Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Vùng mắt bão 3

Vùng mắt bão 3

CHƯƠNG IX
Súng đì đoàng chát chúa nổ bên làng Giỗ. Chắc bọn lính sắp đi càn. Mấy ngày nay, nó càn các thôn quanh bốt liên tục. Mật báo từ trên về, đang có chỉ điểm trong hàng ngũ ta. Đối tượng đã xác định được, nhưng những gì tên chỉ điểm biết, dù ta đã kịp thay đổi, địch vẫn nghi ngờ.
Bà giáo Thuận tất tả chạy về. Vừa rẽ vào con ngõ nhỏ, bà gặp Lân áo gụ vắt vai đang vội vã lao ra:
- Tây bốt Giỗ đang càn về Đức Đại, con không xuống hầm mau lại còn định đi đâu?
- Con chạy sang bên kia lo chống càn với anh em.
- Không được, để yên hãy sang. Anh em bên ấy cũng xuống hầm cả rồi. U vừa bên ấy chạy về đây. Mọi việc từ từ rồi tính, không làm ẩu được đâu. Giờ biết nó chỉ ai, bắt ai mà còn nhởn nhơ trên này… Xuống hầm. Cứ xuống đi đã, còn người còn mọi việc…
Miệng nói, tay bà giáo đẩy cậu con trai xuống hầm. Căn hầm được đào ngay dưới bếp đun của nhà, thông ra bụi tre to đầu cổng. Bên cạnh là bờ tường đắp đất cao ngang đầu người trồng rặt một loại xương rồng, chi chít gai, nhọn hoắt như kim. Trồng xương rồng trên bức tường ngoài trước khi làm bếp để đào hầm cũng là ý của bà giáo Thuận. Vô tình, kẻ nào muốn lẻn vào cạnh căn bếp nhỏ để nghe ngóng, gai xương rồng đâm vào chỉ có nước chờ nó mưng lên, chích mủ ra mới hy vọng lấy đầu gai được. Nhựa xương rồng vốn rất độc. Trồng xương rồng làm hàng rào bảo vệ là hay nhất.
Cách cái bếp nhỏ nhà Lân mươi bước là cây cầu xếp bằng ba phiến đá xanh, mỗi phiến to cỡ chiếc chiếu đơn kề nhau vắt ngang con ngõ nằm sát bên đình Đức Phong. Mỗi lần đi càn, tên đội Gầy cùng tên xếp bốt chỉ đứng trên cây cầu đá chỉ huy quân, không bao giờ chúng dám vào hẳn trong làng. Vừa sợ du kích, vừa lo chạy không kịp. Căn hầm của Lân tưởng đặt chênh vênh giữa chỗ nguy hiểm nhưng lại thật an toàn. Và anh còn thấy an toàn hơn rất nhiều khi người đang bảo vệ anh trên kia chính là mẹ đẻ của anh.
Lân vừa xuống hầm, bà giáo đặt ngay nồi cám lợn to tướng lên ba ông đầu rau kê ngay trên miệng hầm, gạt đống giấm vào giữa bếp. Những sợi khói mỏng tang, phất phơ bay lên. Dưới hầm, Lân nghe rõ tên xếp bốt chỉ huy:
- Một tốp chúng mày về xóm Một, tìm bằng được hầm bí mật. Tốp kia, dồn hết dân ra đình cho ông… Đứa nào ngang ngạnh cứ gô cổ lại, điệu ra, cần thiết thì "bụp"! Alê, đi!
Tiếng giầy đã uỳnh uỵch bên cạnh. Trẻ con khóc ré lên, tiếng la hét, kêu khóc dồn dần về đình làng.
Bà giáo Thuận vẫn lui cui bên nồi cám lợn trong gian bếp nhỏ. Một tốp ba thằng Pháp cao lênh khênh ập vào, đầu chạm mái gianh, mắt xanh lét như mắt mèo hoang, giọng lơ lớ:
- Việt Min! Việt Min!...
Bà giáo xua tay, lắc đầu:
- Không có. Không biết…
- A lê hấp…
Thêm một tràng tiếng Tây xì xồ nữa. Bà giáo không hiểu chúng định nói gì. Tay thông ngôn thấy bà giáo cứ đứng yên liền đẩy vai bà:
- Quan trên bắt dân tập trung hết ngoài đình để ngài điểm mục. Đứa nào ở lỳ trong nhà, đích thị là Việt Minh, quan đồn giết không tha. Bà già có thấy có đứa nào lạ lẫn vào người làng này không?
- Bẩm thầy đội, tôi già cả, làm gì biết ai…
- Chúng mày mà che giấu Việt Minh thì liệu hồn. Quan đồn sẽ làm cỏ cả làng, hiểu chửa? Ra đình mau…
Dân Đức Đại bị ốp hết ra đình. Những đôi mắt trẻ thơ ngơ ngác trên gương mặt nhem nhuốc. Các cô đầu tóc rũ rượi, mặt nhoe nhoét nhọ nồi ngồi lọt thỏm trong vòng che của các ông, bà già.
Thằng đội Gầy nhịp nhịp khẩu súng lục trên tay. Bất ngờ, nó vung súng ngắm bức cuốn thư của đình, bắn đoàng rồi ngả cổ cười hô hố. Cái cần cổ dài nghêu như cổ cò của nó đỏ như da gà chọi, giật bần bật theo nhịp cười. Vài đứa bé giật mình, khóc ỏm tỏi. Mấy bà mẹ vội bịt miệng chúng lại.
- A lê… Điểm mục chúng nó cho tao! Thằng đội Gầy gí sát bộ mặt khỉ của nó vào mặt hương chủ làng. Vốn là người của ta cài vào, hương chủ làng ra bộ khúm núm:
- Bẩm thầy đội, dân làng tôi đủ mặt hết rồi đấy ạ.
- Dân Đức Đại vốn ngang đầu cứng cổ lắm lắm… Lôi mấy đứa kia ra cho chúng chỉ xem đứa nào trong làng này là Việt Minh!
Dân làng nghển cổ nhòm mặt tên chỉ điểm. Bọn lính Pháp, lính nguỵ giật cò súng rôm rốp, uy hiếp mọi người. Mấy tên nguỵ xông vào giữa đám dân, nghiêng ngó suốt lượt, lôi mấy người mặt mũi coi sáng sủa một chút, bắt xếp hàng riêng. Tên chỉ điểm bước ra. Bà con à lên, khinh bỉ. Hai con mắt đảo điên, thằng phản bội giả bộ bình thường, miệng há hoác, môi trên trễ xuống. Nó nghiêng đầu, làm như chào dân làng, đoạn nhẹ lời:
- Bà con cho tôi hỏi nhà giáo Mão ở chỗ nào?
Không có tiếng trả lời. Chỉ có tiếng mấy cụ già gãi ghẻ sồn sột. Thằng chỉ điểm cười cười:
- Bà con nào biết, dạo này mấy người… ờ ờ… là gì ấy nhỉ… Nó làm trò nhớ nhớ quên quên đưa tay vỗ vỗ trán. Rồi làm như chợt nhớ ra, nó lại cười… Mấy người tên Tân, tên Vị… Không biết họ có còn qua lại đây trò chuyện với ai ở làng mình không?
Vẫn chỉ im lặng. Những ánh mắt căm hờn từ phía dân làng trút về phía chúng. Vài bà cụ xem như vô tình nhổ cốt trầu phì phì. Thằng chỉ điểm nhìn quanh một lượt rồi lắc đầu.
- A lê hấp… Lũ thối thây… Mấy thằng lính Pháp túm vai áo tên chỉ điểm, giúi vào phía trong.
- Không chỉ được thằng nào là Việt Minh cũng dồn hết chúng nó lại. Bắt hết mấy đứa kia về bốt cho tao!
Thằng đội Gầy rít lên, xổ một tràng tiếng Tây hổ lốn. Bọn lính xông vào. Các bà, các chị, các ông ở vòng ngoài bật dậy, quây cả lại. Giằng co một hồi, đám lính nổ súng đì đọp. Tiếng kêu khóc, la hét ầm cả chốn linh thiêng. Vật vã một hồi, đám lính cũng lôi được mấy thanh niên về bốt.
Mãi sau này, người Đức Đại được nhân mối trong đồn đưa tin. Những người bị chúng bắt trong các trận càn, bị tra tấn trong bốt, nếu nhận ngay là Việt Minh, chúng sẽ đem đi thủ tiêu. Về sau, bị phản đối dữ dội, địch đem những người bị bắt ra phân loại. Ai bị quy là thành phần nguy hiểm địch sẽ đưa lên nhà tù Hải Dương, sau đó phát vãng, đầy ra Hoả Lò, Côn Đảo… Những người nếu khai là giáo viên bình dân học vụ hay làm những việc đơn giản chúng xếp hạng Việt Minh không nguy hiểm rồi đẩy đi làm bia đỡ đạn trong những trận càn hoặc làm phu vác đạn, cu li cho chúng.
Ngồi dưới hầm, ruột gan Lân như lửa đốt. Không thấy hết những gì đang xảy ra trên đình làng, anh bứt rứt vò đầu. Không thể cứ để quân địch làm càn mãi. Nhất định các anh sẽ phải hành động.
Quần thảo suốt một ngày, lục lọi khắp hang cùng ngõ hẻm, tà tà mặt trời, thầy tớ thằng đội Gầy kéo nhau về bốt. Chúng lại dàn hàng ngang trên đường, súng trễ bên hông. Trên vai lủng lẳng chuối, mía cướp được của dân, trên tay khư khư mấy con gà bị chúng vặn cổ giấu vào bên cánh. Giầy đinh khua mặt đường thình thịch, đám lính hô hố cười, cứa vào gan ruột người Đức Đại đang bầm lại.
Cuộc họp tổ Đảng của Đức Đại đã thống nhất phương án hoạt động mới. Trong lòng địch, nếu ta không nắm vững đường lối, không mềm dẻo để thích nghi với tình hình, ta sẽ thất bại. Lân đã thẳng thắn phát biểu tại cuộc họp. Không thể găng với địch lúc này khi thế chúng đang mạnh. Phương án của anh đưa ra được tổ Đảng thống nhất. Vận động bà con các làng mềm dẻo đấu tranh với địch, lúc này sẽ có lợi cho ta.
Đêm lặng như tờ. Gió cũng không còn thổi nữa. Không trăng, cũng chẳng thấy sao. Tất cả chìm trong màu đen thần bí. Lân, Thoại, Thịnh đang ngồi trong nhà cụ Đẩu. Ngoài ngõ, đom đóm lập loè như đốm ma trơi. Chờ chưa giập bã trầu, hương chủ làng bước vào. Vừa rũ rũ vạt áo the đen, hương chủ Hoàn vỗ vai Lân, cười:
- Việt Minh dồn đống ở đây chứ đâu mà lũ quan quân nhà chúng nó cứ phải lùng sục… Đúng là một lũ … có mắt không tròng… Mù ráo!
- Nó có mù mới thế. Không mù, sao nó lại để cho một đảng viên, Việt Minh chính hãng làm hương chủ làng… Khà khà… Tình hình sao rồi, nó gọi "cụ hương chủ" làng lên đồn "răn dạy" ra sao? - Lân ấn vào tay Hoàn bát nước vối.
- Ờ, ờ… Nó bắt làng mình mai đưa sang đồn một trăm phu, nộp ba trâu, năm lợn, mười gà, một trăm cây tre để rào bốt, san đường… Ông Hoàn đặt cái bát không xuống phản, vê thuốc lào nhồi vào nõ điếu, thủng thẳng…
- Mẹ tổ nó… - Anh Thịnh bật lên - Ngồi đấy mà gọi phu, gà lợn… Chúng ông cho cả người về đào hố chôn chúng mày một thể…
- Anh lại nóng rồi…- Lân xoa tay vào vai anh Thịnh - Bình tĩnh chứ… Biết vậy để mình chuẩn bị.
Sáng banh mắt, trên con đường vắng lặng của Đức Đại, những tốp người uể oải, lừ đừ sang bốt. Mới đến đầu phố Giỗ, bà con đã túm tụm cả lại. Hương chủ Hoàn miệng hô hào, tay vung roi rối rít nhưng chẳng vụt vào ai. Cái roi trong tay ông cứ quay tít giữa không khí. Mắt ông nhìn đám dân của làng đang uể oải đi phu thật hiền.
Cổng bốt đã mở, há hoác như mồm con cá ngão khổng lồ ngoài sông Cái chỉ chờ nuốt tất cả những gì không may rơi vào đó. Thằng đội Gầy đứng cạnh viên cai nguỵ, mắt nó xanh lét như mắt mèo đêm ba mươi. Bộ quần áo "bắt gà" lùng nhùng những túi… Thi thoảng, nó nghiêng đầu, ngó chỗ này, xăm chỗ nọ rồi quay sang viên cai, xổ ra một tràng tiếng Tây nghe cứ rối hoăng canh hẹ. Đôi lúc hứng chí, nó lại nói vài câu tiếng Việt bập bẹ, lơ lớ. Đội Gầy đang thúc viên cai kiểm đếm số phu ốp từ Đức Đại sang.
- Hương chủ Đức Đại đâu? Bao nhiêu phu, bao nhiêu gà, lợn, trâu… Tre pheo thế nào? Sao còn lờ vờ mãi ngoài đấy? Không dồn chúng nó về cả đây, quan đồn điên lên thì mạng chúng mày là cái tép…
- Dạ thưa quan lớn… - Hương chủ vận áo the đen, khăn xếp, cúi người, ra vẻ khúm núm - Đức Đại chúng con đã gắng lắm rồi mới được thế này…
- Lắm nhời quá! Cụ thể thế nào? Sao nhìn thưa thớt thế?
- Dạ bẩm, dạo này gió độc nhiều, dân đói khát phiêu tán tứ bề kiếm miếng ăn nên chúng con hô hào mãi mới dồn được có bảy chục phu, một trâu, hai lợn, ba gà. Thế cũng đã là róc hết đến xương rồi đấy ạ. Mong quan đồn xem xét, thương cho dân con nhờ…
- À, đám này… định làm loạn hay sao mà chống lại lệnh quan hả? - Viên cai vung tay, mặt đỏ văng, cái trán thấp tè kéo đôi mắt lươn xếch ngược - Bảo làng mày phải đưa đủ một trăm phu, ba trâu, năm lợn, mười gà mà chúng mày chỉ có nộp thế là sao?
- Thưa thầy cai, chúng tôi cũng muốn nộp đủ lắm, nhưng không biết đào đâu ra được nữa. Không tin, thầy đội cứ xuống làng xét lại ạ! - Hương chủ xoa xoa bàn tay vào nhau, dáng điệu vẫn hết sức nhũn nhặn.
Không biết viên cai đội quay lại xì xồ gì với thằng đội Gầy, chỉ thấy thằng này quắc đôi mắt cú vọ, nhăn cái mũi quạ, chỉ tay vào đám dân đang đứng cúi đầu dưới sân, xổ một tràng như người xổ ruột. Nó vớ cái roi gân bò trong tay cai đội, nhảy ba bước xuống nền sân, vung roi quất túi bụi vào đám người đứng gần. Ngọn roi của đội Gầy cầy lên manh áo nâu đã bợt vì mưa nắng, mồ hôi của những người dân, rách toạc, phơi khoảng da lưng gầy guộc, rớm máu. Người bị vụt ôm đầu nhăn nhó. Người đứng gần lùi dần ra, tránh nỗi giận dữ điên cuồng vô lối của tên đội bốt. Viên cai đội tái mặt. Hắn nhảy theo thằng đội Gầy, đúng lúc tên này vung roi lại. Cây roi vút một phát chéo má viên đội, xé một đường tướp máu. Hắn nghiêng tai, đầu cúi gằm rồi quay lại hương chủ:
- Mẹ chúng mày, làm khổ ông. Dân làng mày cứng cổ, chống lệnh quan, thiệt thân thì cứ liệu hồn. Đừng có vải thưa che mắt thánh. Giờ san phu ra. Những thằng khoẻ vào xây bốt. Một nhóm mấy thằng này ra lấp đường. Mẹ cha mấy thằng du kích, không biết chúng nó nốc gì mà khoẻ đào khoét thế. Đường cứ san lấp hôm trước, sáng hôm sau chúng nó đã lại khoét cho toe toét ra rồi. Cứ khoét khoét, đào đào, moócchê ông câu cho mấy phát thì tan xác. Đám mấy mụ kia quét dọn, thổi cơm nấu nước, giặc quần áo cho ông đội và các ông… Cẩn thận đấy. Rau, gạo củi lửa có xuất rồi, ăn bớt, ăn xén là ông móc họng ra, nghe chửa? Thôi, biến mẹ chúng mày vào việc đi, ngứa mắt ông quá.
- Dạ, tuân lệnh ngài… Ngài rộng bụng thương tình thế này là phúc lắm rồi - Quay xuống chỗ dân làng đang túm tụm lại, hương chủ vung tay:
- Thôi, đi làm đi. Đừng để quan trên nổi giận.
Dân làng lục tục theo sau hương chủ. Phần đi xây bốt, phần phục vụ, tốp đi san đường. Trong tốp san đường có Bạ. Anh đi quanh, nói thật khẽ:
- Bà con mình cứ tà tà làm. Ngày ta lấp, đêm ta lại phá. Chúng đang điên cuồng rối tinh canh hẹ chửa tính ra phải làm thế nào để gỡ lại mình. Nhưng bà con đừng găng quá. Nếu găng quá nó lại kiếm cớ khủng bố mình.
- Này - cụ Cánh đi bên cạnh, vỗ vai Bạ - Các cậu xem thế nào chứ, cần phải có cách trước đấy. Nó gọi nhiều phu, bắt mình cống nộp nhiều mà mình điều phu ít, nộp ít gà, ít trâu, ít lợn… Chắc nó chẳng câm họng để yên đâu.
- Cấp trên của ta cũng đã có kế rồi. Bà con cứ làm theo anh em trong ban tuyên truyền ở đây là được. Nhất nhất mọi việc đều không được manh động. Không được để quân địch lợi dụng khủng bố mình. Mấy làng bên kia, nó khủng bố trắng, giết hại dân làng nhiều lắm rồi. Làng mình, nhất định không được để xảy ra cảnh ấy.
Việc dân Đức Đại không đủ phu, nộp thiếu trâu, gà, lợn, chống bắt lính khiến bọn Tây trong bốt Giỗ điên cuồng. Chúng biết, dân phản đối do Đảng viên chỉ đạo nhưng chưa làm thế nào để bắt được cán bộ ta. Đám quan thầy trong bốt Giỗ tụm lại. Trong mắt chúng, Đức Đại trở thành cái gai cần phải nhổ. Chiến dịch tát nước bắt cá, tách cán bộ, đảng viên ra khỏi dân của địch bắt đầu.
Hàng tuần liền, ngày nào bọn lính bốt Giỗ cũng càn Đức Đại. Trước khi vào làng, chúng dùng đại bác từ bốt giã vào làng một hồi, rồi quân nguỵ cùng quân Pháp bắt đầu bao vây kín làng, nhăm nhăm súng, ập vào ốp dân ra ngoài đình điểm mục. Mặc cho dân làng nháo nhác ngoài sân đình, quân địch vác những cái thuốn dài, lùng vào từng nhà thuốn, xăm hầm bí mật, tìm bắt cán bộ. Rất may, khi đào hầm, bà giáo Thuận đã nghĩ ra cách ủ đống giấm ngay bên, khi có động chỉ cần gạt sang nắp hầm nên bọn Pháp không thể tìm ra hầm trú ẩn của Lân. Điều ấy khiến anh rất gần dân. Dân làng rất ngạc nhiên khi thấy quân Pháp càn vào gần tới đình vẫn thấy Lân bên họ, vận động, an ủi bà con, khi quân Pháp ập vào lại không thấy anh đâu nữa. Khi quân Pháp vừa rút đã lại thấy anh xuất hiện, lo công việc của Đảng, của làng. Sự xuất hiện của Lân và các đảng viên trong thời khắc khó khăn đã khiến dân yên tâm, tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng trong công việc hàng ngày họ đang làm.
Đường mười bẩy, đường một chín hai đoạn qua Nghĩa Hưng liên tục bị đào xới. Gọi phu, bắt lính đều không đủ, quân Pháp càng điên cuồng càn quét, dân càng bền gan đấu tranh. Không công khai phản đối, không chống lại, chỉ không có đủ. Không thể chấp nhận ý chí gan lỳ bám đất, bám làng của dân Đức Đại, quân Pháp quyết định nhổ phắt cái gai trong mắt chúng.
Làng ở trong tầm đại bác của địch, lại sát nách bốt Giỗ nên chỉ vài trăm bước chân, quân Pháp đã ập vào. Việc tổ chức chống càn trở nên vô cùng khó khăn. Chỉ có thể tẩn lại chúng theo kiểu du kích. Du kích Đức Đại hoạt động mạnh về đêm. Phần còn lại, tập trung làm binh vận, thọc sâu vào lòng địch.
Đêm trước, được nhân mối dẫn đường, du kích đột nhập vào lưng Camp Phương Điếm, phá mảng tường rào to tướng địch rào quanh Camp. Bên bốt, anh em giật mìn nổ tung một góc hàng rào bốt Giỗ.
Lân đăm đăm về phía đông ngóng mặt trời lên nhưng bốn bên bịt bùng bởi sương mù. Sương như dòng lũ dìm tất cả trong biển trắng mịt mùng. Hơi nước từ mặt ao bên cạnh bốt cuồn cuộn bốc lên như khói. Anh dõi mắt ra rìa làng. Không còn đường chân trời. Ngay cả khu vườn nhà anh cũng nhù nhòa sương. Anh đang lắng tai nghe động tĩnh từ phía bốt Giỗ.
Trời hửng sáng. Chẳng rõ từ lúc nào, mặt trời đã lách sương chui ra. Giữa màn sương nhập nhòa, vầng cầu lửa rực rỡ mọi ngày giờ hệt như một trái cam chín muộn treo lủng lẳng giữa không trung. Nó cũng ngái ngủ chẳng khác gì đám lính uể oải trong đồn.
Tiếng quát om sòm của thằng đội Gầy quằn quại giã vào khiến màn sương tan tác. Giọng nó ông ổng chẳng khác gì tiếng chó tru. Mảng tường rào bị vỡ bên căng cùng tiếng lựu đạn phá giấc ngủ của đội Gầy hồi đêm khiến nó rống lên giữa mịt mùng sương sớm. Đại bác trên tháp canh hai đầu bốt Giỗ bắt đầu khạc lửa phụ hoạ cho tiếng thét của thằng đồn trưởng. Dân làng nháo nhác kéo nhau chạy ra ngoài. Nào biết chạy đi đâu, cứ quanh quẩn từ làng ra ruộng rồi lại từ ruộng vào làng, hoặc làng này chạy sang làng khác, yên tiếng súng lại bồng bế nhau về.
Lần này khác. Cơn điên của thằng đội Gầy khiến hai khẩu đại bác quay nòng bắn ngay xuống làng Giỗ rồi vươn sang Đức Đại.
° ° °
Chắt con vừa từ khu căn cứ kháng chiến của xã bên làng Dôi lần về. Cô đang men theo bờ giếng làng định vào nhà. Dạo này, do hay qua lại, Chắt con không lo gặp đám lính nguỵ bên Camp nữa vì đã có nhân mối là người phiên dịch trong đồn làm áo giáp cho cô. Cô chỉ lo tránh bọn Tây đồn. Toàn lũ Tây đen, Tây trắng, lốc nhốc như ma như quỷ. Đàn bà, con gái không may rơi vào đôi mắt không tròng của chúng xem như hết đời.
Vừa men theo bờ giếng bị nước vỗ hõm sâu vào bờ như hàm ếch, Chắt con lom khom ngó lên. Trời chưa sáng hẳn, đám lính trong đồn chưa thể đi càn sớm vào lúc này. Đang suy tính, cô sững lại. Tiếng đại bác vẫn bắn oàng oàng nhưng trên đường thôn, lối ngõ vào nhà cô đã nghễu nghện từng tốp lính đi càn. Không thể quay lại con đường cũ, Chắt con đành thụp xuống bờ giếng chỗ hàm ếch sâu nhất. Đầu cô cúi thấp, hy vọng đám lính Tây không nhìn xuống dưới hườm, và nếu không may nhìn thấy, chúng cũng nghĩ một bà già nào đó đang đi đại tiện. Trống ngực Chắt con đập thì thụp. Cô lo cho mớ tài liệu đang giấu trong người. Tiếng chân đám lính đạp mặt đất trên đầu cô thùm thụp. Một tốp… Hai tốp… Ba tốp… Rất may, chúng không để ý đến bờ giếng nên chẳng thấy cô. Chỗ này hàm ếch ăn khá sâu vào bờ, cỏ dây, cỏ chỉ lại ngoi dài, phủ bên ngoài như tấm rèm che. Vả lại, không thằng Tây nào lại điên rồ, cúi đầu nhòm xuống bờ giếng sát bên đồn. Chúng vẫn chắc chắn không một tên Việt Minh nào dại dột ẩn nấp ở đó. Chờ cho đám lính khuất dạng, Chắt con ba chân bốn cẳng nhảy vào ngõ.
Vòng người đông lắm. Vòng trong vòng ngoài. Cô chột dạ. Không lẽ thầy u cô làm sao… Chắt con nhào vào. U cô ôm chầm lấy con gái, nước mắt của người mẹ già không còn để tràn trên mặt. Chắt chỉ thấy hai giọt nước mắt của u cô rỉ ra từ đôi mắt đục, quánh lại như keo. Trên chiếc chõng tre, cu Đôn nằm như đang ngủ. Thầy cô ngồi thẫn thờ bên cạnh. Ai đó kéo cô vào. Gương mặt thằng Đôn như thiên thần. Nhưng nó không vùng dậy, vòng tay ôm gang hông cô léo nhéo kể chuyện như mọi khi. Cu Đôn mới năm tuổi, mẹ nó lại mất rồi nên bén hơi dì như bện. Chính cái tên Chắt con của cô cũng gợi nó nhớ về người mẹ đã khuất của nó. Mẹ nó là chị gái cô, người làng vẫn gọi là Chắt nhớn. Thế đấy. Nó là niềm vui, là hy vọng của thầy u cô. Nó là hiện thân những gì chị gái cô còn để lại trên cõi đời này. Vậy mà giờ sao nó nằm im lìm thế kia? Chắt con nhào đến. Cô lay nhẹ, cu Đôn vẫn không động đậy. Người nó vẫn còn hôi hổi nóng. Nhưng không phải nó đang ngủ. Chắt biết. Chân cô khuỵu xuống. Trên vầng trán xanh mảnh, bao một lớp lông tơ mịn màng, phơi một lỗ thủng sâu hoắm. Không một vết máu. Viên đạn đi qua vầng trán, găm lại trong đầu cháu cô. Đôn ơi. Tim Chắt dồn lên. Nỗi uất ức căm hờn chất chất bao ngày với quân xâm lược bỗng dội về như lũ. Nhất định chúng nó phải đền tội. Bao mái nhà ở làng này đã bị chúng đốt, bao người dân đã chết dưới họng súng ác ôn của quân giặc. Và giờ, đến đứa cháu vô tội của cô bị chúng giết hại. Phải phá tan cái bốt khốn kiếp đang chềnh ềnh bên cạnh nhà cô kia. Nó là cái tổ quỷ của những con quỷ mắt xanh, mũi lõ. Trời đang lạnh. Nhưng Chắt con chỉ muốn nhúng ngay đầu vào chậu nước cho đỡ nóng. Máu sôi sùng sục khiến cô nóng như bị lửa rang.
- Mất cả gạo lẫm tấm rồi, Đôn ơi!
Tiếng khóc cháu uất nghẹn của u cô khiến Chắt con sực tỉnh. Không thể để nỗi đau riêng che nhiệm vụ lúc này. Chắt con gạt nước mắt, đứng dậy. Phải lợi dụng ngay tình huống này để chuẩn bị đấu tranh, bắt chúng phải chùn tay, không được vô cớ càn quét, bắn giết dân làng...
Để công khai nắm thông tin của địch nhanh nhất, kịp thời chỉ đạo dân đấu tranh, nhiều phương án dò tìm thông tin của chúng được ta đặt ra. Lân kéo anh em trong ban thông tin tuyên truyền cùng du kích, quân báo trà trộn vào những người đi chợ. Chợ Cuối là chợ lớn của vùng, người các nơi về buôn bán, trao đổi hàng hoá rất đông. Các mặt hàng, từ thứ lớn nhất trong nhà nông lúc ấy là con trâu đến thứ nhỏ nhất là cái chổi lúa đều được bày bán.
Nhà vốn có nghề làm cốm ngon nổi tiếng, đôi lúc Lân theo mẹ ra chợ bán cốm. Thúng hàng cắp bên hông, anh nghiêng chỗ này, ngó chỗ khác mà không sợ địch phát hiện. Phía dãy hàng rau, anh Bạ cũng đang nhắc mớ rau cần, chăm chú như người chọn mua, rồi kín đáo đưa mắt ra hiệu cho Lân. Chắc chắn anh Bạ đã nhận được thông tin từ đội thiếu niên quân báo liên xã.
Những khó khăn trong trinh sát tình hình địch khiến Chi uỷ Nghĩa Hưng quyết định thành lập đội thiếu niên quân báo liên xã. Trinh sát là du kích không thể vào vai chăn trâu, không thể công khai lại gần căng, bốt hay thà thiên khăng gụ với đám lính nguỵ để moi tin như con trẻ. Nhiệm vụ ấy được giao cho đội thiếu niên quân báo thực hiện.
Tổ thiếu niên quân báo tập hợp những thiếu niên can đảm, lanh lợi và được giao nhiệm vụ rõ ràng. Bùi Quang Lưu được chọn làm đội trưởng. Nguyễn Thị Tằm làm đội phó. Phạm Đắc Tiềm, Đặng Duy Trừ, Bùi Quang Hịch, Nguyễn Thị Mát, Nguyễn Thị Máng… làm đội viên.
Năm đội viên quân báo thả trâu cùng đám trẻ con ở cánh đồng gần Camp, bốt và con đường mà giặc thường đi càn. Tằm, Mát đang nhảy dây. Vòng dây quay vun vút trong đôi tay mềm mại. Một đôi, hai đôi…ba đôi… năm nhăm đôi, năm sáu đôi… Miệng đếm như hát, tay vung đều, chân nhảy nhịp nhàng, nhưng đôi mắt hai bạn vẫn dõi ra con đường trước mặt. Bên đám đất trống, Tiềm, Trừ, Hịch lúi húi xúm vào đồng cái mới đổ được. Đồng cái tròn xoe, mảnh, dẹt, nhưng lại đằm, mổ vào đám đáo cạnh nhảy tưng khiến những đáo đôi, đáo ba bung ra như hoa lửa… Lưu vừa lùa trâu vừa cảnh giới. Cái roi trâu quay tít trong tay.
- Này, Tằm ! Đếm kỹ nhá…
- Ừ, ba mươi lính, cả Ma Rốc, Đại Hàn… Mỗi thằng vác một súng. Còn cả những khẩu to đùng phải mấy thằng khiêng… tao chưa nhìn ra loại súng gì…
- Ối giời. Trung liên đấy. Có thế mà nhìn mãi không ra. Sao nhảy dây, nhảy nụ thì tài thế? Hịch càu nhàu.
Nhìn từ ngoài vào, không ai mảy may nghi ngờ các em làm trinh sát. Vẫn nhảy dây, chăn trâu, đánh đáo… nhưng điều các đội viên quân báo ghi vào đầu không phải là mấy ván đáo cộ, chẳng phải mấy nụ, mấy hoa, cũng chẳng phải vài ván ô ăn quan.
Mặt trời tà tà gác chân tre, Lưu tập hợp đội quân báo. Cả đội kéo trâu về buôc quanh gốc duối cổ thụ um tùm trùm bóng, i ỉ tiếng dế hát. Tằm hý hoáy chép con số các bạn báo trong đội đưa lại cho Lưu:
- Hôm nay địch đi năm xe, gần sáu mươi lính, cả Tây trắng, Tây đen, nhiều nhất là Ma rốc. Chúng vác theo hơn năm mươi súng, cả tiểu liên, trung liên, máctuyn… Mỗi thằng lại giắt thêm cả lựu đạn. Giờ đi càn khác mấy hôm trước nhưng vẫn tầm sáng, quãng bảy rưỡi, tám giờ…
- Bây giờ ai về nhà nấy, ngày mai mỗi người bện thêm một nùn rơm!
- Dài hay ngắn? Trừ thót bụng lôi. Dây thừng căng, kéo cái sẹo làm mũi con trâu mộng trễ ra, hất cổ hỏi với lại.
- Quấn vừa hai vòng bụng. Mai vẫn tầm như hôm nay, tập hợp chỗ cũ.
Ngày qua ngày, những thông tin chính xác của đội thiếu niên quân báo, kết hợp với tình hình du kích trinh sát được, chi uỷ Nghĩa Hưng đã tìm ra phương án đánh địch hiệu quả nhất.
Thằng đội Gầy điên cuồng. Mấy trận càn gần đây, không biết tại sao, lính nó đi càn toán nào đụng du kích toán đấy. Vài chục thằng đi, không kiếm chác được gì lại còn vác xác mấy thằng, thêm dăm ba thằng bị thương, thập thễnh dìu nhau về bốt. Đang lồng lộn, đội Gầy chợt giật mình nhảy cồ cồ như giẫm phải than hồng. Đùng, đoàng… Lép bép… Đùng. Tiếng nổ lại vọng ra ngay cạnh bốt. Hắn nhảy liền hai bước vào trong, men theo giao thông hào, chui vào lô cốt. Đám lính nhốn nháo như ong vỡ tổ bên ngoài. Chúng nháo nhào kéo nhau chui vào lô cốt, miệng lắp bắp:
- Việt Min! Việt Min!
- Trời ơi! Du kích dám đánh cả vào đồn rồi! Một thằng nguỵ hét toáng lên. Đang núp đầu trong lô cốt, nghe quân lính hò hét xô nhau chạy, mắt đội Gầy long như mắt trâu điên, túm tên thông ngôn đang run như giẽ bên cạnh:
- Thằng nào chạy, bắn vỡ sọ cho ông! Mẹ chúng mày! Lũ khốn kiếp!
Âm thanh như tiếng pháo đùng chen giữa tiếng lép bép, lốp đốp của nứa cháy nổ. Mùi thuốc súng khét lẹt.
Đám đội viên quân báo ôm nhau cười như nắc nẻ. Hôm qua, lúc chơi trò đuổi bắt để kiếm cớ chạy dọc ngang những con đường lớn nhỏ trong xã trinh sát địch trên đường mười bẩy, đường một chín hai, Lưu được anh Thịnh bày cho trò này. Sáng nay, cưỡi trâu lượn mấy vòng vẫn không thấy bọn địch trong bốt, trong Cămp chuẩn bị đi càn, cả đội nháy nhau đi nhặt vỏ đạn bọn địch bắn văng khắp làng rồi kéo ra đám ruộng hoang ngoài bốt Giỗ.
- Hịch ơi!
Lưu cất tiếng gọi. Hịch, Trừ lễ mễ ôm đám nùn rơm cả bọn mang từ nhà ra, lẻn lại gần bốt, quây lại. Tằm, Máng, Tiềm bò theo, đổ đám vỏ đạn nhặt được vào. Lưu chúm môi thổi lửa. Đám khói ở đầu chiếc nùn rơm chuyển màu trắng đục, màu cam sẫm rồi ngọn lửa nhỏ bùng lên. Lưu đặt đầu nùn rơm vào giữa đám nùn rơm quây tròn đống vỏ đạn. Cả bọn bò ra ngoài, dắt trâu sang cánh đồng bên kia đường.
Thuốc súng trong vỏ đạn bắt lửa nổ lốp bốp vọng vào đồn giặc. Những ngọn lửa nhảy nhót, nổ, làm bắn tung đám hoa cà, hoa cải. Đám lính trong đồn nghe tiếng nổ như pháo cối chen pháo đùng. Không biết tiếng nổ phát ra từ đâu, chúng đâm hoảng, nháo nhác như gà phải cáo. Ngày hôm ấy, chúng ít ngông nghênh ra càn làng. Nỗi sợ bị du kích phục đánh ám ảnh chúng
Ban thông tin tuyên truyền, địch vận nhận nhiệm vụ hướng dẫn đội thiếu niên quân báo liên xã hoạt động, thực hiện công việc lớn hơn. Tối nay, Lân cùng các anh Thoại, Thịnh, Bạ sẽ họp toàn đội và giao việc cụ thể.
Trời không một vì sao, thấp và đen như mực. Cả bầu trời như một cái vung xoong khổng lồ, tối om, úp chụp xuống mặt đất. Con đường vào nhà bà Khán Tế thêm gập ghềnh. Hai bên đường, tre dây ken dày đặc như bức tường xanh, cành lá đan xen la đà, thành một tấm che um tùm. Lân ngồi trên chiếc chõng tre đã ọp ẹp, mắt nhìn ra bầu trời đêm. Anh lắng tai, chờ tiếng bước chân các đội viên quân báo.
Críc… críc… críc! Tiếng dế gáy nhịp ba vang lên. Ba tiếng gáy đáp lại. Đúng ám hiệu. Tằm rút thang chèn cửa. Một luồng gió bấc rát rạt lùa vào khiến tấm áo Lân đang mặc dính sát vào người. Gió quất vào mặt. Đã cuối tháng hai, đầu tháng ba mà trời vẫn rét như cắt ruột.
Tiềm, Trừ, Hịch lần lượt bước vào. Các đội viên đã có mặt đầy đủ.
- Nhiệm vụ của đội thiếu niên quân báo giờ nặng hơn - Lân bắt đầu cuộc họp - Không chỉ đi trinh sát, đội quân báo sẽ nhận truyền đơn từ ban tuyên truyền, địch vận, mang rải ở mấy thôn quanh xã và nghe xem địch phản ứng thế nào.
- Bao giờ thì chúng em làm ạ? Trừ sốt ruột.
- Bắt đầu ngay từ ngày Quốc tế phụ nữ 8 -3 này. Bây giờ, chúng ta chia tổ...
- Chúng em sẽ thành mấy tổ? - Hịch nhanh nhẩu.
- Cứ từ từ… Cậu chỉ hay hớt… Lưu nghiêm giọng, dáng chững chạc của đội trưởng…
Lân phì cười. Nét ngây thơ của các em đang góp công vào những việc trọng đại của người lớn. Giá không có cuộc chiến tranh. Giá không có cái bốt Giỗ lù lù chứa đầy lính Âu Phi, lăm lăm súng đạn trong tay… Các em sẽ thanh thản đến trường, sẽ hồn nhiên nhìn theo cánh diều lượn trên bầu trời xanh thẳm mỗi chiều hè. Nhưng quân địch đã cướp của các em bao điều giản dị ấy và giờ đây, các em đang phải gồng mình thành người lớn để tham gia vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, chống lại quân xâm lược.
- Địa bàn của xã ta rộng, nhưng lực lượng của đội quân báo chưa đông. Vả lại, mình chỉ cần rải truyền đơn nơi đông người qua lại. Không thể đi riêng, rất nguy hiểm. Bây giờ, tôi phân công thế này: Tiềm, Trừ, Mát, Máng một nhóm. Tằm, Hịch, Vằn… một nhóm. Còn Lưu… phụ trách chung. Mọi việc, các nhóm đều phải báo cáo lại với Lưu. Lưu sẽ báo cáo lại với anh. Nội quy của đội, các em đã thuộc. Các bác, các anh rất tin cậy ở đội mình. Công việc nặng nề đấy, các em có dám nhận không?
- Có chứ ạ - Hịch đứng lên, dứt khoát - Chúng em mong mãi rồi, cứ tưởng suốt ngày chỉ chăn trâu đếm lính… Cũng chán. Giờ thì được chiến đấu thật rồi… Hai tiếng "chiến đấu", Hịch cố dài giọng cho thêm vẻ quan trọng. Anh Thịnh, anh Thoại, anh Bạ đều cố nín cười. Tiềm cố nghển, nhô cao đầu, ghé vào tai Hịch:
- Tớ chỉ khoái được cầm lựu đạn tung vào đám lính lúc chúng nghênh ngang đi càn ấy. Mẹ chúng nó. Cái mặt đen cưỡm cứ ngửa tếch lên. Nom căm căm là… Lựu đạn nổ lúc ấy thì sướng nhỉ…
- Thằng quái nào chả ao ước thế - Vằn cướp lời Tiềm - Tao còn ước vớ được khẩu tiểu liên, tao lia một băng cho chết cả lũ… Nhưng chắc phen này…
- Im nào! Hịch hích khuỷu tay vào sườn Vằn - Nghe xem thế nào để còn biết mình sẽ được làm gì chứ, chưa chi đã toe mỏ lên.
- Các em chú ý này! - Lân cuốn tờ nhật báo cũ, gõ gõ xuống mặt chõng - Đêm mai, tổ của Tiềm, Trừ nhận truyền đơn, rải gần chùa So. Còn tổ của Tằm, Hịch, Vằn tung ở đầu phố Giỗ. Xong việc, về hầm tăng xê vườn nhà anh báo cáo tình hình… Giờ Lưu ngó xem bên ngoài địch có động tĩnh gì không?
Cả đội rút ra ngoài, lẫn vào bóng tối nhờ nhờ đang giăng mành khắp con ngõ nhỏ. Trăng hạ tuần bắt đầu leo lên rặng tre ngoài bìa làng. Ngọn tre cong trĩu xuống đính vầng trăng như chiếc đèn lồng lơ lửng.
Bó truyền đơn cuộn lại như khúc giò lụa buộc chặt ngang bụng, Tiềm, Trừ men theo đường làng hướng ra bờ giếng. Đường không một bóng người, thi thoảng tiếng chim lích rích gáy trong vòm lá. Trăng suông lờ mờ soi dáng người. Mặt ao Hàng Lậu qua ánh trăng sáng lạnh phẳng lạt như tấm kính mỏng. Hai đội viên đi sát vào nhau. Cái cổng tre nhà cụ Cánh lấp ló giữa hai hàng giậu cúc tần.
Một tràng tiểu liên nổ. Đạn bay chíu chíu sượt qua tai hai chú bé. Tiềm kéo Trừ, co giò chạy. Cặp giò khẳng khiu guồng như cuốn gió. Súng vẫn bắn như vãi đạn. Sau một đoạn, Tằm, Hịch, Vằn thụp xuống rồi kéo nhau lùi vào vườn. Hịch ghé tai Vằn, thì thào:
- Thằng Tiềm, Trừ gặp địch phục rồi. Không biết có sao không?
- Ừ, súng nổ rát quá. Không chạy kịp thì toi mạng. Mẹ tổ nó, sao hôm nay lại đốc chứng phục ngay góc ao Hàng Lậu. Hay nó đánh hơi thấy gì?
- Chắc chúng chưa biết gì đâu. Chỉ chó ngáp phải ruồi thôi.
Cả ba kéo nhau chui vào hầm tăng xê cạnh nhà bà Khán Tế. Không còn thấy tiếng súng nữa. Đoán địch đã rút, Tằm, Hịch, Vằn lò dò tìm ra chỗ địch vừa phục. Mắt ba đứa căng ra như muốn chọc thủng bóng tối. Có vết máu. Cả ba lom khom dò theo. Con đường như cái ruột gà, ngoằn ngoèo lượn giữa bờ giậu tre dây. Đến cổng ông Thúc, vết máu biến mất. Hịch dừng lại.
- Mất dấu rồi. Chắc hai đứa trốn quanh đâu đây thôi.
- Bọn mình cứ vào nhà ông Thúc tìm xem có hai đứa trong đó không? Vết máu đến đây thì mất, quanh đây không có hầm hào gì… Vào nhá?
Vằn kéo tay hai bạn. Cả ba rón rén bước vào. Con mực nhà ông Thúc hực lên mấy tiếng, nhận ra người quen, nó rít lên, vẫy đuôi rối rít. Ông Thúc hé tấm dại cửa. Nhận ra ba đội viên quân báo, ông né người vào cửa. Ba bạn bước vào. Dưới ánh đèn vặn nhỏ như hạt đỗ, Tiềm đang được bà Nhung, vợ ông Bùi Quang Thu băng bó. Vết đạn găm vào, máu nhoe nhoét khắp ống chân như ống sậy của Tiềm.
- Trừ đâu rồi, Tiềm? Lưu hốt hoảng.
- Không biết. Trừ cũng bị thương, nhưng nó còn chạy được, chỉ không biết chạy hướng nào thôi - Tiềm nén đau, nhìn mọi người, mặt vẫn tái nhợt.
- Chắc không bị bắt đâu. Vì nếu bắt được thằng Trừ bọn địch rầm rĩ lên chứ không ắng thế này đâu - ông Thúc góp vào - Giờ đưa thằng Tiềm đi đâu?
- Chúng cháu sẽ cõng cậu ấy lên căn cứ du kích - Lưu quả quyết. Nhưng khi ghé vai vào thì không cõng nổi. Tiềm nặng quá. Tới lui mãi, ông Thúc khoác thêm cái áo tơi, ghé lưng trước mặt Tiềm:
- Mày lên đây, ông cõng! Chúng nó toàn như khoai dãi thế kia, tha làm sao nổi mày lên căn cứ, rồi lại rơi tất vào tay bọn bốt Giỗ thôi…
Tiềm ứa nước mắt.
Cánh cửa bật mở. Cả nhà sững sờ. Giụi mắt liền mấy cái, ông Thúc thở phào:
- Ông Tuyển! Gớm, làm tôi hết cả hồn!
- Mấy đứa trẻ đâu rồi? Thằng Tiềm đâu? Ông Tuyển nhớn nhác nhìn quanh, mặt lo lắng
- Đây - Ông Thúc khoát tay - nhưng thiếu thằng Trừ. Không biết nó chạy đằng nào. Cu Tiềm thì đây rồi. Nó bị thương vào chân. Thấy chó sủa nhặng, tôi chạy ra thấy nó sắp gục nên lôi vào nhà. Bà Nhung đã băng bó cho rồi.
- May rồi. Chúng tôi thấy súng nổ cứ thắt hết cả ruột. Cậu Lân đang mò mẫm bên căng chờ nhân mối ra xem có thấy tin tức gì về thằng Tiềm đâu kia kìa. Này! Ông Tuyển vẫy tay với một anh du kích: - Cậu nhảo ra ngoài đấy, nháy cậu Lân về. Thấy thằng Tiềm ở đây rồi. Còn thằng Trừ, không phải lo gì, nó bị thương nhẹ, chạy được lên căn cứ rồi. Giờ chúng tôi sẽ đưa cu Tiềm lên. Cứ thế, nhớ!  
CHƯƠNG X
Tại căn cứ du kích, chi ủy Nghĩa Hưng họp chuẩn bị kỷ niệm ngày quốc tế phụ nữ 8-3 và khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Gió bấc cuối mùa thổi rát rạt. Lân vẫn ngồi bên cạnh Chắt con. Giờ đây, hai người đã công khai mối quan hệ của mình. Họ đã báo cáo với chi uỷ. Anh em đều vun vén cho tình yêu của họ. Sau phần nội dung chương trình cần tuyên truyền tại buổi mít tinh, bí thư chi bộ hắng giọng:
- Các đồng chí lưu ý, đây là cuộc mít tinh lớn, chi uỷ cử các đồng chí xuống cơ sở, tổ chức mít tinh. Một mặt cho dân thấy, Đảng vẫn bám sát, vẫn chỉ đạo phong trào không phải như quân địch tuyên truyền là đã đào tận gốc, trốc tận rễ Việt Minh. Mặt khác, cũng là đòn đánh vào mặt quân thù. Bởi vậy, các đồng chí tập trung chỉ đạo triệt để.
- Đề nghị chi uỷ phân công cụ thể để chúng tôi còn lên đường. Sáng rõ mặt người là không về các thôn được đâu.
- Nhất trí, thay mặt chi uỷ, tôi phân công thế này: Hai đồng chí Khiếu (tên thật của Chắt con), Sự đại diện cho hội phụ nữ sang chỉ đạo mít tinh ở thôn Chằm. Hai đồng chí Thịnh, Thoại về Đức Đại, đồng chí Lân về Cuối.. Các đồng chí rõ cả chưa?
- Tôi có ý kiến… - Anh Thịnh lên tiếng.
- Tôi có ý kiến… Cũng là về chỉ đạo mít tinh… Đề nghị cho tôi và đồng chí Thoại về Cuối, đổi cho đồng chí Lân về Đức Đại. Ngoài việc chung, chúng tôi cũng có chút việc riêng.
Bí thư chi bộ suy nghĩ rồi gật đầu:
- Thôi cũng được. Hai đồng chí quê ở Cuối, đồng chí Lân ở Đức Đại, một công đôi việc, các đồng chí tranh thủ về qua nhà một lát cũng được… Nhớ phải bí mật, dạo này địch lùng rát lắm.
- Khoái nhá! - Anh Thịnh vỗ vai Lân - Chúng tớ đào giếng cho cậu uống nước còn quái gì. Lần này về, báo cáo hai họ, cưới đi thôi! Cứ để mọi người mài răng, rửa ruột chờ mãi…
- Chẳng qua anh cũng muốn tranh thủ tạt về với mẹ đĩ tí còn gì… Lòng vả cũng như lòng sung cả thôi… Lân đùa lại.
- Chỉ được cái nói phải… - Anh Thoại hích cùi chỏ vào sườn Lân đau điếng.
Bà con Đức Đại tập trung tại đình làng rất đông. Lân thay mặt chi uỷ xã đang phát biểu ý kiến chỉ đạo phong trào thì một du kích bước lên, ghé tai anh:
- Tin vừa báo về. Hai anh Thoại, Thịnh đã bị địch bắt trên đường về làng Cuối.
- Bị ở đoạn nào? Lân hốt hoảng - Đoạn đường về Cuối có bao giờ chúng phục đâu… Hay nhân mối của mình nhầm?
- Không nhầm đâu. Hai người bị bắt ngay chỗ gốc duối cổ thụ, bên cầu đá trước cửa chùa Bung lối sang đầu làng Cuối ấy. Chúng nó phục ở đấy. Cả hai bất ngờ nên không kịp chạy. Nó bắt sống rồi. Giờ nó chuẩn bị càn vào Đức Đại.
- Được rồi. Cậu báo cho anh em rút trước đi. Tôi cho bà con rút xong sẽ tính sau. Phải thật bình tĩnh, không được làm bà con hoảng loạn - Lân dặn cậu du kích rồi quay lại phía bà con đang chờ.
- Thưa bà con, chúng tôi còn ở đây là Đảng còn, bà con đừng tin những điều bọn địch xuyên tạc, bịa đặt. Chúng như bầy chó đói, chỉ nhăm nhe cướp miếng ăn. Bây giờ chúng chuẩn bị càn vào, bà con hãy bình tĩnh, ai về nhà nấy… Đảng luôn bên cạnh bà con.
Dân làng tản ra. Một thoáng sau, cả khu đình chỉ còn trơ lại nền sân vắng lặng. Bên làng Chằm, nhận được mật báo, Chắt con cũng cho dừng cuộc mít tinh.
Lân ngồi bó gối trong căn hầm hẹp. Gương mặt anh Thoại, Thịnh cứ trở đi, trở lại day dứt trong anh. Lúc chúng giải hai người về bốt Giỗ, Lân lẫn vào đám người đi theo họ. Mặt anh Thoại tím bầm. Một bên đuôi mắt giập, chảy máu. Cái áo anh Thịnh mặc rách toạc, lưng lằn ngang lằn dọc vết roi gân bò, máu bắt đầu bầm lại. Môi anh tều lên, mắt sưng húp híp. Khuôn ngực rộng của Thoại cũng bầm giập, máu rỉ ra. Không một tiếng kêu than. Hai anh bước trên đường làng, khuôn mặt sưng húp ngẩng cao, nhìn trời thanh thản.
- Việt Minh trong làng này là những thằng nào? Du kích bọn mày thường phục ở đâu? Nếu mày chỉ hầm bí mật, chúng tao sẽ thả ngay, lại trình quan đồn, chúng mày tha hồ ăn sung mặc sướng, vợ đẹp con khôn…
ở hai buồng giam tách biệt, Thoại, Thịnh vẫn im lặng. Chỉ thấy tiếng giầy đinh siết trên nền xi măng, xoáy vào lọng óc. Tiếng roi gân bò vun vút quay trong không trung. Tiếng nước dội ào ào. Hai thằng Ma Rốc như hai con hùm quần đảo, lồng lộn. Thân hình hai anh đã mềm oặt như tàu chuối tươi hơ lửa. Không thiếu ngón đòn nào chúng chưa đưa ra. Vẫn câm lặng. Thịnh, Thoại một mực lắc đầu:
- Tôi không phải Việt Minh, chỉ là người đi dạy bình dân học vụ… Không biết chi ủy là gì… Không biết hầm bí mật ở đâu. Không biết du kích là ai, không nhìn thấy ai giấu súng đạn.
Bên kia buồng giam, thằng đội Gầy lồng lên. Nó nghiến răng. Bộ mặt đang đỏ ửng thoắt thành trắng bệch:
- Vặn răng chúng nó cho tao, xem bọn nó có há miệng ra không?
Trận đòn thù vẫn xối xả trút xuống. Vẫn không một lời cung khai. Đánh chán, dỗ mãi, không moi được gì, chúng cho quân giong hai anh ra chùa Dừa, cạnh bốt Giỗ.
Trời trên đầu vẫn xanh vời vợi. Thoảng đâu đây tiếng nghé ọ gọi mẹ lúc chiều tà. Bọn địch chôn cây cọc gỗ xuống đất. Tiếng đóng cọc chí chát xoáy vào tâm can người dân đang đứng quanh hai anh. Họ không làm gì được. Trong tay họ không có bất kỳ thứ vũ khí nào khi quanh họ, quân địch chi chít súng, lê. Thằng đội Gầy thét lên. Tên nguỵ đứng gần đấy chạy tới. Nó rút từ thắt lưng ra sợi dây thừng, xoay lưng hai anh lại, trói giật cánh khuỷu. Gió vẫn cuồn cuộn thổi, cuốn hương đất, hương đồng nồng nàn, quấn quýt. Thoại, Thịnh ngẩng mặt nhìn trời. Những vần mây vồng lên như muôn vàn nhát cuốc lật ải trên cánh đồng đương vụ. Quê hương thân thiết, yêu thương. Dẫu hôm nay còn vẩn đục bởi gót giầy quân xâm lược nhưng nhất định tương lai, trời quê các anh sẽ lại xanh vời vợi giữa vi vút sáo diều khi cuộc kháng chiến các anh dẫn thân giành thắng lợi.
- Đoàng! Đoàng! Đoàng! Khẩu súng ngắn trong tay thằng đội Gầy khạc lửa, nổ ba phát chỉ thiên, xé toang không gian đồng chiều êm như lụa. Bầy chim sẻ chập chờn giữa những tán cây, nháo nhác lao mình vút lên.
- Giết! Hai mắt đội Gầy long lên. Thân hình cây sậy của nó đảo điên theo tiếng thét. Những viên đạn đỏ như sắt nung, phụt ra khỏi họng súng của quân thù nhằm vào thân hình hai đồng chí trung kiên. Anh Thoại, anh Thịnh đã ngã xuống giữa chiều quê. Hương đất, hương đồng nồng nàn như chiếc kén tằm nâng linh hồn hai anh về với đất mẹ.
Lân ngồi lặng bên bờ cỏ. Dưới chân anh, cách một khoảng không xa chưa đủ để nhòa mặt người, dòng sông đò Đáy mải miết trôi. Chập choạng chiều đã chẳng mấy khi còn tiếng gọi đò. Bến sông cô tịch. Con đò ghếch đầu lên bãi phù sa nâu mịn, buông xuôi.
Chắt con im lìm bên anh. Họ ngồi như thế rất lâu rồi. Không ai lên tiếng cả. Mỗi người đuổi theo một dòng suy nghĩ riêng, nhưng Chắt con biết, trong lòng Lân đang rất đau khổ. Cô biết, cái chết của hai đồng chí trung kiên chiều nay khiến Lân suy nghĩ rất nhiều. Gặp nhau từ chiều, vậy mà mãi đến lúc này, Lân chỉ nói duy nhất một câu: "Anh Thoại, anh Thịnh đã chết thay anh!".
Ngay lúc này, Chắt con biết Lân đang quá day dứt nên nói vậy. Không thể để anh cứ đắm trong dòng suy nghĩ ấy. Cô xích lại gần, đặt tay lên bàn tay thô ráp, chai sần của anh:
- Em biết, anh đang rất buồn! Sự hy sinh của bất kỳ ai trong số các đồng chí của chúng ta cũng khiến mình đau khổ. Nhưng đâu phải lỗi tại anh…
- Nhưng nếu anh không đồng ý đổi địa bàn cho hai anh ấy thì người bị chúng bắt được, bị bắn chết chiều nay là anh chứ không phải họ - Lân vò đầu. Tóc anh xù lên như một mớ bùi nhùi. Mặt anh rúm lại.
- Không phải! Chắt con quả quyết - Đâu phải anh tự ý gạ các anh ấy đổi đâu. Đấy là ý của các anh ấy đấy chứ. Vả lại, khi anh Thoại, anh Thịnh có ý kiến, chi uỷ cũng đồng ý phân công lại như thế còn gì… Ai trong số chúng ta hy sinh cũng là mất mát… Người này hy sinh, người còn lại phải gánh vác thêm cả phần việc của người đã chết để lại… Đừng nghĩ quẩn nữa anh. Thương hai anh ấy, mình càng phải công tác tốt nữa chứ… Có vậy, ở trên kia, các đồng chí đã hy sinh của mình mới cảm thấy không uổng phí… - Cô nâng gương mặt Lân lên. Dưới gò má anh, hai giọt nước mắt sánh như keo, rỉ ra nơi khoé mắt, lăn xuống gò má đen sạm. Trên cao, ngàn vì sao chi chít. Nếu mỗi vì sao là linh hồn của một con người thì giờ đây chắc anh Thoại, anh Thịnh đang từ trên cao nhìn xuống. "Nhất định em sẽ làm tiếp những gì các anh còn đang làm dang dở" . Lân thì thầm. Anh vịn vào vai Chắt con, đứng dậy. Ngoài sông, những con sóng nhỏ ì oạp xô bờ. Và từ bên kia sông, tiếng gọi " Đò ơi" da diết vọng sang.
Dòng sông vẫn trôi. Tiếng guốc chèo đã kẽo kẹt, nhịp nhàng khảm vào đêm. Con đò hếch mũi, từ từ rẽ nước sang ngang. Tiếng gọi đò từ bên kia sông vẫn nương vào gió, lan dài theo mặt sóng đang duềnh lên từng lọn nhỏ. Đây là vùng căn c của liên xã Nghĩa Hưng, nơi Lân và Chắt con đang hòa mình vào cuộc cách mạng. Cuộc sống vẫn chảy trôi. Nhiều cái chết trong đó có sự hy sinh của hai đồng chí trung kiên chiều nay cho cách mạng đang khiến sự sống nảy mầm. Tiếng gọi đò nới bến sống vắng như dấu hiệu của sự sống đang hồi sinh nơi vùng đất cỗi.
CHƯƠNG XI
Tiếng cười nói rộn ràng khắp con ngõ nhỏ. Trên khoảnh sân rộng của căn nhà khiêm nhường giữa thôn Bùi Thượng xã Lê Lợi, mọi người đang cười nói ồn ào. Ngoài cổng, tiếng hai người đàn ông liến thoắng:
- Đi dự cưới mà phong phanh thế này sao?
- Hì hì, bạn bè, đồng đội với nhau, cởi trần đến dự cưới càng vui. Tay Lân thế mà son, cưa cẩm thế nào đổ ngay cô Khứu con gái rượu cụ Coi thế không biết. Da trắng, tóc dài… Rõ là… Tay đấy tốt số thật!
- Ơ, tôi tưởng tay Lân cưới cô Chắt con chứ, lại cưới cô Khứu nào thế? Tay này bắt cá hai tay à? Thế thì tớ đếch vào dự cưới nữa… Cô Chắt con cũng uỷ viên ban chấp hành phụ nữ liên xã đấy, đừng đùa!
- Bố cu chả biết gì. Chắt con là tên gọi ở nhà. Giờ người ta đi công tác rồi, ai còn gọi Chắt con Chắt to mãi. Tên thật cô ấy là Khứu… Nghe chửa… Rõ là biết một mà chả biết hai.
- Hơ hơ, thế à? Thế thì vào thôi. Ăn cỗ đi trước…
Họ dắt tay nhau vào. Anh em bạn bè quây quần rất đông. Hôm nay Chắt con (mà thôi, không gọi cô bằng cái tên cua ốc ở nhà ấy nữa) tức cô Khứu đang sánh vai cùng đức lang quân của mình, chàng Lân - Trưởng ban thông tin tuyên truyền liên xã. Đã hết những ngày họ chỉ dám nhìn nhau mà không dám hé một lời về sợi tơ hồng đang len lỏi trong tim. Giờ đũa đã có đôi. Từ hôm nay, Lân thực sự có Khứu bên mình.
Lân dắt tay Khứu bước ra từ căn nhà đơn sơ nhưng ấm áp tình người của ông bà Đinh Văn Xuyền và Phạm Thị Quy. Ông bà là cơ sở cách mạng nhưng lại thương Lân Khứu như con ruột của mình. Họ nhìn nhau, mắt ngời hạnh phúc.
Thu chiều. Luồng heo may bất chợt ùa về, nhẹ nhàng lách qua đầu tường ngôi nhà nhỏ mang theo đám lá bồ kết li ti vàng như những chấm kim rắc lên đầu mọi người đang ngồi trên sân. Lân, Khứu thấy mình đang bay lên, lơ lửng, như cánh diều vẫn chao lượn trên lưng chừng trời mỗi chiều no gió. Họ không vui sao được khi trong ngày hạnh phúc nhất của đời mình, bên họ không chỉ có người thân trong gia tộc, còn có mặt đồng chí, đồng đội, những người ngày đêm sát cánh bám trụ giữ đất quê hương. Mắt Lân lướt nhanh. Gương mặt từng đồng đội in hình. Đây nhé, đây là người anh, người lãnh đạo cấp cao Lê Gia Hỷ - Huyện uỷ viên Huyện uỷ Gia Lộc. Đây là anh Đặng Duy Nhiếp, Bí thư Chi bộ Nghĩa Hưng… và đây, đây nữa… các anh, các chị đang ngắm nghía niềm hạnh phúc của hai người. Mắt họ cười. Giọng họ như reo. Họ trêu chọc, đùa cợt hai người nhưng lại đang chia sẻ hạnh phúc lớn nhất đời của bạn bè mình. Anh nắm tay người bạn gái mà giờ đây là người vợ yêu quý của mình, nhìn mọi người, ánh nhìn chan chứa.
- Này, đằng ấy ơi! Hôm nay nhìn họ mà thèm. Đằng ấy ưng bụng để tớ đem… đến nhà! Giọng nam trầm cất lên điệu hát đối ngọt lịm phía cuối sân, góc cái giếng nhỏ. Lời hát lửng lơ, cứ như đang ghẹo ai đó, lại như chẳng nhắm vào người nào… " Đầu năm ăn quả thanh yên/ Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng/ Vì cam cho quýt đèo bòng/ Vì em nhan sắc, cho lòng anh thương".
- Đem gì đến nhà? Giọng nữ cao vút cất lên. "Gió vàng hiu hắt đêm thanh/ Đàng xa, dặm vắng, xin anh đừng về/ Mảnh trăng đã chót lời thề/ Làm chi để gánh nặng nề riêng ai".
- Khéo đối quá. Ngọt ngào quá! Tiếng xuýt xoa, trầm trồ vang lên. Giọng nữ như mía lùi: "Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh/ Bao giờ cho đến tháng hai/ Con gái làm cỏ, con trai be bờ"… vẫn da diết thì bên nam, giọng hát tinh nghịch cướp lời: "Lấy chồng chẳng biết mặt chồng/ Đêm nằm mơ tưởng nghĩ ông láng giềng"... chẳng hề ăn nhập. Mọi người cười ồ… Tiếng nhí nhéo chọc ghẹo nhau kéo thành một bè trầm, ấm áp.
- Thôi nào! Giọng anh Bạ oang oang - Đề nghị mọi người trật tự để ông Nhiếp còn làm chủ hôn chứ! Cứ trêu chọc nhau mãi thế, chệch giờ lành tháng tốt của người ta bây giờ!
- Thôi, ông Bạ làm chủ hôn luôn thể đi. Ông như hộ pháp thế kia, mụ nhà ông lại mắn như nái ỉ, mát tay phải biết, cô cậu Lân Khứu cứ gọi là sòn sòn sòn đô sòn… Ai đó lên tiếng đùa.
- Khỉ gió nhà lão này! Anh Bạ giờ nắm đấm dứ dứ vào chỗ người vừa nói. Tiếng cười rộ lên.
- Thưa quan viên hai họ, thưa bà con, cô bác và các đồng chí! Anh Nhiếp - Bí thư Chi bộ Nghĩa Hưng trịnh trọng.
Khứu ngồi bên Lân. Đầu cô hơi cúi, má đỏ lơ đỏ lửng. Bên cạnh cô, Lân ngượng nghịu đan hai tay vào nhau. Mắt họ thoáng trao, cô thấy anh mủm mỉm cười. Thường ngày, anh Nhiếp cũng rất hay tếu. Công việc dù khó khăn thế nào cũng không làm người bí thư chi bộ ấy gắt gỏng. Vậy mà, giờ đây, anh đang trịnh trọng tuyên bố giây phút trọng đại trong cuộc đời hai người đồng chí của anh. Tiếng anh Nhiếp vẫn trầm ấm: "Sau những ngày tìm hiểu, đồng cam cộng khổ tham gia vào cuộc kháng chiến giữ đất quê hương, đôi bạn trẻ Lân, Khứu đã tìm được nhau. Họ như con thuyền tìm được về bến đỗ…." Quái, cái ông Nhiếp hôm nay văn hoa đến lạ… Lân thoáng nghĩ. Lời tuyên bố của anh Nhiếp chập chờn giữa đôi bờ hư thực của cuộc đời. Cuộc sống nhiều khi đến lạ. Giặc giã, tan hoang, giết chóc… Bọn địch định biến quê hương Lân thành miền đất chết, chỉ còn cỏ dại, chuột hoang, nhưng chúng đã lầm. Trong gian khổ, hạnh phúc vẫn hiện sinh. Đám cưới của anh và người con gái anh yêu đang ngồi bên là bằng chứng cho sự sinh sôi ấy. Và không chỉ hạnh phúc của anh hôm nay, còn, sẽ còn rất nhiều đám cưới của bao anh em khác nữa. Rồi thế hệ mới sẽ ra đời, chúng sẽ tiếp bước thế hệ cha anh gánh vác cuộc kháng chiến hôm nay, sẽ tiếp tục khiến cho quân cướp nước bạt vía, kinh hồn. Lân như trôi trong dòng sông hạnh phúc. Mơ ước bao ngày được cùng người mình yêu xây dưng một gia đình nhỏ, nơi có tiếng khóc, câu cười của những đứa con yêu, nơi ngày ngày anh trở về sau bao cơn ấm lạnh của đời. Cuộc sống sẽ còn những khó khăn mà vợ chồng anh phải vượt qua. Không khó khăn sao được khi ngay lúc này đây vẫn thấp thoáng phía bên kia tiếng giày đinh của quân kẻ cướp.
- "Tôi xin phép hai họ được tuyên bố, kể từ giờ phút này, hai đồng chí Nguyễn Đình Lân và Nguyễn Thị Khứu chính thức trở thành chồng vợ của nhau. Các đồng chí luôn phải nhớ "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ", phải giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, góp sức mình vào cuộc giải phóng dân tộc của cả nước… Sau đây, tôi xin có nhời mời đại diện hai họ lên có đôi nhời với cô dâu, chú rể…". Có bóng người thấp thoáng ngoài ngõ. Anh Bạ chạy ra. Không biết có chuyện gì, Lân chợt thấp thỏm. Anh Nhiếp bước tới cạnh Lân, nói nhỏ. Thoáng thấy Lân sững sờ. Trong sân, những ánh mắt nhìn nhau, lo lắng.
Chưa kịp phản ứng gì, tiếng súng cối nổ như xé màng nhĩ bên làng Chuối. Rồi cả bố phía, tiếng súng thi nhau điên cuồng nhả đạn. Cả làng Chuối, làng Anh, rồi Bượi Răm cũng thấy súng nổ như mưa rào. Đạn bay như tên bắn, rơi chí chát xuống làng Bùi Hạ.
- Tây càn. Chúng nó vào đến làng Chuối, làng Anh rồi…
Ai đó hét to. Đám cưới bỗng chốc nháo nhác. Chẳng phải họ sợ quân xâm lược, cũng không phải ngại súng đạn, chỉ vì họ quá bất ngờ trước những gì đang diễn ra. Mới này hôm qua thôi, chưa có tin tức gì về việc địch sẽ càn vào các làng quanh Bùi Hạ.
- Sơ tán mau. Đừng chạy đi đâu cả. Cả Chuối, Anh, Bượi Răm đều có lính rồi - Tiếng anh Hỷ rành rọt- Nó không dám nống sang đây đâu. Không phải chạy đi đâu cả. Chỉ cần tránh đạn chúng nó bắn sang thôi. Mọi người cứ mang tất cả các thứ ra ngoài đồng, chúng ta tiếp tục. Nó chỉ bắn vào làng thôi, không dám sang đâu…
- Thật rồi! Kệ mẹ nó. Ngày nào chúng nó chả đùng đoàng. Mang tất ra ruộng. Ta ra đó tổ chức cưới tiếp - ông Tuyển vung tay rồi khệ nệ ôm chồng bánh chưng đi trước. Mỗi người một thứ, nồi niêu, bát đĩa khênh cả ra ruộng.
Lúa mùa đang vào hạt. Đó đây thửa trỗ bông sớm bắt đầu đỏ đuôi. Cả đám cưới nấp dưới những ruộng lúa cao ngang đầu người, thấp thô trong hương thu dịu nhẹ. Mùi xôi nếp, bánh chưng, cỗ cưới hoà vào mùi rơm rạ của lúa chuẩn bị vào vụ gặt thành một thứ hương vị no ấm. Hương vị ấy cứ lan toả, át cả mùi thuốc súng đang dần ngập ngụa không gian. Mọi người có mặt dường như không quan tâm tới mùi thuốc súng đầy chết chóc. Trước mắt họ, chỉ có hạnh phúc của cuộc sống đang hiện hình. Nhìn đôi bạn trẻ Lân Khứu tay trong tay hạnh phúc, mọi người như vui lây. Miếng bánh chưng mừng đám cưới của hai người không còn đơn giản chỉ là món quà, là miếng ăn trong mâm cỗ cưới mà trở thành miếng nhớ, miếng thương khi hoà quyện trong đó cả tình đất, tình đời và tình người nơi miền quê Gia Lộc giữa những ngày bom đạn. Món quà cưới bè bạn tặng họ hôm nay không to tát về vật chất nhưng lại thành dấu ấn, thành chứng nhân hạnh phúc giữa những ngày gian khó. Mùa thu năm năm mươi thành ngày không thể quên trong cuộc đời Lân Khứu. Và đám cưới hai người cũng trở thành đám cưới độc nhất vô nhị trong những ngày chống Pháp gian khổ này.
Trên bờ thửa xung quanh, cỏ lại xanh trở lại. Hôm nay, cỏ như xanh hơn. Đó đây trên hai bờ đất, chi chít những bông hoa dại. Bông vàng, bông trắng, bông lại tím như mơ. Có những bông nhỏ li ti, cánh vàng óng, tươi mởn luôn vươn về phía mặt trời. Trong ruộng, những bông lúa uốn câu nhú màu xanh pha vàng giữa sắc xanh của lá. Chẳng ai có thể gọi hết tên tất cả những loài hoa dại ấy trên bạt ngàn đồng đất quê mình cũng như người ta không thể vạch hết những đường đi, lối lại cho niềm vui, hạnh phúc.
Đêm! Những bóng người lầm lũi từ phía làng Bùi Hạ vượt đồng về lại làng Bung. Mãi khi về tới đầu làng, người ta mới nhận ra đó là đoàn người đi dự đám cưới Lân - Khứu về lại làng. Họ đi, âm thầm, nhẫn nại. Ngày hôm nay, họ đã vượt lên cái khốc liệt giữa cuộc vây ráp, càn quét để vun đắp cho một cuộc sống mới. Bà giáo Thuận đi giữa đoàn người. Gánh nặng cuộc sống bao ngày bà gồng gánh nay đã có người ghé vai xốc đỡ. Bà vui. Niềm vui của người mẹ thấy con cái mình trưởng thành. Cậu trưởng Lân của mẹ giờ không chỉ là một trưởng ban địch vận xông xáo, một phó xã đội được anh em mến phục mà còn là một người đàn ông trưởng thành thực sự. Nó đã có vợ. Nó đã lớn thật rồi. Công lao bà sinh dưỡng vun trồng Lân từ lúc cây non với cảnh một bàn tay đầy, hai bàn tay vơi giờ đã đến mùa trổ quả. Bà bước đi, nhìn trời. Bà biết, ông giáo vẫn dõi mắt theo từng bước đi của mẹ con bà và đêm nay, chắc ông giáo cũng đang rất khấp khởi.
Bóng cái chòi canh cao ngất nghểu trên đầu bốt Giỗ vẫn phập phù bóng điện như mắt ma. Thi thoảng, một bóng pháo sáng vọt lên, ánh sáng xanh lét như ánh lân tinh phụt lên từ những ngôi mộ mới chôn người chết. Tất cả những gì phát ra từ cái Giỗ khốn kiếp kia đều tanh lợm, ghê người thì phải.
Bước qua cây cầu đá xanh ngang con ngõ nhỏ, bàn chân Khứu bỗng ngập ngừng. Ngôi nhà nhỏ nơi anh đã lớn lên giờ đây sẽ trở thành tổ ấm của cô. Người đàn bà tảo tần đang bước những bước điềm đạm, dẫn cô vào cổng kia là mẹ của cô. Ngập ngừng, chộn rộn, thêm một chút lo lắng. Nhưng cô sẽ sống xứng đáng với những gì mà cô và anh đã vượt qua để đến được hạnh phúc này, để xứng đáng với những gì mà rất nhiều người dân đã phải trải qua. Dù ngọt ngào, dù cay đắng, nhưng cô biết mình còn may mắn hơn rất nhiều những người dân làng Chuối, làng Anh hôm nay. Họ đã chết, chết một cách oan uổng bởi họng súng quân thù. Họ đã chết mà không hiểu vì sao mình phải chết.
Không thể dựng nhà to, bà giáo cùng mấy anh em Lân làm tạm hai gian nhà gianh nhỏ. Bà ngăn đôi căn nhà tạo dựng một gian buồng cho vợ chồng Lân. Không có giường, tự tay Lân đã tìm những viên gạch vương vãi khắp nơi, lấy bùn xây thành hai chiếc giường nhỏ trong căn nhà của gia đình. Chiếc giường tân hôn của vợ chồng anh cũng được xây như thế. Trên tấm phản gạch xây bùn ấy, anh đã khéo léo trải một cái ổ rơm. Một chiếc chiếu cũ được trải lên trên, chiếc giường hạnh phúc của vợ chống anh đã được thu xếp như thế.
Ngọn đèn hạt đỗ duy nhất đã tắt. Căn buồng bỗng trở nên thâm u. Tiếng muỗi vo ve lượn như đèn cù. Lân quay mặt vào. Tiếng Khứu thì thầm rất nhỏ:
- Làng Chuối, làng Anh hôm nay dân chết nhiều quá, mình ạ!
- ừ, lúc về ngang qua đấy, làng xóm xơ xác hết. Dân làng Chuối bị giết nhiều hơn. nghe đâu mất đến hơn năm chục mạng người. Chúng nó tàn ác quá. Không kể già, trẻ, đàn ông, đàn bà… Anh Tỳ vừa nói lại, ngày hôm nay rồi thành ngày giỗ trận hai làng này thôi…
- Sao bỗng dưng nó lại càn vào đấy thế mình?
- Chả bỗng dưng đâu. Chắc chỉ nay mai, khi họp chi bộ, mình sẽ biết đích xác thôi. Chiều nay, lúc ngồi bên cạnh anh Nhiếp, bí thư chi bộ nghe liên lạc báo cáo với anh Lê Gia Hỷ, anh đã nghe được rồi. Thôi, ngủ đi, mai còn một đống việc phải làm đấy.
Lân không sao chợp mắt nổi. Tiếng muỗi vẫn i ỉ, vo ve như một bản độc tấu vụng về, buồn thảm. Mùi máu tanh lợm khi đi qua làng Chuối ám ảnh anh. Hình ảnh những người đàn bà bị giặc hiếp đến phát rồ, phát dại không mảnh vải che thân thoắt khóc, thoắt cười chạy dọc đường là tìm con, gọi chồng cứ quanh quẩn hiện về. Cuộc sống là đấu tranh. Nhưng để giành được thắng lợi, người dân vùng này đã phải trả những cái giá quá đắt. Anh không muốn nói ngay với Khứu. Anh không muốn để cô bị ám ảnh bởi những gì chết chóc trong những ngày đầu họ sống cùng dưới một mái nhà. Nhưng hễ nhắm mắt lại, tiếng kêu khóc như chim ri vỡ tổ, tiếng tre nứa trên các mái nhà bị đốt nổ lốp đốp, mùi khói khét lẹt lẫn trong mùi máu quẩn trong quầng lửa rừng rực cháy lại lòa lòa trước mắt Lân. Thù này nhất định phải trả. Căn nguyên của trận càn này nhất định phải tìm ra. Và sự hy sinh của người dân làng Chuối, làng Anh hôm nay nhất định anh phải nhắc đến trong các cuộc địch vận, tuyên truyền để nhân dân nhận rõ tội ác của giặc. Và cả những người Việt nam đang cầm súng trong hàng ngũ quân địch nữa. Họ vì miếng cơm, manh áo, vì bị ép buộc mà phải sung vào đội quân đánh thuê kia, nhưng nhất định, anh phải vận động họ nhìn thấy bộ mặt khát máu của quân xâm lược mà đứng về hàng ngũ của mình.
Cuộc họp chi bộ Nghĩa Hưng bắt đầu. Không khi nào, họp chi bộ lại có không khí trầm lắng như hôm nay. Giọng anh Nhiếp như nghẹn lại.
- Chỉ trong một trận càn, chúng đã bắt giết hơn năm chục người dân làng Chuối, gần hai chục người dân làng Anh, phá tan hoang nhà cửa, làng mạc…
- Trên có thông tin gì về trân càn của chúng không anh? Anh Tuyển ngước lên. Cái vẻ tếu táo của một du kích bán thoát ly gan góc thường ngày biến mất. Nét mặt anh chùng xuống
- Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có một nguyên nhân lớn nhất là trên đường đi càn tại các xã quanh Nghĩa Hưng, chúng có bắt được bốn người tự khai là bộ đội Tây Sơn của ta. Sau khi tra tấn giã man, một trong bốn người này không chịu nổi đã khai là tại làng Chuối đang có chứa một đại đội Tây Sơn và cất giấu vũ khí…
- Mẹ cái thằng khốn kiếp nào thế không biết… Ông Tỳ đứng phắt dậy - Nó ăn gì mà liếm gót quân Pháp đến vậy… Tổ sư nhà nó. Thế mà cũng mạo danh là bộ đội Tây Sơn. Bộ đội Tây Sơn làm gì có cái giống hèn hạ thế. Chắc là nó giả danh thôi… Mình phải cho người đột nhập vào, lôi cổ nó ra mà bêu ra đầu phố Giỗ kia kìa, cho những thằng hèn nhát khác sáng mắt ra…
- Thì từ từ nghe xem bí thư nói rõ ràng xem nào… Đề nghị đồng chí Nhiếp nói cụ thể hơn cho chúng tôi nắm được tình hình - Lân kéo áo Tỳ, lên tiếng… - Chúng tôi cũng đã nghe bà con bàn tán nhiều về trận càn này, bản thân chúng tôi cũng đã qua bên Chuối, Anh nắm tình hình… Thật, giả kể cũng khó xác định, không cẩn thận mình lại mắc mưu chia rẽ của chúng nó.
- Tất nhiên, tên tuổi của kẻ phản bội sẽ được cấp trên tìm hiểu thật rõ. Mà nói thật, những thằng phản bội cũng chẳng mấy khi bọn địch sử dụng lâu đâu. Hết tác dụng là nó bọp - Ông Tuyển lúc lắc mái đầu, tay vung lên.
- Chó nó bọp tan thây lũ chó chết ấy đi. Anh em, đồng đội mình nó còn bán thì bọn kia nó tha gì… Tỳ hùng hồn - Thế mới biết, có được những người như anh Thịnh, anh Thoại dám chết một cách ngoan cường như thế thật đáng mặt anh hùng.
-Anh Thoại, anh Thịnh nhà mình thì miễn bàn, chỉ thương một nỗi, không biết nó vứt xác các anh ấy ở đâu…
- Thôi, ta tập trung vào việc đi - Đồng chí Nhiếp gõ gõ tay xuống mặt bàn - Theo thông tin mật, địch tổ chức trận càn vào làng Anh, làng Chuối và các làng xung quanh không phải ngẫu nhiên như những trận càn khác. Điều này, một số đồng chí trong chi bộ nhất là đồng chí Lân cũng đã nắm bắt được và tôi cũng đã vừa nói qua. Việc tên chỉ điểm, phản bội có phải chính danh là bộ đội Tây Sơn hay không, chúng ta cần có sự xác minh thật chính xác. Nhưng phải khẳng định một điều, chính từ sự khai báo của kẻ phản bội ấy, địch mới tập trung quân, mở một cuộc càn quét với quy mô lớn bao vây làng Chuối lại, rồi lan sang làng Anh. Từ việc vây ráp này, chúng đã bắt được các cán bộ xã đội đang họp, cùng với vũ khí giấu dưới ao bèo tây ở góc làng. Từ đó, chắc các đồng chí hiểu, những thông tin mà kẻ phản bội cung cấp cho địch là hoàn toàn chính xác. Điều này thể hiện sự sơ hở trong công tác của ta. Đây cũng là bài học cho chúng ta trong công tác…
- Chết, chết. Giờ lại còn phải đề phòng cả người bên cạnh mình thì chết chứ sống làm sao - ông Tuyển chắc lưỡi…
- Không hẳn vậy. Anh em chúng ta ai thế nào cả quãng đường gian khổ vừa đi qua, chúng ta đã hiểu. Tôi tin, trong hàng ngũ chúng ta không có kẻ hèn nhát ấy. Tôi chỉ muốn nhắc các đồng chí, trong quan hệ công tác, không phải chuyện gì, thông tin gì chúng ta cũng có thể nói hết, nói ngọn ngành. Điều này, các đồng chí thông tin, tuyên truyền, địch vận rõ hơn ai hết. Bây giờ, đồng chí Lân sẽ thay mặt chi bộ, thông tin thêm tới các đồng chí về trận càn này…
- Thưa các đồng chí. Trận càn của địch vào làng Chuối không chỉ gây tổn thất nặng nề cho nhân dân. hầu như gia đình nào cũng có người bị chúng giết, có nhà bị chúng giết chết hết không còn một người. Xã đội đang họp tại lang Chuối cũng tổn thất khá nặng. Đồng chí Nguyễn Đức Sáng - xã đội trưởng bị chúng bắt, do kiên quyết không chịu khai báo nên bị chúng kê đầu vào máng lợn, cắt tiết. Chúng dồn dân ra ngoài đình, sắp hàng dọc rồi xả súng bắn chết một xâu mười ba người… Nhiều bà, nhiều chị bị chúng hãm hiếp tới mức phát điên. ..
- Bên làng Chuối không tổ chức vòng cản cho chị em à? Ông Tỳ cắt ngang. Làng mình các bà, các mẹ vẫn tổ chức vòng cản khá tốt cơ mà…
- Vòng cản của các bà, các cụ không ăn thua gì khi quân giặc đã trở nên điên cuồng. Một tiểu đội lính Âu Phi lôi chị Diệc từ giữa vòng cản của các cụ ra. Trên tay chị Diệc vẫn ôm đứa con vừa mới sinh được ba tháng. Thằng lính Âu Phi thét lên: "Tí nhau đi mượn" rồi nó giằng đứa bé ra khỏi tay chị, tung lên trên đầu đám dân đang ngồi. May mà một bà đỡ được đứa bé. Chúng lôi chị Diệc ra ngoài. Khi thấy chị ôm chặt lưng quần, một thằng đã xé toạc ống quần của chị từ dưới lên, rồi ngần ấy thằng trong tiểu đội thay nhau hãm hiếp chị. Ngay cả lúc chị Diệc đã ngất đi rồi chúng cũng không tha, vẫn tiếp tục hiếp khiến chị phát điên, cứ tung đứa con lên cao rồi ngửa cổ cười sằng sặc. Rất nhiều người dân bị cắt tiết, chặt đầu. Từ đầu làng đến cuối làng, máu me lênh láng. Nhiều chỗ máu đọng lại ngập bàn chân…
- Tổ sư cha quân ác ôn! Một người đứng lên
- Ban địch vận chúng tôi sẽ có kế hoạch vận động tuyên truyền cụ thể với những nguỵ quân đang cầm súng đánh thuê cho Pháp tại căng Phương Điếm. Họ cầm súng đánh thuê cho chúng khi ở nhà cha mẹ, vợ con họ bị chính đội quân ấy làm hại… Lân thông qua chi bộ kế hoạch địch vận sắp tới của ban anh. Nhất định, từ sự kiện này, anh phải gây dựng thêm được nhiều nhân mối trong lòng địch. Nếu các anh không làm được việc đó, cái chết của những người dân làng Chuối, làng Anh trong trận càn của Pháp vừa qua chẳng phải vô ích lắm sao?

Cuối tháng hai! Đã bước sang năm năm mốt được mấy tháng. Trời vẫn rét như cắt ruột. Gió bấc thổi ồ ồ, gay gắt, lùa vào buốt tận xương. Tờ mờ tối, mọi nhà đã đóng cửa im ỉm. Làng Đức Đại khi thì chìm nghỉm giữa những tiếng réo của gió, lúc lại chơi vơi như đang nằm giữa một khoảng trống giữa đồng. Không có một bóng người ngoài đường, không tiếng người, không đèn đuốc. Chỉ thi thoảng thấy le lói ánh sáng như hạt đỗ lọt ra từ những tấm liếp cửa hé vội. Lân gập người bước cùng mấy anh em trong Ban địch vận và du kích xã nhẹ nhàng lẩn vào bóng đêm hướng về bốt Giỗ. Chưa thể làm gì được nó lúc này, nhưng cũng thể để nó sống yên, du kích xã quyết định đột kích, phá hàng rào phía bên ngoài bốt. Một khoảng trời đen thẫm, lác đác vài ngôi sao thưa thớt luôn luôn ngự trị trên đầu họ. Những ngôi sao không đủ sáng để soi đường nhưng cũng đủ để những người trong tốp du kích đi cùng Lân không đi lệch hướng. Gió thổi mỗi lúc một thêm mạnh, bộ quần gụ mỏng manh họ đang mặc dán vào người. Cái áo anh Tuyển đang mặc bị bục chỉ ở bên sườn, gió cứ thế thốc vào, chạy dọc người khiến có lúc người anh rung lên bần bật. Đêm đã khuya, cơn rét ban ngày vừa dịu đi chút ít giờ trở lại gay gắt. Gió vẫn từ phương Bắc thổi về, lồng lộn trên cả một khoảng rộng mênh mông.
Mặc trời tối, mặc rét buốt, đường ngõ lại chằng chịt những lối ngang lối dọc, tốp du kích vẫn bước. Lân xăm xăm đi đầu. Vóc dáng anh vốn thấp đậm, lại hơi cúi để tránh gió bấc nên nhìn càng như thấp đi. Nhân mối trong bốt anh đã gặp lại lúc chiều. Không thể bỏ lỡ cơ hội này. Gió bấc vẫn gào thét. Ba bề bốn bên chỉ có gió và gió. Mặc!
Bốt Giỗ đã hiện ra trước mắt. Trước khi vào bốt chính với hàng rào kẽm gai, quân Pháp đã bắt dân phu các làng quanh vùng chặt tre rào thành một hàng rào mắt cáo ken dày ở vòng ngoài. Ba tiếng cú rúc. Một tiếng cú đáp lại. Nhân mối của Lân trong bốt đã nhận ra ám hiệu. Lân căng mắt nhìn ra tứ phía. Tầm mắt anh mất hút trong bóng đêm dày đặc. Chắc chắn các anh đang nằm giữa những đám cỏ hoang cao quá tầm tay với mọc um tùm quanh bốt. Tay các anh đã chạm vào hàng rào tre phía ngoài. Đêm càng tối, cái bốt Giỗ càng nổi khối đen thẫm lù lù chạm vào nền trời đêm. Đã ngửi thấy cả mùi han rỉ của dây kẽm gai quân Pháp rào quanh bốt. Quanh lân và đồng đội của anh là cả một khoảng trống. Im lặng. Không một tiếng động nào ngoài tiếng gió rít trong các lùm cây cao vượt lên khỏi tháp canh của bốt và luồng gió rượt đuổi nhau chạy dài khắp các búi cỏ hoang. Không được sơ suất. Chỉ cần một sai sót nhỏ lúc này, những quả mìn quân địch gài dưới chân hàng tre phát nổ là hỏng hết mọi chuyện. Những khẩu đại liên, trung liên quân địch đặt trên các tháp canh sẽ tha hồ nhả đạn. Rồi súng to, súng nhỏ trong đồn sẽ phun ra như mưa. Tiếng cú rúc nhịp một của người nhân mối trong bốt báo cho Lân biết người ấy đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vậy là một khoảng trong hàng rào tre đã được tháo sẵn. Những quả mìn quân địch cài đã bị gỡ kíp nổ. Lân ghé tai ông Tuyển. Những búi bùi nhùi rơm cuộn giẻ bên trong được các anh rải xuống chân hàng rào. Tre làm hàng rào lâu ngày đã khô quắt lại, cộng với gió bấc gào giữa trời hanh heo mấy hôm nay. Đặt bùi nhùi xong, ông Tuyển vẫy tay về phía sau. Bốn anh du kích xã lùi xuống, bò dần ra ngoài. Chỉ còn Lân và Tuyển. Lân ghé miệng thổi vào mớ bùi nhùi trước mặt. Làn khói phơ phất bay lên. Họ vơ cỏ khô phủ lên trên. Ngửi thấy mùi cỏ đã bén lửa, ông Tuyển nháy Lân. Họ trườn theo vệt cỏ khô theo chân con hào nhỏ bọn địch đào quanh bốt, ra chỗ hẹn bên đống mả Chằm.
Ngọn lửa bùng cao. Tre khô bắt lửa cuộn với cỏ hoang khô cháy rừng rực. ánh lửa cháy hàng rào bốt Giỗ bị gió bấc cuộn giữa tiết trời hanh khô càng hanh hao, uốn éo run bần bật. Lửa cháy soi sáng cả một góc trời.
- Bốt Giỗ cháy rồi. Du kích đốt bốt Giỗ rồi, bà con ơi!
Dân Đức Đại, Phương Điếm nổi mõ, tù và, thanh la ầm ĩ. Những nhà ở gần ngay bên bốt vừa ngửa cổ nhìn ngọn lửa bốc cao, vừa chuẩn bị tránh đại bác địch bắn trả thù. Họ hỉ hả nhìn ngọn lửa, lòng thầm mong cho nó không bao giờ tắt.
Con gà eo óc gáy cầm canh. Đã gần sáng. Bọn lính bên bốt Giỗ và Camp Phương Điếm phải một đêm mất ngủ. Dù chỉ bị cháy hàng rào tre bên ngoài cũng khiến chúng không yên ổn. Vậy là cái hệ thống lô cốt chúng vẫn rêu rao "bất khả xâm phạm" chẳng an toàn như chúng vẫn nghĩ. Đêm qua, du kích đốt hàng rào tre bên ngoài, ai dám chắc một lúc nào đó, du kích không nhổ phắt cái bốt sừng sững án ngữ kia. Tin từ khắp nơi đã chẳng dồn về mấy ngày nay, lại cả những tên lính bại trận chạy trối chết từ các bốt ở Thanh hà, Tứ Kỳ, Thanh Miện về Phương Điếm nữa. Chỉ đốt cháy được hàng rào tre, nhưng du kích Nghĩa Hưng đã vả một tát mạnh vào mặt tên đội Gầy cùng đám thuộc hạ lâu nay vẫn nghênh ngang trong bốt Giỗ.
Lân chuồi vào cửa nhà. Bà giáo mẹ anh không bao giờ chốt cửa. Bà biết, con trai bà vẫn đi về thất thường trong đêm. Công việc của anh, bà giáo chẳng lạ gì. Chỉ thương con lăn lóc, vất vả:
- Anh cả về đấy hử? Tiếng bà giáo vọng ra - Có rổ khoai chị ấy luộc chập tối đấy, mang một ít xuống hầm mà ăn, rồi tranh thủ ngủ đi một tí… Khổ!
Tiếng chắc lưỡi xót xa của mẹ khiến Lân bật cười.
- U ơi! Có riêng mình con đâu. Bao anh em khác cũng thế cả đấy chứ…
- Ừ, thì cả đám chúng mày đều thế chứ riêng gì đứa nào… ăn bờ, ngủ bụi… Chỉ lúc nào hết đám mắt xanh mũi lõ kia cút hết thì dân tình mới hết khổ… Thôi, anh cả ăn đi rồi chợp mắt lấy một tí. Chị ấy đi chợ sớm rồi…
- Nhà con đi lâu chưa u?
- Từ lúc gà gáy canh tư. Hôm nay, nó nhảo chợ Bóng. Mà anh chị công tác gì thì cũng phải sơm sớm có con đi. Cứ đẻ một vài đứa, vứt ở nhà cho tôi rồi đi tác te thế nào cũng được. Việc chung giỏi mà việc tư không hay thì cũng chả ra gì được đâu.
- Hì hì! Được rồi. U yên trí, chỉ sợ rồi u lại kêu sụn lưng vì bế cháu thôi. Mà u này, có khi chuẩn bị chống càn đi là vừa đấy. Chốc nữa, thế nào bọn bên bốt Giỗ cũng càn sang đây. Nhà mình ngay cạnh đình cũ thế này, nó không tha đâu. U đánh thức chú Ly, cô Tằm dậy, chuẩn bị dần đi là vừa…
- Đừng có cứ nhắc đến chuyện ấy là anh chị lại cười trừ thế. Mà này! Đêm qua, các anh lại làm gì bên bốt Giỗ hử? - Bà giáo bật dậy - Tôi cũng đã ngờ ngợ. Thấy dân làng gõ mõ, đánh phèng la, lại thấy lửa cháy rừng rực bên bốt Giỗ, hỏi chị ấy thì chị ấy chỉ ngập ngừng nhìn quanh. Này, anh chị bí mật bí đường với ai thì bí, nhưng với mẹ già này thì cấm, nhớ chửa? Tôi đẻ ra các anh,không lẽ gan tôi nhỏ hơn gan anh hử? Tôi là tôi kiên trì từ ngày anh mới bằng hạt tấm, lúc thầy anh còn đi với hội kín kia…
- Nào con có bí mật, bí đường gì với u đâu. Bọn con chỉ quấy rối chúng nó tí thôi. Đốt có tí hàng rào ấy mà. Giá được lệnh đập ngay một lúc cho cả cái bốt Giỗ tan tành, dẫu có chết chúng con cũng dám lắm. Nhưng lệnh trên không cho, với lại sức mình chưa đủ… Chúng con chỉ đòn gió dọa chúng nó tí rồi dùng loa tuyên truyền địch vận cho mấy thằng bên ấy sáng mắt ra thôi. Người mình mà lại cầm súng địch để lại bắn người mình, đám nguỵ quân trong ấy cũng thật khốn khổ. Thôi, u chuẩn bị đi. Thế nào nó cũng càn đấy.
Lân bước ra ngoài. Trời đang rạng dần. Cây dừa ngoài góc vườn nhà vươn những tàu lá dài như chiếc lược chải vào khoảng ban mai. Vẫn yên ắng lạ thường. Nhưng Lân ngờ ngợ, không gian này giống như bầu trời trước khi giông bão. Chắc chắn, những gì phải hứng chịu đêm qua bọn địch bên bốt Giỗ sẽ không bỏ qua. Lân cúi đầu. Anh với cái gáo dừa, múc nước đổ vào hai bàn tay, vã lên mặt. Trời vẫn rét se sắt. Làn nước nhòa khắp mặt khiến da anh rân rân. Một giọt nước rỉ vào qua kẽ miệng. Ngọt lịm. Vị ngọt lan khắp cuống họng, lạnh tê đầu lưỡi, lạnh cả trong ruột.
Anh bước vào gian buồng nhỏ, quăng người xuống chiếc giường tre. Hương lá bưởi Khứu gội đầu ẩn vào trong chiếc áo cô lấy làm gối xộc vào mũi anh. Hương thơm thân thuộc, gợi nhớ. Hàng tuần nay rồi, vợ chồng anh như vợ chồng Ngâu, chồng về vợ lại đi. Những gì mẹ anh nhắc nhở vừa rồi khiến anh nhớ về nghĩa vụ của người con, người chồng trong gia đình. Anh không mấy khi giúp mẹ, giúp vợ được gì. Cả ngày lăn lộn với công việc, lâu lắm không mấy khi anh biết vợ mình đi chợ nào, buôn bán những gì, mẹ anh chợ búa kiếm sống ra sao. Vùi mặt vào tấm áo đẫm hương bưởi từ mái tóc vợ, Lân thấy mình thật may mắn. Đặt lưng xuống cứ ngỡ sẽ ngủ được ngay, ngủ quên trời đất mà bao ý nghĩ lại cuộn về. Đôi mí mắt vừa nặng trĩu như đeo đá bỗng lại nhẹ bẫng như chưa hề có chuyện thiếu ngủ kinh niên mà anh và đồng đội của anh vẫn mắc phải.
Nằm chưa ấm chỗ, Lân giật mình bởi một tràng tiểu liên nổ ngay ngoài ngõ. Nhanh như cắt, anh lao xuống hầm. Hé mắt qua lỗ thông hơi, Lân nghe thấy mấy thằng tây đen cùng thằng tây trắng đang ầm ầm lao qua cây cầu đá, vượt qua bụi tre gai, xông vào nhà anh. Phía bên kia, chúng cũng xộc vào từng nhà, ốp hết dân ra ngồi ở sân đình. Suốt mấy tiếng đồng hồ, chúng sục sạo đến từng bờ câu bụi cỏ, nhưng không tìm thấy những gì mà chúng muốn tìm.
Bọn lính dồn hết dân Đức Đại ra đình. Chúng quây bốn bề. Cứ một sải lại một thằng tây hay một thằng nguỵ lăm lăm súng trong tay. Thằng thông ngôn bám bên cạnh tên đội Gầy như con đỉa bám vào bụng trâu, lượn đi lượn lại như đèn cù trước đám đông dân làng. Môi nó mím lại.
- Dân chúng mày gớm thật! Dám đốt bốt của quan lớn! Thằng nào đốt? Khai mau?
Đám đông dân làng vẫn yên lặng. Họ ngồi yên, đầu cúi xuống, dáng vẻ cam chịu, làm như không liên quan gì đến mình.
- Chúng mày nhất định không chịu mở mồm? Được. Ông sẽ có cách! Thằng thôn ngôn dịch lại lời của tên đội Gầy - Hương chủ, hương quản làng đâu? Điểm mục chúng nó cho tao? Đứa nào lúc này còn trốn ở lại trong nhà là một, đứa nào lờ vờ ngoài làng là hai, đích thị chúng nó du kích, là Việt Minh… Chúng mày đừng hòng thoát! Quan đồn đã thương hại không đếm xỉa đến chúng mày, thế mà chúng mày còn dung túng, chứa chấp Việt Minh để đám du kích đốt bốt của quan. Lần này, quan không tha chúng mày nữa…
Vừa nói, nó vừa bắt hương chủ, hương quản làng điểm mặt từng người. Hương chủ, hương quản vốn là người của ta cài vào nên cũng chỉ điểm mục cho có lệ, rồi bẩm:
- Bẩm quan lớn, dân Đức Đại hôm nay đủ cả, không thiếu tên nào đâu ạ.
- Đủ thật chứ? Tên đội Gầy hếch cái mũi lõ, gương mặt lưỡi cày của nó bị cái mũi kéo chếch theo, thành nhọn hoắt - thế thì thằng nào đêm qua đốt đồn?
- Bẩm quan lớn, thằng nào đốt đồn thì dân chúng con biết làm sao được?
- Cái lưỡi chúng mày dẻo lắm. Ông mà tìm ra đứa nào đốt bốt thì ông làm cỏ cả làng chúng mày. Chắc chúng mày còn chưa biết làng Chuối bên kia hẳn? Cần phải cho chúng mày tắm máu mới tẩy não chúng mày cho sáng sủa ra.
- Xin quan lớn thương tình, dân làng con là chúng con dân ngu khu đen, quanh năm chỉ biết làm ăn, cúc cung tận tuỵ phục vụ các quan, nào có ý gì đâu ạ? Hương chủ Đức Đại vẫn cúi đầu, giọng van xin thiểu não, dáng cam chịu. Dân làng vẫn ngồi yên lặng dưới sân đình, giữa cái rét tím tái của tiết tháng hai.
- Thưa sếp! Một tên lính nguỵ hớt hải chạy vào, đến trước mặt tên đội Gầy, nó giập hai gót chân, đứng như trời trồng.
- Có chuyện gì vậy? Tên đội Gầy hất hàm?
- Thưa sếp… trong lúc phục kích đường vào làng, chúng tôi bắt được hai tên khi chúng đang định vượt qua cầu Tây…
- Chúng nó đâu? Đôi mắt xanh như mắt mèo của tên đội Gầy loé lên, man dại…
- Mấy thằng nữa đang giải chúng về. Một thằng tên là Tuần Đồng, còn thằng kia nhất định không khai tên…
-Ha ha ha! Thằng đội Gầy ngửa cổ cười sằng sặc. Cục yết hầu giữa họng nó chạy lên, chạy xuống liên hồi. Dứt tràng cười điên loạn, nó rút súng bắn chỉ thiên ba phát lên trời. Đám chim ri giữa tán xoan bên cạnh đình giật mình lao vút lên làm hoa xoan trút xuống như mưa.
- Thế nào, hương chủ? Giờ thì ông còn bảo làng này không thiếu mặt thằng nào không? Nó dí cái mũi khoằm sát mặt hương chủ làng. Không thấy hương chủ làng lùi lại. ông chỉ lúc lắc đầu, điệu bộ chán nản:
- Bẩm quan lớn, ngài nhầm rồi. Đâu cứ phải người nào đi qua cầu Tây vào đây cũng là người làng tôi. Hai tay đấy không phải người Đức Đại đâu ạ!
- Thôi được, tao cũng không thừa hơi tranh cãi với mày. Nhất định những thằng ấy sẽ phải khai ra. Nhất định! Nó vừa lẩm bẩm vừa nện giầy đinh cồm cộp quanh đám dân đang vón cục lại giữa sân đình. Bất chợt cánh tay nó vung lên:
- Thằng này, thằng này, cả thằng kia nữa… Đứng dậy mau! Lần vung tay thứ nhất, tên đội chỉ vào ông Cánh. Lần vung tay thứ hai, nó chỉ vào Bùi Bá Xuyên. Đến cái chỉ tay thứ ba, tên đội Gầy dí tay sát vào Ly, em trai Lân, lúc này vừa tròn 21 tuổi. Chỉ chán, nó hét bọn lâu la:
- Chúng mày đâu! Lôi ba thằng tao vừa chỉ ra ngoài…
Đám lính ùng ục chạy vào. ông Cánh, ông Xuyên và cậu Ly bị lôi ra khỏi đám đông dân làng.
Thấy con trai thứ hai bị bọn lính túm áo, lôi ra, bà giáo Thuận đứng bật dậy:
- Thưa các quan. Đây là con trai tôi. Nhà tôi neo người quá nên nó chỉ biết ở nhà làm ruộng giúp già này chứ chẳn tham gia Việt Minh, Việt miếc gì đâu. Mong các quan soi xét, thương thân già này mà tha cho cháu
Tên đội Gầy lại ngửa cổ cười sằng sặc. Nó tiến đến sát bên cậu Ly, giơ bàn tay lông lá như bàn tay khỉ đột, nâng cằm cậu lên:
- Chỉ biết làm ruộng thôi sao? Hé hé… bà già này nói lạ. Thằng này, mặt mũi sáng sủa thế này, sao lại chỉ làm ruộng? Nhất định nó là Việt Minh…. Mà không chừng, chính nó trong bọn đêm qua sang đốt bốt Giỗ. Cứ lôi nó về đồn, trắng đen thế nào, quan đồn khắc biết…
Đám lính túm áo Ly lôi đi. Tằm lăn xả vào, túm chặt tên lính đang túm áo Ly, khóc thảm thiết:
- Xin các quan tha cho anh con. Anh con không phải Việt Minh…
- Anh mày không là Việt Minh thì đứa nào là Việt Minh. Mày chỉ được, các quan tha cho anh mày ngay… tên lính dí khẩu tiểu liên vào đầu Tằm. Cô bé vẫn lắc đầu:
- Cháu không biết Việt Minh thế nào. Cháu cũng chưa nhìn thấy Việt Minh bao giờ. Anh cháu không phải là Việt Minh. Nhà cháu chỉ có một mình anh ấy, giờ các quan bắt anh cháu đi thì mẹ con cháu biết trông cậy vào ai?
- Con lỏi con này. Mày có im ngày không? Mày mà còn lắm mồm kêu khóc, chúng ông bắt cả nhà mày bây giờ…
Tằm vẫn không chịu buông tên lính đang túm áo Ly. Nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt trên gương mặt cô bé. Cô khóc đã lạc cả giọng mà vẫn không giữ được anh trai lại. Thấy không thể ngăn được đám lính đang lôi Ly đi, bà giáo ôm lấy Tằm, lôi cô bé về phía mình. Đám lính tàn bạo này chắc chắn sẽ không lùi bước trước một đứa bé con như Tằm. Nếu cứ găng, nó sẽ bắn chết ngay chứ chẳng chơi. Không thể cùng một lúc mất đi hai giọt máu của mình. Bà đành đứt ruột nhìn đám lính Pháp lôi Ly đi cùng cụ Cánh, ông Xuyền. Rồi sẽ tìm cách gỡ sau.
Qua lỗ thông hơi của căn hầm, Lân nghe thấy hết. Anh biết, em trai mình đã bị tụi Pháp bắt. Ruột anh thắt lại khi nghe tiếng kêu khóc của em gái và tiếng van xin của mẹ. Nhưng bọn lính này đâu có biết tiếng người. Chúng đâu đếm xỉa đến nỗi đau đồng loại chúng đang gánh chịu. Anh muốn nói với mẹ và em gái anh điều ấy. Vậy là mất mát đã ập đến chính ngôi nhà của anh. Lân thoát ly kháng chiến, mẹ anh đã nhiều đêm mất ngủ. Giờ lại đến Ly bị bắt, chắc chỉ nay mai thôi, tóc trên đầu mẹ anh sẽ lại gội thêm một lần bạc.
Nếu được phép của tổ chức lúc này, Lân sẵn sàng cầm lựu đạn xông thẳng vào đám lính kia. Nhưng anh không thể làm trái với những gì tổ chức đã quy định, không thể đặt thù nhà lên trên nợ nước.
Bọn lính đã rút hết. Bà giáo Thuận lạu đạu vào nhà. Bà ngồi bệt xuống nền đất, tấm lưng gầy như gù thêm xuống:
- Chết, chết… Bà giáo ạ, ai lại để thế… Bà lão bên hàng xóm cũng đánh bệt xuống thềm. Cái mê nón quăng tạch trên nền đất - cậu Ly hơn hớn ra thế mà bà lại để cậu ấy ra điểm mục ngoài đình thì thoát sao được cái mắt cú vọ của thằng đội Gầy? Giờ bà giáo phải tính thế nào chứ?
- Biết tính thế nào hở bà? Thì cứ nghĩ nó không ở làng này, nó biết ai vào với ai? Với cả thằng Ly cũng không thể lần nào cũng không ra điểm mục được. Nó biết nhà tôi có con trai rồi. Thằng anh đã đi biền biệt, thằng em không ra điểm mục, đời nào nó để yên…
- Hay bà giáo cứ goi cậu Lân về xem cậu ấy có cách nào không?
- Cách gì được. Chúng lôi tất mấy ông cháu về bốt rồi. Chắc là đòn tra khảo dữ lắm. Không biết mấy ông cháu có bảo nhau mà chịu được không?
- Hôm trước tôi đi chợ, gặp mấy bà bên Cuối, họ bảo người nhà mình không may bị nó lôi bắt vào bốt cứ nhận bừa làm một cái nghề gì đó, nhất là nghề thợ xây là chúng sẽ không tra nữa mà sẽ đưa đi làm phu ngay. Nó đang kíp thợ xây bốt lắm bà giáo ạ. Chỉ cần không bị giam trong căng, trong bốt, ra ngoài thế nào cũng có cơ thoát. Giá có ai mách cho cậu Ly nhà mình mẹo này thì may ra thoát được.
- Thế hở bà? Để tôi bảo thằng cháu Lân xem sao?
- Thôi tôi về đây. Còn ra đồng lần hồi xem có con cua, con ốc gì không. Ba ngày chúng nó càn năm trận thế này, đến cỏ cây cũng không ngóc đầu lên được, nói gì đến người. Giá mà được đánh tan mẹ nó cái bốt Giỗ đi được nhỉ bà giáo nhỉ… Thôi, tôi về nhá…
Bà lão hàng xóm qué cái mê nón sau mông, lụi hụi đi ra. Bà giáo nhìn quanh, gõ nhẹ vào đầu ba ông đầu rau mấy cái rồi dịch chúng sang một bên. Gạt lớp tro than trên mặt đất, bà nhấc nắp hầm qua bên cạnh. Lân chống hai tay lên mép miệng hầm, vươn người, co chân nhảy lên mặt đất như con tôm búng mình rời mặt nước. Chưa cần bà giáo phải nói thêm, Lân xoa hai tay vào nhau, giọng nhẹ nhàng:
- U đừng lo quá. Chú Ly sẽ không làm gì hổ thẹn đến gia đình mình đâu. Bao lần chú ấy vác loa đi địch vận cùng con, cũng cứng cỏi lắm rồi…
- Anh bảo u không lo làm sao được. Con mình sa vào tay quân ăn thịt người ấy, liệu em anh có ăn miếng giả miếng với chúng nó được không? Dại miệng, đòn roi không chịu được mà khai này khai nọ, dẫu có là khai láo cũng tủi hổ cả đời. Rồi dân làng nhổ vào mặt cho ấy chứ!
- Thôi, chú Ly cũng cứng cáp rồi, cứ để từ từ con sẽ nhắn vào xem tình hình chú ấy trong bốt thế nào… U cứ ngồi than thở cũng phỏng ích lợi gì đâu…
- Ừ, thôi, anh em máu chảy ruột mềm, anh tính thế nào thì tính. Mà cứ bảo nó nhận là biết xây, chết cũng không được khai gì. Thà thế còn hơn là khai ra, sống mà nhục thì u cũng không ngẩng mặt được lên mà nhìn bà con làng xóm đâu, nhá…
- Con tin, anh em con không làm gì để tiếng xấu lại cho u đâu. U cứ bình tâm. Con đã nghe bác hàng xóm bàn với u rồi. Chắc chú Ly cũng sẽ tìm được cớ tránh đòn roi của chúng nó thôi. Mà con đi đây, nhà con đi chợ về, u cứ từ từ nói kẻo cô ấy lại cuống lên, u nhé. Nhiều người lo quá cũng không giải quyết được gì. Ngày mai, u cứ chợ búa bình thường, mình hoang mang lo lắng quá là chúng ó thắng đấy. Chúng cũng sẽ còn càn vào đây nhiều, mà có lần nào càn vào, nó lại không bắn, giết, bắt bớ đâu…
- ừ thì vưỡn biết thế. Nhưng anh cả bảo, u không lo sao được…
Lân quẩy quả định bước chân ra ngõ thì Khứu lao vào sân. Đặt đôi quang thúng một góc, cô tháo khăn che mặt, vừa lau mồ hôi vừa hổn hển:
- Chú Ly bị bọn bốt Giỗ bắt sáng nay, mình biết không?
- Tôi biết rồi. Lúc chúng nó càn sang, tôi ở dưới hầm. Mình nghe ở đâu mà đã biết thế?
- Em đi chợ, về đến quán Múc đã nghe dân đang làm cỏ dưới đồng bàn tán rồi. Nhưng vẫn chưa biết chú Ly nhà ta bị bắt. Đến gần cầu xi măng thì biết. Em gánh rau, vờ đi bán ngang bốt, tiện thể rẽ vào bên bà ngoại xem tình hình thế nào. Gặp anh Xoa, nhân mối của mình bên ấy, anh bảo, chú Ly bị bắt vào đấy không khai báo gì đâu. Chú ấy cùng ông Cạc người bên làng Cuối nhận là chỉ biết đi xây nên chỉ nay mai, chúng nó sẽ đưa chú Ly với ông Cạc lên Hải Dương xây boongke thôi… U với mình đừng lo quá!
- Thật thế không nhà Lân? Ơn giời, nếu được thế thì phúc tổ. Nó bị bắt làm phu, xây bốt, vác đạn, tấm thân nó bị đầy đoạ cũng còn chịu được. Dại miệng, thằng Ly có mệnh hệ nào u cũng không lo, không đau bằng nó không giữ được mình. Nhưng nó đã không khai báo, không để lộ bí mật của làng, của Đảng, thế là nó đã giữ được gia phong tổ tiên mình để lại rồi… Chị Lân! Lấy cho tôi chén nước sạch, đặt lên ban thờ ấy.
Bà giáo lại lạu đạu đứng lên. Rút ba nén hương, bà châm lửa, cúi đầu trước ban thờ, lầm rầm khấn vái. Chắc bà muốn kính cáo với tổ tiên về việc con cháu mình đã giữ được nết nhà. Tấm lòng người mẹ với các con thật vĩ đại. Nhưng tấm lòng mẹ với đảng, với cách mạng còn lớn lao hơn. Giọt máu của mình sinh ra, vậy mà mẹ không lo mất bằng những gì liên quan đến Đảng, đến cách mạng. Mảnh đất nghèo này, có những bà mẹ như mẹ anh, liệu quân địch có đánh cướp mãi được không?
Vừa nhìn mẹ, trong đầu Lân, câu hỏi ấy cứ trở đi trở lại. Hình ảnh mẹ bây giờ và hình ảnh mẹ của những ngày gian khổ khi anh còn bé tí cứ thế hiện về. Cũng vẫn cái tảo tần, tất tả. Cũng vẫn dáng cam chịu, nhẫn nại. Nhưng chất chứa đằng sau vóc dáng ấy là cả tấm lòng kiên trung vĩ đại. Dường như tất cả các bà mẹ trên mảnh đất quê này đều như thế. Các anh sẽ phải sống, phải chiến đấu giành lại mảnh đất này bởi các anh không thể phụ công của những người đã sinh thành, nuôi dưỡng ra mình, không thể phụ công những bà mẹ bình thường mà vĩ đại như chính mẹ của anh!
CHƯƠNG XII
Chi bộ Nghĩa Hưng họp trong gian nhà nhỏ dưới gốc cây muỗm đại của gia đình ông Bòng. Cũng như bao gia đình nông dân khác, ông bà sống chủ yếu bằng nghề nông thêm buôn bán vặt. Giữa cảnh bom đạn, chiến tranh, khi không một gia đình nào còn nguyên lành thì nhà ông Bòng cũng trong cảnh ấy. Hai người con trai của ông bà, một thoát ly đi bộ đội Tây Sơn, một bị quân địch bắt lính. Người con cả của ông Bòng bị bắt vào lính nguỵ đóng bên căng Phương Điếm đã trở thành nhân mối của ta. Chuyện xanh vỏ, đỏ lòng, bề ngoài lính nguỵ bên trong quân mình cũng không còn là chuyện hiếm trong những ngày nước sôi lửa bỏng này. Và cũng chính nhờ cái vỏ bọc là anh mà ngôi nhà dưới gốc cây muỗm cổ thụ của gia đình ông Bòng còn nguyên vẹn, trở thành cơ sở chính của chi bộ Nghĩa Hưng trong những ngày địch liên tục càn quét, vây ráp.
Đây đã là những tháng cuối năm của năm 1951. Suốt mấy tháng qua, quân dân Gia Lộc đã cùng với các huyện Tứ Kỳ, Ninh Giang, Thanh Miện gồng mình lên đối phó với hàng loạt cuộc hành quân lớn của quân Pháp nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta trong vùng căn cứ. Hết cuộc hành quân mang tên Mi - ra- ban với gần mười nghìn tên địch đánh phá vùng tiếp giáp Tứ Kỳ, Gia Lộc, Ninh Giang, địch lại mở tiếp cuộc hành quân Va -ti - ráp - bờ - lơ (Vatirable), đánh phá khu tiếp giáp Bình giang, Thanh Miện, Gia Lộc và vừa rồi lại đến chiến dịch "Trái chanh", thọc sâu vào các xã An Đức, Hồng Đức thuộc địa phận huyện Ninh Giang, Đức Xương (Gia Lộc)… Vậy là bất kỳ cuộc hành quân nào, bất kỳ chiến dịch nào mở tại khu vực này, địch cũng không bỏ qua Gia Lộc. Vùng quê của Lân nằm sát bốt Phương Điếm, nơi mở đầu triển khai quân cho các cuộc càn quét, bình định của địch nên không thể ngồi yên.
Nắm bắt được tình hình địch đang tích cực đánh nống ra vùng căn cứ, Tỉnh uỷ Hải Dương đã có chỉ thị mới trong thời điểm hiện tại. từ chỉ thị ấy, Huyện uỷ Gia Lộc cũng đã có những kế hoạch cụ thể triển khai tới từng Chi uỷ xã.
Những bóng người im lìm in trên vách đất. Cả chi bộ im lặng. Những thông tin đồng chí bí thư chi bộ xã đang thông báo cứ như mũi khoan xoáy vào gan ruột mỗi người. Từng dòng, từng dòng tội ác của quân địch đối với đồng bào khiến những đảng viên trong chi bộ càng chất chồng:
- Các đồng chí chú ý, Huyện uỷ chỉ đạo chúng ta cần nắm chắc tình hình hiện tại, nhất là những diễn biến của quân địch để có cách đối phó kịp thời. Chúng ta cần lưu ý, hai tháng gần đây, địch mở chiến dịch "trái chanh", đây là chiến dịch lớn trên địa bàn các huyện Bình Giang, Thanh Miện, Ninh Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc và một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên tiếp giáp với Hải Dương. Chiến dịch này chúng huy động ba binh đoàn cơ động, một số lực lượng phối thuộc, tổng cộng gồm 11 tiểu đoàn với hơn mười nghìn quân và bốn cụm pháo binh lớn. Mục đích của chiến dịch này là truy quét, diệt bộ đội chủ lực ta, triệt phá khu du kích, cơ sở hạ tầng, bắt lính, lập lại tề, củng cố thế chiếm đóng trong vùng địch hậu.
- Chúng nó muốn làm việc ấy đâu phải chuyện dễ, mình đã nắm được thế thì chuẩn bị dàn quân ra mà tẩn nó chứ nghĩ ngẫm làm gì cho nhức đầu… Anh Tuyển - Đội trưởng du kích xã cắt ngang lời bí thư chi bộ…
- Tất nhiên là nó làm việc ấy không dễ, vì thế, chúng mới dùng lực lượng cơ động cộng với hoả lực. Khi phát hiện lực lượng ta, chúng sẽ triển khai hợp vây, dùng phi pháo đánh phá, rồi xung phong đánh chiếm từng khu vực nhỏ. Cùng với truy kích bộ đội ta, địch còn triệt để phá ta về mọi mặt. Đây, các đồng chí nghe nhé, đoạn này, tôi đọc cụ thể từng con số cho các đồng chí nắm rõ, nhất là mảng địch vận do đồng chí Lân phụ trách. Đây sẽ là những con số mà các đồng chí có thể sử dụng cho công tác địch vận. Những anh em lính nguỵ sẽ nghĩ gì khi chính bố mẹ, gia đình, vợ con họ đang bị những kẻ bị coi là đồng đội của họ đánh phá, chém giết và cướp bóc…
- Đề nghị bí thư nói cụ thể từng con số đi ạ…
- Đây nhé: Trong chiến dịch này, chúng đã đốt phá xã Tân Quang, san bằng thôn Hòa Loan (Bình Giang); tại Gia Lộc chúng ta, chúng đã san phẳng Thọ My… Chúng còn đốt cháy hàng trăm hécta lúa ở các xã Chi Lăng, Cao Thắng (Thanh Miện); Chúng dàn quân cướp hàng chục tấn thóc của dân An Đức (Ninh Giang), Minh Đức (Tứ Kỳ), Phạm Lý (Thanh Miện) để lấp đường cho xe chạy. Địch còn cho xe lội nước càn xuống ruộng phá lúa của dân, cho đại bác bắn vào dân khi họ đang gặt lúa. Tất cả những việc làm tàn ác này chúng đều ngang nhiên hoành hành ngay trên đất mình, ngay trước mắt mình…
Những bàn tay nắm lại. Những chiếc quai hàm bạnh ra. Nỗi đau, lòng căm hận quân xâm lược dồn lên từng đường gân, thớ máu. Anh Bạ đứng phắt dậy, cánh tay anh vung lên khiến bóng đèn hạt đỗ bên cạnh chung chiêng như muốn tắt.
- Thưa các đồng chí… Tôi đã định không nói. Nhưng để bụng thì ấm ức không chịu được. Anh em bên Yết Kiêu cho biết, chúng còn bắt đồng bào nộp tiền nuôi lính (riêng xã Yết Kiêu phải nộp tới hơn hai vạn đồng Đông Dương)… Nhiều nơi bên kia sông, địch bắt dân quây trâu lại. Chúng dùng trung liên bắn vào đầu từng con, xả bụng lấy gan, còn lại thịt để cho thối chứ nhất quyết không cho dân làng mang về ăn… càng ngày chúng càng tàn ác. Càng ngày chúng càng ngông cuồng… Xin Chi uỷ cho chúng tôi chuẩn bị đánh!
- Tất nhiên chúng ta đều biết những tội ác man rợ của chúng. Chúng thực hiện tất cả những việc ấy với mục đích "Dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", chứng tỏ một điều, quân Pháp không thể đủ sức để cứ kéo dằng dai cuộc chiến tranh này mãi. Nhưng trên vẫn chưa cho ta chỉ thị đánh. Bởi đã đánh thì phải thắng, đánh mà không thắng càng khiến địch có cớ khủng bố dân ta. Còn một vấn đề nữa, chúng ta cũng cần quan tâm: Đó chính là hoạt động do thám, chỉ điểm của địch. Chúng thường tổ chức những tốp từ ba đến năm tên, giả dạng buôn bán, trà trộn vào dân, hoạt động đêm ngày, nếu phát hiện nơi nào có bộ đội, du kích ta thì chúng đến khủng bố dân… Nếu ta không tuyên truyền người dân tăng cường cảnh giác, đề phòng sẽ rất dễ mắc mưu quân địch, để lộ cơ sở, rơi vào âm mưu chia rẽ tôn giáo của chúng…
- Nhiều việc quá nhỉ… Ông Tỳ lúc lắc đầu. Khó khăn lại chồng chất khó khăn,..
- Đúng đấy. Khó khăn chồng chất khó khăn. Quân địch lại quá nham hiểm. Nếu chúng ta không gần dân, không nắm được dân lúc này là chúng ta thất bại. Vì vậy, Tỉnh uỷ, huyện uỷ chỉ đạo: Tất cả đảng viên cần tăng cường nhận thức tình hình, lấy tuyên truyền, xây dựng cơ sở là chính, tác chiến là phụ. Cần tập trung gây dựng, phục hồi lại cơ sở, bảo vệ cơ sở cách mạng. Bám đất, sát dân, khắc phục tư tưởng muốn "đánh cho hả" "muốn về gia đình", "sợ không có đất đứng". Các đồng chí cần lưu ý, cần linh hoạt trong hoạt động, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chủ yếu chống địch càn quét…
- Nhưng nếu trên cho chỉ thị chống địch càn quét, nó càn vào làng, mình có được đánh không? - Ông Tuyển vẫn chưa buông?
- Đánh chứ. Nó càn vào thôn vào, du kích thôn ấy cùng với du kích xã được quyền đánh trả. Thực hiện liên hoàn tác chiến cơ mà…
- Thế thì được rồi. Cứ được đánh thì liên hoàn kiểu gì chúng tôi cũng chơi. Mà nói trước nhé, bọn địch nghênh ngang thế thôi chứ là loại già dái non hột. Chúng tôi cứ choảng cho vài trận là khiếp vía, đố có dám càn vào làng ngông nghênh như vào chỗ không người nữa đấy… Ông Tuyển nói rồi quay sang Lân và mấy người bên cạnh. Họ nháy mắt nhìn nhau, cười hỉ hả. Ông Tỳ còn giơ tay vỗ bồm bộp vào cây tiểu liên mới cướp được của địch.
- Này, Lân! Cháu (Về mặt họ hàng Lân gọi Tỳ là cậu họ gần) có biết bên Thanh Hà họ hướng dẫn dân chống càn thế nào không?
- Biết chứ cậu! Lân gật đầu - Họ đã huấn luyện được trâu, bò, lợn xuống hầm khi có báo động địch đến. Còn cái khoản thóc lúa nhá, bà con có nhiều cách cất giấu lắm. Cho xuống hầm thì sợ ẩm mốc, có nơi bà con đắp ụ đất bên ngoài, bên trong một lớp rào, rồi đến lớp rơm trộn bùn, trong cùng mới để thóc…
- Dân ta đến là mưu mẹo. Làm mấy lần rào thế khéo chắc hơn quân Pháp xây hàng rào bảo vệ bốt Giỗ ấy nhỉ. Ba lớp mới vào đến hạt thóc, đốt thì không cháy được, phá thì mất công lâu… Quan quân nhà nó chỉ có mà đứng nhìn… Dân mình thế mà giỏi thật!
- Chuyện! Đất mình xưa nay hiền thì hiền thật nhưng không phải dân đần đâu nhá… Chỉ sợ nó điên lên cho quả bọc phá thì hết sạch…
- Nó cho bộc phá thì nó cũng chả thu được gì… chúng mình cứ hướng dẫn cho bà con làm theo cách ấy cho chắc ăn…
- Nhất định rồi. Mà này, có về với bu em tí không? ông Tuyển vỗ vai Lân - Cậu làm ăn thế quái nào mà cô ấy vẫn lép kẹp như con rô đực thế hử?
- Thì… Lân ngập ngừng…
- Ông bảo nó làm ăn thế nào? Đêm thì đi suốt, mò về vợ đi chợ từ đời tám hoánh, chắc gì làm ăn gì được mà chả lép… Ông đi địch vận thay nó, cho nó ở nhà với vợ hẳn một tháng xem bụng có phổng như cái rá con ngay không? Cứ là… Anh Bạ kéo tay Lân - Chú mày ra đây, nghe làm gì cái lão sòn sòn như gà ấy. Vừa giật mìn ngoài đường 17, nhoáy cái chạy về… tháng sau đã thấy bụng vợ lão lùm lùm. Bố ai mà theo được…
- Tao mà địch vận giỏi như thằng Lân, tao làm thay nó ngay. Khốn nỗi, tao đếch ăn nói được. Nhìn mấy thằng lính nguỵ, lính Tây tao chỉ muốn bọp cho mỗi thằng một phát… Hì hì… Ông Tuyển cười, hai vai rung tít.

- Thế mới gọi là phân công nhiệm vụ chứ. Cứ ai cũng bọp bọp như ông thì nói làm gì. Làm thằng gánh trên vai nhiệm vụ địch vận là vừa phải khôn, vừa phải ngoan… tay Lân làm được vì nó điềm tĩnh, chắc chắn lại mưu lược, gan dạ, ông ạ. Chứ như mình thì chỉ có mà "đoàng". Thế là chúng nó nghẻo củ tỏi, chả việc gì phải vận viếc gì nữa…
- Thì thế, tôi với ông mới độn thổ, mới phục kích đánh xe. Không thì đã… Mà có thế, thằng Lân mới được phân công trưởng Ban địch vận kiêm xã đội phó… Này, về bảo u mày làm rá cốm mới, khao quân đấy…
Câu chuyện dóc của mấy anh em chú cháu không biết còn kéo dài đến khi nào nếu bí thư chi bộ không quay lại, trên tay cầm một tờ giấy đã nhàu, chắc công văn chạy hoả tốc vừa đến.
- Huyện uỷ vừa chỉ đạo chi uỷ, phân công các đồng chí cán bộ chủ chốt của liên xã Nghĩa Hưng về trực tiếp nằm vùng bám đất để gây dựng, phục hồi cơ sở, chỉ đạo nhân dân đấu tranh với địch, bảo vệ bằng được những cơ sở cách mạng để làm bàn đạp đấu tranh lâu dài với chúng. Chúng tôi sẽ có sự phân công cụ thể. Riêng đồng chí Lân, chi uỷ phân công về hoạt động tại thôn Đức Đại. Đồng chí là trưởng ban địch vận liên xã Nghĩa Hưng, kiêm chính trị viên phó xã đội. Chi uỷ phân công đồng chí về Đức Đại không phải vì đồng chí là người làng mà vì Đức Đại là khu vực trọng điểm địch đang muốn tập trung xoá bỏ. Vì vậy, khi về lại khu vực này, nhiệm vụ của đồng chí là bám đất, bám dân, lãnh đạo nhân dân phá tề, trừ gian, chống đi phu, chống phạt vạ… Làm thế nào gây dựng được càng nhiều nhân mối trong lòng địch càng tốt, chuẩn bị cho công tác lớn của Đảng sau này… Thôi, khuya rồi, có đồng chí nào có ý kiến gì thêm không? Nếu không, chúng ta giải tán. Các đồng chí giữ vững chế độ liên lạc, báo cáo tình hình.
Địch lại càn đến Đức Đại. Lân lập sẵn kế hoạch phân công các thành viên của thanh niên, phụ nữ, phụ lão, thiếu niên… bám sát cuộc chống càn của dân làng. Du kích thôn cũng chuẩn bị sẵn phương án tác chiến. Nhưng vẫn phải xác định đấu tranh trên mặt trận chính trị là chính. Tác chiến vũ trang chỉ là phụ. Vì vậy, các thành viên trong các tổ chức vẫn phải bám sát, trà trộn vào dân để trực tiếp tham gia đấu tranh.
Đây không biết đã là trận càn thứ bao nhiêu của quân địch vào Đức Đại rồi, Lân cũng không còn nhớ rõ nữa. Từ khi anh về nằm vùng, trực tiếp phụ trách, phong trào của Đức Đại phát triển rất mạnh. Lân đã tập hợp được sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp nhân dân, xây dựng Đức Đại thực sự trở thành một làng kháng chiến đoàn kết. Các phong trào đấu tranh rộng khắp như chống bắt bớ, càn quét, chốn phạt vạ, chống bắt lính, bắt phu, phá tề, trừ gian được nhân dân Đức Đại tham gia rất tích cực. Trước đây, Đức Đại đã nhiều phen khiến quân địch mất ăn, mất ngủ. Giờ đây lại càng trở thành cái gai nhất định phải nhổ trong mắt chúng. Chính vì lí do đó, quân địch liên tục tổ chức càn làng. Có ngày chúng càn hai lần, sáng càn, chiều lại càn lại. Có tuần, chúng càn đến mười mấy lần. Lá cây, ngọn cỏ trên đường làng cũng trở nên nhàu nát bởi gót giầy quân địch. Mỗi lần càn vào làng, địch vẫn dồn hết dân làng ra sân đình. Những lần đầu còn bắt hương chủ, hương quản điểm mục rồi kiếm cớ bắt người này, bắn người kia, nhưng mấy trận càn gần đây, chẳng cần điểm mục, chúng thích bắt người nào là chúng chỉ mặt lôi đi. Nhiều thanh niên bị chúng bắt ép đi lính cũng trong hoàn cảnh ấy. Mỗi lần chúng bắt người, dân làng lại cồn lên. Người túm lính, người túm súng. Trẻ con, người già kêu khóc ầm ĩ. Ban đầu, những tên lính còn sững lại, thả người. Từ hôm thằng đội Gầy bắn chết bà Gia khi bà đang túm một thằng lính đòi thả người thì quân địch không dừng lại nữa. Chúng quay súng, sẵn sàng nhả đạn vào dân làng. Điều này khiến nhiều người dân hoang mang. Lân cùng anh em trong ban địch vận lại lăn lộn thuyết phục dân làng và chuẩn bị phương án đấu tranh mới.
Địch lại càn Đức Đại. Tổ thiếu niên quân báo đang chăn trâu trên cánh đồng ngoài làng đã chạy về báo. Đội du kích thôn lập tức chuẩn bị chiến đấu. Mặc dù vũ khí còn mỏng, nhưng anh em du kích đã tích cực chuẩn bị đánh nếu địch tàn sát dân làng. Lân chạy qua nhà ông Tuyển, lại nhảo qua nhà ông Giống thống nhất lại phương án đấu tranh. Địch tiến đến gần cây cầu đá, vẫn thấy bóng anh thấp thoáng chỉ một lát sau, khi địch ập vào nhà, đã không thấy anh đâu nữa. Trong nhà chỉ còn bà giáo và Tằm đang lúi húi dọn dẹp.
- A lê! Bà già! Ra đình điểm mục mau!
Một tên lính xốc tới, dí họng súng vào lưng bà giáo - cả con nhỏ này nữa…
- Giời cao đất dày ơi! Bà giáo giơ hai tay lên trời, than thở - Ngày nào các ông cũng càn, cũng lùng sục… Việt Minh đâu chả thấy, chỉ thấy chết dân thôi. Các ông lùng mãi đấy mà có bắt được Việt Minh, du kích gì đâu, chỉ bắt toàn dân lành… Sao các ông lại làm thế, ở quê các ông, gia đình các ông có phải chịu cảnh như chúng tôi thế này không?
- A, con mẹ già này, dám lợi dụng tuyên truyền cho Việt Minh hử? Ông thì nổ cho một băng bây giờ? Một tên nguỵ khác xông đến, gạt thằng đang dí súng vào lưng bà giáo, xăm xăm xông lên.
- ối giời ơi! Tôi già cả, nghĩ sao nói vậy, biết gì mà tuyên tuyền với không tuyên truyền… Nhưng các ông thấy đấy. Ngày hai lần điểm mục, dân còn làm ăn, sinh sống làm sao?
- Ai bảo dân làng này chứa chấp Việt Minh chuyên lẻn về đánh đồn, phục lính. Lại còn dẻo lưỡi kêu ca… Quan đồn chưa san phẳng làng này đi là phúc đức lắm rồi đấy…
Rồi nó bỏ bà giáo ngoài sân, xông vào trong nhà. Trên cây cột cái, toòng teng cái áo cánh nâu. Tên địch giơ tay với cái áo. Nó lật qua, lật lại rồi huỳnh huỵch bước ra sân:
- Áo của ai đây?
Bà giáo chột dạ. áo của vợ Lân, nó vừa đi đâu đó về, không biết trong túi có gì không. Nhưng bà lấy lại bình tĩnh rất nhanh. Tên lính bắt đầu lục soát hai bên túi áo
- Bẩm quan lớn, tôi không biết áo của ai đâu. Vừa rồi, có việc, tôi với con bé cháu ra đồng lúi húi mấy việc, không biết ở nhà có ai vào chơi mà treo áo ở đấy rồi quên mất không?
- Mày! Lần này thì chạy đằng trời! Tên lính rú lên man dại. Mặt nó thoắt trắng bệch lại đỏ bầm màu máu. Nó nhảy ba bước đến bên bà giáo, dí tờ giấy vừa lôi được trong túi áo Khứu ra:
- Mụ già! Đừng có cứng lưỡi. áo này là áo đàn bà. Không có con đàn bà nào đến nhà khác chơi lại cởi áo treo lên cột rồi quên mà ở trần đi về bao giờ. Nhất định là áo của người nhà mụ. Mụ có khai không? Giấy má gì còn có cả dấu son đỏ đây này… Đích thị là giấy tờ của Việt Minh rồi…
Thằng lính nguỵ không biết chữ, nó chỉ nhìn thấy cái dấu son đỏ trong tờ giấy. Bà giáo đang nghĩ cách lừa nó lấy lại tờ giấy thì tên đội Gầy đã huỳnh huỵch từ ngoài bước vào. Tên lính nguỵ vội chạy lại, xun xoe:
- Bẩm quan lớn, có tài liệu của Việt Minh trong nhà mụ già này. Thế mà nhất định nó cứ chối leo lẻo…
Thằng đội Gầy không đọc được tiếng Việt. Nó đưa mảnh giấy qua tên thông ngôn. Tên thông ngôn bước đến, ghé sát vào mặt bà giáo. Mùi hôi từ cái miệng cá ngão của nó bốc lên nồng nặng. Bà giáo nghiêng đầu tránh.
- Giấy triệu tập họp của ban chấp hành phụ nữ liên xã Nghĩa Hưng… Nguyễn Thị Khứu là đứa nào?
- Tôi già cả, khốn khổ, nào tôi có biết chấp hành chấp tỏi là gì đâu. Mà ai là Khứu tôi cũng đâu có biết. Các ông đừng lục vấn già này nữa… tôi chỉ biết làm ăn, nuôi con, chẳng liên quan gì đến ai cả. Nhà có thằng con trai, các ông bắt đi mất rồi. Giờ chỉ còn có mình tôi với con bé con. Mẹ goá, con côi, vặt mũi chả đủ đút miệng, hơi đâu mà chấp hành với chấp tỏi. Chắc đứa nào có thù oán gì với tôi ở ngoài chợ nên nó cố tình treo cái áo vào đấy để hại tôi thôi.
- Chẳng đứa nào điên dại mà thù oán với mụ già như mụ. Không nhận, không khai thì lôi cổ mụ về đồn.
- Bẩm quan lớn, oan cho tôi quá! Oan cho tôi quá, quan lớn ơi!
Bà giáo vẫn một mực kêu oan. Bọn lính trói giật cánh khuỷu bà giáo lại. Tằm thấy mẹ bị địch bắt, quăng rổ bèo tung toé, túm chặt áo mẹ ghì lại, kêu khóc ầm ĩ. Mấy tên lính nguỵ ngó cảnh ấy, đưa mắt nhìn nhau. Chúng sững lại. Bọn lính Pháp thấy vậy xông đến. Một thằng giờ chân đạp Tằm một phát. Con bé bị bắn ra ngoài. Tiện đà, nó vung cánh tay đầy lông lá, bạt tiếp mấy cái nữa. Thân hình còm nhom của Tằm nảy lên. Nó nằm im, không còn khóc được nữa. Đến khi tỉnh lại mẹ nó đã bị chúng lôi về đồn rồi.
Cùng bị bắt ngày hôm ấy với bà giáo còn có nhiều người khác trong làng nữa. Không cần có tội, chẳng cần chứng cứ. Chúng thích bắt ai là bắt. Chúng đưa tất cả về nhốt trong hầm xà lim bốt Giỗ. Cứ hai người một hầm, không cần phân biệt già trẻ.
Lân biết mẹ mình bị bắt vì cái giấy triệu tập trong áo của Khứu treo trên cột. Mẹ anh già rồi. Không biết có qua được đận này không. Những ngón đòn tra tấn của quân địch tàn khốc lắm. Đang ngồi trầm ngâm trong nhà, Khứu từ ngoài lao vào. Nhìn thấy Lân, cô bật khóc nức nở:
- U bị chúng bắt, lỗi là tại em, lỗi là tại em. Em vừa đi công tác về, quên mất có giấy triệu tập trong túi nên cứ thế cởi áo treo lên cột. Vừa xong thì nhận được tin địch càn. Không có thẻ căn cước, em phải xuống hầm. Không ngờ, nó làm liên luỵ đến u. Mình ơi! Nếu u có mệnh hệ nào thì em ân hận lắm. Cả đời này em mắc nợ u rồi…
Nhìn vợ khóc không thành tiếng, nỗi ân hận giày vò gương mặt Khứu, Lân se lòng. Mẹ anh có mệnh hệ nào, chắc cô ấy khốn khổ lắm. Nhưng giờ không phải là lúc trách móc nhau. Anh chỉ nhẹ nhàng, nhưng giọng gằn xuống, trầm đục:
- Đằng nào thì mọi chuyện cũng xảy đến rồi. Nhưng sao mình lại sơ suất đến thế. Anh đã dặn kỹ rồi, công văn giấy tờ xong việc là phải đốt ngay. Tất cả chỉ có chôn vào đầu, vào ruột mình mới hy vọng giữ bí mật được. Lần này sơ suất, chúng bắt mất u. Nhưng nếu mất mát lớn hơn thì sao? Mất mát cả phong trào với hàng trăm, hàng nghìn người thì sao?
Khứu im lặng. Nước mắt vẫn chảy dài trên má. Rồi cô đứng lên:
- Em qua bên ngoại, tranh thủ hỏi nhân mối xem tình hình u thế nào? Lựa xem có thể nhờ người đó nhận u là người nhà mà xin chúng thả u được không, u già rồi…
Những tiếng sau, Khứu nói không thành tiếng. Cô vừa đi vừa chạy. Bóng tối bên ngoài đang sập xuống.
Trong hầm xà lim bốt Giỗ. Một cái hầm nhỏ tí, cả bề ngang, bề dài chỉ đủ một người ngồi. Trần xà lim thấp đến nỗi, chỉ cần nhô cao là đụng đầu phải trần. Vậy mà chúng nhốt vào căn hầm bé tí ấy hai người khiến không sao xoay sở được. Bà giáo ngồi bó gối một góc xà lim. Cả khoảng không gian trước mắt cứ tối nhờ nhờ khiến đôi mắt vốn đã bị quặm không sao nhìn thấy gì, nước mắt cứ tràn ra, nhoè nhoẹt. Chúng đóng nắp xà lim lại. Đã bé tí, lại không có lỗ thông hơi nên càng ngày càng bị ngạt. Người bị nhốt chung với bà giáo cũng im thít. Đến khi ngạt không thể thở được, bà giáo đánh với qua người bị nhốt cùng mình:
- Chú gì ơi! Bà giáo lên tiếng - Chú đổi cho tôi ra ngoài được không? Chắc chú con ít tuổi, tôi già rồi, ngột thở quá…
- Cô Thuận phải không? Đúng tiếng cô Thuận rồi. Từ lúc bị đẩy vào hầm, cháu đã ngờ ngợ…
- Cháu là… Bà giáo nghi ngờ. Bà sợ quân địch xảo trá, cho người vào nhốt chung rồi nhận là người nhà để moi tin.
- Cháu là Hịch, người bên Đại Liêu, cháu gọi cô bằng cô thúc bá đây mà. Cô không nhận ra cháu sao?
- Hịch hả! Giời ạ. Thế mà cô cứ tưởng… Cháu đổi cho cô ra ngoài một lúc, cô ngộp thở quá
Hai cô cháu lách người đổi chỗ cho nhau. Bà giáo phải ghé sát mũi qua những lỗ nhỏ li ti trên trần hầm xà lim để thở. Suốt một ngày, chúng không ỏ ê gì đến. Một giọt nước cũng không có. Khát quá, khô cả cổ, hai cô cháu phải ngửa mặt lên trầm lè lưỡi liếm những giọt nước nhỏ do hơi thở thở ra đọng lại trên mái hầm. Bị bỏ đói, khát đến vài hôm, chúng lôi cô cháu bà giáo lên phòng tra tấn.
Qua anh thắc nhân mối trong đồn, vợ chồng Lân biết hết những gì mẹ anh đang phải trải qua trong tù. Nhưng cũng không có cách nào giải thoát cho cụ được.
Cái xà lim bé tý, xoay ngang xoay dọc đều khó khăn, ma đã hai ngày chúng cũng không hỏi han gì, hai cô cháu khát khô cả cổ, chẳng còn cách gì đành phải tiểu ra cái áo để dùng. Sáng ngày thứ ba, cánh cửa xịch mở, ánh sáng chói lòa làm cả hai cô cháu phải nheo mắt mãi mới nhìn thấy bóng thằng cai ngục đen thùi lũi đứng trước cửa. Nó cất tiếng ồ ồ như giọng con chó tru. Thằng thông ngôn dịch lại tiếng nó.
- Hầy dà, bị bỏ đói vậy chúng bay đã suy nghĩ kỹ chưa? Lên ngay quan đồn hỏi
Vừa nói nó vừa lôi xềnh xệch bà giáo lên phòng hỏi cung. Trong phòng bày la liệt cơ man là dụng cụ tra tấn, thằng đội gầy ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế gỗ, tay bập bập xuống bàn, nó hất hàm hỏi:
- Tờ giấy trong nhà mụ là của ai, mụ chứa chấp bao nhiêu Việt Minh từ trước đến nay.
- Dạ bẩm quan lớn, tôi mẹ goá con côi, nhà có ba mẹ con, thằng lớn bị các quan bắt đi xây đồn, còn tôi với con bé cháu, chỉ mải làm kiếm miếng ăn sao mà dám chứa chấp Việt Minh
- Mụ già mồm hả, thế tờ giấy là thế nào?
- Bẩm quan lớn chắc đứa nào nó thù mẹ con tôi nên nó cố vất vào?
- Mụ làm gì mà nó thù?
- Bẩm cái này tôi cũng không biết, hay tại họ thấy con tôi đi xây bốt cho Tây nên họ thù chăng, mà ngài biết đấy, nhà tôi ngay đình làng, ngày nào đi càn các ngài cũng đều ghé qua lục soát thì tôi làm sao dám chứa chấp Việt Minh. Mà nếu có chứa cũng chẳng có ai dại gì lại chọn nhà tôi. Lạy quan lớn đèn giời soi sét.
Thằng thông ngôn dịch lại, thằng đội gày gật gật kể ra nó cũng chẳng lạ gì nhà bà, có ngày nào mà nó không đứng trên cái cầu đá đầu nhà bà để chỉ đạo lùng sục, bao năm nay có thấy gì đâu, mà mụ này già cả sức trói gà không trặt thì làm được gì, nó hất hàm bảo thằng cai ngục, cho nhốt lại mai hỏi tiếp. Cứ như vậy trong vài ngày bà giáo vẫn một mực kêu oan ức...
Sau hơn một tuần không tra hỏi được gì, bà giáo ngày một yếu, quân Pháp đành phải thả bà ra.
Lần bà giáo bị bắt thành bài học Khứu nhớ mãi trong cuộc đời hoạt động và công tác sau này. Cô luôn cảm ơn trời Phật đã cứu mạng bà cụ, bởi nếu bà cụ có mệnh hệ nào, chắc cô ân hận suốt đời.
Phong trào của Đức Đại ngày một vững vàng. Đội du kích của làng hoạt động mạnh. Ban địch vận đã xây dựng vận động được nhiều nhân mối cắm rễ sâu trong lòng địch. Cả Đức Đại trở thành một đám mây lớn, tích điện trước cơn mưa, chỉ chờ sấm lệnh trút sét vào đầu giặc. Nhưng bốt Giỗ đóng cách đấy chỉ vài trăm mét, địch làm sao có thể ngồi yên. Không nhổ được cái gai Đức Đại, chúng cũng quyết không để dân làng coi thường chúng. Càn! Càn! Và càn! Chúng quyết làm Đức Đại thành vùng trắng, quyết làm lòng người Đức Đại tê liệt. Không khuất phục được dân làng bằng những thủ đoạn dụ dỗ, không khuất phục được lòng người bằng những thủ đoạn mua chuộc đê hèn, chúng quyết dùng súng đạn, dùng những đòn thù dã man khuất phục lòng người Đức Đại. Nhưng chúng nhầm. Dù chúng có càn ngày một lần, ngày hai lần hoặc giả chúng có càn ngày này tiếp ngày khác, trận càn này chưa qua, trận càn khác đã đổ đến, chúng cũng không đời nào khuất phục nổi người dân Đức Đại. Càng càn, chúng càng khiến dân Đức Đại trở nên sắt đá, càng khiến ý chí quyết tâm, chống lại quân thù trong lòng người Đức Đại được hun đúc thành một khối thép mà không ngọn lửa nào có thể nung chảy nổi.
Giữa tháng tư năm 51. Khi những bông hoa gạo cuối mùa rùng mình rời cành đáp xuống mặt đất, khi những bông hoa bèo tây nở tím biếc biến những ao, những đầm thành một tấm thảm hoa, quân Pháp lại đem bàn chân bẩn thỉu của mình chà lại làng Đức Đại.
Quả mìn du kích thôn chôn ngầm, nổ ngay lối vào đầu làng khiến hai thằng Pháp tung thây lên trời càng khiến những thằng còn lại ồ ồ xông vào làng như bầy thú đói. Chúng lùa dân làng ra đình, lôi bà Muộm ra khỏi đám người, túm tóc giật ngược lôi đi. Không biết bao nhiêu roi gân bò, báng súng đám lính trút xuống người bà. Có thằng còn dúi đầu bà xuống, lật ngửa mặt bà lên rồi lấy chính đôi giầy đinh của nó đạp, chà lên mặt bà. Không chịu nổi, bà Muộm bật khai trong làng có Việt Minh về nằm vùng. Lúc này, Lân, Tuyển, Bạ, Tỳ… và tất cả những anh em du kích khác đã xuống hầm trú ẩn.
Túm được lời khai của bà Muộm, ngày hôm ấy, chúng chà đi chà lại, càn làng Đức Đại đến bốn lần. "Phải tát cạn nước, bắt bằng được cá". Thằng đội Gầy nghiến hai hàm răng lại. Quân nguỵ đi trước vây chặt bốn bề, quyết không cho một ai lọt ra khỏi làng. Số lính còn lại, chúng chia làm ba mũi theo các con đường nhỏ tấn công vào làng. Quân Pháp lùa đám lính nguỵ đi trước, hòng đẩy họ thành bia đỡ đạn và dò đường tránh mìn cho chúng. Những người lính nguỵ súng lăm lăm trong tay nhưng mắt nháo nhác như quạ vào chuồng lợn tháng ba. Bọn Pháp đi sau thét lác. Thi thoảng chúng lại xổ một băng tiểu liên lên trời để thị uy. Lọt vào làng, địch xộc vào từng nhà. Không một góc nhà, một đống rơm nào chúng để thoát. Những cái thuốn dài chọc xuống tìm hầm bí mật. Cả đến góc chuồng trâu, chuồng lợn chúng cũng xăm hầm. Lửa cháy rần rật giữa tiếng súng nổ, tiếng trâu bò rống thảm thiết, tiếng người kêu khóc… Cả làng chìm trong khói lửa bọn địch đốt nhà và khói thuốc súng. Mù mịt! Khét lẹt!
Quân địch ập vào quá nhanh. Khứu và Yển, thành viên ban chấp hành phụ nữ liên xã không kịp xuống hầm bí mật để trốn. Hai người nhìn nhau. Khứu kéo chị Yển:
- Chị có thẻ căn cước không?
- Làm gì có - Yển lắc đầu!
- Thế thì không ở lại đây được. Tôi cũng không có thẻ căn cước. Nó mà hỏi đến là lộ, không thoát được đâu - Khứu nhìn nhanh ra ngoài cánh đồng. Lúa ngoài đồng đang thì con gái, đúng vào dịp làm cỏ, cô kéo Yển:
- Một liều ba bẩy cũng liều. May ra thoát. Giờ mà chạy là nó phát hiện ra ngay. Chị theo tôi. Hai chị em mình giả làm người đi làm cỏ. Nước đến đâu, bắc cầu đến đấy, đi.
Họ vo quần lên quá gối, kéo khăn bịt mặt như người làm đồng rồi chạy ra cánh đồng Mả Liêu. Vừa bước xuống ruộng, cúi người định làm cỏ, hai chị em giật mình bởi tiếng quát nhỏ nhưng rất đanh:
- Giơ tay lên!
- Ơ… Khứu liếc nhanh. Hai tên lính nguỵ đã phục nấp dưới bờ thửa. Tại mải, cô không phát hiện ra. Nhìn khuôn mặt rám nắng rất nông dân của hai tên nguỵ, cô cứng cỏi:
- Chào hai chú. Gớm, hai chú sao không vào làng như những anh em khác mà lại nằm bờ nằm bụi ở đây làm gì cho khổ tấm thân…
- Không lôi thôi. Định đánh trống lảng hẳn. Tối qua quan đồn bắt được người làng này, đã khai trong làng có Việt Minh nằm vùng. Hai người thấy quan vào, không ở trong làng lại chạy ra đây vờ làm cỏ, chắc chắn là Việt Minh nằm vùng rồi.
- Nói hai chú thông cảm. Chúng tôi đàn bà con gái. Một ngày các quan càn những bốn năm bận, chúng tôi cứ ngồi nhà thì các cháu ai nuôi. Thầy chúng nó thì quan Tây cũng tóm đi lính như các chú rồi, giờ cũng chả biết sống chết thế nào. Con cái nheo nhóc, làm chẳng đủ vun miệng, chúng tôi dại gì đi làm Việt Minh. Giờ các chú cứ nhất mực bắt chúng tôi về nộp quan đồn thì các cháu ở nhà ai nuôi? Khứu nhỏ nhẹ
- Mà tôi thưa thật với hai chú chứ: Bà già ấy, tại các quan đánh nhiều quá nên bà ấy khai bừa, chứ chúng tôi có nom nhòm thấy Việt Minh nằm vùng ở đâu đâu - Chị Yển nói thêm vào.
Hai tên lính nguỵ chùng xuống. Phần thấy có hai người đàn bà, trong tay không một tấc sắt, có cho cũng chả dám chạy, phần lại thấy họ nói cũng có ý đúng nên chúng ngồi bệt xuống bờ thửa, tay dứt một đọt lòng phình sớm, đưa lên miệng nhấm nhấm. Thấy hai tên nguỵ không có vẻ căng lắm, Khứu nắm ngay cơ hội làm công tác địch vận. Cô lân la:
- Thế gia đình hai chú quê đâu ta?
Tên trẻ hơn, khoảng gần ba mươi tuổi nói nhỏ:
- Tôi quê Đại Trì.
- Đại Trì cũng cách đây không bao xa. Chắc chú thi thoảng cũng nhảo được về thăm nhà chứ?
- Tôi có cha mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ. Nói thật với chị, tôi cũng bị càn làng rồi bị ép đi lính. Chẳng ai muốn lâm vào cảnh này. Nhiều khi nhớ nhà, muốn về thăm vợ con mà khó quá, lần khân mãi rồi chả dám về. Sợ mấy ông Việt Minh biết, không hiểu cho mình lại trả thù thì rồi vợ con cũng khốn nạn.
- Gớm, chú cứ lo xa. Việt Minh chúng tôi chưa gặp nhưng họ cũng là người mình. Họ có làm gì tàn ác đâu. Những gì họ làm chắc các chú cũng nghe nhiều rồi. ở làng tôi cũng có mấy người bị ép đi lính, họ vẫn trốn quan sếp về thăm nhà, ở với vợ con mà chẳng ai bị làm sao cả. Việt Minh họ biết đâu là lính bị ép, đâu là ác ôn chứ. Thế lương lậu các chú có khá không? Chắc cũng gửi về được cho các cụ với các cháu ở nhà được chút ít chứ? Dân mình giờ khắp nơi đói khổ quá. Làm được hạt thóc thì quan thu. Nhìn con mình đói chảy dãi mà thóc thì lính đem lấp làm đường cho xe chạy. Lúa thì quan quân đem đốt đồng, cháy thui, cháy rụi…
- Chúng tôi cũng khốn khổ lắm. Mỗi tháng được gần bốn chục đồng thôi. Ăn uống dè sẻn thì cũng để ra được một tí. Nhưng có dám về nhà đâu mà bảo mang về. Ngày thì đi càn, làm bia đỡ đạn, đêm về buồn quá, lại rủ nhau đánh bạc. Lương cũng còn thiếu chứ nói gì đến để ra. Mà nói thật với các bà, thân phận thằng lính đánh thuê như chúng tôi, biết có sống được đến mai không mà để dành củ khoai đến sáng. Thế nên tặc lưỡi cho quên đời. Chắc ở quê, nhà tôi cũng sống khốn khổ lắm…
Giọng người lính nguỵ ngày một xa xăm, nghe não nề cứ như lọt về từ một chốn vô thuỷ, vô chung nào đó. Khứu nghe cũng thấy ngùi ngùi. Cô lắc đầu:
- Chúng tôi ở đây cũng chả sung sướng gì. Các chú thấy đấy, suốt ngày làng bị càn. làm ăn thì khó khăn. buôn bán thì lính ra chợ cướp hàng, mua quịt. Nhiều khi giáp hạt cũng chả còn cái mà ăn, lại rau má, củ chuối qua lần. Cơ cực lắm. Các chú có đi càn thì hãy thương dân lành với. Họ chẳng có tội gì đâu. Họ cũng khổ sở như cha mẹ, vợ con các chú thôi, toàn là bị đánh đến hộc máu mồm, dồn máu mũi để ép nhận tội, phải khai láo kiếm cớ cho quan đồn càn phá làng. Chắc hai cụ với các thím, các cháu nhà hai chú ở nhà cũng cảnh này như chúng tôi thôi. Mình là người Việt nam cả. Nếu có bị bắt đi càn, các chú nên bảo những anh em khác nhẹ tay cho dân nhờ. Chúng tôi chỉ dám nói điều này với các chú, chứ với đám mũi lõ, nó khác giống mình, tàn ác lắm…
Người lính lớn tuổi hơn ngồi im, mắt nhìn ra xa. Chắc anh ta cũng đang nhớ nhà lắm. Khứu lại quay qua:
- Còn chú, quê gần đây không?
- Tôi quê làng Lúa bên Bình Giang kia kìa. Nhà cũng một mẹ già, vợ với hai con. Lâu lắm rồi cũng không dám về nhà vì sợ Việt Minh trả thù. Cũng chả biết nhà tôi dạo này sống chết thế nào nữa…
- Chú ở Bình Giang à? Khứu gần như reo - Nhà tôi có bà bác dâu người Bình Giang đấy. Bà ấy lấy ông bác tôi là ông Tuần Tương, hai chú có nghe tên ông tuần này bao giờ chưa? Nhân đây, mời hai chú vào nhà bác tôi chơi.
- Thôi, xin phép bà, bây giờ chúng tôi đang thực thi nhiệm vụ mà vào đó, ngộ nhỡ các quan phát hiện ra lại cho rằng chúng tôi thông đồng với Việt Minh thì khó cho chúng tôi mà lại liên luỵ đến gia chủ thì khổ. Xin được khất hai bà. Hai bà về làng ngay đi. Nhớ cẩn thận đấy, lính phục ở khắp nơi. Gặp chúng tôi thì không sao nhưng nếu gặp toán lính khác thì phiền phức lắm đấy. Từ đây vào đến đầu làng, nếu gặp toán lính nào thì cứ bảo chúng tôi ở ngoài này đã lục soát rồi, nhá!
- Xin cảm ơn chú đã có thịnh tình nhắc nhở chúng tôi. Xin phép hai chú, hẹn khi nào rỗi rãi, mời hai chú về nhà chúng tôi chơi.
Hai người lính lại tiếp tục ngồi thụp xuống, phục tại chỗ cũ. Khứu vơ vội một mớ cỏ to, ôm khư khư bên sườn. Cô te tái đi trước. Chị Yển bước theo sau. Họ theo lối mòn lẩn vào làng. Chân họ lấm lem bùn đất. Đến đầu chùa Đại, lại một toán lính có đến năm, sáu tên xộc ra. Chúng giơ súng chắn ngang:
- Đứng lại! Đi đâu về mà lấc láo thế kia. Thẻ căn cước đâu?
- Chúng tôi đã lên quận chụp ảnh và làm thủ tục rồi nhưng đã lấy được căn cước đâu, xin khất các ông vậy.
- Sao lại không có căn cước? Thế mò ở đâu về đây?
- Chị em tôi làm cỏ ở cánh đồng Mả Liêu về. Ngoài ấy có mấy ông đã xác minh rồi, chúng tôi làm cỏ ngoài đồng về làng chứ có chạy từ trong làng ra ngoài đâu mà các ông nghi.
- Được rồi. Vào làng đi. Nhanh nhanh mà lấy căn cước về. Nếu lần sau mà bắt được hai người còn không có thẻ căn cước thì buộc chúng tôi phải bắt hai người đưa về đồn giam lại đấy.
Khứu nháy chị Yển, hai người vâng dạ rối rít rồi nhanh chóng lủi vào làng, ai về nhà nấy.
Khứu theo lối tắt về nhà. Cô vẫn vừa đi vừa tránh những chỗ có lính phục. Cô biết, ngay trong hàng ngũ quân nguỵ cũng có những tên ác ôn, bán nước cầu vinh, làm chó săn khét tiếng cho quan thầy. Không may gặp những tên ấy, đừng hy vọng mở miệng, nói gì đến địch vận để chúng nhận ra đường đi, nước bước, quay súng về với nhân dân. Không thẻ căn cước trong tay, tốt nhất là tìm một căn hầm bí mật, tránh tạm xuống đó, chờ địch rút hãy lên. Đến khu hầm bí mật của ông Tuyển, ngay trước vườn nhà cô, Khứu thấy ông Tuyển đội nắp hầm nhô lên, miệng thở phì phì:
- Ngạt quá, ngạt không thở được. Tao chạy vào trong dân đây. Nói rồi, ông phóng nhanh vào ngôi nhà đối diện.
Ông Tuyển vừa kíp vào ngôi nhà, tiếng quân địch đã léo nhéo vọng lại. Nhìn quanh, không thể chạy về nhà lúc này. Thấp thoáng, thấy ông Giống đang đi lại, Khứu vội vàng:
- Ông Giống ơi! Ngụy trang nắp hầm giúp tôi tí nhá.
Cô nhảy xuống hầm. Ông Giống đậy nắp hầm lại, ngụy trang trên mặt rồi bước đi. Khứu không ngờ căn hầm lại ngạt khí đến thế. Không khí trong hầm cạn dần. Cô ngồi một lúc không sao thở được nữa. Sức nguột dần, cũng chẳng đẩy được nắp hầm mà lao lên như ông Tuyển lúc trước. Khứu lả dần đi.
Địch rút! Mọi người bắt đầu mở nắp hầm cho những người hoạt động bí mật. Ông Giống chợt nhớ đến Khứu. Nắp hầm bật mở. Khứu ngồi lả người, mặt bắt đầu tím lại. ông Giống kêu ầm ĩ:
- Vợ Lân ngất rồi. Vợ Lân ngạt hầm ngất rồi.
Ông Tuyển lao đến:
- Mả mẹ cái hầm này, ngạt cứ như cái hũ nút. Tao không chịu được đã phải đội nắp hầm lao lên. Nhưng vợ Lân không chạy được, lại nhảy xuống. Cấp cứu ngay đi, may ra còn cứu được. Khổ thân. Thằng Lân mà biết chuyện này là lại sốt vó lên.
Mọi người tập trung cấp cứu. Một lúc lâu sau, Khứu mới tỉnh lại. Đêm ấy, cô bảo chồng:
- Thật hú vía. Gặp địch thì còn có cơ may thoát chết. Chứ chui hầm mà không đủ lỗ thông khí thì có ngày chết oan!.
 Nguyễn Đình Vinh - Thương Huyền
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...