay thế cho sự thiếu căn bản. Những người khá nhất của họ cũng chỉ đạt
tới mức duy trì được sự điều hành thông thường của bộ máy nhà nước thời bình.
Nhưng tình thế hiện nay, như đã trình bày nhiều lần đòi hỏi một hiệu năng lớn
hơn và khác hơn nhiều.
Vấn đề cải tổ cơ cấu bộ máy nhà nước do đó trở thành vấn đề sống còn của Quốc
gia. Nhưng tới nay không có cuộc cải tổ nào, dù chỉ là cải tổ thủ tục hành
chánh, đã đạt được kết quả. Lý do thật giản dị: chính những viên chức có nhiệm
vụ cải tổ lại không muốn cải tổ, bởi vì họ chỉ có thể giữ được địa vị hiện nay
nếu cơ cấu cũ và thủ tục cũ còn nguyên - không ai hiểu rõ hơn họ tất cả các ngoắt
ngoéo hiểm hóc rắc rối của bộ máy hành chánh hiện nay và họ là bậc thầy trong địa
hạt này. Mọi sự thay đổi sâu rộng cơ cấu nhà nước phá vỡ cái khung cảnh hoạt động
quen thuộc cũ sẽ làm họ sợ hãi, vì không còn duy trì được luật “sống lâu lên
lão làng”, sợ hãi vì e phải nỗ lực học hỏi và chiến đấu để duy trì địa vị cũ –
cuộc chiến mà họ ý thức được rằng thiên không thời địa không lợi nhân không hòa
cho họ.
Hiện tượng chậm tiến trong bộ máy nhà nước là như vậy, là đến nỗi cải tổ cải
cách cũng khó thực hiện. Do đó, quả thực là hai chữ không nên nói, viết tới và
những vị lãnh đạo tối cao nào dự tính hay đã dự tính thực hiện cách mạng với bộ
máy công quyền cùng nhân sự của nó, chỉ là những người không tưởng.
Trở lại miền Trung
Căn cứ vào địa thế, miền Trung phân ra làm hai miền rõ rệt:
miền cao nguyên và miền duyên hải. Cách đây hơn một năm, tôi đã từng ở nhiều tỉnh
trong cả hai phần đất ấy và mỗi khi có dịp được nghỉ vài ba hôm, tôi thường sử
dụng hầu hết quốc lộ để trở về Sài Gòn, từ quốc lộ 13, 22 đến quốc lộ 1. Bây giờ
có dịp trở lại các nơi cũ, tôi chỉ có thể sử dụng một phương tiện di chuyển độc
nhất là máy bay. Chỉ xét vấn đề dưới một khía cạnh này, cũng đã thấy tình hình
đất nước miền Trung đã thay đổi ra sao trong một năm vừa qua.
Phi trường Tuy Hòa nằm sát biển, biển thật xanh và những thuyền câu đậu trong
những vụng nước phẳng lặng, những tấm lưới nâu trên cát dưới các hàng dừa lá lấp
lánh hắt ánh nắng… tất cả cấu thành một miền có không gian đẹp và êm tĩnh nhất
miền duyên hải Trung Việt, một không gian bất cứ một người thanh niên nào, mặc
chiến phục hay không, nếu đã có dịp đi qua đều thấy muốn hứa với mình một điều:
Khi nào chiến tranh kết liễu, sẽ mang người yêu tới sống trong một nhà tranh ở
làng chài kia, sáng sớm cũng như hoàng hôn cùng nhau bơi lội trong vụng nước phẳng
như mặt hồ và cát mịn như bột dưới gót chân… Tôi cũng đã từng có lần ao ước như
thế đã từ lâu, nhưng khi phi cơ hạ thấp dần tới đầu phi đạo, không gian đẹp như
một bức tranh Tàu ấy vẫn còn nguyên đó, nhưng thanh bình đã bị thu hẹp nhiều về
cả không gian lẫn thời gian. Một chi đội thiết vận xa đậu cạnh phi đạo, quay
tròn hướng súng ra tứ phương như đoàn ngựa kéo mui trắng của các người khẩn
hoang Mỹ dàn trận chống lại mọi da đỏ trong những phim có đề tài về miền Viễn
Tây. Gió ngoài biển thổi vào mạnh và đều, và đồng hồ mới chỉ 10 giờ sáng, không
khí đã khô cứng như chứa những hạt cát nóng nhỏ làm mồ hôi toát ra và da miệng
thèm chất lỏng mát. Trao bidon nước cho tôi, một sĩ quan bạn trú đóng miền này
chỉ tay về những kiện hàng đang được khuân từ lòng hai chiếc C123 cục mịch xuống
sân bay lát vỉ sắt, nói: “Cái gì thế mày? Cuốc, xẻng… toàn nông cụ. Lại sách vở
nữa… Sài Gòn gửi những thứ này ra làm gì?” Tôi trao trả bidon, những giọt nước
mát đã làm tiêu tan những váng vất của chuyến bay, trả lời: “Mày không trông thấy
những bao cá khô và muối kia à?” Người bạn dùng tay bao quát cả những ngọn núi
phía trong, nói như trách cứ: “Mày không hiểu tình hình ở đây. Dân tị nạn cộng
sản kéo về đầy, họ chỉ cần có gạo. Nhất là đồng bào Thượng, họ ăn ngày một bữa
cháo từ lâu… Cá khô để ăn vã sao?” Tôi nín thinh nhìn chiếc Jeep chạy lại gần,
một thiếu tá ngồi trên nhìn các kiện hàng được xếp lên GMC, rồi hất tay cho tài
xế rồ máy chạy đi. Đám cát trắng bay lên cuồn cuộn. Khi phi cơ cất cánh, tôi
nhìn qua cửa sổ xuống, các đồng bằng thật nhỏ nằm sát chân các dãy núi, khoảng
vàng của cát nóng nhiều hơn vệt xanh của cây cỏ. Tôi đã qua nhiều lần vùng này
bằng xe, tôi biết rằng chưa nơi nào nhiều cầu lớn nhỏ bằng những đồng bằng miền
Trung; người ta quý từng giòng suối nhỏ, không dám làm quốc lộ liền ngăn chặn một
giòng nước ngọt nào. Bây giờ với chiến dịch phá hoại địch mở ra, quốc lộ chỉ
còn là những khoảng rời rạc, tách biệt với nhau. Bão lụt rồi chiến tranh khốc
liệt, đạn của địch, bom của ta và người dân thì ở giữa. Khi phi cơ lên cao trên
lớp mây, tôi hiểu câu nói của người bạn buồn bực dưới kia: cày cuốc không có chỗ
dùng vì đồng ruộng đã là chiến trường, sách vở không ích lợi bao nhiêu vì nhiều
trẻ con đã không thể tới trường. Chỉ cần có gạo… Suốt những miền tôi tới trong
chuyến đi này, nơi nào tôi cũng chỉ thấy có một câu một chữ: Gạo, chúng tôi cần
có gạo. “Trời làm mưa lụt mỗi năm” cũng đủ làm miền này thành “xứ dân gầy” của
Phạm Duy, không cần thêm chiến trận. Người Mỹ, Quân đội Việt Nam, Nội các Chiến
tranh, v.v. tất cả đang nỗ lực đương đầu với kẻ địch cộng sản. Chúng ta sẽ kể
là thắng nếu trong năm tới, phần đất không bom ta đạn địch tăng lớn hơn, số người
dân ăn cháo ít hơn và tại các thị trấn số gái điếm gái Snack-bar giảm xuống.
Chúng ta sẽ kể như là thua nếu trong năm tới, số cày bừa không dùng đến nhiều
hơn, số dân kêu gào bát cơm nhiều hơn và tại các thị trấn, số gái điếm
Snack-bar tăng gấp bội. Thắng hay bại, tiến bộ hay thụt lùi là ở những sự kiện ấy.
Hai thái độ
Từ khi chế độ động viên được ban hành, tôi có một thói quen
là khi mở trang tư nhật báo, tôi tìm đọc ngay mục cáo phó để xem trong ngày vừa
qua, có thêm một người bạn nào tử trận hay không. Đa số những tin tức buồn về bạn
cũ, nhất là về các bạn đồng khóa, tôi thường biết được là qua những dòng cáo
phó này – đôi khi đã xảy ra những trường hợp như có thằng bạn học đã ba bốn năm
nay không gặp, buổi tối biết tin nó đi lính, đeo lon gì, đóng ở đâu đồng thời với
tin nó chết ngày nào và tại nơi nào.
Cách đây vài tháng, một buổi tối ngồi nhà đọc báo, tôi thấy một cáo phó báo tin
một đại úy tử trận, phía dưới tên họ là một vài con số ghi đơn vị ông ta phục vụ.
Đơn vị này là đơn vị chót của tôi phục vụ trước khi thuyên chuyển về Sài Gòn.
Các kết luận đầu tiên tôi rút ra từ cáo phó này là: Tiểu đoàn trưởng cũ của tôi
đã đổi đi nơi khác, đơn vị cũ chắc vừa giao tranh lớn (nên tiểu đoàn trưởng mới
có thể tử trận) và căn cứ vào tin tức chiến sự tổng quát, tôi suy đoán đại khái
ra miền xảy ra đụng độ. (Có lẽ cũng vì e kẻ địch cũng suy đoán được như thế và
hơn thế để phối kiểm tin tức, nên Quân đội đã cấm đăng cáo phó ghi rõ cấp bực
và đơn vị của quân nhân chăng).
Các kết luận và suy đoán trên chưa làm tôi lo lắng cho những đồng đội cũ, bởi
vì cũng rất có thể viên đại úy kia tử trận vì bị bắn sẻ hay bị phục kích – và
như vậy chỉ liên quan đến riêng cá nhân ông ta. Hai hôm sau, một buổi sáng dậy
sớm ngồi uống cà phê tại quán “Lão Tử” cạnh một hiệu phở nổi danh đợi tới giờ
vào sở, tôi tự dưng thấy người ngồi cạnh reo lên kéo ghế mời một đại úy mới bước
lên hè. Một câu hỏi thân mật làm tôi chú ý: “Sao? Tưởng toa bỏ xác ở Đ. rồi chứ.
Tụi chúng bảo tiểu đoàn toa bị tiêu diệt kia mà!”. Viên đại úy trả lời liên tiếp
làm tôi hiểu rằng ông hiện là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn của tôi cũ, rằng các kết
luận suy đoán của tôi hai hôm trước là đúng, rằng chính ông thoát chết chỉ bởi
vì đi đợt trực thăng chót tới chiến trường, phi công thấy hỏa lực địch đàn áp
toàn diện nên đã không đáp xuống. Tôi quay sang, tự giới thiệu và hỏi thăm trận
đánh cùng tin tức bạn cũ. Sau cùng, khi biết có một thiếu úy về nằm Cộng Hòa,
tôi lập tức đến sở xin nghỉ buổi sáng để đi thăm.
Tới cổng Tổng Y Viện, điếm canh không cho vào vì tôi mặc thường phục và vì luật
lệ chỉ cho phép thăm thương binh buổi chiều. Tôi xuống nước năn nỉ viên trung
sĩ điếm trưởng nhưng không có kết quả bởi vì “luật lệ là luật lệ”. Tôi bèn châm
một điếu thuốc rồi xin phép được ngồi đợi một sĩ quan quân y bạn – kinh nghiệm
nhà binh cho biết rằng vấn đề nào cũng đều có giải pháp, giải pháp hay hay giải
pháp dở, miễn là kiên nhẫn chờ đợi và tìm tòi. Năm mười phút sau, một thiếu úy
nhảy dù phóng xe scooter vào bị cản lại cùng đòi xuất trình sự vụ lệnh. Anh ta
không có sự vụ lệnh và trình bày rằng anh là sĩ quan ban 5 thuộc tiểu đoàn dù vừa
bị thiệt hại nặng tại Đồng Xoài, bây giờ vào thăm thương binh tiểu đoàn để lo
các công việc thuộc phần vụ của anh. Chẳng biết quan điểm hai bên thế nào, vài
phút sau giữa điếm trưởng và sĩ quan dù có sự to tiếng. Sĩ quan trực được triệu
thỉnh, đó là một vị cao tuổi, tóc tiêu muối, dáng điệu có vẻ nghiêm khắc. Cuộc
to tiếng bùng lớn hơn, và tôi nghe thấy thiếu úy dù kêu la đại khái anh đến đây
không phải đi chơi, rằng quân tiểu đoàn anh thiệt hại thế nào, đau đớn ra sao
mà bây giờ mang luật lệ thành phố ra gây khó khăn, v.v... Cơn tức của anh làm lời
nói đi xa hơn nữa, anh nói luôn tới những bất công những người cầm súng phải chịu
cho một hậu phương thế nọ thế kia, anh nói tới những tủi nhục của những người
đã chết và bị thương cho những v.v... và v.v...
Mọi sự đến đây thực đã vượt khỏi thẩm quyền giải quyết của những người hiện diện.
Sau cùng, thượng cấp tại quân y viện giải quyết bằng cách cho thiếu úy dù vào
nhưng phải để xe ngoài cổng. Biết thời cơ đã thuận tiện, tôi lại tới bàn giấy
xin vào một lần nữa, và lần này viên điếm trưởng cho vào ngay. Tôi và người bị
thương trước kia đều là trung đội trưởng của cùng một đại đội. Anh xuất thân hạ
sĩ quan, tốt nghiệp trường Nha Trang, người thấp và chắc như cối đá. Tính nết
hiền lành và trầm tĩnh. Trong suốt thời gian gần anh, tôi chỉ thấy anh lộ vẻ lo
lắng thực sự có một lần: lần vợ anh lên thăm tiền đồn bọn tôi và bị Cộng chặn
đường về.
Khi bước vào phòng bệnh, tôi thoáng tưởng đã nhầm chỗ bởi vì không thể tưởng tượng
anh bạn to chắc ngày trước lại có thể gầy tóp đi như vậy. Bằng một giọng yếu ớt,
anh cho tôi biết rõ tình hình và tôi cảm thấy như có một nỗi nghẹn ngào đâu đây
khi… 4 Không muốn để những hình ảnh cũ lấn át,
tôi xoay sang hỏi về trường hợp thoát nguy của chính người nằm đó. Bằng một giọng
vẫn yếu, anh kể lại trận đánh. Hầu hết cấp chỉ huy của các đại đội đáp đợt trực
thăng đầu đều bị loại ra khỏi vòng chiến [tlw1] 5… Riêng anh, vừa nhảy ra khỏi trực thăng, địch
bao vây bắn đạn thành lưới. Lăn vài vòng ngửng đầu lên thấy cách vài thước một
khẩu đại liên địch đang nhả đạn, anh thẩy một trái lựu đạn phá hủy được ổ súng
địch nhưng bị một binh địch nấp trên mái nhà kế cận bắn một phát xuyên từ ngực
ra sau lưng. Anh kéo ngực áo cho tôi xem vết thủng và cười: “May là đạn
carbine, nếu đạn MI thì tan ngực rồi!” Anh tiếp tục kể, và theo các câu nói,
trí tôi lần theo cuộc chiến…6 Khi thoát khỏi vòng vây, anh bị địch chém
cụt ngón tay. Máu chảy khắp lộ trình, mỗi lúc quá mệt ngồi tựa gốc cây thì kiến
ngửi thấy hơi máu, kéo đến bu kín. Thế rồi anh cũng trở về tới cứ điểm cách chiến
trường 7 cây số đường rừng cùng những người lính mệt nhoài… Khi anh ngừng nói,
tôi cũng không nói gì. Khi tôi đứng dậy cáo từ, anh giơ tay bắt và nói: “Cám ơn
anh!” Một nỗi xao xuyến lẫn hối hận làm tôi vội vã đáp: “Chính tôi phải cám ơn
anh mới đúng… Anh đã chiến đấu thay cho tôi…” Trên đường về sở, nỗi xao xuyến
hiện rõ hơn làm tôi buồn rầu. Thoáng đâu đây một chút hối hận, hối hận vì đã
không có mặt với những đồng đội cũ trong những giờ phút lâm nguy ấy. Khi tìm
cách về Sài Gòn, tôi biết rõ tôi muốn gì, biết rõ rằng với khả năng của ngòi
bút, sự đóng góp của tôi ở hậu phương có ích hơn sự đóng góp của một thiếu úy
ngoài đơn vị. Tôi đã cố gắng tối đa trong trận tuyến mở ra tại địa hạt văn hóa
và cũng đã đạt được vài kết quả khả quan.
Nhưng cũng nhiều khi, như buổi sáng này, nỗi xao xuyến và buồn bã ấy vẫn tới
làm tôi hoang mang, mất tự tin ở thái độ đã chọn lựa của mình. Trạng thái này
nguyên do từ tình liên đới hay có thể do một nguyên do gì khác nữa, tôi không
biết rõ, nhưng nó làm cho tôi cảm thấy rằng ngày nào tôi còn ở hậu phương, tôi
phải tìm đủ đường đủ cách để phục vụ với hiệu năng tối đa. Có như thế họa chăng
mới hy vọng tới lúc tôi có thể hoàn toàn tự tin để nói với những người như anh
bạn kia rằng: Đừng cám ơn nhau. Chúng ta đều đã cùng chiến đấu, mỗi kẻ trên địa
hạt đã chọn lựa hay bị phải chọn lựa…
Những tác phẩm đã xuất bản của Thế Uyên tính đến 1966: Những
hạt cát, tập truyện, Thời Mới xuất bản lần 1 và 2; Mưa trong sương, Kịch,
Thời Mới xuất bản; Ngoài đêm, Tập truyện, Nguyễn Đình Vượng xuất bản; Mười
ngày phép của một người lính, Thái độ I, Nam Sơn xuất bản; Những ý
nghĩ của bọt biển, Thái độ II, Nam Sơn xuất bản. Sẽ xuất bản: Nỗi chết
không rời, Tập truyện viết chung với Duy Lam; Tiền đồn, Truyện dài; Chiến
tranh cách mạng, Tiểu luận.
Chú thích:
1 |
“Những kẻ sẽ chết chào Ngài”: công thức của những tay giác đấu thời La Mã chào hoàng đế trước khi vào đấu trường. (Chú thích của talawas) |
2 |
Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas) |
3 |
Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas) |
4 |
Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas) |
5 |
Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas) |
6 |
Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas) |
Thế Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét