Con quỷ truyền kiếp 2
Chương 9. ÂN XÁ MỘT LẦN… HAI VẠN SÁU NGÀN NĂM VÀ HAI MƯƠI SÁU
NGÀY
Bốn người thong thả đi xuống dãy phố đầu làng. Trời lạnh đã dần
dịu. Gió thổi chỉ thoáng nhẹ, đẩy dồn những dải sương mỏng phớt trong thung. Từ
lối đi trên này trông xuống, thấy mập mờ những lớp nhà nhỏ ở sau những khu vườn
lưa thưa. Bên kia xóm làng, vì đồi núi cản đường, lớp sương mù chập chờn bay trở
lại.
Bốn người khiến mấy con chó ngồi lại trong xe rồi cùng tiến lên lối đi có những
tấm bia mồ xây hai bên cạnh; lối đi dẫn đến cửa nhà thờ. Nhà thờ dựng trên một
khu đất cao như gò, cây mọc chung quanh sầm uất và cách xa làng xóm năm trăm
thước.
Trong một miền như ở đây, không hiếm gì những cảnh thi nhân đã tả. Người ta thường
thấy “những nhà thờ cô tịch, bé nhỏ ở nơi bờ cát, nguyện cầu cùng đấng đã dựng
nên các núi non”. Kiến trúc không rõ theo một lối nào, cửa phần nhiều nhà thờ
xây kiểu gô-tích, lòng nhà thờ theo kiểu cổ điển bản xứ và những hàng lang trở
lại theo kiểu normand.
Nhà thờ Dannow này lại ra vẻ một cái nhà kho nghèo nàn, duy chỉ có những ngôi
lăng mộ nguy nga của dòng họ Hammond làm cho có bề thế. Một vùng bóng tối sâu
thẳm lạnh lùng. Swanhild thắp đèn lên soi, còn Luna lặng lẽ và trang nghiêm thì
khởi công xem xét. Dải ánh sáng mỏng manh ở chiếc đèn chiếu qua một lượt những
tên khắc trên đá lấp lánh rồi lại lần lượt biến ngay. Và lần lượt hiện lên tượng
người Thập tự binh trong khung ổ(1) ([Một khoảng trống đục vào bề dày của bức
tường, để đặt những pho tượng]), rồi những hình tạc ở dưới đất, và trên tường –
những tường đá họa chân dung Warlock và bà vợ – hiện lên giữa sự quang vinh lộng
lẫy những nét chạm trổ uốn éo cùng những biểu hiện thếp vàng. Rồi đến cái bàn
thờ nhỏ trong bóng tối hiện ra với bản chép lai bức tranh dầu của James Clarek
cùng một tấm bia ghi nhiều tên họ ở giữa những sự vinh hạnh của những hình lá kết
chung quanh.
Luna không nói qua một tiếng, bao nhiêu chăm chú dồn cả trên đôi mắt mở to. Cô
đi dạo một lượt khắp lòng nhà thờ, dừng gót trước bàn thờ rồi lại đến đứng trước
bức hình tạc nổi mà Swanhild đã nói trước. Cô tỉ mỉ đưa ngón tay sờ theo các
nét tròn rũa ở mình cái vật nằm dưới chân người Thập tự binh.
Cô thấp tiếng xuống nói:
- Kỳ dị lắm!
Nói rồi Luna lại chăm chú xem xét. Cô trầm ngâm trước tấm biển đồng nhỏ gắn vào
mặt tường: trên biển khắc tên Reginald Hammond, mệnh chung năm 1918.
Đoạn cô ta quay lại nói:
- Ta thử đến xem bức chân dung cụ ẩn tu xem có biết thêm được gì về bốn chân của
con vật kỳ dị này không, đi!
Bức chân dung khắc trổ trên một phiến đá đóng kháp liền mặt đất. Goddard kéo tấm
thảm che trên mặt phiến đồng lên thì thấy lộ ra một người mặc y phục thầy tu;
dưới chân người ấy là một con vật dị kỳ không thể mô tả được. Bên dưới đó là một
câu giải thích không còn đọc rõ được những gì. Trông con vật thì thì cái đầu gần
giống như đầu chó, mõm dãi và hai tai vểnh. Mình nó thon ở phần lưng phía bụng,
cái đuôi uốn vòng khúc rắn có một túm lông ở tận cuối như thường thấy ở đuôi những
ma quỷ vẽ trong các bức tranh.
Luna quỳ xệp xuống, lấy ngón tay lần theo các đường nét khác. Cô bảo những người
đi theo:
- Con vật này xem ra như có bốn chân. Xưa kia, những tài liệu về vạn vật thường
thiếu sót, không được rõ rệt, các họa sĩ ngày trước chỉ hay lấy kiểu giống chó
dùng vào tác phẩm mình. Song, ở đây, cái đuôi thực lạ lùng, mà những cái chân
kia, thì… Hừm! Thực là khó hiểu quá!
Oliver và Swanhild theo cô đến xem chỗ mộ đá táng Warlock. Ở đấy, sừng sững hai
bức tượng vị ẩn tu và người vợ, mặt mày nghiêm nghị, y phục cứng thẳng, bàn tay
chắp lại trong dáng cầu nguyện đã từ bốn thế kỷ nay. Swanhild bảo Luna để ý
nhìn cái hình một đứa bé nằm trên một cái sọ người chết.
Oliver giảng:
- Theo lời người vùng này, đứa bé là một trong những kẻ bị thí mạng cho quỷ
Satan. Nhưng chính thực ra thì đây là một đứa con của Warlock. Kìa, cô đứng dậy
đi! (Chàng thấy Luna đang vừa quỳ vừa lê gối để xem kỹ những phiến đá lát dưới
phần mồ). Cô đừng quỳ như thế nữa!
Cô ngoảnh lên, mỉm cười:
- Tôi thử tìm xem có một đường nào để trong mồ này được không.
- Trời ơi! Chẳng lẽ cô lại cho rằng ban đêm Magnus ở trong này ra ngoài được
sao?
- Tôi chỉ không coi thường các điều trong những truyện truyền lại.
Cô gấp gối ngồi tì trên gót rồi mở túi lấy cái cành cây ra. Nhưng không thấy nó
động đậy. Cô đứng lên nói:
- Cụ ẩn tu lúc này xem chừng được yên nghỉ.
Swanhild chỉ những hàng chữ trên tấm bia mồ bảo cô:
- Thế kia thì cô có dám chắc ông cụ được yên ổn thực không?
Tấm bia ghi tên Warlock và tên vợ cùng với ngày tháng hai người mệnh chung:
ngày 8 và ngày 10 tháng hai năm 1526. Và phía dưới những hàng chữ này:
Ân xá đọc năm kinh Pater (Lạy cha) và năm kinh Ave (Kinh mừng) và một kinh
Credo (Tin kính) là hai vạn sáu ngàn năm và hai mươi sáu ngày.
Swanhild cắt nghĩa thêm:
- Hai vạn sáu ngàn năm với hai mươi sáu ngày lửa luyện tội(1) ([Một nơi hành phạt
hữu hạn những linh hồn có tội trước khi được lên thiên đàng, khác với hỏa ngục
là nơi hành phạt, vĩnh viễn (Gia tô giáo).]) ân xá cho kẻ nào đọc những kinh
này để chỉ cho linh hồn ông cụ bà cụ.
Luna gật đầu:
- Vâng, quả có nhiều ý tứ trong lời đó thực.
Oliver hỏi:
- Nhưng cô có tin rằng cách ấy có được như nguyện gì không?
- Một lòng tin tưởng chí thành bao giờ cũng được như nguyện, nhưng tôi không
tin ở hiệu lực cái lời hứa tiền trao cháo múc. Dẫu sao, những lời ghi trên bia
này cũng kỳ dị, bởi lẽ rằng hồi ấy, một ân xá lâu dài đến thế là một việc bất
thường. Chẳng biết ông cụ Warlock đã phạm một tội ác nào đến nỗi phải dụ người
sau bằng một câu hứahẹn tốt đẹp đến thế để mong chuộc tội.
Swanhild nhắc:
- Hay tại cái chết của bà vợ và của đứa con.
Luna bĩu môi lắc đầu. Đôi mắt nàng lại long lanh như trước. Mớ tóc sáng với
khuôn mặt linh động của nàng nổi lên trên màu xám mờ của những phiến đá mà nàng
đang tựa lên với một vẻ trầm ngâm. Tiếng nàng nói vang lên trong bầu yên lặng.
- Cụ Warlock sinh ra đời, con quái vật cũng đã làm được nhiều tội ác từ trước rồi!
Vậy ông cụ không phải chịu trách nhiệm nào về những việc xảy ra sau hồi đó, những
việc xem ra không thể nào tránh được. Ông cụ sau này vốn là người có gan khinh
thường phép đạo đến nước đã dám học tập làm những tà thuật mà hội thánh vẫn
nghiêm cấm; ấy thế mà phải kêu cầu lấy sự ân xá, thì tất nhiên ông cụ tự biết
mình đã phạm một thứ tội nào khác, một tội có tính cách khác hẳn kia!
Swanhild vội hỏi:
- Thế, nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là… cái bia này làm chứng rằng, những lời người ta bảo cụ Warlock thí
nhiều mạng người để cúng con quái vật, không phải là những lời nói ngoa. Nếu ta
cứ chỗ ấy mà tìm được manh mối về việc này thì chắc ta đã dò la được con đường
chính của sự bí mật.
Goddard gặng:
- Nếu tìm được?
- Phải, nếu tìm được. Thế mới phiền!… Vì theo những điều các ông cho tôi biết
lúc nãy, thì trong cái phòng giữ kín cũng không còn mấy tí những vật giúp ích
cho ta, phải không?
- Vâng, tôi tưởng cũng không còn mấy. Nói tóm lại, cô cho rằng con quái vật chính
là một con quỷ mà cụ Warlock phụ lên rồi cứ thế mà thành hình sống mãi cả sau
khi cụ Warlock chết đi phải không?
- Ấy là theo lời tục truyền thì như thế đấy. Dù sao, sự cầu van xin ân xá ý
nghĩa vẫn rành rành ra đấy, mà cái bức ảnh tượng kia thì…
Nàng ngừng lại, đưa mắt về phía giữa nhà thờ.
Sanhild lo ngại hỏi:
- Thì sao kia? Cô thấy điều gì đáng quan tâm trong đó?
- Một điều mà tôi không thể hiểu được. Lúc nãy tôi không muốn bận trí về điều ấy
vội, tôi hãy trở lại xét việc cụ Warlock xem đã. Chẳng biết ông cụ đã phạm thứ
tội ác quái gở nào đến nỗi phải cần ân xá cứu chuộc? (Vừa lẩm bẩm nói, cô vừa
nhìn bức tượng ở ngôi mộ). Ông cụ không có vẻ độc ác, trông chỉ nghiêm nghị là
cùng. Dù sao, xem chừng ông cụ vẫn được yên nghỉ, mà đã thế thì…
Swanhild, là người khôn lớn trong cái nơi người ta tin tưởng rằng “người chiến
sĩ can trường vẫn được hưởng ít nhiều sự xá tội”, thấy vậy liền cãi:
- Ông cụ đã đánh trận ở Bosworth, giữ chức hiệu cờ cho vua Henry thứ VIII, và
được phong hiệp sĩ trên chiến trường. Cô trông kia kìa, mũ giáp và gươm của ông
cụ treo trên tường kia.
Oliver ôn tồn:
- Ồ! Swan! (Giọng chàng có ý trách móc) Swan! Miss Bartendale mà đã cho rằng cụ
Warlock là người phạm tội ác, thì hẳn sự thực quả có như thế.
Luna cũng cãi:
- Không đâu, tôi có nói thế đâu? Song chắc hẳn trong cái hồi từ lúc chiến đấu
oanh liệt ở Bosworth đến ngày ông cụ mất, ông cụ cũng có làm những chuyện phù
phép tai hại. Thời đại thứ nhất của triều Tudor, cũng như của triều Windsor, việc
đáng ghi nhất trong lịch sử hồi ấy là sự tiến triển trí thức rất mạnh. Nhiều bậc
thông thái uyên bác đã khám phá được nhiều cái bí mật của hóa công. Bên họ, có
những trí thức khác, trong óc chứa chất những chuyện ma quái, đâm đầu đi làm những
việc kinh khủng độc ác của thời đại cổ. Ngày nay ta không thể tưởng tượng được
cái học pháp thuật đã quyến rũ những bậc thượng lưu trí thức tới mức nào. Mà một
con quái vật do một nhà pháp sư dựng thành hình trên trần gian có thể sống mãi
được lắm và có thể quấy nhiễu con cháu nhà pháp sư sau này… Cô vừa bảo rằng cái
mũ này là của cụ Warlock phải không? (Cô đến bên, đưa ngón tay lên mặt sắt nổi
u và nói tiếp). Mục đích của tôi là tìm thấy chuyện giữ kín của con người đã đội
cái mũ này đây.
Oliver :
- Nhưng Warlock chết đã bốn trăm năm rồi kia mà!
Luna đáp:
- Bốn trăm hay bốn ngàn cũng vậy, cũng không có gì đáng ngại khi đã là việc làm
cho hai linh hồn người ta giao tiếp với nhau.
Swanhild hỏi:
- Thế ra cô định gọi hồn ông cụ về sao?
- Không đâu, cô em ạ. Tôi không hề bao giờ nhúng tay làm cái trò chơi cổ xưa và
nguy hiểm là ngồi trong một buồng tối mà đợi thấy một bóng hiện lên. Bây giờ ta
thử vào trong cái phòng bí mật xem có thật quân lính của Cromwel ngày xưa không
còn để lại cái gì đáng chú ý nữa không nào.
Lúc đi qua, Luna lại đưa mắt nhìn các bức hình khắc ở giũa nhà thờ rồi để mặc
Oliver với Swanhild cứ ra trước, cô quay trở vào xem xét bức hình lại một lần nữa.
Được chừng một phút cô cũng ra theo và đi ở giữa hai người. Cô có vẻ mệt nhọc
nên hai người không dám hỏi câu nào. Bỗng cô lẩm nhẩm nói:
- Khiếp! Trời rét quá đi mất!
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau. Họ nhận thấy giọng nói Luna nhỏ yếu đi, như là vừa
gặp một sự kích động mạnh. Trong cái khoảng mấy giây đồng hồ cô trở lại xem bức
hình khắc kia, cô đã nhận rõ những điều gì mà đến nỗi biến đổi hẳn người như thế
được?
Chương 10. "BÀN TAY DANH VỌNG"
Mấy người đi tới khu lâu đài Dannow thì sương mù đã tan hết.
Lá leo trùm phủ khắp nơi như một bức khăn liệm u buồn. Từ những ống cao trên
mái lầu, khói lò sưởi đưa lên uốn éo vòng vèo dưới bầu trời nhạt sắc. Hào nước
men chân bốn phía tường vây, mọc lên đầy rẫy những cỏ cằn.
Trước khi qua cầu treo, Swanhild đỗ xe lại. Oliver chỉ tay một khóm thông cao đứng
che khuất một phần lâu đài và bảo Luna:
- Cái phòng bí mật ở ngay sau rặng thông kia đấy. Nếu trời không ẩm lạnh tôi sẽ
đưa cô xuống xem và cô sẽ thấy cái cửa sổ có song sắt.
- Thế ra đứng ngoài cũng xem xét được căn phòng ư?
- Không. Vì tường dầy những hơn một thước, mặt tường ngoài cũng như mặt tường
trong đều đục một khoảng để làm cửa sổ, nhưng không đục xuyên thẳng: khoảng
khung cửa sổ phía trong không đối diện với khung bên ngoài nhưng chếch hẳn
nhau. Cả những khi trong phòng thắp đèn, bên ngoài chỉ trông thấy được một tia
sáng thôi.
Lúc đó trong phòng Holbein, lão Walton đã dọn sẵn mấy món điểm tâm và đốt sẵn
lò sưởi; mọi người quây quần quanh lửa ấm trong lúc người lão bộc đi lấy chìa
khóa để rồi sẽ mở những nơi cần vào thăm. Oliver xem qua các món ăn và cười:
- Mụ nấu bếp với người lão bộc nhà này thực là những vị phúc tinh! Những món
này chính là những món ăn tôi thèm hôm nay đây! Từ lúc tôi thức dậy đến giờ,
các bác ấy sao mà cố công săn sóc đến tôi một cách dễ chịu đến thế? Có lẽ họ sợ
rằng tôi trốn mất để đi thắt cổ tự tử ở đâu chăng?
Swanhild trách:
- Khiếp! Anh Oliver! Anh chỉ nói dại!
- Chứ không ư? Mà cả đến cả cô nữa, miss Bartendale ạ! Tôi thấy cô cứ chốc chốc
lại để mắt coi chừng tôi một lúc lâu.
- Cái đó có gì là lạ? Thế ông chẳng đã bảo tôi rằng ông với tôi trước kia đã từng
gặp nhau đấy sao? Tôi có ý nhìn ông để cố nhớ xem gặp về dịp nào. Mà kìa, chìa
khóa đây rồi!
Họ cùng nhau đi vào nơi cổ nhất của lớp dinh thự; mấy con chó thong thả đi theo
sau. Goddard soi đường. Oliver vì hai tay không cử động được dễ dàng nên để phần
cho Swanhild việc mở các cửa.
Đi hết một đường hành lang, nàng vặn một thứ khóa ổ riêng, rồi đến một chiếc
khóa móc giữa then cánh cửa sắt. Cửa mở, hơi thấp lạnh ở trong ùa đến tận mặt họ.
Vì dù là giữa mùa nực, cả một phần lớp dinh cơ này vẫn giá ngắt cùng với những
đường khúc khuỷu, những bức tường ẩm sũng: những rầm gỗ mốc thuếch, những mặt
vách chốc lở, những cửa sổ chằng mạng nhện và những đường bậc lung lay.
Tới một lối hẹp lát đá, Luna nghe ngóng và nói:
- Ô này! Ở đây có tiếng nước chảy.
Một cánh cửa sắt nữa quay trên trục han rĩ. Tiếng róc rách nghe rõ hơn lên. Dưới
bước cửa, trong một hỏm tối mò, ánh đèn của Goddard chiếu tới một làn phẳng đen
sì và lay động.
Oliver giảng giải:
- Đây là chỗ trữ nước để tháo ra các hào. Goddard, lại đây! Đến chỗ rẽ tay phải
rồi.
Trong một góc có một cánh cửa lẩn vào giữa bề tường dầy. Oliver bảo mọi người:
- Phải cẩn thận đấy. Không khéo chỗ này có phiến đá long cũng nên.
Goddard dẫn đầu, bước xuống những bậc gỗ sến ghép rất xấu. Luna vừa toan bước
theo, hốt nhiên rùng mình lùi lại, mặt tái mét, mắt mở trừng trừng. Goddard lo
sợ hỏi:
- Kìa, cô làm sao thế?
Cô thấp giọng đáp:
- Có cái gì dưới ấy chứ chẳng không.
Swanhild tiến đến cạnh Luna, nhưng đôi mắt rèm tơ vàng của nàng yên lặng Luna
chăm chú nhìn con chó Roska nó nhìn lại nàng ra chiều đồng ý. Con Alex thì
không hiểu biết gì. Oliver vừa nói được nửa chừng câu:
- Giá cô đừng nên…
Nhưng cô đã bước xuống. Chàng đành phải xuống theo và sẵn sàng cái cánh tay
không bị thương của mình để chống với những việc có thể bất kỳ xảy tới.
Một lát sau, mọi người đều đã vào cả trong căn phòng bí mật. Luna đứng bên cạnh
cái bàn gỗ sến ở giữa phòng, nói:
- Trong này vẫn còn một sức ác hại làm chủ. Song ngay bây giờ thì nó chưa làm hại
được ta. Đó là một việc ở ngoài sự thường, nhưng không phải là một sự phi thường
với cái đại danh quan trọng của nó, không phải là cái phi thường viết bằng chữ
hoa.
Swanhild hỏi ngay:
- Thế có thuộc vào cái thế giới u linh “chiều thứ năm” kia không?
- Quyết là không! Nếu phải thì hai con chó kia đã cảm được thấy. Vậy mà chúng
nó vẫn đứng yên có tỏ ra vẻ gì khác đâu?
- Thì con Holder ở trong rừng cũng vậy, tôi không thấy nó báo trước sự gì.
Luna Bartendale lẳng lặng cầm lấy chiếc đèn đi xem xét khắp phòng. Goddard theo
sau cô để có xảy ra việc nguy hại gì thì đã có anh đấy.
Phòng này là một công trình xây dựng rất vững chắc. Tường và mặt đất toàn bằng
những phiến đá lớn. Từng súc gỗ sến khỏe mạnh nâng đỡ lấy mặt trần ghép bằng những
phiến đá nhỏ hơn. Có hai lò sưởi thắp dầu hỏa, lơ láo trong nơi cổ kính này,
người ta mới vỡ lẽ ra rằng căn phòng tuy ở gần những hào nước mà vẫn là nơi ít ẩm
thấp hơn cả mọi nơi khác trong tòa lâu đài. Duy bức tường đối diện vơi bậc
thang xuống phòng là để hiện ra mấy khoảng mốc rêu quanh những cánh cửa sổ.
Goddard mở những cửa ấy ra: một hơi gió lạnh đưa vào trùm quấn lấy mọi người. Họ
nhìn qua cái khung bưng chấn song sắt, chỉ thấy được những hình đá đen sì vì trải
qua bao năm tháng và hỗn độn một khóm thông in hình trên nền trời sáng mờ.
Mặt trần cũng như khoảng trên, bốn mặt tường đều có khói ám đen, có lẽ là do một
cái bếp lò bằng gạch xây ở giữa khoảng chỗ bậc thang và cửa sổ. Trên cái bàn giữa
phòng, bốn pho sách lớn, đóng bìa da và hơi lỗ chỗ ẩm mốc, đặt nằm cạnh chừng
hơn một chục bình và bát bằng đất nung. Trước mặt cái bếp lò, sắp hàng những phẫu
lửa hắt vàng khè và một mẻ lọ phủ đầy bụi và chằng chịt mạng nhện. Trong một
góc phòng, chồng chất những miếng đá xám và đá hoa.
Luna lấy chiếc cành cây ra và hỏi:
- Có phải chỉ có độc một phòng này là làm trong bề dầy của bức tường không?
Swanhild đáp:
- Có lẽ. Vì không còn chỗ tường nào khác là nghe có tiếng rỗng kêu trong. Chúng
tôi đã dò xét mặt vách khắp nhà mà không thấy gì.
Luna:
- Bọn quân lính có lẽ đã phá hủy mất cái cốt yếu, nhưng vẫn còn lại một vài cái
hay. Phiến đá vỡ kia là thế nào?
- Chính là phiến đá khắc cái bài hát mà tôi nói chuyện với cô đấy. Chắc là vì
người ta nậy ra khỏi tường nên mới vỡ ra như thế, mà nậy ra chắc hẳn họ mong
tìm được chìa khóa sự bí mật tưởng giấu ở trong. Chỗ tường lõm kia là chỗ đặt
phiến đá đấy.
Luna úp hai tay lại giữ cho cành cây lung lẳng ở giữa rồi đi vòng quanh phòng.
Cành cây cất lên hay hạ xuống tùy theo lúc cô đi gần tới hay xa dần cái bếp lò.
Cô dừng chân lại cạnh lò xem thì cành cây cô giơ ra phía trên lò nhè nhẹ quay
mình. Luna lẩm nhẩm nói:
- Kỳ dị lắm. Song những dấu hiệu này còn mơ hồ lắm, mà cũng chưa đủ.
Cô lật ngửa những cái hũ úp và đặt chân lần lượt trên từng cái một. Cành cây chợt
nhiên ngóc thẳng lên ở trên một cái hũ lớn bụi bám đen két trên vung. Swanhild
nhấc cái hũ lên xe nhờ Goddard đến đỡ lấy hộ. Lau cho sạch bụi rồi chàng thò
tay vào sờ xem trong đựng vật gì. Chàng nói với miss Bartendale:
- Một khối gì đóng rắn lại y như là cát với muối vậy.
Oliver đưa cho bạn một miếng đá và bảo:
- Anh hãy đập cái hũ này ra xem nào.
Tức thì cái hũ biến thành một đống mảnh vụn lẫn với sạn cát và những hòn muối
đóng vừng. Goddard gật đầu:
- Cát với muối thực.
Cành cây rung động khi mũi giầy Luna đặt lên cái chất luyện lạ lùng ấy. Cô giảng
giải:
- Chắc hẳn trong nầy còn có gì khác nữa kia. Chốc nữa tôi hãy xem lại.
Cô đến bức tường thứ ba: cành cây liền ngoáy tíu tít. Luna thở gấp và đưa ngón
tay nhẹ lần từ trên xuống dưới mặt tường. Khi tay cô đưa cao lên thì cành cây cử
động rõ thêm; khi tay cô đưa lên cao nữa cho đến hết tầm thì lại thấy nó dịu dần.
Nhưng lúc hạ xuống ngang tầm vai, nhịp lay động gấp lên rồi bỗng nhiên cành cây
tuột khỏi tay cô, rơi xuống đất. Tiếng rơi động ấy khiến mọi người nhận thức bầu
im lặng bao bọc lấy cái quang cảnh diễn ra vừa rồi.
Cô quay lại phía các người đi theo, đưa tay vuốt trán mình và nhìn họ bằng đôi
mắt sợ hãi. Cô trỏ một phiến đá tường mà nói, giọng quả quyết:
- Chìa khóa sự bí mật chính ở đây đấy. Mà gớm ghiếc lắm, kinh tởm lắm kia đó!
Goddard đập tay lên mặt đá nói:
- Nhưng bức tường này đặc kia mà?
- Tôi đã nói thế nào là quả quyết tin như thế đó!
Mặt cô xanh tái đi, miệng mím lại, lộ ra một sự dụng công phi thường của trí
não. Cô đứng lại một lát gần cửa sổ rồi vừa sửa gọn lại mớ tóc uốn vừa bước lại
gần mấy người: nét mặt đã tìm về được vẻ bình tĩnh. Cô bảo họ:
- Tôi theo học khoa học này đến nay đã có mười ba năm trời rồi, mà lần này mới
là lần thứ ba tôi thấy cách báo hiệu giống như thế. Tôi dám nói quyết rằng tuy
bề ngoài không có vẻ gì nhưng phiến đá kia giấu một vật ghê tởm lắm đó!
Goddard xem xét lại hòn đá cẩn thận.
- Vâng. Cô nói phải đấy. Chỗ kẽ đá không gắn bằng bột đá mà lại bằng đất sét!
Tôi lại chắc rằng phiến đá này có thể lấy ra, lắp vào được chứ chẳng không.
Swanhild nói:
- Thế thì phải có một cái gì lấy ra mới được.
Nàng liền rứt cái lưỡi gà ở chiếc giầy của nàng ra, lấy trong túi một con dao
con và một đoạn dây gai, cắt cái lưỡi gà thành một miếng hình tròn mà nàng dùi
một lỗ ở chính giữa; nàng xỏ qua lỗ ấy sợi dây đã thắt nút một đầu. Nàng cắt
nghĩa:
- Dùng cái này thì đến gạch xây tường cũng giựt ra được. Tôi học được cái mẹo vặt
này ở một người buôn lậu đấy.
Trong khi ấy, Goddard đi cạo chỗ đất nhét ở kẽ phiến đá, còn Luna thì đọc những
nhan đề mấy pho sách để trên bàn.
- Sự ước muốn của lòng ước muốn này, Abraham tâm thư này, Duodeeim Portarum
này. Ông Hammond ạ, sách hay cả đấy, mà xét ra cũng hiền lành thôi. Nhưng ta
không nên quên rằng có lẽ quân lính của Cromwell đã hủy mất sách cấm hồi ấy.
Swanhild dán cái miếng da cho hút chặt lấy mặt phiến đá. Vừa kéo có một cái một
tảng đá dài chừng hơn nửa mét đã tụt ra. Goddard ghé vai đỡ lấy mang đặt trên
bàn. Rồi chàng kêu lên:
- Ô lạ này! Nửa phần đáy mở được lên như cái nắp đậy! Miss Bartendale, cô lại
đây mà xem.
Luna đến xem.
Cái nắp đã mở. Một mùi tù hãm lâu ngày, khô khan lạnh nhạt và tanh tởm đưa ra.
Swanhild rùng mình, bất giác đứng lùi lại.
Trong phiến đá rỗng lòng có hai khúc dài và dẹp bọc trong một thứ khăn mốc meo.
Goddard rũ cái gói thứ nhất ra và dưới ánh đèn làm rơi xuống một vật nhăn nheo
dài chừng 20 phân. Oliver đoán phỏng:
- Dễ thường là một gói xì gà giấu trong ấy từ bốn trăm năm nay, chắc?
Swanhild vẻ khó chịu, lắc đầu:
- Không, một cuộn da có lẽ đúng hơn.
Goddard lật lên xem, hốt nhiên chàng chùi vội tay lên áo măng-tô đang mặc trên người.
Chàng cằn nhằn nói:
- Ồ! Một bàn tay! Bàn tay của một cái xác ướp(1) ([Xác ướp là xác người chết ướp
bằng những thứ thuôc riêng để không tiêu nát được, chỉ khô đét lại, như xác vua
Ai Cập ngày xưa.]).
Họ ngoảnh nhìn cả về Luna cô vẫn thản nhiên nhìn họ.
- Bàn tay danh vọng đấy!
Đó là lời truyên ngôn của cô.
Chương 11. VẾT CHỮ THƯỢNG CỔ
Một bầu yên lặng nặng nề chìm phủ khắp phòng: Swanhild,
Oliver với Goddard trầm ngâm tưởng nhớ đến cổ tích ghê sợ. Ánh sáng bên ngoài lọt
qua cửa sổ chỉ vừa đủ để khiến cho có vẻ huyền ảo trên những bộ mặt (đổi khác
đi vì thứ bóng tranh ngày tranh tối bên trong) cũng như trên cái vật nâu sẫm và
ghê tởnm rơi trên mặt bàn. Duy chỉ có một mình Luna là có vẻ thực hiện.
Mãi sau Oliver mới hỏi:
- Bàn tay danh vọng nghĩa là thế nào, miss Bartendale?
- Là bàn tay một kẻ giết người, bị thắt cổ chết. Người ta ướp tay ấy bằng liễu
thạch với muối sau khi đã đốt lá cỏ phượng vĩ đực và cỏ mã tiền để sấy cho khô.
Oliver đưa mắt nhìn cái bếp lò. Chàng hỏi:
- Thế còn những vết kinh tởm ở trên đầu những ngón tay kia tự đâu mà có?
- Ở những ngọn sáp nấu bằng mỡ người. Những điều ấy đều có ở trong sách Tà thuật
Tự điển và cũng ở trong pho sách ông đang tỳ tay lên kia.
Goddard rùng mình lên. Luna lại nói:
- Có “bàn tay danh vọng” này, người ta dễ tìm được những kho của chôn giấu.
Swanhild hỏi:
- Thế, nó liên hệ ra sao đến chuyện con quái vật.
- Cái đó thì chỉ có trời biết! Có lẽ ta tìm được dấu hiệu có ích trong cái gói
thứ hai này.
Goddard cẩn thận giơ cái gói ra:
- Nặng.
Một vật rất đẹp màu xanh và vàng lấp lánh rơi xuống mặt bàn. Đó là một cái đốc
gươm bằng đồng đã rỉ. Hình hai giải băng bằng đồng quấn lấy cái nắm chuôi gươm.
Lần này mới thấy Luna tỏ ra vẻ kinh lạ. Cô ngắm nghía kỹ càng cái vật mới tìm
được đó và nói:
- Thứ gươm này thuộc vào loại cổ kiếm. Tôi rất lấy làm lạ sao nó lại có trong
này. Cụ Pháp sư chắc hẳn đã chế cái bàn tay kia để dùng vào việc riêng của
mình, nhưng còn thanh gươm này thì chẳng biết ông cụ lấy được ở đâu ra? Mà tại
sao ông cụ lại giấu nó cùng với cái bàn tay nhỉ? Cô chỉ cho Swanhild thấy hai
miếng băng vàng khảm vào mặt đồng cũ. Tuy đã nhẵn mòn, song vẫn còn rõ được những
dấu hiệu trên đó. Cô bảo:
- Đấy là cổ tự Bắc Âu. Những chuyện cổ tích miền Bắc thường vẫn nói đến những lời
thần chú khắc trên các đồ binh khí. Nếu quả thực thanh gươm này không phải là của
già thì đã có được trên hai ngàn năm rồi. Chỗ khảm vàng kia có lẽ mãi lâu lám về
sau mới thêm vào đó.
Oliver kinh ngạc, nhìn người thiếu phụ hỏi:
- Chả lẽ cô cho rằng con quái vật phát khởi từ miền Bắc, vào thời đại loài người
mới biết đồng, sao?
- Không, tôi không bảo thế. Bởi vì cái ta tìm thấy đây ta cũng chẳng biết có
dính dáng đến nó không kia. Nhưng từ trước tới nay, việc khảo cứu môn quái vật
và phù thủy, dân miền Bắc Âu người ta vẫn xao lãng một cách kỳ dị (ta không thể
căn cứ vào đâu được để mà nói); song một cổ tục ghê ghớm lưu truyền từ cái miền
u ám và giá rét kia tới đây cũng có thể có được lắm chứ! Nhưng tôi xin thú thật
rằng hiện giờ thì tôi chưa tìm được một đường lối nào mà dò.
Olievr có ý nói để an ủi cô:
- Trong một ngày cô cho chúng tôi biết được nhiều điều hơn kẻ khác trong bốn
trăm năm nay.
- Tôi chỉ mới thấy rõ nhất được điều này, nó làm câu chuyện rắc rối thêm lên:
là những việc xảy ra với những ngày tháng không có gì ăn nhập với nhau hết. Nếu,
quả như lời cụ Warlock đã trối lại, sự bí mật khám phá ra được là nhờ bàn tay với
thanh gươm này, thì sao trước khi chết, ông cụ lại không cho biết chỗ giấu những
của ấy? Mà nếu những của ấy không có gì liên lạc với con quái vật, thì sao ông
cụ lại phải giấu giếm những của ấy một cách khôn khéo đến thế?
Swanhild bàn:
- Hay là ta tìm mãi sẽ thấy được điều gì khác nữa cũng nên.
- Cái đó chưa chắc! Cái bàn tay, cũng như cái hũ sành và cái bếp lò dùng để nấu
chất muối ướp và sấy cái bàn tay. Duy chỉ có những thứ ấy là những vật khác thường
mà khoa thuật của tôi thấy được.
Swanhild thử ngỏ một ý:
- Thế ngộ lại là một vong hồn thì sao?
- Nếu có vong hồn nào lần khuất trong đây thì mấy con chó kia và cả tôi nữa sẽ
cảm biết được ngay tức khắc.
Swanhild lại hỏi:
- Nhưng, nếu sự bí mật lại ở trong cái trời thứ năm kia thì sao?
Luna hơi nhíu mày. Nàng chậm rãi đáp:
- Tôi chưa để tâm xem xét đến điều ấy.
Theo một cách thức cô dặn bảo, mọi người đi gõ các mặt tường, nhưng không thấy
gì. Rồi cô giao cho mỗi người dò xét cẩn thận trong một pho sách, để xem có những
dấu ghi chú bên cạnh trang hoặc có những chữ gạch dưới có thể ghép thành một thứ
di ngôn bí mật nào chăng. Khi Luna xem xong pho sách về phần mình cô liền đi
nhìn lại khắp phòng trong lúc bọn kia tiếp theo công việc của họ. Cái phiến đá
khắc chữ khiến cô chú ý đến. Luna lau chùi cẩn thận cho hết bụi cát bám trên.
Swanhild bảo cô nàng:
- Tôi có một tấm ảnh chụp rất rõ, nếu cô muốn xem, tôi sẽ đưa cho cô xem. Trên ảnh
cũng chỉ có những câu vè mà cô đã nghe tôi đọc trước.
Luna:
- Phiến đá này có lẽ đã bị nậy lên từ trước khi xảy ra cái thảm kịch cho cụ
Warlock, vì chỗ trống dưới đất (chỗ đặt viên đá khi trước) tôi thấy cũng ám két
những muội khói như mọi chỗ khác trong phòng này, mà cái bếp lò kia thì từ ngày
ông cụ mất không đốt lên lần nào cả. Thế ra cái phiến đá này vẫn ở nguyên chỗ
trong cả cái thời kỳ ông cụ làm việc ở đây.
Swanhild:
- Ồ! Không. Một phần mãnh vỡ đã dùng để làm cái bếp kia. Đấy cô trông, vẫn còn
những chỗ vỡ còn mới hơn.
Luna:
- Vậy, thế ra ông cụ Warlock cho là những câu vè khắc trên phiến đá không có một
ý nghĩa đặc biệt nào ư?
- Những câu ấy không ẩn một sự bí mật nào. Đó chỉ là một lời dặn trước.
- Cô em nên biết rằng, không còn cái gì khêu gợi sự ngờ vực của tôi bằng những
việc bề ngoài có vẻ minh bạch nhất. Trong việc này, nếu những câu vè kia không
có một ý nghĩa nào hết thì vì cớ gì người ta lại mất công khắc vào phiến đá ấy?
Swanhild vẻ trầm ngâm:
- Tôi chưa lần nào ngẫm nghĩ đến điều đó. Thế còn cô, cô có ý kiến nào không?
- Không vì những ngày tháng hỗn độn khiến tôi cũng khó nghĩ. Mỗi chi tiết trong
các việc, từ thanh gươm tối cổ cho đến việc cụ Warlock lấy những mảnh đá để bắc
lò, đều có liên lạc đến vấn đề này mới phải. Nhưng hiện giờ thì tôi lại không
thấy sự liên lạc! Kìa, hai ông kia xem sách xong rồi. Thế nào? Các ông có tìm
được sự gì lạ không?
Oliver lắc đầu:
- Ông cụ không để một dấu tích nào đáng để ý về các tội của ông cụ.
Luna sửa lại:
- Hay là bề ngoài không có gì đáng để ý. Nhưng thôi, ở đây thấy lạnh rồi đấy,
mà tôi tưởng hiện giờ chúng ta cũng chẳng làm được việc gì trong này nữa. Mang
những cái này ra khỏi phòng có được không, hở ông Hammond?
- Được ạ. Cô muốn đem cái gì thì cư đem. Nhưng chẳng nhẽ cô định lấy cả bàn tay
ra nữa sao?
- Cái bàn tay ma quái ấy ư? Không! Đến cầm gậy mà đụng vào tôi cũng chịu! Nhưng
tôi muốn đem cái đốc gươm kia trao cho một nhà bác học chuyên môn khảo về cổ ngữ
Bắc Âu, thôi.
- Cô lấy tay cầm đến cũng không có gì đáng lo ngại chứ?
- Không. Phép tai họa của yêu quái chỉ nhập ở bàn tay kia với những vật liệu
dùng để chế hóa cái bàn tay ấy thôi. (Cô chìa cái đốc gươm ra). Đây này, ông cứ
nhìn xem một vật đẹp đẽ như cái đốc gươm này không lẽ gieo họa cho người được.
- Nếu vậy, xin cô cứ đem lên. Còn cái bàn tay kia thì tính sao bây giờ?
- Ông lại bỏ nó vào nơi đã giấu nó. Tôi sẽ có cách khiến nó thành vô hại được.
Goddard lại đầy phiến đá dựng bàn tay vào hõm tường như trước. Luna lấy trong sắc
ra một chất dẻo màu trắng và lấy thứ cỏ lá khô đem trát vào đường kẽ. Cô giảng
giải:
- Lá tôi trục được ma quỷ, còn sáp ong làm chúng bại liệt ở một nơi. (Thấy bọn
kia giương mắt ngạc nhiên nhìn, cô tiếp luôn). Tôi thì tôi không nhất quyết tin
ở hiệu lực của những thứ này lắm, nhưng nếu nó không giúp được ích gì thì nó
cũng chẳng hại gì.
Lúc mọi người ở trong cái phòng bí mật cùng bước ra, lúc tai lại nghe tiếng ồ ồ
thê thảm của nguồn nước đen tối, họ cùng lấy làm vui mừng. Oliver thở ra một tiếng
dài và rùng mình.
Goddard nói:
- Mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra rằng những cái ta trông thấy vừa rồi thực là
gớm ghiếc.
Oliver lầu nhầu:
- Tôi thì tôi không muốn nghĩ đến nữa! Khiếp! Cái mùi xông ra mới kinh tởm làm
sao! Mà lạ thực, hình như tôi đã ngửi thấy mùi này ở đâu rồi. Không khí lúc bấy
giờ như là đầy những…
Goddard vui vẻ chêm vào:
- Những con bướm đen khổng lồ có những con quỷ xanh trên mình, phải không? Thôi
đi, anh chàng này! Đầu anh cũng khá lộn xộn rồi đấy, còn quấy những tư tưởng hắc
ám làm gì nữa. Sáng hôm nay như thế cũng đủ rồi.
Luna đưa mắt cho chàng tỏ ý khen phải, nhưng Oliver có vẻ bực tức ngoảnh lại bảo
chàng:
- Goddard ạ, tôi không nói đùa đâu. Nếu tôi ở trong phòng ấy lâu hơn nữa thì
tôi có thể nhớ ra cái nơi mà tôi đã ngửi thấy cái mùi kỳ quái kia là nơi nào
cũng nên.
Giọng nói chàng khàn đi và tay chàng đưa lên thái dương.
Swanhild cảm động quá không biết ngăn giữ cách nào, chỉ lo ngại nhìn chàng rồi
đưa mắt cho Luna một vẻ khổ sở tuyệt vọng.
Luna nghiêm nghị nói:
- Bao giờ tôi truyền lệnh cho ông được nhớ lại thì ông hãy nhớ!
Giọng cô dõng dạc vang lên như tiếng kèn quân lệnh bên tai chàng. Oliver khe khẽ
nhắc lại.
- Khi nào cô… truyền lệnh cho tôi ư?
- Phải. Mà từ giờ cho đến lúc đó, nếu ông muốn cho cô em được yên ổn và ông được
yên ổn, thì ông không được để tâm nhớ lại một tý gì, ông nghe chưa?
Chàng lặng im. Rồi bỗng nói:
- Tôi chắc hẳn cô đã giải quyết được việc này rồi.
- Cũng có lẽ. (Giọng cô không được ôn tồn). Nhưng một nhà chuyên khoa không bao
giờ hồ đồ nói ra những điều chưa nghĩ chín. Khi nào tôi biết rõ ý nghĩa những
hàng cổ tự kia, lúc đó sẽ là lúc lập luận. (Cô dịu giọng xuống). Còn bây giờ,
ông Hammond ạ, bây giờ thì mọi người chúng ta đều cần phải nghỉ ngơi. Cô cất tiếng
khẽ cười, nhưng trong giọng nói và trong tiếng cười kia có một sự gì khiến mọi
người không ái dám hỏi han câu nào nữa.
Chương 12. “??????? HAMMOND”
Khi trở về tới những căn lầu dùng để ở, họ có cái cảm tưởng
như vừa thoát khỏui một giấc ác mộng. Thấy lão Walton nóng lòng nóng ruội đi
qua đi lại trong hành lang, lo ngại bout rout, họ mới nhận thức đến những giờ
lâu đã ở lại trong căn phòng bí mật.
Lúc ấy viên thanh tra liên phóng Steying đang đợi họ trở về để khởi cuộc chất vấn.
Miss Bartendale không cần phải có mặt ở đó nên Swanhild đưa cô vào phòng
Holbein và trao cho cô những bản cảo gia phả cuỳng bức ảnh chụp nàng đã hứa trước.
Sau khi viên thanh tra xong việc đã đi khỏi, ba người đến tìm cô thì thấy Luna
đang cúi mình trên một bản giấy rất lớn trên mặt thảm. Oliver gieo người xuống
một cái ghế bành và hỏi:
- Cái này là gì thế, cô?
Luna:
- Ông không nhận ra cái gia phả đồ của nhà ông từ trước đến năm 1650, ư?
- Chúng tôi chưa bao giờ mở đến hết cuộn giấy.
- À, ra thế kia đấy! Ông chỉ cần biết rằng đời mình về trước đã có những ai
trong tôn tộc thế là đủ chứ gì? Vậy chắc hẳn ông cũng không biết rằng dòng dõi
ông phát tích từ Đan Mạch ấy nhỉ.
- Từ Đan Mạch kia?
- Phải. Bao nhiêu việc đều cho ta tin được như thế: Cái tên Swanhild ít có kia ở
thế hệ nào cũng thấy có, cái vẻ người Bắc Âu rõ rệt trên khuôn mặt dáng người của
anh em nhà này cũng giống các vị tổ tiên trước theo như các bức chân dung kia.
(Nàng trỏ bản gia phả đồ). Đây, ông trông cái hình ngành nhánh này mà coi(1)
([Gia phả bên Âu thường mượn một cái cây chia ra các cành để chia ngành nhánh từ
tổ tiên đến con cháu. L.N.D.]): đó là chi nhánh của vị thủy tổ nhà này đó. Tôi
dịch nghĩa những câu chú thích cho mà nghe: Con trai Magnus Hammond, chi phái của
tôn thất Đan Mạch, kết hôn với bà này. Bà này tức là bà Edith, người Anh và là
người thừa tự những trang trại gia sản về hồi đó.
- Trời! Mà cái gươm về “tuổi đồng” kia cũng là gươm miền Bắc Âu!
- Ta tiến được nhanh lắm rồi đó, có phải không? Ta biết rằng một người Đan Mạch
ngang tàng táo tợn ngày xưa kết duyên với con gái thừa tự một họ có đã lâu đời ở
nước Anh. Kẻ hung đồ kia hẳn là tàn sát cả họ nhà người vợ mình ngay hôm ăn cưới.
Nhưng chuyện đó ta hãy gác ra ngoài. Phụ thân người chàng rể tất là một nhân vật
có địa vị cao, vì ngành ăng-lê về sau đã lấy tên họ người ấy làm tên họ nhà.
Ông trông đây này: đây là một dấu mực đỏ cho ta biết rằng ông cụ kia là người đầu
tiên bị con quái vật hại, không thì ít ra cũng là nạn nhân đầu tiên bị hại ở nước
Anh.
Swanhild hỏi:
- Thế nghĩa là con quái vật xuất hiện trong dòng họ cùng một thời kỳ với người
Đan Mạch tên là Magnus, phải không?
- Chính thế đó. Rồi mấy thế kỷ sau, trong bọn họ con cháu, có một người cũng
tên là Magnus chuyên tâm học tà thuật, đã tìm được cách giấu kỹ cái gươm Băc Âu
tối cổ kia. Người chàng rể hung đồ, thanh gươm và cả những cây thông nói đến
trong những câu hát – bằng ấy điều là bằng ấy dấu tích đưa đường cho ta dò tới
xứ Đan Mạch. Buổi sáng hôm nay thực ta đã làm được nhiều điều hay đó. (Cô đổi
giọng, nói tiếp). Bây giờ hai giờ chiều rồi. Trong lúc phần hiện thực của tôi
đi ăn cơm thì phần tiềm thức của tôi đi sắp đặt các tài liệu đã gom góp được, rồi
tôi sẽ do đó mà suy ra xem các việc đã xảy ra trong căn phòng bí mật có những ý
nghĩa gì.
Oliver mở miệng toan hỏi, nhưng cô khoác tay Swanhild vừa nói luôn:
- Thôi, không bàn luận nữa; làm việc thế là đủ. Giờ ăn cơm phải coi là giờ
thiêng liêng.
Goddard vui vẻ khen phải. Chàng bảo riêng với Swanhild:
- Tôi chẳng biết về mặt linh hồn học thì cái nhà cô kia có những tài năng gì,
nhưng quả thực cô ta ngăn cấm Oliver, không cho anh ấy nhớ lại chuyện trước đấy
chứ?
Bữa ăn hôm ấy vui vẻ lắm. Sự dè dặt mà Luna giữ trong lúc tìm xét trước, bây giờ
đã biến mất: cô chỉ còn là một người xinh đẹp nhất trong mấy người quanh bàn
ăn. Cô đưa câu chuyện về những buổi ca vũ Nga, đến việc home rule(2) ([Địa
phương ngự trị]) và bình phẩm những cuốn sách mới xuất bản. Anh em nhà Hammond
tưởng chừng như đã quen biết cô lâu ngày rồi. Oliver thì chưa bao giờ nói chuyện
mình nhiều đến thế. Chàng cho người thiếu phụ biết hằng mớ những chuyện về ngày
thơ ấu của mình và em gái mình, về tính nết và thói quen của hai anh em. Còn
Swanhild thì trái lại, nàng không nói gì qua: tâm tính nàng đang có những điều
mâu thuẫn.
Sau khi đã bình tĩnh uống xong chén cà phê, Luna ngỏ ý lại làm việc nữa. Oliver
khuyên:
- Cô hãy nghỉ ngơi lấy vài giờ đã nào.
Cô đáp:
- Nhưng mấy giờ nữa thì tôi đã lên đường đi Hassocks và sẽ ra hẳn phòng Holbein
rồi còn gì.
Cô cầm lấy bản cảo và bức ảnh chụp ở trên bàn rồi nói:
- Mà tôi có thể nói được cho các ông biết đoạn những lai lịch mà tôi tìm được
trong truyện này. Con quái vật bắt đầu vào dòng họ nhà ông cùng với người Đan Mạch
Magnus và cho đến năm 1456 các vị tổ tiên nhà này vẫn biết cái hình thể, tính
cách của con quái vật và biết cả cái lẽ tại sao nó lại hiện về.
Swanhild nghi hoặc:
- Cho đến năm 1456?
Luna đưa ra tấm ảnh chụp:
- Phải ạ. Đây này! Bức ảnh này đủ chứng tỏ rằng chuyện người nối nghiệp trong họ
được người nhà cho biết một việc bí mật ở căn phòng giữ kín và những câu vè kia
cũng vậy, không được cho người nào khác được biết đến nên chữ trên phiến đá vụng
dại không phải là do tay nhà nghề khắc lên. Bài vè mà ngày nay dân gian đều biết
cả, hồi ấy vẫn giữ một ý nghĩa kín.
Oliver nói:
- Bài hát xem ra rõ nghĩa lắm kia mà.
- Xem ra thì thế! Lời nói quả là một sự kỳ ảo biết chừng nào! Vậy, bởi lẽ trên
kia, tôi đoán rằng những người kế ngiệp về sau trong dòng họ này đều lần lượt
được dẫn đến căn phòng kín để biết nghĩa những câu vè.
Swanhild:
- Thế thì làm thế nào mà lại quên cái nghĩa ấy được?
Luna:
- Bao nhiêu đàn ông trong dòng họ cô đều bị giết hết trong cuộc chiến tranh
Blore Heath năm 1456, chỉ trừ có Magnus (vị Pháp sư) hồi ấy mới sơ sinh: mà
Magnus thì lại không được ai trối lại sự bí mật cho biết nữa. Về sau dụng công
dò xét, ông cụ Pháp sư mới khám phá được một đôi phần: con quái vật đã biến hẳn
ròng rã một thế kỷ rồi, ông cụ lại phụ nó về, nhưng không có phép nào giam cầm
được nó như trước nữa. Cái phép ấy tất có chỉ rõ trong cách cúng lễ truyền dạy
cho con cháu trong nhà phải cứ mà theo.
Oliver:
- Vâng, tôi hiểu ra rồi. Rồi đến sau, khi bọn quân liùnh phá phách trang trại
khu này, chúng đã tiêu hủy mất mọi dấu vết, cả đến cái biển đá khắc, chúng cũng
bẩy lên.
Goddard vẫn chăm chú đọc những bản gia phả đồ, và đã thấy ở bản thứ hai, khởi đầu
là tên: “Oliver, sinh năm 1893”. Chàng cũng nói:
- Các điều trên kia xem ra đều có lý cả. Tuy thế, miss Bartendale ạ, cô thử
trông đây này: từ đời cụ Magnus tủy tổ(3) ([Xin nhớ trong dòng họ này có hai
người cùng tên Magnus: người sau là Magnus Pháp sư]) vào khoảng năm 830 cho đến
đời ông cụ Ẩn tu vào năm 1392, trải qua năm trăm sáu mươi hai năm trời, trong
vòng chừng ấy năm, con quái vật trước sau đã hiện lên tám bận. Rồi từ đời
Warlock, vào năm 1526 cho đến ngày nay, bốn trăm năm trời, con quái vật xuất hiện
có bảy bận. Vậy thế ra vào cái hồi người nhà còn biết được cái phép cúng lễ mà
cô cho là một cách hộ mệnh kia, con quái vật lại hiện lên nhiều gấp rưỡi sau
này (nghĩa là từ cái hồi mất phép hộ mệnh?) Như thế là tại sao?
Chàng soi mói nhìn Luna đợi trả lời. Cô đáp:
- Có lẽ vì trong cuộc hành lễ ngày trước có hiến cho con quái vật những thứ hy
sinh nhiều hơn cũng nên.
Oliver vội kêu:
- Vậy là hy sinh nhân mạng rồi còn gì! Ồ miss Bartendale! Nếu thế thì thực kinh
tởm độc ác quá!
- Chưa chắc! Vả lại việc thí mạng ấy cũng không đến nỗi ghê sợ quá nếu do ở sự
tình nguyện tâm thành.
- Nhưng những kẻ thí mạng có phải tự mình muốn chết đâu?
- Tôi chưa thể nói thêm một điều nào bây giờ trước khi biết rõ rệt các ngày
tháng.
Cô vừa một tay mơn nghịch cái rãnh cằm dưới môi, vừa cuộn bức ảnh chụp lại.
Oliver trầm ngâm ngắm nghía cô. Ngượng vì chàng cứ chăm chăm nhìn như thế hoài.
Luna lại xem bứa ảnh lần nữa. Cô nói:
- Hai câu đầu của bài hát:
Ở đâu thông mọc um,
Đêm sao, lạnh và rét…
Còn đủ mọi chữ, nhưng ở dưới, mặt đát sứt mẻ, những chữ đầu câu thứ ba mất hẳn.
Vậy những chữ thiếu là những chữ gì?
Swanhild đáp:
- Chữ: “Chief of” (gia trưởng của)
- Thế thì câu vè thành ra: “Người gia trưởng của Hammond sẽ tìm thấy lúc chết”,
phải không? Tôi, tôi không nghĩ như thế. “Người gia trưởng của họ Hammond” nghe
xuôi hơn, nhưng vẫn còn đáng ngờ lắm.
Goddard bàn:
- Hay là tại cách gò câu trong bài bắt buộc người làm thơ phải xoay đổi ý câu
thơ?
- Cũng không phải. Trong các khúc hát về trung cổ thời đại thì bao giờ cũng chỉ
có nhịp câu là bị coi thường thôi.
Oliver cúi nhìn bức ảnh và nói:
- Chữ đầu tiên là chữ C.
- Ta có thấy được cả chữ đâu? Chỉ còn có một nửa chữ mà có thể là phân nửa chữ
O, chữ Q, chữ G hay chữ S cũng được.
- Thế thì sao?
- Cũng theo cách đoán này, chữ cuối cùng chắc cũng không phải là chữ F, mà là một
thể biến hình của một chữ cổ hay là đầu chữ Z hay chữ L.
Nàng lấy bút chì đo những hàng chữ.
- Sau nữa, dù hình thể có kỳ dị mặc lòng, những chữ này từng khoảng bằng nhau
và mỗi tiếng cách nhau bởi hai điểm vừa vặn đặt một chữ. Nếu là những tiếng
“Chief of” thì phải có tám khoảng cách đều nhau. Vậy mà ở đây ta chỉ thấy có bẩy.
Thế thì đáng lẽ Chief of Hammond (gia trưởng của nhà Hammond) như người ta vẫn
tưởng, những chữ khắc trên đá phải là những chữ khác mà ta chưa đoán được. Ta cứ
tạm đặt thế này:
?????? HAMMOND
Chương 13. CHỮ C, G, O, Q VÀ L HAY CHỮ Z?
Goddard chăm chú đọc mảnh giấy:
- Thực là bài đố rắc rối làm sao! Cô có chắc rằng những tiếng thiếu mất kia đổi
được ý nghĩa câu hát không?
- Cái đó cũng không chắc lắm, vì tiếng thiếu chỉ có tất cả sáu chữ. Ta thử xem
nào. (Vừa nói cô vừa biên những chữ có thể ghép theo nhiều cách khác nhau). Cái
tiếng thiếu kia có thể như thế này:
C x x x x L C x x x x Z
G x x x x L G x x x x Z
O x x x x L O x x x x Z
Q x x x x L Q x x x x Z
Cô ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói:
- Dù sao, cái đó cũng không có gì quan hệ trong lúc này.
Cô bỏ mảnh giấy đi, nhưng Goddard cầm lấy và nói:
- Tiếng đầu tiên có thể là C-R-U-E-L. Thiếu một chữ nhưng cruel có lẽ người ta
viết có hai chữ L.
Luna:
- Cũng không có nghĩa gì.
Goddard vẫn chưa chịu thôi:
- Hay là C-O-R-B-E-L. càng tồi thêm. Thử tìm đến chữ G xem nào. G-O-S-P-E-L
chăng? Lại càng dở hơi hơn nữa. Đến chữ O: O-R-I-E-L HAY O-D-U-L-L phân làm hai
tiếng O dull Hammond? Kể cũng xuôi, nhưng vẫn không có nghĩa lý gì. Còn những
tiếng đằng sau có chữ Z thì tôi chẳng tìm được tiếng nào.
Luna vẫn cúi đầu nhìn bức ảnh chụp. Cô nói:
- Những câu khác trong bài hát đều rõ cả:
Where grow pines and firs amain
Under stars sans…
Cô bỗng ngừng bặt, giấu mặt úp trong lòng bàn tay và nhẹ gõ đầu ngón tay hai
bên thái dương. Một lát sau cô ngửng đầu lên nói:
- Tìm tòi mãi được ích gì đâu? Tôi mệt lắm rồi, không muốn nghĩ đến những cái vặt
vãnh vô nghĩa lý ấy nữa. Trước khi lên đường, tôi muốn được xem cái xác con chó
kia của ông Oliver đã.
Ba người đứng dậy để cùng đi. Nhưng cô nói:
- Không! Xin cứ để lão quản gia dẫn tôi đi cũng được. Mấy người chuốc thêm phiền
muộn nữa cũng không ích gì. Với lại, tôi muốn được xem xét một mình thôi.
Nửa giờ sau Luna trở lại, Oliver kêu lên:
- Trời ơi! Miss Bartendale! Người cô nặc những hơi xú uế!
Cô nàng nhăn mũi lại nói:
- Đối với một người quý mến loài vật thì công việc ấy thực là việc thương tâm.
Nhà chuyên trách ở đây chưa hề động đến.
- Vâng. Viên cảnh sát đã đánh điện tín xin London phái một viên thanh tra ty
Scotlandyard về tận nơi.
- Viên thanh tra cũng sẽ không tìm được gì đâu. Xác con chó không mang một dấu
nào khác lạ; mà tôi chắc con chó chưa hề cắn bất cứ người nào hay vật nào.
Thôi, thế bây giờ thì xin từ giã mọi người, tôi đi về đây.
Swanhild khẽ nói:
- Nhưng mà…
Luna đỡ lời:
- Nhưng mà ta chưa một điều kết luận nào về việc này, chứ gì! Tôi còn chưa biết
gì được ý nghĩa câu cổ tự thì vẫn chưa làm được chuyện gì thêm.
Swanhild giọng nói như van nài:
- Thế nhưng…
Oliver an ủi nàng:
- Swan! Nếu miss Bartendale nghĩ rằng chưa nên cho ta biết điều gì bây giờ thì
ta chỉ nên nghe theo, đừng căn vặn làm gì nữa.
Giọng chàng nói vừa ôn tồn vừa quả quyết. Swanhild thất vọng năn nỉ.
- Thế ra miss Bartendale định bỏ mặc chúng tôi hay sao?
Luna nói ngay:
- Không! Mọi người ở đây không có chuyện gì xảy ra nữa đâu. Vả lại chỉ có một
mình ông, ông Hammond ạ, chỉ có ông là người có thể gặp nạn được, thì ông đừng
có vào trong phòng bí mật mà cũng đừng bao giờ đến bất cứ chỗ nào có thông mọc,
cứ giữ như thế cho đến lúc giáp mặt tôi.
- Thế bao giờ cô lại đến?
- Chính ông tự đến chỗ tôi ngày mai.
- Ngày mai ư?
Chàng tỏ vẻ sung sướng nhắc lại câu đó.
- Vâng, ngày mai. Vì ông đã mạnh rồi đó, có thể đi được đấy. Ông có cam đoan với
tôi rằng ông phải theo đúng lời tôi cho đến lúc gặp tôi không?
- Xin cam đoan. Mà địa chỉ của cô ở đâu?
- Số nhà 15, Bispham Gardens, Chelsca. Tôi ở với cô tôi, bà Yorke, nữ nhạc sĩ
dương cầm ấy mà. Tôi muốn gói cái đốc gươm kia được chứ?
Oliver nhanh nhảu:
- Ồ, tôi có một cái hộp xì gà cũ, đựng cái ấy thì tiện lắm.
Rồi chàng đi tìm ngay hộp xì gà. Goddard khẽ huýt một tiếng sáo dài ngạc nhiên;
chàng bảo Swanhild:
- Swanhild này, anh chàng Oliver tự nhiên thành vui vẻ nhanh nhẹn đến lạ, phải
không!
Luna:
- Đó là vì tôi đã cho ông ấy một phương thuốc riêng để phấn khởi tinh thần đó.
Swanhild:
- Thế mà sao cô chẳng nói gì cho chúng tôi biết với?
- Đó là ở trong kế hoạch của tôi. Mặc dù tôi ái ngại cho cô cứ phải lo lắng đến
đâu mặc lòng, tôi cũng chỉ cho biết đến thế là hết.
Cô đặt bàn tay lên vai Swanhild và đăm đăm nhìn người thiếu nữ. Đôi mắt cô lúc
đó không có vẻ trầm mặc, cũng không long lanh sáng, nhưng mà dịu dàng, hiền hậu
xiết bao! Hai tay kia khép lại giữ thêm khăng khít bên vai, khiến Swanhild tức
khắc thôi run sợ và vẻ mặt tươi tắn ngay. Luna bảo nàng:
- Cô cứ tin ở tôi. Tôi hiểu rõ những việc tôi làm. Lần này không phải là lần thứ
nhất tôi phải giải quyết một chuyện bí mật. Tôi xin thú thực rằng việc này khó
khăn một cách khác thường. Cô quay đầu lại phía Goddard nói qua vai. Ông Covert
ạ, những lời tôi dặn cô Swanhild vừa rồi cũng là nói với ông nữa đó.
Goddard ngượng ngịu mỉm cười, trong lúc đôi mắt chàng vẫn trang nghiêm. Chàng
đáp:
- Tôi biết rằng cô đem hết tài lực ra làm việc thực, nhưng tôi chưa được chắc rằng
cô đã khỏi lầm đường. Nếu quả như lời cô tưởng, cái phép bí nhiệm kia, người
dòng họ này từ hồi phân tranh Đôi Hồng(1) ([Cuộc nội chiến ở nước Anh từ năm
1455 đến 1485 trong hai nhà quyền phiệt, York một bên và Lancastre một bên. Một
nhà lấy hoa Hồng trắng và một nhà lấy hoa Hồng đỏ làm biểu hiện]) trở về trước
vẫn còn biết, nếu quả thế thì sao về thời ấy người bị chết lại còn nhiều hơn
các thời về sau?
- Tôi chưa nói cho ông biết tôi cắt nghĩa việc đó thế nào đấy nhỉ. Vậy lời tôi
sẽ phân giải có lẽ cũng được ông không bỏ ngoài tai. Từ hồi phân tranh Blore
Health trở về sau, ta chỉ thấy có những hành vi của con quái vật, những chuyện
tai hại nó gây nên. Còn từ hồi phân tranh kia trở về trước, người ta biết được
hình thể con quái vật thế nào, nhưng lại không rõ nó khởi thuỷ từ đâu và vì những
nguyên nhân gì mà có liên lạc với họ Hammond. Phần tôi, tôi tưởng đã định được
hình thù của nó; tôi lại có hy vọng sẽ tìm được nó xuất phát từ đâu mà đến.
Goddard:
- Tôi mong rằng cô thành công.
Swanhild lo lắng hỏi:
- Mà nếu biết nó phát khởi từ đâu mà ra thì cô liệu có cách khiến nó không tác
hại được nữa không?
- Điều đó thì, chậm lắm đến chiều mai là cùng, tôi sẽ trả lời cho cô biết.
Chương 14. HÌNH THỂ THỨ NHẤT
Khi Luna Bartendale ra khỏi lâu đài Dannow thì sương mù đã
tan hết. Vừng mặt trời ló qua những kẽ mây lơ lửng trên cồn cát, trông khác nào
con mắt một giống ma quái đang hóm hỉnh nhìn xuống cõi thế giới hỗn mờ và xam
xám, thoai thoải ở dưới chân mình và đang nghĩ một cách để trêu ghẹo.
Vì Oliver nài mãi, cô để cho chàng tự lái xe đưa đến tận nhà ga Hassocks. Lúc
chiếc xe ra khỏi thung lũng, Luna ngoảnh lại nhìn một lần sau cùng cái lâu đài
vươn hình ở dưới một bầu trời hâm hẩm.
Chàng bảo Luna:
- Một ngày kia, thế nào có lần cô sẽ đến thăm miền Sussex của chúng tôi mới được.
Cô thôi ngắm cảnh và quay lại. Chàng đăm đăm nhìn Luna: đôi mắt đẹp long lanh
kia không hề lẩn tránh.
- Ngắm phong cảnh Dannow, vừa rồi cô nghĩ ngợi gì thế?
- Tôi nghĩ thế này: giá tôi mà địa vị ông thì tôi làm cho tan tác hết mọi viên
đá. Tôi phá hết các rừng cây trụi nhẵn và bừa xới thực sâu các ruộng đất. Tôi đổi
tên làng xóm, thay đổi tên họ thế rồi tôi bỏ đi, sống ở một xứ thuộc địa, xa biệt
hẳn bao nhiêu điều kinh khủng gây nên bởi cái hương hỏa tổ truyền ghê gớm kia
đi.
Oliver dịu mắt nhìn cô, ôn tồn nói:
- Cô mệt nhọc trong người đấy, cô Bartendale ạ.
Mặc dầu có vết thương cạnh trán và vẻ tinh tường. Chàng nói thêm:
- Thôi, không nhắc đến chuyện Dannow nữa, ta nói đến những điều cô đã làm ơn
cho tôi ngày gặp gỡ đầu tiên. Hồi ấy tình cảnh tôi khổ hơn bây giờ kia.
Luna rùng mình:
- Không! Không có việc gì tai hại bằng con quái vật.
- Có chứ: có cái việc đã khiến cho một người đàn ông suýt nữa phát khóc. Cô
Bartendale ạ, cô nhân từ quá đấy: tôi chắc cô cố ý muốn quên việc trước đi để
nương nhẹ lòng tự ái của tôi đấy thôi. (Chàng sắc mắt nói tiếp). Thế nào, cô đã
nhớ ra rồi đấy chứ.
Cô vừa để tâm tìm lại một cảm tưởng chóng biến vừa hỏi:
- Ở đâu thế nhỉ.
- Thôi, để tôi kể đầu đuôi cô nghe. Cô hãy tưởng tượng ta ở một nhà ga London:
sân ga, một chuyến tàu nhà thương vắng khách. Tôi nằm trong một toa trơ trọi một
mình và tủi cực hết sức. Không ai biết ra đón tôi cả vì bức điện vẫn báo trước
không được rõ ràng. Lúc ấy tôi cho đó là một điềm gở của sự chết. Đáng lẽ Swan
đã phải ở đó, đi đi lại lại sân ga để đợi đón thuyền tàu của tôi.
Chàng thở dài, hạ thấp tiếng xuống:
- Miss Bartendale ạ, nếu trong hồi chiến tranh, bọn đàn ông đã biết thế nào là cái
khổ của địa ngục, thì cũng có những người đã hiểu thế nào là thiên đàng chỉ vì
đã được rời bỏ một chuyến tàu nhà thương để lại được thấy mặt người đàn bà vẫn
thương yêu họ.
Luna nhìn đôi mắt, dịu dàng hỏi:
- Thế ra ông lúc đó, chỉ có một thân một mình thôi sao?
- Vâng, chỉ trọi có một mình. Tôi cố tìm cách trỗi dậy, nhưng không ai để mắt đến
tôi: bọn khán hộ thì bận túi bụi lên vì những người bị thương nặng. Thành ra
tôi cứ sụt sùi khóc mãi, thiếu chút nữa thì đến gào lớn lên. Ồ! Những cái khổ sở
nhỏ nhặt kia trong cái khoảng từ năm 1914 đến 1918, sao mà có vẻ to tát quan trọng
đến thế! Ấy, giữa lúc đó thì một người đàn bà ở đám đông hiện ra, lăng xăng như
một con ong trong đám hoa hồng… người ấy đưa tôi đến một chỗ yên tĩnh, lấy chiếc
khăn tay được hương cỏ mới ra lau nước mắt cho tôi; muốn tránh cho tôi khỏi bị
những con mắt tò mò của đám người dòm ngó, người ấy đứng che khuất trước mặt
tôi – mà tôi thì to lớn gấp hai người ấy – rồi đặt và miệng tôi một điếu thuốc
lá và châm lên cho tôi hút. Và trong khi làm các việc đó, người ấy nhìn tôi một
vẻ nhìn vỗ về phấn khởi, đôi con mắt sáng như gợi sự can đảm và sự sống vào
lòng tôi.
Rồi không yên tâm, chàng tiếp:
- Những điều tôi vừa kể hình như làm cô không được vui lòng thì phải.
Nàng khẽ đáp:
- Không! Ông cứ nói nữa đi.
- Người ấy căn vặn hỏi han tôi một diều, đi đánh một bức điện tín thứ hai, rồi
lại đi tìm một người bị thương khác mà không có săn sóc, cho chúng tôi ở một chỗ
rồi đưa chúng tôi lên một chuyến hẳn hoi. Miss Bartendale ạ, trong cái hồi dài
dặc tôi chịu bệnh, cái buổi gặp gỡ kia đã thêm được sức mạnh cho tôi. Tôi muốn
được sống mãi để tìm thấy người đàn bà nhỏ nhắn kia, người đàn bà có đôi mắt
sáng trong và được mùi hương cỏ mới.
Luna nói:
- Chỉ chút xíu cũng đủ làm hởi lòng một người binh sĩ bị thương.
- Về sau, tôi tìm kiếm người ấy khắp London, nhưng bao nhiêu nhân viên nhà ga đều
đã thay đổi cả. Tuy thế, tôi biết rằng thế nào một ngày kia tôi cũng sẽ lại được
gặp người ấy.
Luan nhìn chàng, và lần ấy mới là lần đầu tiên cô trông thấy chàng thực. Từ
sáng đến lúc ấy đối với cô, Oliver chẳng qua chỉ là một khách hàng thôi. Từ bây
giờ trở đi thì đột nhiên chàng không là hạng riêng biệt như trước nữa, chàng đã
thành một chàng trai, thái độ lặng lẽ, đứng mực nhưng hoạt bát tự nhiên, một nét
mặt thanh tú như cô em và đôi mắt cũng đẹp như cô em. Cô đoán biết ở chàng một
tâm hồn khí khái, cương quyết và một tính tình u trầm. Cô thấu hiểu chàng ngay
và nhận rõ thấy chàng qua những tổ tiên chàng là số người đã quyên sinh ngay
sau khi gặp thấy con quái vật.
Một sự gì mới lạ và bất ngờ nảy ra trong tâm hồn cô trong lúc mắt cùng dò sâu
trong mắt. Cô ruồng đuổi cái ý tưởng chưa thành lời, nhưng đàn bà là hạng người
không cần đến ngôn từ mới định nghĩa được tình yêu. Cô bối rối vì sự im lặng
quá nặng nề, bỗng hỏi:
- Đến Hassocks rồi đây, phải không?
Oliver cũng cảm động trả lời:
- Phải, đến rồi.
Chàng nhận thấy rằng cái phép lạ quan trọng nhất và giản dị nhất vừa mới làm trọn.
Nhưng Luna lại vừa trải qua những phút đau khổ nhất đời cô, lòng vò xé bởi một
điều bí ẩn mà cô đã khám phá ra được từ lúc còn ở Dannow.
Đã đến nhà ga Hassocks rồi.
Swanhild lúc đó cũng theo kịp hai người trong chiếc Mercedes. Nàng băn khoăn hỏi
Luna:
- Cô chắc rằng đêm nay không việc gì chứ?
- Chắc. Sáng mai cô gửi cho tôi một bức điện tín và đừng ngại cho tôi biết bất
cứ việc gì xảy ra, cũng đừng quên rằng 11 giờ mai tôi chờ hai người ở nhà tôi đấy
nhé.
Đứng trong cửa sổ toa xe lửa. Luna dặn dò nốt những điều phải làm cho Swanhild
lúc đó đứng dưới sân ga. Chắc hẳn năm xưa, lúc ở mặt trận trở về quê Oliver
cũng thấy em gái chàng đứng như thế.
Gặp mắt chàng, Luna hiểu rằng chàng cũng đang nghĩ như mình. Cô tự trách về sự
đồng tâm ấy, và rắp định từ nay sẽ giữ gìn tình ý một cách kín đáo hơn.
Ngồi một mình trong toa, nghe tiếng đều đều một điệu như ru của đoàn tàu đang
chạy, trông ánh sáng cuối ngày soi qua cửa sổ, cô để tâm hồn chìm đắm trong sự
suy nghĩ trầm ngâm. Con Roska ghếch đầu lên gối cô: mắt nó như phản chiếu nỗi xốn
xang trong lòng cô chủ. Tên một ga gần tới London kéo cô ra khỏi nguồn mơ tưởng.
Cô bực mình vì thấy con chó có vẻ ngần ngại:
- Cần quái gì! Roska! Nghề nghiệp của ta là phải thế kia mà!
Cô mở cửa kính để liệng ra ngoài sương mù một gói gì nho nhỏ. Rồi vừa soi gương
sửa lại mũ, và đánh lại mặt phấn, cô nói tiếp:
- Ta chỉ nên nghĩ đến công việc là hơn.
Xuống ga Victoria, cô mua một số Evening Post, bản phát hành buổi tối. Mấy hàng
chữ lớn in trên đầu báo:
Ma quái hiện về chăng?
Một án mạng ly kỳ trong miền Sussex
Và ở dưới, chữ nhỏ hơn:
Sự bí mật khu lâu đài cổ Dannow càng ngày càng thêm dầy đặc. Tin tức sau cùng.
Một anh chàng người xương xương, ở một toa khác vừa xuống, cùng đến một lúc với
Luna bên hàng bán báo. Chàng ta nhã nhặn biếu người thiếu phụ một số báo còn gấp
có buộc kèm theo một túm cỏ (primrose) và một cành thông con. Vừa cười, anh
chàng vừa bảo Luna:
- Cỏ lá hái được ở Dannow trong cuộc đi săn tin tức đặc biệt đấy! Thưa cô nữ
thám tuyền đáng quý của tôi.
Luna do dự cầm lấy túm cỏ và đáp:
- Tommy, anh thực là một đứa tai quái trơ trẽn nhất đời. Gọi một cái xe cùng đi
với tôi, rồi tôi hứa sẽ nhỏ cho một giọt nước mắt khi nào anh bị treo cổ.
Thomas Curtiss cười. Anh chàng phóng viên nhà báo United Press ấy công nhận:
- Phải ạ, phần nhiều bọn nhà báo chúng tôi đều đáng treo cổ tuốt thực, nhưng
chính cô, cô cũng vẫn bảo tôi là người ở trong cái số ít tội nhất kia. Có lẽ vì
thế mà cô đã đánh điện tín cho tôi ngay từ lúc cô biết có những việc xảy ra ở
Dannow chứ gì?
- Biết đâu chỗ đó?
Luna bước lên xe hơn, Thomas ngồi bên ngọt ngào dỗ:
- Luna ơi, người bạn của Luna từ lúc còn thơ ấu là Tommy(2) ([Tên Thomas, gọi
hoặc tự xưng trong lúc thân mật]) này, liệu có thể tách bạch hẳn với anh chàng
đặc phóng viên tên là Curtiss này được không để xin Luna cho biết rằng Luna đã
khám phá được cái bí mật ở Dannow chưa?
Chương 15. MỘT TỘI ÁC HOÀN TOÀN MỚI MẺ
Người thiếu phụ lấy giọng nũng nịu đáp:
- Người bạn trẻ tuổi của tôi thì muốn hỏi gì tôi cũng xin chiều ý. Nhưng…
Và trở lại đứng đắn, cô tiếp:
- Nhưng anh hãy cho tôi biết trước trong bài tường thuật của anh, anh nói những
gì đã.
Chàng ta cất tiếng cười:
- Tôi tả cảnh làng xóm, trụ sở của viên cảnh sát, nói đến lúc cô tới Dannow và
tường thuật cuộc phỏng vấn cô. Bài ấy tôi đã từ Hassock đọc về nhà báo rồi,
trong lúc cô đi ăn cơm ấy. Bài ấy để đăng trang đầu số báo ngày mai, bản phát
hành chiều hôm nay chỉ ra một đoạn tóm tắt. À mà, tiện thể tôi hỏi Luna câu này
nhé: Luna làm ơn viết giúp một bài nói về các ma quái, cho tuần trương Weckly
ra ngày chủ nhật được không?
Để tôi xem đã. Trong bài phỏng vấn tôi, anh đã bảo tôi nói với anh những gì rồi?
- Rặt những điều thông thường mọi khi cả. Ban chiều tôi đã chụp mấy bức ảnh để
in vào phần tranh ảnh của báo, tôi đã tìm cách chụp người thiếu nữ bị hại,
nhưng không được: lão đầy tớ nhà ấy không nể nang gì, nhất quyết gạt tôi ra.
Không đủ ánh sáng để chụp mấy nơi trong nhà, tôi phải chụp cô ở nhà thờ với cả
gia đình nhà khổ chủ. Luna nhỉ, tôi đoán chừng trong việc này cô muốn không ai
quấy rầy phải không?
- Phải. Càng được yên thân càng tốt, nhà làm báo quý hóa của tôi ạ.
- Tôi viết về các việc một cách rất tường tận, bọn khác chỉ cứ thế mà theo. Như
thế thì cô tránh được cái nạn quấy rầy của phóng viên nhà báo. Vậy, đền cái
công khó nhọc ấy cho tôi, cô chỉ phải nói cho tôi biết rằng cô đã tìm ra manh mối
trong việc này chưa?
- Điều ấy thì tôikhông thể trả lời cho anh được.
- Thế ngộ tôi tìm ra được thì sao? Cái căn phòng giữ kín ở lâu đài Dannow đã
khiến tôi để tâm ngay từ lúc còn bé.
Xe hơi đỗ lại trước một cái nhà dưới bóng cây rậm. Tommy xách hành lý của người
thiếu phụ, theo sau nàng. Trước khi mở cửa, cô ngập ngừng nói:
- Tôi vẫn thường tự nghĩ chẳng biết bụng dạ bọn phóng viên nhà báo thế nào.
Này, Tommy này, giả dụ trong một cuộc điều tra của anh, anh biết được một việc
khi công bố lên có thể thương hại được anh, thì anh làm thế nào?
Chàng ta trang trọng đáp:
- Thì tôi sẽ lảng ngay, nếu việc điều tra kia là do ý tôi định. Nhưng nếu nhà
báo phái tôi theo đuổi tới cùng, thì tôi sẽ làm trọn phận sự của tôi.
Từ phòng khách đưa ra mấy nhịp dạo: bà Yorke ở nơi hòa nhạc về. Lúc Luna bước
vào, bà nói:
- Cuộc hòa nhạc hay lắm, cháu ạ.
Bà Yorke là một người đàn bà to béo, nở nang vẻ tươi cười. Mái tóc trắng bạc,
nước da tươi tắn với đôi mắt lánh đen, bà già này vẫn giữ lấy cái ý tưởng mình
còn thanh xuân. Mà bảo cháu gái là:
- Cô xem ra cháu mệt mỏi lắm thì phải. Cô đã đọc các báo rồi. Cháu chả phải
nói, cô cũng đoán rằng cháu đã soi thấu được những bí ẩn ở Dannow rồi!
Luna lẩm bẩm:
- Vâng, thực cháu không muốn nói đến chuyện ấy chút nào hết. Trong các việc
kinh khủng từ xưa tới nay thì cái việc này…
Cô gieo người xuống một cái ghế bành. Con mèo cái và con mèo con đang sưởi bên
lò lửa, đến nhảy lên lòng. Con chó Roska thì đặt mõm trong lòng bàn tay cô củ,
nhưng cô vẫn giữ vẻ trầm ngâm. Bà Yorke lại gần hỏi:
- Cháu làm sao thế. Hôm nay sao cháu có vẻ khác mọi khi thế này?
Cô trả lời:
- Trưa hôm nay, sau khi tìm được ý nghĩa mấy chữ bị xóa mất, cháu phải đóng một
vai kịch nặng nề hết sức, nên bây giờ cháu cần phải nghỉ ngơi đôi chút mới được.
- Việc ấy thế nào, cháu kể lại cho cô nghe với đi! Tuy cô chẳng giúp đỡ cháu được
điều gì, nhưng có chuyện gì bàn bạc với cô thì bao giờ cháu cũng nhẹ bớt được
phiền muộn.
Luna bỗng sẵng giọng đáp:
- Tôi chẳng có chuyện gì mà nói hết!
Rồi cô vội xin lỗi về sự bẳn gắt đột ngột đó:
- Là vì cô vô tình đã nhắc đến chuyện phiền muộn rắc rối của cháu. Được, để rồi
cháu xin kể đầu đuôi cô nghe.
- Lúc nào nói cũng được cháu ạ. Sắp đến bữa ăn tối rồi đó, cháu nên nghỉ ngơi một
chút đã.
Luna tìm lại được sự bình tĩnh thường ngày thì trời đã tối lắm. Đến giờ dùng cà
phê. Cô vừa hút thuốc lá vừa đem hết các điều kinh tởm ghớm ghiếc trong chuyện
bí ẩn nhà Hammond, kể ra với bà cô nàng. Quen nghe thứ chuyện này đến như bà
Yorke mà lúc ấy bà cũng phải lấy làm khiếp sợ. Bà nói như rền rĩ:
- Trời ơi! Kinh khủng thực!… Thế cháu định nói thế nào với những người thiếu
niên tội nghiệp ấy? Tại sao tội ác ấy khởi truyền tự nghìn năm về trước? Mà cái
tội ác mới quái gở làm sao! Một tội ác hoàn toàn mới mẻ!
- Không phải. Đã có một số người ngày xưa bị cáo là phạm vào cùng một tội như
thế rồi.
- Cô nói hoàn toàn mới mẻ là nhớ đến những lời nêu trến các báo đó. Nguyên do tại
sao mà biết bao nhiêu ngưởi trong họ Hammond lại tự tử như thế, thì người ta đã
hiểu quá rõ rồi!
Luna nhún vai:
- Việc của nhà này là việc đặc biệt. Cháu đi gọi điện thoại nói chuyện với giáo
sư Bergstrom về thành gươm đây.
Miss Bartendale vẫn có cái lệ bao giờ cũng nhờ đến tay bác học chuyên môn. Cô
tuy đã biết qua những điều sơ lược của phần nhiều khoa thuật, nhưng trong những
cuộc tra xét, cô thường hay gây lấy những mối giao du có ích cho công việc.
Luna bảo bà cô:
- Ông ấy đang thuê xe lại đây. Cô tiếp hộ cháu nhé. Tối hôm nay cháu không thể
làm gì được nữa: cháu đi ngủ đây. Bây giờ chưa mười giờ, nhưng cháu làm việc suốt
ngày, mệt nhọc hết sức rồi. Cháu già đi đó cô ạ.
Bà Yorke lo ngại nhìn:
- Thì sao cháu không bỏ cái nghề này đi có được không?
- Là vì cháu muốn lợi dụng những khiếu riêng của cháu. Cô không nhớ những việc
cháu đã giúp cho bao nhiêu người thất vọng, rồi sao?
- Cô biết lắm. Nhưng nếu những khiếu riêng kia mất đi thì sao? Cô thú thực với
cháu rằng cô đã chực mong như thế đó. Cháu không theo nghề này nữa thì cô biết
cô sẽ phải chịu thiệt thòi là sẽ không được cháu làm bạn với cô nữa, nhưng cô
nghĩ đến điều ấy mãi dần dà cũng quen rồi, cũng không lấy làm buồn lắm, vì cô
không phải là người ích kỷ đâu.
Luna đáp:
- Không bao giờ cháu mất những thiên bẩm của cháu. À mà, cô này: ông giáo sư chỉ
biết cháu tìm được thanh gươm trong một lâu đài cổ thôi, còn những chuyện khác,
ông ấy không biết gì hết nhé!
Lần đầu tiên, cô lấy làm tiếc rằng cô nàng đã biết được là có hai nguyên nhân
có thể làm mất phép của một nhà linh hồn học; hai là nguyên nhân đó là: một trọng
tội, hoặc một sự say mê đắm đuối chiếm hết tâm và trí người.
Phần II
MỒ CHÔN QUÂN CƯỚP BẮC-ÂU
Chương 1. PHỤ HỒN CỤ PHÁP SƯ
Sáng hôm sau vừa trở dậy được một lát, Luna đã nhận được điện
tín của Swanhild. Trong bữa điểm tâm, nàng bảo bà Yorke:
- Người con gái tên là Kate vừa chết đêm hôm qua rồi, cô ạ.
Bà Yorke chỉ khẽ kêu:
- Tội nghiệp!
Và không tìm được lời nào khác. Luna lại nói:
- Đằng sau thì cô ta cũng không qua khỏi được, điều đó đã biết từ trước. Sống
được thêm một vài giờ như thế cũng đã là may rồi. Về cuộc điều tra của các nhà
chuyên trách thì cháu đã dặn dò dự bị mọi điều, duy chỉ sợ bọn bẫy trộm trong rừng
bị liên can vào vụ án mạng. Cô đã đọc các báo chưa?
- Đã. Bọn phóng viên, người nào cũng nói rằng đã phỏng vấn cháu. Báo Dally
Speculum đăng cả một trang ảnh. Có một bức chụp cháu ở cổng nhà thờ đứng cùng với
gia đình nhà Hammond. Oliver Hammond trông có vẻ cao lớn hơn cả cái nhà thờ, cô
em và vị hôn phu của cô ta thì không rõ mặt, còn cháu thì chỉ là một cái hình mờ
đánh dấu chữ thập. Một bức ảnh khác chụp phiến hình tạc nổi và bức tranh. Lại
có cả ảnh chân dung viên thanh tra. Những bài hát thì in bằng chữ mập.
Luna:
- Hừm! Thực là đẹp đẽ cho mấy khách hàng của cháu lắm nhỉ! Những câu vè trứ
danh kia hiện giờ được khắp nước Anh bàn ra tán vào! Chỉ mong sao cho báo Daily
Post đừng có cái ý kiến đặt một giải thưởng để tặng những lời bàn hay nhất về ý
nghĩa những câu hát kia thôi! Ối, mà trong lúc này cháu chưa muốn nghĩ đến việc
này vội.
Tuần lễ đó, nhân trong nước không có vụ ly dị nào làm sôi nổi dư luận, nên Curtiss
đã khiến được công chúng hết sức chú ý đến tấn thảm kịch mới xảy ra. Trên các
báo, kỳ phát hành nào cũng đăng Sự Bí Mật ở Dannow hoặc Chuyện Khủng Khiếp miền
Sussex. Cả cái tin Kate Stringer chết, trên tờ Stop press cũng đã thấy đăng rồi!
Lúc anh em nhà Hammond đến London, Luna phải tìm cách khôn khéo chối từ cuộc phỏng
vấn của ba người phóng viên nhà báo ngồi đợi sẵn phòng ngoài. Bọn phóng viên đi
rồi, nàng lại phòng khách là chỗ Swanhild, Oliver và Goddard đang trò chuyện với
bà cô Luna.
Trong căn phòng nhỏ hẹp này, Oliver trông to lớn lạ. Ngoài cái vết bầm tím ở
thái dương thì không còn một dấu nào còn lại ở những rủi ro đã xảy ra cho
chàng. Chàng vui vẻ bảo Luna:
- Tôi trông cô đã có vẻ lại sức rồi, không nhọc mệt như hôm qua nữa.
Rồi, đôi mắt sầm tối lại:
- Cô đã nhận được điện tín của Swan rồi chứ?
- Vâng, nhận được rồi. Mà tôi cũng đã biết trước điều đó.
Nàng trông thấy một sự kinh khủng thâm độc dồn đến đôi mắt chàng và những ý tưởng
khiếp nhược mơ hồ vẫn ám ảnh trí não chàng lúc đó cũng thêm rõ rệt. Chàng hỏi
không thành tiếng:
- Miss Bartendale, cô cũng biết rằng việc thí mạng phải đủ bộ chứ?
Bề ngoài tuy giữ vẻ bình tĩnh, Swanhild cũng cuống cuồng lo ngại mà nhìn Luna
qua vai anh cô. Luna sẵng tiếng nói ngay:
- Thôi, không nói chuyện ấy nữa, ông Hammond ạ. Những việc quá khứ nhắc lại
không ích gì. Hoài hơi đâu mà ân hận vô ích, ông nên giúp tôi tránh những sự rủi
ro sau này là hơn.
Những lời ấy, nói bằng chất giọng có một sức huyền diệu khiến cho Oliver vững
tâm cứng cỏi ra mặt. Sự vui mừng lóng lánh trong đôi mắt Swanhild.
Bà Yorke chăm chú nhìn hết cô cháu gái bà rồi lại nhìn Oliver. Sau cùng,
Goddard nói:
- Đấy nhé! Tôi cứ hết hơi bảo anh thế mà anh có nghe tôi đâu! Bây giờ miss
Bartendale cũng nói thế thì hẳn anh tin tôi rồi chứ?
Oliver đáp:
- Tôi vẫn biết anh nói phải lắm, nhưng có phải bao giờ người ta cũng làm chủ được
những ý nghĩ của mình đâu.
Luna:
- Cứ muốn là được đó.
Swanhild hỏi:
- Cô đã dịch xong những câu cổ tự chưa?
Luna mỉm cười:
- Chưa. Ông giáo sư tôi nhờ dịch hộ đã cặm cụi suốt đêm qua, và sáng hôm nay
tôi với ông ta lại đến hỏi cả ý kiến ông giám đốc bảo tàng coi về cổ vật Bắc Âu
trong British Museum. Những chữ cổ kia, họ bảo không phải là chữ thường có,
nhưng họ cũng đoán ra đã có từ khoảng đệ bát thế kỷ rồi kia.
Swanhild có vẻ thất vọng. Goddard nhắc lại cho Luna nhớ:
- Nhưng miss Bartendale, trước cô đã bảo thanh gươm có từ trước hồi kỷ nguyên
Cơ Đốc kia mà!
Luna:
- Chỉ có lưỡi gươm mới thế.
Swanhild hỏi:
- Hôm nay chúng tôi đến đây thì phải làm những việc gì?
- Để bà cô tôi tiếp hai ông kia, còn cô thì cô giúp tôi việc này.
- Tôi giúp cô?
- Vâng.
Nàng khoác tay Swanhild rồi dìu ra khỏi phòng. Oliver không nói gì, chỉ có
Goddard cau mày ra vẻ không vừa ý. Ngay từ lúc đến nhà Luna, chàng cũng đã dè dặt
từng ly từng tý, vì bao nhiêu hành vi bí mật của Luna chàng chưa hiểu được
duyên cớ, thì chàng vẫn chưa yên lòng.
Sau đó nửa giờ, một người đầy tớ gái dẫn Oliver và Goddard vào trong phòng làm
việc của nhà nữ siêu linh học. Căn phòng nhỏ nhắn, bài trí trang nghiêm: một
cái divan, một cái bàn giấy lớn, một tủ sách và đôi ba chiếc ghế bành rất tiện
cho người đến thỉnh vấn ngồi đó mà trầm ngâm. Bốn mặt tường phủ một lượt giấy
màu âm u và cả căn phòng chìm trong một bầu tranh sáng tranh tối.
Swanhild lúc ấy có vẻ bứt rứt khó chịu. Luna thì bình tĩnh và yên lặng, giữ
thái độ trang trọng của nhà nghề.
Oliver hỏi:
- Thế nào?
Luna đáp:
- Tôi cần muốn biết thêm mấy điều nữa và định nhờ ông bảo cho biết.
Chàng ngạc nhiên:
- Tôi thì tôi cho cô biết được gì?
- Ông cho tôi biết những điều về cụ Warlock đã biết về con quái vật chẳng hạn.
- Nhưng tôi có biết gì đâu!
- Khi tỉnh thức thì không biết gì thực. Nhưng ông là một người dòng dõi cụ
Warlock, vậy ông không ngờ đâu rằng cái điều mà chúng tôi tìm biết đây có lẽ vẫn
tiềm tàng trong một đường ẩn khuất của khối óc ông cũng nên.
- À! Thế ra cô định phụ hồn ông cụ lên sao?
- Tôi đã có lần nói với ông rằng nếu không có lời thỉnh cầu thì không bao giờ
tôi có thói tọc mạch tìm biết những việc thế giới bên kia. Việc bây giờ giản dị
hơn thế nhiều; tôi dùng cách thôi miên, mà trong giấc thôi miên thì người ta
đôi khi nhớ lại được những việc mà chính mình không biết trong lúc tỉnh thức.
- Cô định thôi miên tôi ư? Xin vâng. Nhưng tôi thấy việc đó cũng có mất thể diện
cho tôi chút đỉnh thì phải.
- Đó là vì ông tưởng đến công việc của những tay thầy vườn. Ông hãy ngồi xuống
cái ghế bành này và trả lời những câu hỏi tôi hỏi ông, cũng như miss Hammond
ban nãy.
Goddard kêu:
- Thế nào? Swanhild? Swanhild chả lẽ lại ưng thuận cho…
Swanhild đáp:
- Sao lại không ưng thuận? Tôi chỉ ngủ đi một lúc, rồi bây giờ chẳng còn nhớ tý
gì.
- Miss Bartendale ạ, tôi xem ra phương pháp của cô nguy hiểm mà chưa chắc đã có
hiệu quả gì…
Nhưng Goddard thôi ngay vì chàng biết có phản đối cũng đã muộn. Oliver có ý
trách móc chàng:
- Anh Goddard ạ, miss Bartendale biết việc gì nên làm thì mới làm.
Luna cắt nghĩa:
- Cô em không thể trả lời tôi được lấy một câu nào qua. Tôi mong rằng với ông
thì tôi may mắn hơn thế.
Oliver sốt sắng, quả quyết nói, đôi mắt long lanh thấy câu chuyện hay hay:
- Tôi xin tuân lệnh, dù xảy ra việc gì mặc lòng.
Trong mắt Luna cũng thoáng có một ánh lửa.
Nàng với người thanh niên đối diện nhau, tay cầm lấy tay như đôi bạn đồng hành
sắp sửa đi trên một con đường tối tăm và xa lạ.
Luna nói với mọi người:
- Chúng tôi sắp đi ngược lại nguồn thời gian, trở lên đến tận đời ông cụ Pháp
sư trong dòng họ nhà này. Nàng dìu người thụ pháp của nàng ngồi xuống cái ghế
bành quay mặt ra cửa sổ, rồi khiến:
- Ông Hammond! Ông trông cái đồng hồ quả quít kia, ông cứ nhìn cái vỏ đồng hồ
bóng loáng ấy cho đến lúc tôi bảo thôi hãy thôi.
Một sự lặng lẽ chăm chú và hồi hộp chiếm lấy bầu không khí căn phòng ấy.
Jessie D. Kerruish
Dịch giả: Thế Lữ
Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét