Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Vùng mắt bão 5

Vùng mắt bão 5

CHƯƠNG XVII
Mặt trời vừa đội đất nhô lên qua những lùm cây lúp xúp ngoài rìa làng. những quầng mây màu cam đang dần thoát ra khỏi vòng tròn như cái nong con vừa vây quanh vầng sáng chói loà ấy. Hương chủ Đức Đại Đặng Duy Khoả cùng hương quản, và hơn chục cụ trong ban tranh đấu khăn đóng, áo the đĩnh đạc lên đồn. Hôm nay, các cụ cùng hương chủ hương quản lên, không cần sự kêu gọi của tên sếp bốt. Cụ Bùi Quang Đẩu đi đầu. Ngoài bảy mươi, nhưng cái dáng quắc thước gồ ghề của con người từng trải ấy vẫn khiến làng trên xóm dưới phải nể phục. Hương chủ Hoàn và hương quản Tùng sải bước sau cụ một hàng. Họ lặng lẽ đi. Lá đơn trình đồn nằm gọn ghẽ trong tay hương chủ Hoàn. Những dòng, những chữ trong đơn đã được Lân cùng những người trực tiếp chỉ đạo cuộc tranh đấu soạn khá kỹ càng.
- Mon chef militaire! (Báo cáo xếp) - Cụ Đẩu đứng thẳng lưng, nói với tên sếp bốt bằng tiếng Pháp - Viên sếp bốt ngớ người. Hắn không tin vào những gì tai hắn vừa nghe được. Cái thứ tiếng mẹ đẻ của hắn lại được chính ông già quắc thước, áo the khăn xếp chính hiệu Việt kia phát âm bằng giọng khá chuẩn ư? Hắn đảo mắt nhìn. Cả một tốp hàng chục người vừa đàn ông, vừa đàn bà, dáng vẻ nhẫn nhục, sợ sệt hàng ngày của dân bản xứ biến đâu mất. Thay vào đó, hắn thấy ai cũng có vẻ rất đường hoàng, đĩnh đạc.
- Chúng nó đến đây làm gì? Đã giục dân chuẩn bị dọn làng đi chưa? - Viên sếp bốt cũng không vừa. Thấy cụ Đẩu nói bằng tiếng Pháp, nó quay qua nói bằng thứ tiếng Việt lơ lớ…
- Thưa sếp! Hôm nay, chúng tôi đại diện cho dân Đức Đại lên đây, xin được có nhời với quan sếp - Cụ Đẩu tiếp tục - Việc dân Đức Đại chúng tôi bỏ nơi tản cư về lại nhờ sự bảo hộ che trở của chính phủ quốc gia, chắc ngài đã rõ. Dân chúng tôi cũng đã nhận được lệnh của quan lớn đuổi làng tôi rồi. Nhưng thưa quan lớn, mong ngài cho dân chún tôi ở lại làm ăn tại nơi quê cha đất tổ. Nếu bây giờ các quan đuổi dân đi thì dân biết đi đâu? Chúng tôi biết làm ăn thế nào để mà sinh sống? . Dân làng đang sống với quốc gia, không làm gì sai trái với ý đồn, sao đồn lại bắt dân làng phải rời bỏ quê hương ra đi…"
- Bẩm quan lớn - Hương chủ Hoàn lên tiếng - lần trước tôi với hương quản của làng cũng đã thưa bẩm với ngài - Dân Đức Đại là dân hay lam hay làm, chỉ cui cút làm ăn, không biết gì đến chính trị quốc gia, xin quan lớn thương tình, đừng bắt dân dọn nhà, dời làng…
- Bẩm báo gì - tên đồn trưởng bỗng đổi giọng. Nó thét lên - Chúng mày cũng một duộc cả, đều là loại ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản. Cui cút cái gì chúng mày. Chúng mày đã chứa chấp Việt Minh đánh lại quan trên, nên quan trên mới ra lệnh đuổi hết làng mày đi nơi khác. Hạn sau năm ngày nữa, chúng mày không dọn đi thì quan trên sẽ cho bắn đại bác về. Chúng mày nhớ đấy. Đúng năm ngày nữa…
Hắn tuôn một tràng rồi hằm hằm lao vào phía trong, chỉ còn cái gáy đỏ như da gấc chín thấp thô rồi cũng khuất dạng.
° ° °
- Đồng chí Lân chịu trách nhiệm chính lãnh đạo cuộc tranh đấu này, đồng chí tính thế nào thì tính đi…
Hương chủ Hoàn vừa tháo cái áo the vắt lên tay vịn cái tràng kỷ tre đã lên nước bóng loáng, vừa thở phù phù. Với ấm nước dưới gầm thồi, hương chủ ngửa cổ tu ừng ực. Vòi ấm quệt ngang má, để lại một vết nhọ nồi đen ánh như mực tàu.
- Nó nói ấm ớ mà gia hạn thế là nhất định nó găng đấy. Không đùa được đâu.
- Thì tôi có bảo đùa cợt gì với chúng nó đâu. Tôi đã thống nhất với mọi đảng viên của tổ đảng rồi. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Không phải mình tránh nó, mà phải tìm cách tự bảo vệ mình. Nhất định nó sẽ câu đại bác vào làng. Mình phải tìm cách ổn định tinh thần cho bà con. Đó là vấn đề quan trọng trước nhất. Ban tranh đấu đã nhất trí đến từng ngõ, gõ từng nhà, vận động bà con đào hầm tránh đại bác trong nhà. Vừa làm, họ vừa động viên nhân dân giữ vững tinh thần, đấu tranh với lính đồn.
Đang sấp ngửa lao đến nhà cụ Đẩu, Lân giật mình bởi tiếng gọi giật giọng vọng qua hàng rào găng trước mặt:
- Lân! Lân! Mái đầu bù lên như cái nơm nhỏ nhô lên - Tình hình lên đồn thế nào rồi? Nó có nhượng bộ cho mình ở lại làng không?
- À, chú. Cháu cứ tưởng ai. Làm gì có. Mình lên là việc của mình, chú lạ gì, đời nào nó lại nhượng bộ mình nhanh thế… Lân rẽ một lối nhỏ bên hàng rào, chui đầu sang.
- Mẹ nó - Tuyển co chân đá đá vào gốc rào găng - Tao đã bảo rồi mà. Với lũ đầu đất ấy, nói làm gì cho nó phí nhời. Cứ ở lại, nó đến là choảng. Có thế thôi!
- Chú chả phải đe. Nó hạn cho dân mình trong năm ngày nữa không dọn đi là nó nã đại bác về. Dân chết thì đừng có kêu than… Cháu đang bù hết đầu…
- Thế à? Thế thì gay đấy. Mày định thế nào?
- Thế nào nữa… Ban tranh đấu đã cùng với tổ đảng vận động bà con làng mình đào hầm tránh đại bác trong nhà rồi. Nhà nào ít người thì đào một hầm. Nhà nào đông người phải đào hai ba cái… Dân mình cũng mệt. Có ít thanh niên trai tráng phần đi thoát ly vào bộ đội chủ lực, phần bán thoát ly du kích, phần lại bị chúng nó bắt lính.. gay quá! À, hay chú cho anh em du kích về đào giúp cho bà con… Đỡ được ít nào hay ít ấy…
- Ừ, tao cũng đang định thế. Đêm nay, anh em sẽ về…
- Thế thì hay rồi. Chú đưa anh em về vừa đào hầm giúp bà con, hướng dẫn bà con cách ẩn nấp, vừa để bà con thấy bên cạnh họ còn có lực lượng du kích chiến đấu… Gì chứ, có cánh quân chiến đấu bên cạnh, tinh thần bà con phấn khởi, yên tâm lên nhiều…
- Yên chí. Đêm nay chúng tao sẽ về. Giờ mày đi đâu thì đi đi, nhớ…
Tuyển nói rồi vọt đi. Lân rẽ rào, qua nhà cụ Đẩu.
Mấy đêm liền, Tuyển dẫn anh em du kích bán thoát ly của thôn Đức Đại về giúp đỡ nhân dân đào hầm. Cứ tìm những chỗ thật an toàn. Mé sân, cạnh bếp, bên bờ tre, bụi chuối,… Không khí cả làng nóng dần lên. Khẩn trương! Căng thẳng!
Trời đã tối. Bóng đêm mờ mờ lẫn trong ánh sao. Chỉ thi thoảng có ánh đèn chập chờn thoát ra từ những chiếc chụp che, nhoáng nhoàng rọi một vệt sáng như len qua khe cửa hẹp rồi tắt lịm. Những bóng người lầm lũi trong bóng tối. Những tiếng cuốc chắc nịch xoáy vào không gian. Đêm tĩnh lặng đến không ngờ càng khiến tiếng cuốc đào hầm như tiếng ruột gan người Đức Đại nện sâu vào đất. Âm thanh ấy như khoan vào màn đêm, nó như lời hứa sẽ kiên gan bền chí với mảnh đất này. Những gì chắc chắn nhất còn sót lại trên mảnh đất nghèo này đều được người dân Đức Đại đem ra chống hầm, quyết một phen sống mái với địch.
- Này, nhà Lân! Hầm hố bên ấy thế nào rồi? Thấy bóng Khứu thấp thô ngoài đầu thềm, từ bên này rào, Tuyển hỏi với sang
- Nhà cháu cũng tươm tươm rồi ông ạ. Chỉ thương mấy bà con bên kia, nhà neo người quá, hầm hố chưa đâu vào với đâu cả, lát mấy chị em cháu bên chỗ phụ nữ cũng phải chạy sang đó giúp bà con một lúc đây.
- Ờ, bấn bận quá, cũng không sao nghĩ ra được nữa. Để tao cho mấy đứa trong tổ du kích sang giúp họ mới được. Nhà Lân về chưa?
- Nhà cháu vừa nhảo về. Đang tụt tạt nhai mấy miếng khoai trong nhà. Mà hình như nhà cháu đang đợi chú thì phải…
- Ờ, ờ… Để tao nhào ra ngoài chỗ mấy đứa rồi quay lại. Cứ để nó nuốt thêm vài miếng nữa. Khổ, vì làng vì nước đến cơm cũng chả kịp nuốt nói gì đến nhìn mặt vợ… Mày cũng rõ khổ!
Chờ Tuyển chia nhỏ tổ du kích về từng nhà giúp dân, Lân kéo ông chú đích thân đi đôn đốc việc chuẩn bị hầm hố. Trước mắt họ, màn đêm như sẫm lại. Con sông ngoài xa đang mùa nước nổi. Tiếng bìm bịp kêu báo nước ròng khắc khoải. Gió từ ngoài đồng lại cuộn về. Đến chỗ rẽ, Lân giật áo Tuyển:
- Nhà ông Tâm chỗ này đây chú, nhà chỉ có hai ông cháu. Vợ chồng anh Tâm đều chết cả rồi. Không biết hầm hố thế nào rồi, mình tạt qua xem…
- Ờ. ờ...
Trong bóng đêm mờ mờ, ông Tâm đang lụ khụ kéo từng gầu đất. Giữa đêm tối, Lân vẫn nhận ra khuôn ngực lép kẹp của ông lão phập phồng khiến hơi thở thoát ra khò khè, khó nhọc. Thấy hai chú cháu Lân bước vào, ông Tâm dừng tay kéo đất, cười khọt khẹt trong hơi thở gấp:
- Hai chú cháu anh Lân sao lại vẫn mò mẫm với chúng tôi thế này. Hay lại không an lòng hả. Yên chí đi. Có chết cũng còn phải nói lời giã biệt quê cha đất tổ đã chứ. Rồi ông lão ngâm nga "Quê hương nghĩa nặng tình sâu…".
- Thôi được rồi cụ ạ. Để chú cháu tôi giúp cụ một tay - Lân nói rồi cầm lấy cuốc. Anh nhảy xuống cái hầm đang đào dở, chỉ một lát, tiếng cuốc đã thình thịch khoét vào ruột đất.
Những gia đình neo người trong thôn được mọi người xúm vào giúp sức. Chỉ trong khoảng ba ngày, mỗi nhà đã chuẩn bị đủ cho mình chỗ trú ẩn, dẫu chưa thật an toàn nhưng cũng khiến lòng người dân đằm lại trước bão táp quân thù khi họ biết chắc chắn, nó sẽ trút xuống đầu mình.
Những tiếng đại bác gầm rít trong không gian, nổ chát chúa, khoét những cái hố sâu hoắm đầu tiên trên mảnh Đức Đại. Đạn đại bác từ bốt Giỗ bay vào làng ù ù như trời trở bão. Những mái nhà bị lật tung, ném lên không trung, bốc cháy đùng đùng. Đã quá hạn năm ngày đồn Phương Điếm gia hạn cho nhân dân Đức Đại. Ngôi làng ấy vẫn im lìm không hề có dấu hiệu nào chứng tỏ người dân ở đây sẽ dời làng như lệnh đồn đã đuổi. Và những quả đạn đại bác đỏ lừ, bay vun vút trong không trung, lao đến từ cái bốt Giỗ gớm ghiếc như con quỷ, nổ chát chúa trên đầu, cả ba bề, bốn bên không nằm ngoài sức tưởng tượng của người dân mảnh đất này.
- Xuống hầm, xuống hầm mau - Tiếng hét thất thanh chạy dài theo các đường ngõ vòng vèo như ruột gà trong làng. Lân đôn đáo khắp nơi nhắc nhở bà con ẩn nấp. Ruột gan Khứu như thắt lại theo mỗi bước đi của chồng.
Do có sự chuẩn bị trước, nhân dân xuống hầm ẩn nấp rất nhanh, loáng cái chẳng thấy bóng dáng ai trên mặt đất, ngoại trừ mấy con chó, mèo xổng chân chạy nháo nhác. Nhiều loạt đại bác từ đồn Phương Điếm rơi xuống khắp làng Đức Đại. Nhà cửa bị thiêu rụi rất nhiều. Lửa đã bốc lên. Hơi nóng phả ra bỏng rát. Không gian mù mịt khói bụi.
Chiều muộn. Khoảng không gian phía Tây hừng hực một màu đỏ máu. Địch đã ngừng bắn, không còn thấy vãi đạn sang làng. Chưa thấy dấu hiệu gì là quân địch từ bốt Giỗ sẽ càn làng ngay. Đại bác vừa ngừng, Lân đã tập hợp anh em trong tổ đảng Đức Đại.
- Quân này ác ôn thật - Tỳ vừa đập đập hai bàn chân vào nhau, xoay người ngồi xuống bên thềm hè. Bà giáo Thuận bưng ra một rổ con khoai luộc, thẩy đến trước mặt mấy anh em:
- Thì làm gì có ai nghĩ là nó không ác. Giống quỷ làm sao hành động như người. Mấy anh em tranh thủ, vừa bàn bạc, vừa nhai lấy vài miếng. Cuộc này xem ra còn là phải lâu dài đấy, không thể nhanh chóng đấu với chúng nó được đâu. Cậu cháu, anh em là cứ phải bảo nhau cẩn thận.
Tỳ đẩy rá khoai về phía bà giáo:
- Bá cất đi đi. Chúng em đang rối hết cả ruột, lòng dạ nào mà nhai nuốt lúc này. Lân! Mày tập hợp tình hình các xóm thế nào?
- Cháu vừa đảo một lượt rồi. Nhà cửa nó thiêu cháy không ít, còn người thì chết mất hai.
- Nhà nào thế? Tao ở mãi tít cuối làng, hết tiếng nổ là bổ nhào về đây, chửa biết đầu cua tai nheo thế nào…Tỳ nhổm hẳn người về phía Lân.
- Chết anh Vận ở xóm ngoài và bà Phễu. Cả hai đều bị đại bác khoan trúng hầm. Cháu cũng vừa ở đấy, đã cùng gia đình họ moi được xác lên rồi. Nhưng cháu đang nghĩ, không thể bỏ qua cho bọn bốt Giỗ chuyện này. Nếu mình không tranh thủ ngay mà vận động dân đấu tranh với chúng nó khiến chúng chùn tay là chúng nó sẽ làm tới. Rồi thì không chỉ là hai người đâu. Mình không đấu tranh là chúng sẽ giết dân mình không ghê tay đấy. Nhà anh Vận, bà Phễu cháu cũng đã làm công tác tư tưởng rồi. Hai người chết đã được làm những thủ tục sơ sơ. Họ cũng đã chuẩn bị cáng để người làng khênh xác người nhà họ lên đồn đấu tranh. Việc này phải tổ đảng lãnh đạo, các cụ trong ban tranh đấu cũng đã sẵn sàng, không thể để bọn bên đồn kiếm cớ đàn áp lại dân mình được.
- Vậy phải làm thế nào? Có khi mình phải vạch sẵn xem nói những câu gì, nói thế nào chứ không u minh ù cạc được đâu.
- Mọi người đã nắm chắc vị trí mình phải chỉ đạo rồi. Việc trước mắt là anh em làm thế nào vận động bà con tập hợp thành đoàn đấu tranh thật nhanh. Mình sẽ cho người cáng xác anh Vận, bà Phễu sang đồn đấu lý với chúng nó. Liệu khoảng mấy giờ thì mọi người hoàn thành công tác vận động của mình?
- Làm gì mà phải mấy tiếng. Chúng tôi làm ngay bây giờ. Gì chứ dân mình cũng đang sẵn lòng căm bốt Giỗ. Gọi là họ đi ngay thôi.
- Không chủ quan được đâu. Căm thì căm nhưng cũng không phải là không sợ. Vì thế, mình phải rất khôn khéo trong việc vận động bà con. Phải để bà con an lòng mà thấy, lẽ phải thuộc về mình mà cứng cỏi đấu tranh với chúng nó… Thôi, bây giờ anh em ai vào việc ấy, một tiếng nữa, chúng ta gặp lại, thống nhất cách thức cụ thể.
- Cậu Lân, cậu Lân ơi! Lân giật thót người bởi tiếng gọi thất thanh từ ngoài cổng vọng vào. Ai như tiếng chị Sự. Khứu hối hả đứng dậy:
- Chị Sự à. Chuyện thế nào rồi chị?
- Cậu ấy đâu? Chị Sự lao vào, mặt căng thẳng, âu lo.
- Em đây, đang định nhảo ra ngoài mấy gia đình có người chết đây! Lân từ trong nhà bước ra, vừa đi vừa lấy hai bàn tay xoa mặt. Mắt anh đỏ khé. Đôi mắt của người mất ngủ quá nhiều.
- Ờ, ra ngay đi. Mấy nhà ngoài rìa làng, cạnh nhà bà Phễu đang chuẩn bị thu dọn đồ đạc, đi sơ tán hết cả rồi.
- Thật không chị? Em vừa ở đấy về, có thấy gì khác thường đâu? Trán Lân nhíu lại... Thế này thì không được rồi...
- Sao lại còn thật với giả gì nữa. Họ đang gói ghém kia kìa. Người ra người vào bàn tán đông lắm. Chả là mọi người tập trung bên nhà bà Phễu để lo hậu sự mà. Cậu phải ra ngay xem thế nào, chứ một hai nhà đi được thì những nhà khác nghĩ sao...
- Để em ra - Lân với tay lên cây cột nhà, nhấc cái áo cánh đang treo trên cây đinh cột.
- Này - bà giáo Thuận đứng dậy - Con ra đấy luôn đi, để u qua nhà cụ Đẩu rồi sẽ ra sau. Cứ bình tĩnh, con nhá...
- Vâng. Lân tất tả chạy theo chị Sự. Khứu hối hả chạy theo chồng. Vừa chạy, cô vừa quài tay về phía gáy búi lại bối tóc vừa vướng cành tre gai ngang cổng tuột xuống, sổ tung ra.
Những gói to bọc nhỏ ngổn ngang trên nền nhà bà cả Tốt. Nồi niêu, ấm tách, chén bát… Tất tật cho vào những tay nải, bị cói, bao tải… Bà cả Tốt mặt tái mét cắt không còn giọt máu, vừa nhìn thấy Lân đã mếu máo:
- Thôi, phải tội với chú, với làng tôi đành chịu. Cảnh nhà mẹ goá con côi, tôi kinh lắm rồi. Chết chết, vừa mới ùng oàng bên tai, đánh nhoàng cái nhìn sang bên nhà chú Vận đã thấy lửa cháy đùng đùng, giời đất cứ gọi là mù mịt rồi là khét lèn lẹt. Đấy, nói dại, sáng ngày mà quả đại bác ấy rơi trúng nhà tôi thì giờ tôi cũng ruồi bu đặc rồi chứ còn ngồi đây mà thở than được với chú hay sao? Thôi, chú bắt tội thế nào tôi cũng chịu, nhưng tôi không ở lại được nữa rồi… Mẹ goá con côi, ông ấy khuất, tôi chỉ còn mỗi mình thằng cu Tít. Nó có mệnh hệ nào thì nhà chồng tôi mất giống tiệt nòi… Chú tha tội cho …
Nhìn gương mặt bệu bạo đầy nước mắt của người đàn bà góa bụa, Lân giấu tiếng thở dài. Anh nhẹ nhàng:
- Bác có tội gì đâu. Chúng bắn giết như thế, con người ta ai cũng lần da đến thịt, ai chẳng sợ hả bác…
- Ối giời cao đất dày ơi, chú thấu được cho mẹ con tôi như thế, tôi ơn chú lắm. Tôi đang không biết ăn nói thế nào với chú đây… Bà cả Tốt quơ hai tay lên trời như người chết đuối quờ tìm vật bám víu cuối cùng.
- Tôi cũng biết việc đi hay ở không ai bắt được bác cả. Bác nghĩ thế nào thì làm thế ấy. Làng mình không phải ai cũng hiểu được cho ước nguyện của chúng tôi. Giữ làng, giữ đất cũng có phải giữ riêng cho một mình nhà nào… Nếu không ai định giữ thì mình tôi có chết cũng không làm gì được. Thân tôi cũng vậy thôi. Ai chẳng sợ chết… Nhưng vì mảnh đất hương hỏa, vì mồ mả tổ tiên, bà con làng mình ở lại cả. Nhưng bác muốn đi cháu có giữ cũng đâu được… Giữ người ở, ai giữ được người đi…
Bà cả Tốt ngừng thu dọn, ngẩng lên nhìn Lân chằm chằm. Vừa lúc ấy, cụ Đẩu trưởng ban tranh đấu của thôn cùng bà giáo Thuận bước vào. Mái tóc bạc như cước của cụ Đẩu rung rung…
- Cậu Lân nó nói phải đấy. Giữ người ở ai giữ được người đi. Nhà bác muốn đi thì tuỳ bác. nhưng bây giờ hai mẹ con bác chạy đi đâu? bác có ai thân quen ở những làng khác không? Khổ, những lần trước tản cư còn có làng xóm láng giềng, dẫu không nhà không cửa cũng còn có bà con tối lửa tắt đèn. Lần này, mẹ con bác đi, thân cô thế độc, chỉ có một mình, liệu mà toan tính…
- Thế các cụ già thế cũng ở lại sao? Bà cả Tốt ngước đôi mắt chi chít vết rạn chân chim, ầng ậc nước nhìn cụ Đẩu
- Đằng nào chả một lần chết. Bà thấy con người ta cũng có ai sống mãi được đâu. Chết nơi quê cha đất tổ, có bà con xóm láng chả hơn chán vạn chết không đất chôn nơi xứ người hay sao… Thời buổi hòn tên mũi đạn mù trời này, chỗ nào chẳng như chỗ nào, làm gì có nơi nào không có tên rơi đạn lạc. Chả cứ tôi, ngay đến nhà bà Vận kia, con trai vừa bị đại bác bắn chết chiều nay đấy, tịnh có thấy bà ấy nói gì đến chuyện dọn đi đâu đau. Nó vừa hù doạ thế, mình đã cun cút cuốn gói, chẳng thà mình thua nó hay sao. Ai đi cứ đi, những ai ở lại sẽ cùng chúng tôi đấu với chúng nó đến cùng thì thôi. Có chết cũng phải chết cho đàng hoàng.
- Đúng đấy bà ạ. Thôi, cụ Đẩu có đi sang bên nhà chị Phễu tí không? Tôi sang bên ấy xem thế nào… Bà cứ tính toán cho kỹ đi ạ, kẻo đi thì dễ mà đến lúc muốn quay về với bà con lại khó…
- Thì ta sang bên đó xem thế nào? Tội thật. Mà cái nhà anh chồng chị Phễu cũng đến là gan. Vợ bị thế mà cấm có hé răng than khổ hay muốn dọn đi. Mà thằng Lân đâu nhỉ? Đây rồi. Mày xem tập hợp bà con, nhất định không bỏ qua cho bọn bốt Phương Điếm vụ này.
- Bà con tập trung bên ấy đủ rồi đấy cụ ạ - Lân chỉ tay sang nhà chị Phễu. Đám đông người lố nhố trên mảnh sân đất ngay bên cạnh cái nền nhà bị cháy đen rụi chỉ còn hai cái cột cái đổ xiêu đổ vẹo và cái hố đạn đại bác toang hoác ngay trên nền cái bếp cũ - Cháu đã thống nhất với tổ đảng rồi. Mình phải tổ chức bà con khênh ngay hai người bị chúng bắn chết hôm nay lên đồn. Nhất định đòi chúng đền mạng.
- Hẳn thế. Không thể lơ mơ để chúng tự tung tự tác muốn hoành hành thế nào cũng được thế. Đi!
Cụ Đẩu khoát tay. Mọi người kéo nhau sang cả bên nhà chị Phễu chỉ còn trơ lại hai mẹ con bà cả Tốt. Cu Tít thấy vậy, đùng đùng đá chân vào cái bị cói đựng mấy cái nồi bẹp, vùng vằng:
- Làng chả có ai đi mà bu đòi đi. Con không đi đâu. Con ở lại đây, vào tổ thiếu niên quân báo với bọn thằng Tiềm, thằng Trừ…
Nó nói rồi co cẳng chạy theo mọi người. Còn mình bà cả Tốt ngồi chưng hửng giữa mớ đồ đạc ngổn ngang. Rồi bà lầm lũi đặt từng thứ một vào chỗ cũ.
Chiếc đèn quang treo lơ lửng giữa nhà. Căn nhà nhỏ vốn đã thấp càng thêm lụp sụp bởi thứ ánh sáng mờ mờ. Lân ngồi bất động. Hai tay chống cằm. Một con thạch sùng từ trong hốc vách bò ra, bám chặt trên chiếc xà ngang. Nó ngóc đầu, nghiêng ngó xung quanh. Cái ức trắng như trứng nhện phập phồng. Phía cuối thanh xà, một con chuồn chuồn tương đang chấp chới đôi cánh mỏng. Lại có một cuộc chiến sắp xảy ra. Lân chợt nghĩ. Dân Đức Đại hiện giờ không khác gì con chuồn chuồn đang xập xè vỗ cánh kia và quân địch trong bốt Giỗ cũng không khác con thạch sùng đang rình mồi kia là mấy. Nếu chuồn chuồn mất cảnh giác, không đề phòng, nhất định sẽ chết bởi thạch sùng. Anh và những đồng chí trong tổ đảng nhất định không thể để tình trạng ấy xảy đến với người dân Đức Đại. Họ sẽ phải chiến đấu đến cùng.
Cụ Đẩu từ ngoài sân bước vào. Theo sau cụ, mấy người trong ban tranh đấu cùng tcác đảng viên trong tổ đảng Đức Đại cũng kíp tới. Lân triển khai nhanh:
- Việc này không thể chậm trễ được nữa. Các đồng chí báo cáo tình hình vận động bà con đi đấu tranh xem đến đâu rồi?
- Tất cả các xóm chúng tôi đã hoàn tất. Tinh thần của bà con lên rất cao. Bà con không ngại gì khó khăn, không sợ nguy hiểm. ít nhất là mỗi nhà cũng có một người...
- Vậy là ổn rồi. Bây giờ ta chuẩn bị sẵn những điều phải lên đấu với chúng nó. Các đồng chí cần nắm thật chắc, ở đây, mình chủ yếu đấu tranh theo hình thức chính trị là chính, tránh gây đổ máu. Càng bớt căng thẳng càng tốt, chủ yếu phải đạt được mục đích trước mắt của mình là chúng nó không được bắn đại bác vào làng giết hại dân nữa. Tôi phân công thế này...
- Trước khi anh Lân tổ trưởng tổ đảng, người chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo dân làng đấu tranh chống dồn dân đuổi làng phân công nhiệm vụ, tôi có ý kiến - Cụ Đẩu đứng dậy... - Như các anh, các chị đã biết. Việc đấu tranh này đảng chưa công khai. Chính vì vậy, những đồng chí trực tiếp lãnh đạo như đồng chí Lân nhất nhất không thể xuất đầu lộ diện. Vì vậy, mọi việc đấu lý với chúng, ban tranh đấu thôn chúng tôi sẽ trực tiếp đứng ra. Các đồng chí chỉ đạo từ xa là được rồi.
- Nhất trí như vậy - Những người dự họp đồng tình. Không thể các đồng chí lãnh đạo xuất hiện trực tiếp được. Nếu không, địch sẽ nắm được mọi đầu mối của ta ngay. Tổ thiếu niên quân báo sẽ làm nhiệm vụ liên lạc, nhận báo cáo từ ban tranh đấu chuyển đến ban lãnh đạo và chuyển lệnh của lãnh đạo tới ban tranh đấu. Chúng ta phải phối hợp thật nhịp nhàng.
- Tỉnh uỷ Hải Dương, huyện uỷ Gia Lộc và chi uỷ Nghĩa hưng cũng đã thống nhất kế hoạch chỉ đạo như vậy. Chúng tôi sẽ triệt để thực hiện kế hoạch này - Lân nhắc lại - Bây giờ chúng ta vào việc chính. Toàn bộ mảng đấu lý với bọn trên bốt Giỗ sẽ do cụ Đẩu đảm nhiệm chính. Những người làm nòng cốt trong ban tranh đấu sẽ cùng phối hợp với cụ Đẩu thực hiện nhiệm vụ này. Việc khiêng cáng sẽ do phụ nữ đảm nhiệm. Tổ phụ lão cứu quốc đảm nhận phần khích lệ, động viên tinh thần những người đi đấu tranh. Bây giờ, chúng ta tản ra cùng với gia đình anh Vận và chị Phễu chuẩn bị võng, cáng đòn khiêng. Để đánh lạc hướng địch, tôi đề nghị thế này, tất cả những người tham gia vào cuộc đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng này đều phải thắt khăn trắng trên đầu. Điều này có nghĩa là gia đình đòi bồi thường mạng, không mang ý nghĩa chính trị gì với bọn địch ở đây để chúng không thể có cớ nói là dân nghe Việt Minh xúi giục. Các đồng chí thấy thế nào?
- Sáng kiến đấy. Chúng tôi nhất trí.
- Vậy có ai còn ý kiến gì thêm không?
- Làm thôi chứ còn kiến cò gì nữa... Cậu Lân đưa ra kế sách ấy là hợp lý quá rồi. Nhất trí thôi.
Mọi người toả ra các ngõ.
Chỉ một lát, đoàn người tập hợp tại đình làng đã đông như kiến cỏ. Cụ đẩu cùng ban tranh đấu thôn sẵn sàng. Vẫn dáng diệu quắc thước, chậm rãi vốn có, cụ cất giọng:
- Thắt hết khăn trắng lên đầu đi bà con - Tiếng cụ Đẩu sang sảng - Nhà ai có khăn trắng cũng cứ bỏ ra thắt hết lên, chả cần phân biệt họ hàng hay không… càng đông người thắt khăn trắng càng tốt. Đám thanh niên, phụ nữ chuẩn bị xong chưa?
- Chúng cháu xong cả đây rồi cụ ạ. Anh Lân đang chọn người khiêng cáng.
Lân cùng mọi người đặt xác anh Vận và bà Phễu lên hai chiếc võng. Mỗi đầu một người khiêng. Khăn trắng rợp trên những mái đầu xanh nhìn từ xa như đàn cò bồng nhau tìm lại về chốn cũ. Đoàn người khăn tang trắng trên đầu lũ lượt kéo nhau hướng sang phía bốt Phương Điếm.
- Ối trời cao đất dầy ơi, sao nhà khổ thế nhà ơi.
- Ối chị ơi là chị ơi! Sao chị chết oan chết uổng thế này. Chị sống hiền lành, có làm gì ai đâu mà giời nỡ đầy đọa chị thế này chị ơi.
Tiếng khóc than rồng rắn theo hai chiếc cáng mỗi lúc một thảm thiết. Người ta khóc, người ta kể lể. tất cả hợp thành một bản hợp âm thật não nề. Đoàn người càng đi càng đông. Dân hai bên đường nghe tiếng than khóc nháo nhào đổ ra.
- Ối giời ơi. Tưởng về với chính phủ quốc gia thì êm cửa êm nhà, ai ngờ nên cơ nên sự thế này, ối em ơi, là em ơi!
- Ông Đội ơi là ông Đội ơi, dân tình làm gì nên tội mà ông cho pháo bắn giết thế này...
Dòng người kéo theo tiếng khóc than diễu qua. Bà con ngoài phố nhìn nhau, chỉ trỏ:
- Khốn nạn thật! Bốt Giỗ cho quân giội đại bác vào Đức Đại, người chết, nhà cháy. Sao mà tang thương thế kia... Bọn này ác quá. Làm sao chúng nó có thể ức hiếp dân mình quá như thế được. Đi nào bà con. Đi lên xem quan đồn giả nhời việc này thế nào nào...
Người này gọi người khác. người ta kéo nhau nhập vào. Đoàn đấu tranh ngày một đông. Họ nối thành một khối dài, kéo nhau rẽ vào đầu phố Giỗ.
Hai chiếc cáng tiến đến cổng đồn. Mấy tên lính gác hò nhau đóng cổng đồn lại. Dòng người ứ lại như thuỷ triều lên gặp con đê chắn lũ. Tiếng khóc than ngày càng não ruột.
Đoàn người kéo đến bốt Giỗ, hai cánh cổng sắt khép im ỉm, chỉ thấy bên trong cánh cổng vài tên lính canh đứng đấy, tịnh chẳng thấy thằng quan tây nào.
- Mấy chú lính ơi! Cho chúng tôi vào gặp sếp bốt một lát thôi - Cụ Đẩu tiến lại gần mấy tên lính gác, giọng nhẹ nhàng. Phía sau cụ, đoàn người vẫn rùng rùng tiến đến ngày một đông. Không khéo chỉ một cú hích tay, hai cánh cổng kia bật ra chưa biết chừng.
- Quan đồn đi vắng. Các ông muốn gặp quan đồn có việc gì? Một tên lính hằm hằm bước tới trước mặt cụ Đẩu. Nó hất hàm vẻ trịch thượng.
- Đấy, các chú xem. Bà con dân làng nào ai làm gì đồn mà đồn cho đại bác bắn vào. Các chú thấy không, những người đàn ông, đàn bà hiền lành kia thì họ làm gì nên tội nào. Họ có gì khiến cho đồn tức giận đâu? Vậy mà tại sao họ lại chết tang thương thế kia?
- Ối em ơi là em ơi! Sao em lại chết khổ, chết sở thế này, các chú ơi! Bà chị gái bà Phễu lao đến, túm chặt lấy một bên cánh tay của tên lính gác cổng mà kêu khóc. Tên lính hoảng hốt lùi lại. Nó sợ hãi chĩa súng bắn mấy phát lên trời để thị uy.
- Lùi lại. Lùi lại không bắn chết bây giờ - Mấy tên lính lên đạn rôm rốp. Nhưng cũng có những tên lẩn vào sau lưng đồng bọn, thoáng thấy cặp mắt chúng đỏ hoe.
- Sao lại khổ thế này hả ông đồn ơi! Tiếng khóc, tiếng la hét, kể lể lại ầm ĩ cả cổng bốt. Dòng người sáp lại càng lúc càng đông thêm. Giữa tiếng khóc than, người ta đã thấy cả không khí hừng hực của lửa căm thù.
- Quan đồn ơi! Chị tôi, em tôi không làm gì nên tội, đồn bắn chết thế này, giờ lấy ai nuôi mẹ già, con dại cho chị, cho em tôi đây. Quan đồn trả lại mẹ, trả lại chị, trả lại em cho chúng tôi đi, ối quan đồn ơi là quan đồn ơi!
Hai cái cáng khiêng xác người chết vẫn lắc lư trước cổng đồn. Cụ Đẩu lại tiến lại gần mấy tên lính canh:
- Các chú làm ơn, làm phúc cho chúng tôi vào gặp quan đồn một lúc. Tôi cậy nhờ các chú đấy. Cái mạng già này của tôi thì làm gì được ai mà các chú phải ngại.
- Không được. Lùi lại. Ông già lùi lại! - Cụ Đẩu cùng mấy người trong ban tranh đấu vẫn tiến lại gần. Đám lính đồn càng co cụm lại. Không thể để dân cứ tràn lên, dồn lên như nước lũ mùa tháng tám trước cổng đồn như thế, một tên lính lách mình qua cái khe hẹp giữa hai cánh cổng, chạy vào trong bốt. Một lát, nó chạy trở ra, thì thầm vào tai thằng đứng cạnh rồi hóng mắt nhìn vào phía trong. Thằng Tây sếp đồn không biết chui vào xó xỉnh nào mất. Nó cho mấy tên cai người Việt ra.
Hai cái chân khuỳnh khuỳnh như hai chân vịt bơi đỡ cái thân hình béo lùn nhìn như cái nấm di động, tên cai Động hếch bộ mặt lưỡi cày, chi chít vết rỗ hoa, chắc do di chứng của bệnh đậu mùa còn sót lại, hắn chỉ tay vào đám đông, quát thị uy:
- Chúng mày dám đến tận cổng đồn làm loạn cơ à? Dân Đức Đại quả là to gan nhớn mật. Để chúng tao xem lá gan chúng mày to bằng ngần nào… - Cai Động rút khẩu súng lục giắt bên hông, quay mấy vòng loang loáng - Đứa nào xui chúng mày làm chuyện này?
- Dạ bẩm ông cai. Ông nói vậy thì oan cho dân chúng tôi quá. Ông thấy đấy, dân chúng tôi không một tấc sắt trong tay, có gì đâu mà bảo là làm loạn - Cụ Đẩu tiến lên một bước, đứng đối diện với cai Động - Mà cũng chả ai xúi bẩy gì chúng tôi đâu. Mong ông Cai rộng lòng soi sét, đừng nói vậy mà tội cho dân. Ông nhìn đây - Cụ kéo hai chiếc cáng khiêng xác người chết lại gần. Hai bộ mặt bị đạn đại bác thâm đen biến dạng, mùi tử khí bắt đầu bốc lên, lành lạnh. Cai Động đột nhiên lùi lại, đôi mắt đỏ ngầu màu máu đảo như mắt cú.
- Nhìn ngó gì, kéo nhau đàn đàn lũ lũ lên kêu khóc om sòm ngoài cổng đồn không là làm loạn còn là cái gì? Cứ nghe bọn Việt Minh xui bẩy, chống lại quan đồn thì chỉ có thiệt thân, còn kêu ca gì? Cai Động vớt vát.
- Xin ông cai đừng nói vậy, tội cho dân lành. Dân chúng tôi đang sinh sống làm ăn yên lành, cơn cớ gì các ông nã đại bác vào làng tôi, đốt nhà, giết người dân vô tội. Cha mẹ, vợ con các ông ở nhà nếu cũng bị thế này, không biết các ông có ngồi yên được không? - Bà giáo Thuận bước lên, bàn tay cầm cái nón cũ lá nón đã ngảu màu thâm lại.
- Ơ, ơ… Tên cai Động ngắc ngứ như gà mắc tóc. Nó lùi dần vào phía trong đẩy một thằng khác ra.
- Xin các ông. Mong các ông mời sếp bốt ra đây. Dân chúng tôi hôm nay sang đây chỉ muốn hỏi quan sếp bốt xem, cơn cớ gì lại giết dân vô tội?
Phụ họa với lời nói của cụ Đẩu, tiếng khóc lại rộ lên. Những tiếng than vãn não nề vọng ra khiến người yếu bóng vía phải rùng mình.
- Ối chị ơi là chị ơi. Chị chết oan chết ức thế này. Chị có làm gì nên tội mà họ giết chị. Chị sống khôn chết thiêng về vật cổ, mổ mắt những kẻ đã gây nên cái chết của chị, chị ơi!
- Thôi, thôi. Viên cai dáng dong dỏng, mặt mũi có vẻ thư sinh vừa ra thay cai Động xua xua tay - Các quan hôm nay đều đi vắng rồi. Bà con có yêu cầu gì cứ nói, chúng tôi về sẽ bẩm báo lại - Hắn có vẻ nhã nhặn nói với bà con.
- Cảm ơn ông Cai - Cụ Đẩu chắp hai tay vào nhau, lại chỉ tay vào xác chết đang nằm trên cáng. Viên cai lùi lại, hắn đưa tay bịt mũi, mặt tái dần khi nhìn thấy đôi chân người chết lòi ra từ manh chiếu đắp hờ, trắng bợt bạt - Dân chúng tôi chẳng yêu cầu gì nhiều. Việc lùng bắn ai là việc của các ông, dân lành chúng tôi không dám quan tâm. Nay chúng tôi hồi cư là muốn được sự che trở của chính phủ quốc gia. Nay quan đồn vô cớ bắn đại bác đốt nhà, giết người, chúng tôi sang đây chỉ yêu cầu quan đồn bồi thường thiệt hại nhà cửa, tính mạng cho dân. Dân chúng tôi vô tội, quan đồn vô cớ cho lính bắn phá, đốt nhà, giết người thì phải bồi thường. Nếu không, chúng tôi nhất định không rời khỏi đây.
Thấy cụ Đẩu nói cứng, thằng cai mặt rỗ tổ ong bầu lại lao ra, trợn mắt:
- Chúng mày không về, ông cho lính bắn sạch bây giờ…
- Sao ông cai lại nói vậy. Cùng dòng máu đỏ da vàng, ông không thấy dân chúng tôi quá khốn khổ rồi ư?
Phía sau cụ Đẩu dòng người lại cồn lên, dềnh lên như sóng cuộn. Tiếng khóc, tiếng la, tiếng kêu ngày một lớn. Cả khối người đang đứng trước cổng đồn sôi sùng sục như một chảo dầu.
Viên cai có dáng dấp thư sinh lại chạy ra. Hắn khoát tay phân bua với bà con:
- Mong bà con bình tĩnh. Sự việc xảy ra là do các quan lớn trên tỉnh ra lệnh. Nay các quan lớn đều không có ở đồn. Bà con có yêu cầu thế, nhất định chúng tôi về sẽ bẩm báo lại. Còn bây giờ, đề nghị bà con cứ về nhà…
- Thôi, thế này là hôm nay nhất định quan lớn trong đồn không tiếp kiến bà con đâu. Chúng tôi bảo thật, bà con cứ về nhà chuẩn bị cẩn thận thêm đi, nhất định quan đồn sẽ còn cho bắn đại bác nữa đấy - Một người lính vóc dáng nhỏ thó ghé tai chị Sự nói nhỏ. Chị Sự gật đầu, lẩn vào đám đông tìm Tiềm trong tổ thiếu niên quân báo.
Tiềm tách đoàn người, chạy đi. Không biết gặp Lân ở chỗ nào, và anh đã thay mặt tổ đảng chỉ đạo những gì, chỉ thấy một lát sau, Tiềm chạy lại, mặt đỏ gay. Tháng bảy heo may mà mồ hôi đầm đìa trên mặt. Chị Sự tiến lại gần cụ Đẩu. Phía trước mặt, viên cai mặt thư sinh đang toát mồ hôi:
- Bà con cứ về đi. Nhất định tôi sẽ bẩm lại với quan đồn những gì bà con yêu cầu hôm nay. Giờ bà con có ở đây chờ cũng không biết khi nào quan lớn sẽ về. Nhất định tôi sẽ bẩm lại.
Nghe vậy. cụ Đẩu khoát tay, quay lại dân chúng:
- Ông cai đã có nhời như vậy, chúng ta không gây khó dễ với các ông ấy nữa. Nhưng ông nhất định phải về bẩm lại với quan đồn. Nếu không, nhất chết chúng tôi cũng sẽ chết tại sân đồn này rồi tố lên quan tỉnh. Dân chúng tôi cần yêu cầu quan đồn không được bắn đại bác tuỳ tiện giết hại dân lành. Bây giờ, gia đình tôi sẽ mang xác hai người nhà chúng tôi về. Chỉ mong đồn giữ nhời với dân.
Đoàn tranh đấu đòi đồn Phương Điếm phải bồi thường thiệt hại rời cổng đồn. Tiếng khóc theo chân những người xấu số về lại làng Đức Đại.
Không phải Lân không muốn cho dân đấu tranh đến cùng. Anh nhận thấy lần đầu tiên giáp mặt với quân địch, việc đấu tranh của nhân dân với chúng như thế là tạm đủ. Chỉ nhìn hình ảnh mấy viên sếp Tây trốn biệt đẩy mấy tên cai người Việt chạy ra chạy vào, cun cút như chó cụt đuôi để bẩm báo phân bua là đã đủ lắm rồi. Nếu mình cố găng sẽ bất lợi. Anh chỉ đạo mọi người đem xác anh Vận, bà Phễu về nhà an táng. Một phần xúm lại lo tang ma cho hai người xấu số. Phần dân còn lại xúm tay dựng lại nhà cho những gia đình bị cháy. Đội du kích thôn cũng về giúp bà con khắc phục hậu quả trận đại bác này.
Ngày thứ hai sau cuộc đấu tranh.
Cái nắng tháng tám ong ong như vãi trấu trên đầu. Trời xanh ngắt không một gợn mây. Đã gần nửa tháng nay, bầu trời cứ vòi vọi, oi nồng như thế. Những mái nhà bị cháy, đổ sập trong trận đại bác vừa rồi đã được dựng lại. Mùi bùn vách trát còn nồng nồng như vừa được móc từ đáy ao lên, chỗ trắng, chỗ thâm loang lổ như tấm da báo. Những mái rạ lợp vội, nhìn như tấm áo của người cẩu thả mặc xong chưa kịp vuốt nếp. Lân đang chờ mấy người trong tổ đảng đến để kéo sang nhà cụ Đẩu hội ý rút kinh nghiệm. Giữa cái ngột ngạt oi nồng, anh bỗng thấy thèm một trận mưa rào đến lạ. Nghĩ tới mưa, tự nhiên, những đường gân thớ thịt trong người anh nhão ra. Lân có cảm giác hàng nghìn, hàng vạn giọt nước li ti đang chảy trong huyết quản, đang lan ra, bò dần suốt những mạch máu trong người. Anh thấy như mặt mình dịu lại.
Ngày thứ ba.
Mới từ sáng sớm. Những tiếng đại bác lại gầm rít lại nhằm mảnh đất Đức Đại cày xới. Địch lại tiếp tục nã đại bác sang làng. Những viên đại bác rời nòng, đỏ rực cày ủi tất cả những gì vướng víu trên đường đi của chúng. Những cây chuối phạt ngang thân, lá cháy xém như bị hơ lửa. Cành xoan, phi lao, bạch đàn bay lả tả trong không trung. Những mái rạ chưa kịp hoàn hồn từ trận đại bác ba ngày trước giờ lại quật lên, bay tứ tán giữa trời. Khói đạn mù mịt lẫn trong bụi đất cát. Mảnh đạn găm vào tường nhà phầm phập. Lân ngồi trong hầm. Mặt đất rung lên từng chập. Trần hầm chuyển động. Những viên đất vụn rơi lả tả trên đầu anh. Đại bác nổ rít trên không, xoáy vào tưởng long màng nhĩ. Những người ngồi trong căn hầm đưa hai tay lên bịt chặt tai lại. Cùi tay họ ép chặt vào ngực để chống lại sức ép của những viên đại bác giũi xuống lòng đất.
Hết trận đại bác thứ nhất. Lân xô nắp hầm, nhảy lên. Việc đầu tiên anh làm là chạy vọt ra ngoài ngõ. Bốn bề vẫn im lìm. Dường như mặt đất trở nên câm nín trước trận cuồng phong của đạn thù. Rồi những mái đầu nhô lên khỏi chỗ ẩn nấp. Tiếng gọi, tiếng hỏi nháo nhào giữa khói đạn vẫn chưa kịp tan hết.
Như vừa qua một trận bão lớn, quang cảnh Đức Đại bỗng chốc trở nên tơi tả. Đạn địch cày xới khắp mọi nơi. Như có tính toán từ trước, bọn bốt Giỗ nhằm vào những chỗ có đông dân nhất của Đức Đại để nã đạn vào. Mấy chục nóc nhà bốc cháy. Cây cối đổ ngổn ngang. Có những thân cây bị đạn giặc tiện ngang, đổ gục xuống nhưng phần bị đứt chưa lìa hẳn khỏi cành, cứ lắt lẻo như người bị thương đang quằn quại. Từ chỗ bị tiện gãy, nhựa ứa ra, bầm lại như máu.
Lại đã cuối thu, chớm vào mùa đông. Những cơn gió heo may cuối cùng đang dập rình rút đi nhường chỗ lại cho mưa phùn gió bấc. Người dân Đức Đại lại nghiến răng thu dọn những gì còn sót lại trên mặt đất sau những trận đạn giặc cày xới.
Đại bác lại nổ. Giờ thì những âm thanh ghê rợn ấy không thể doạ nạt được ai trong làng Đức Đại được nữa. Đã là trận đại bác thứ ba hay thứ tư gì đó rồi kể từ hôm bọn lính bên bốt Giỗ ra lệnh đuổi dồn dân, đuổi làng. Đã thành phản xạ, cứ hễ nghe tiếng kim khí rít lên lọng óc bên ngoài, người ta lại nhanh chóng xuống hầm. Nhiều người gan cóc tía, đang làm ngoài ruộng, nghe tiếng đạn rít chỉ ngửa mặt lên, nhìn theo vết đi của viên đạn rồi lại cắm cúi với công việc của mình.
Tháng mười! Mưa! Một cơn mưa bất chợt, kéo dài… tưởng không bao giờ dứt. Chị Yển kéo Khứu chạy vội lên một cái bờ thửa. Xóc cua vừa bắt được lóc nhóc bên hông.
- Gớm! Dạo này, cua cá cũng kiệt. Mò mẫm mãi cũng chưa nổi bữa canh. Chị Yển vừa kéo cái khăn bịt mặt vừa thở hắt ra - Đã vậy lại còn mưa với gió nữa chứ. Ẩm giời thế này, không biết bọn bốt Giỗ có để yên cho mình không?
- Thì chị bảo súng đạn đì đoàng thế, con gì sống nổi - Khứu lau nước mưa đang bám đầy trên mặt - Nhà em cũng lâu lắm rồi chả được bát canh tử tế. Còn cái bọn bốt Giỗ thì kệ nó. Nó bắn thì bắn, đấy là việc của nó. Bắn thì mình tránh, chứ cứ sợ nó bắn mà không dám làm ăn gì thì nó chưa giết mình mình cũng đã chết mất ngáp rồi.
- Này! Hai con mẹ kia! Ông Tỳ đi ngang, thấy hai người thấp thô trên bờ thửa, gọi với - Không về đi, mưa gió thế này còn mò mẫm ở đấy làm gì. Rồi bọn bốt Giỗ nổi điên lên, nó táng mấy quả thì biết chui chỗ nào?
- Cậu cứ về trước đi - Khứu nghển cổ - Mò thêm vài con nữa cho đủ nồi canh rồi chúng cháu về. Nó bắn kệ nó cậu ạ!
Khứu chưa dứt lời, phía trên kia, ông Tỳ chưa đi được vài bước, đã thấy tiếng đại bác rít lên, xé màn mưa lao tới. Tăng… xình! Tăng… Xình! ình ình.. ình!
Yển kéo Khứu thụp xuống đoạn bờ thửa cao quá đầu. Nghển cổ nhìn ra màn mưa vào làng, Khứu vùng đứng dậy.
- Nó lại bắn rồi. Không biết u em ở nhà có xuống hầm kịp không. Trận đại bác kéo dài tới gần nửa canh giờ. Đất đai tưởng vụn nhão ra.
Hai chị em đội mưa chạy về. Vừa tới nơi đã thấy người làng xúm đông xúm đỏ. Chị Hả vợ anh Đại đang có thai và chị Khuây vợ anh Đố đã bị đại bác bắn chết. Khứu rẽ vòng người đang vây chặt xung quanh hai người đàn bà xấu số, len vào bên trong. Cô đã thấy Lân đang đứng ngay bên cạnh anh Đại. Cả làng hầu như nhà nào cũng có mặt. Cũng không lạ gì điều ấy khi mà những mối quan hệ dây mơ rễ má ở trong làn cứ như những sợi dây thiên lý, dây bìm bìm đang leo chằng chịt trên giàn cao, nhìn thấy quấn quýt bò ngang lan dọc mà đố ai gỡ được để lần ra đâu là gốc.
Anh Đại chồng chị Hả đang ngồi bệt ngay bên xác vợ mình. Đôi mắt anh đỏ sọng, ráo hoảnh nhìn trân trân vào một điểm vô định bên ngoài. Tịnh không thấy anh cất một tiếng nào. Bàn tay sần sùi, vụng về của người đàn ông cứ vuốt mãi trên mái tóc của người vợ đã tả tơi vì đạn giặc, máu lẫn đất bắt đầu khô bết lại. Cả khoảng bụng chị Hả đang mang thai đứa con cứ lùm lùm, vun cao dần lên trong đôi mắt của anh. Cũng như bao người dân Đức Đại, anh cũng không nghĩ mình lại thành người trắng tay nhanh như thế. Từ một người có vợ con, nhà cửa, chỉ trong mấy ngày, bốt Giỗ biến anh thành người không nhà cửa, goá vợ, thành kẻ mất con. Nhà anh cũng đã bị đại bác bắn cháy rồi. Bỗng bàn tay anh rời mái tóc, xoa mái trên cái bụng đang lùm lùm của chị. Rồi Anh từ từ đứng dậy, ngửa mặt lên trời, thét lên:
- Mình…ơi!
Tiếng kêu chới với, đầy tuyệt vọng của anh giống tiếng gầm của con hổ khi bị rơi từ trên cao xuống hố sâu thăm thẳm. Những người đứng quanh bật khóc. Họ lẳng lặng lấy võng, cáng chị Hả, chị Khuây theo con đường cũ sang bốt Giỗ.
Không ầm ĩ, không ồn ào, đoàn người dắt díu nhau bước. Lân biết, những người dân này sẽ khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Cũng vẫn là cụ Đẩu dẫn đầu đoàn người. Tiếng khóc lúc rấm rứt, khi ồ ồ như nước chảy cứ lan dài như tiếng còi tàu trong đêm tối mịt mùng. Nhưng tiếng khóc của những người cáng xác sang đấu tranh với bốt Giỗ lần này không khiến người ta mềm ra, nhão ra mà ngược lại tiếng khóc của họ khiến bao người dân Đức Đại rắn rỏi, cứng rắn thêm. Trong họ, khẳng khái một ý chí kiên định trước quân thù.
- Mấy chú lính ơi! Lần này là bà Tuần Ngột cất tiếng gọi khi đoàn người dừng lại trước hai cánh cổng đóng kín mít của bốt Giỗ - Mấy chú làm ơn mở cổng bốt cho chúng tôi vào gặp quan đồn, chúng tôi có chuyện muốn bẩm…
- Lại dân Đức Đại! Chả có bẩm báo gì hết. Không ở nhà, kéo nhau, định sang đây ăn vạ cái gì? Về mau! Tên lính nguỵ mặt choắt như cái lưỡi cày vác khẩu tiên liên, nghênh ngang bước tới, đứng trong cánh cổng sắt, nói vọng ra.
- Chú lính ơi, sao chú lại nói thế, lưỡi không xương cũng cần uốn vài lần mới cất tiếng cơ mà. Chúng tôi già cả thế này, có phải trẻ con chưa ráo máu đầu đâu mà các chú lại bảo đến ăn vạ?
- Không ăn vạ thì kéo nhau đến đây làm gì? Mà cái gì thế kia? Hắn hẩy hẩy nòng súng về phía hai chiếc cáng - lại xác chết à? Giời ạ! Sao các người động chết lại lễ mễ khênh nhau sang đây làm gì?
-Ai chết chả muốn mồ yên mả đẹp hả chú, làm gì có ai muốn lôi thôi khổ sở thế này. Chú thấy đấy. Con mất mẹ, cha mất con, xót xa không chú… Mà bảo ốm đau chết đã đành, đang yên đang lành, đồn bắn vào làng, chết oan chết ức…Lắm chú ơi!
- Bà già này, dẻo lưỡi nhỉ. Quan đồn không có nhà, cũng không cho phép ai được vào đồn. Mọi người đừng nằm lì, ăn vạ ở đây nữa. Về đi!
- Các chú nói gì lạ vậy. Quan đồn không nguyên cớ gì, bắn đạn sang khiến chết người, mạng phải đền chứ… Nhất định quan đồn phải bồi hoàn nhân mạng cho chúng tôi - Cụ Đẩu bước tới, giọng rắn rỏi.
Khác với những lần trước, tên đội Gầy trốn biệt tăm, đẩy những tên cai người Việt ra nghe dân đấu lý, nhưng lần này, cả những viên cai người Việt cũng trốn biệt. Chỉ còn mấy tên lính tép riu đứng ra phân trần với bà con. Thấy bà con phản ứng nhiều quá, không chịu được, thằng lính gác cổng hét lên:
- Bà con nói bây giờ chỉ mấy thằng lính quèn chúng tôi nghe. Mà chúng tôi chỉ thực thi lệnh của cấp trên. Nếu dân làng mà muốn ở lại làng thì phải lên dinh tỉnh trưởng mà kêu chứ kêu ở đây được tích sự gì…
- Cấp trên của mấy chú là đâu? - Bà giáo Thuận bước lên - Nói thực với mấy chú, cơm gạo các chú ăn hàng ngày cũng đều từ những người dân lam lũ chúng tôi khó nhọc hai sương một nắng mà ra. Cha mẹ, anh chị, vợ con các chú ở nhà cũng chả khác gì chúng tôi bây giờ. Liệu các chú có dám chắc, ở làng mình, nhà các chú không bị đốt, làng các chú không bị đại bác, ô bi bắn phá không? Thế nên các chú cũng nên nhìn đến tình cảnh đồng bào với chứ?
- Bà con biết đấy, chúng tôi chỉ như Thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy. Đại bác thì cũng phải các binh lính người Pháp mới được động vào… Thôi, bà con đừng làm khó dễ cho chúng tôi, bắn vào đâu, bắn lúc nào là do lệnh của cấp trên, của ngài tỉnh trưởng… Chúng tôi thì biết giời nào mà lần…
- Thôi được rồi, các chú đã nói thế thì chúng tôi cũng chả làm khó cho các chú làm gì, chúng tôi sẽ lên Tỉnh trưởng xin ngay. Chỉ mong trong thời gian tới, đồn không bắn vào làng chúng tôi nữa.
CHƯƠNG XVIII
Đêm rạng dần. Gió từ ngoài sông dịu dàng cuộn về. Những cây tre đực quấn quýt trong từng bụi níu chặt vào nhau, cọ thân sột soạt như có ai cầm miếng mảnh sành mài vào từng thân cây. Đi dưới luỹ tre làng trong không khí thanh tịnh của buổi rạng ngày, Khứu thấy tâm hồn mình thật thư thái. Đôi quanh gánh trĩu một bên vai, cô nhịp nhàng bước theo đường tới chợ. Có lẽ không làng nào lại nhiều tre, nhiều chuối như làng cô. Cứ xanh mướt, rậm rịt. Đại bác giã không biết bao trận cũng không giết nổi màu xanh của tre của chuối quanh làng Đức Đại. Khứu thấy rất rõ trong màn sương mỏng tang có mùi thơm ngai ngái. Đường làng vẫn mát lạnh cả gan bàn chân và trước mắt bóng đêm đang loãng dần ra. Phía đầu làng, chị Sự đang chờ cô.
Đòn gánh nhịp trên vai kĩu kịt. Dòng suy nghĩ cứ miên man ùa về. Bỗng như có luồng hơi nóng thổi phía sau gáy, Khứu ngẩng đầu nhìn về làng Giỗ. Nơi ấy, cô đã được sinh ra, đã sống những năm tháng đầu tiên của cuộc đời. Nơi ấy, đã từng có mái nhà che mưa nắng, nơi có mẹ có cha. Nhưng giờ đây, phía quầng sáng đang nhạt dần ra ấy là bóng dáng im lìm, chết chóc của cái bốt quái đản. Chính cái bốt đang nhung nhúc những tên tây trắng, tây đen ấy đã khiến bao người dân làng của cô thành ra kẻ tha hương, sống vất vưởng nơi đất khách quê người. Khứu chợt thấy sống mũi cay cay. Không biết giờ này, cha mẹ cô đang làm gì. Và rồi, tuổi thơ vốn nấp kỹ ở một góc nhỏ trong lòng cô bỗng ùa ra. Tất cả dường như vãn còn gói nguyên, tươi rói. Tuổi thơ của cô là những sáng ngủ dậy, lăn mình ra khỏi chiếc chõng tre, xệch xạc quần tơi áo vá đã không nhìn thấy u cô đâu rồi. Khi ấy, bà đang có mặt tại một cái chợ nghèo nào đó quanh vùng với những thừng, những rợ, cày bừa lủng củng xung quanh. Khi ấy, cô vừa đi vừa giụi mắt, khuôn mặt đêm ngủ, có khi nước dãi chảy đùn ra một bên má cũng không thèm rửa, tóc rối bù đã lụi hụi ra đồng. Tuổi thơ của cô chẳng làm được gì nhiều, chỉ chăn trâu cắt cỏ nhưng cũng là những năm tháng thảnh thơi, an nhàn nhất. Tuổi thơ của cô còn là hình bóng người cha cứ nghiêng dần trên một góc sân lúi húi bên những khúc cây để biến chúng thành cày, thành bừa để ngày mai u cô đi chợ. Còn là bóng dáng người chị lớn mỗi buổi trưa hè nghiêng xuống đường với gánh nước mát trong từ giếng làng về. Người chị chỉ hơn cô gần hai tuổi mà đảm hơn cả người lớn vụng với cái tên Chắt nhớn ghép chặt với Chắt con của cuộc đời cô. Mảnh đất làng Giỗ ấy còn là hiện hữu của khu vườn rộng với những bụi tre, bụi chuối, với những bưởi, doi, ổi mọc chen nhau thành chỗ ẩn nấp lý tưởng của muỗi để chúng vo ve, tấn công chị em cô ngay cả giữa ban ngày… Mảng ký ức tuổi thơ ấy dội về lòng cô trong buổi sớm nay khiến dòng nước mắt chảy tràn qua khuôn mặt để trần không bịt khăn rồi rỉ vào kẽ miệng mặn chát. Khứu biết, tất cả những gì thân yêu với cô sẽ theo cô đi suốt cuộc đời dẫu có là nụ cười hay nước mắt cũng chẳng bao giờ đi hết. Vậy mà giờ đây, tất cả những gì thân yêu nhất ấy đang rời xa cô. Bọn địch trong bốt đã đuổi dân làng ra khỏi mảnh đất thân yêu của mình để đi tha hương… Và giờ lại đến Đức Đại, nơi chính cô đang sống chúng cũng chẳng để yên. Nhưng chắc chắn chúng sẽ không làm gì nổi, chúng sẽ không thể đuổi những người dân của Đức Đại ra khỏi mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của mình. người chồng thương yêu của cô với với những đồng đội, cùng bà con làng xóm của anh sẽ không để chúng thực hiện được điều ấy.

- Muộn thế - Chị Sự càu nhàu - Nhảo nhanh lên không có muộn chợ thì bán cho ma.
- Đi sớm quá cũng đã làm gì có người. Đâu đâu lính nó cũng càn, cũng lùng, dân thành ra ngại cả đi chợ. Chị em mình thủng thẳng đi, sớm quá, chúng nó nghi bắt lại lôi thôi - Khứu xoay đòn gánh, đổi vai. Gánh hàng chao đi nửa vòng rồi lại nhịp nhàng, kĩu kịt theo nhịp chân bước.
- Kệ cha nó chứ. Càn hay không càn thì mình vẫn phải làm, phải ăn, có hít gió mà sống nổi đâu. Vào chợ, đông người, đám này cũng chả dám làm liều mấy - Chị Sự nhanh chân, tiến lên ngang với Khứu, với tay níu một bên đầu đòn gánh của cô lại - Mấy ngày nay, cô có nghe chuyện các bà, các chị ở Thọ Chương, rồi bên Nam Sách, đòn gánh đánh Tây giữa chợ không? ấy, cứ là phải như thế, chúng nó mới tởm, chứ mình hiền quá, chúng nó bắt nạt…
- Em có nghe rồi. Chị em mình ở đấy giả làm người bán hàng, có du kích trà trộn giả làm người đi chợ yểm hộ, đám lính Tây thì háu gái, thấy mấy cô bán hàng hay hay mắt là sà vào. Thế là chị em phát tín hiệu, buông đũa rán bánh, buông gà, buông vịt vớ lấy đòn gánh, lấy dao róc mía, lấy súng, đập chúng nó tại trận. Lính Tây chạy re kèn. Mình cũng thu được khối súng đấy. Nhưng đúng thật, chúng nó cũng không dám ngang nhiên vào chợ cướp hàng, hãm hiếp phụ nữ nữa…
- Hay mình ở đây cũng tổ chức thế. Chợ Cuối gần làng mình cũng to cỡ hàng huyện, người đông như nêm, đánh kiểu ấy cũng được đấy. Tối về ta họp ban chấp hành phụ nữ xã bàn xem - Chị Sự nhìn chăm chăm vào mặt Khứu, chờ câu trả lời.
- Mấy nơi đã đánh kiểu ấy, giờ lính chúng nó đề phòng rồi, mà chúng nó cũng chả dám ngông nghênh ở các chợ nữa đâu. Việc của mình bây giờ là chú tâm vào đấu tranh chống dồn dân đuổi làng chị ạ. Mình thắng trận này là cả huyện, cả tỉnh, cả khu Bắc Bộ này thắng đấy. Nên nhất quyết không được để thua, phải đấu với chúng nó đến cùng… Khứu bước chậm lại, gần như lững thững bước một.
- Nhưng xem ra, nó chưa chịu mình đâu. Khổ cho mấy ông lãnh đạo. Chú Lân nhà cô dạo này thế nào rồi?
- Khổ, người quay quắt. Râu ria lởm chởm… Trông mà xót - Giọng Khứu nhỏ dần, chìm vào tiếng chim bắt đầu râm ran trên rặng tre.
Câu hỏi của chị Sự khiến hình ảnh Lân bỗng choán hết tâm trí Khứu. Ngay sáng nay đấy thôi, khi cô cất gánh lên vai đi chợ, Lân cũng chỉ mới vừa về, đặt lưng xuống là chìm ngay vào giấc ngủ mệt nhọc. Nhìn gương mặt chồng hốc hác sau những ngày đêm lăn lộn chỉ đạo dân chống dồn chống đuổi, cô thấy ruột mình như con tằm đang dần rút kiệt tơ. Thương anh vô cùng mà chả biết làm gì được. Cơm cũng bữa đực bữa cái, chẳng được bữa nào ăn cùng cả nhà. Râu ria mọc chờm lên, lởm chởm. Tóc xoà che hết cả vầng trán và những vết nhăn như những đường rãnh cày cứ in hằn trên đuôi mắt của anh. Muốn ghé vai vào gánh đỡ cho chồng nhưng Khứu cũng còn có nhiệm vụ của mình. Công việc của cô bên Ban chấp hành phụ nữ xã cũng nặng nề không kém. Lại còn trực diện đấu tranh. Lại còn thiên chức làm vợ… Nghĩ đến đây, lòng Khứu lại tái tê. Vợ chồng lấy nhau đã mấy năm, cô vẫn chưa thấy dấu hiệu gì khác thường. Mong mỏi mãi đến mệt bã cả người. Hình như ông trời nhiều khi hay chọc ghẹo con người khi điều gì người ta càng khao khát lại càng khó tìm thấy.
Khứu vừa cất gánh hàng lên vai, ra khỏi nhà, Lân cũng đã thức dậy. Anh nhỏm dậy, bước ra ngoài. Bà giáo cũng đã đi chợ. Những hàng cây còn sót lại sau những trận đại bác đứng im lìm. Những vì sao lấp lánh buổi tối bây giờ không biết biến đi đâu hết. Ngoài đồng đang vào vụ đông, những thân ngô còi cọc tím màu huyết dụ giờ mới hoàn hồn bắt đầu tìm lại màu xanh. Khoai cũng bắt đầu bén vồng, lan trên mặt luống xám bạc. Mấy con châu chấu lạc đàn, đang đạp tanh tách trên mái rạ. Rồi gió sớm nhè nhẹ thổi. Lân cởi khuy ngực cái áo nâu để hứng gió sớm thổi vào. Chân trời đằng đông hôm nay không ửng hồng rực rỡ như mọi ngày. trời chuyển màu u ám. Cơ đận này có khi trời lại đổ mưa. Tính khí ông giời mấy ai đoán biết được. Lân chầm chậm quay vào. Ba phát súng hiệu tắc…bọp, tắc…bọp, tắc…bọp từ đồn Phương Điếm bắn lên làm rách toạc một buổi sáng yên tĩnh. Đàn chim sẻ đang ríu rít trên cây xoan đầu ngõ im bặt. Tăng … xình! Tăng… xình! Tăng … xình! Đại bác từ đồn Phương Điếm lại bắt đầu nhằm Đức Đại nã xuống.
"Không thể để đồn Phương Điếm cứ ngang nhiên bắn đại bác vào làng, đốt phá nhà cửa, bắn giết dân lành vô tội mãi. Phải tìm cách đấu tranh mạnh hơn với chúng. Việc những tên sếp bốt, cai đồn trốn biệt khi dân cáng những người chết sang đồn đấu tranh chứng tỏ một điều: dù có ác ôn đến mấy, đứng trước những mạng người chết không lí do ấy, chúng vẫn chùn bước" - Những ý nghĩ ấy như dòng chảy ùa đến với Lân từ khi tiếng đại bác đầu tiên của địch toang toác bổ xuống làng. Mặt đất lại rung chuyển. Ngoài đồng, những người dân vẫn cắm cúi vào công việc đồng áng của mình.
Lân tập họp tổ đảng Đức Đại cùng những vị cốt cán trong ban tranh đấu, họp gấp tại nhà cụ Đẩu. Bóng đèn hạt đậu lập loè như ánh sáng của đàn đom đóm nhấp nháy dưới ao bèo tây. Anh mạnh dạn trình bày hết những suy nghĩ của mình:
- Các ông các bác và các đồng chí thấy đấy, dù gì thì việc mình đưa những người thiệt mạng trong những trận đại bác của địch sang đồn cũng khiến chúng hoang mang. ít ra, việc làm ấy cũng đánh vào tâm lí của những tên lính đánh thuê, những binh lính người Việt khiến chúng chùn bước khi bị đẩy vào những cuộc càn quét. Nhân cơ hội này, tôi rất muốn đẩy cuộc đấu tranh của chúng ta tới nấc cao hơn. Chúng ta không thể lừng chừng. Nếu chúng ta chùn bước, chắc chắc địch sẽ lợi dụng cơ hội lấn tới... Tôi muốn lấy ý kiến thống nhất của tất cả các đồng chí đảng viên trong tổ đảng, của thành viên trong ban tranh đấu trước khi quyết định chính thức kế hoạch này để báo cáo về chi uỷ.
- Thì hẳn là thế! Đánh rắn ai lại đánh giữa khúc bao giờ - Cụ Đẩu đứng lên. Chòm râu bạc của cụ phất phơ, rung rung theo nhịp nói - Nếu chúng ta không đánh dập đầu được nó, nó sẽ quay cổ lại, mổ chết ta...
- Tôi muốn biết ý kiến của các đồng chí đảng viên trong tổ đảng - Lân nhìn suốt một lượt những người đang dự họp, mắt anh toát lên ánh nhìn khẩn thiết như gọi mời...
- Chúng tôi nhất trí - Ông Bạ đứng dậy - Trước khi đến với cuộc họp này, chúng tôi đã suy nghĩ rất nhiều - Cuộc đấu tranh này chúng ta đều biết, không phải cuộc đấu tranh của riêng Đức Đại mà là cuộc đấu tranh dại diện cho một tỉnh, một khu vực, rộng hơn là một dân tộc với một chế độ chính sách cực kỳ tàn bạo và nham hiểm của quân thù. Chính vì vậy, tất cả đảng viên trong tổ đảng chúng tôi đã xác địh rất rõ điều này. Chúng tôi luôn sát cánh bên ban tranh đấu của nhân dân đã được thành lập...
- Ban tranh đấu đại diện cho nhân dân Đức Đại sẽ đấu tranh không khoan nhượng với quân thù... Đề nghị đồng chí Lân xây dựng kế hoạch cụ thể, chúng ta phải làm ngay, không để địch có thời gian chuẩn bị đối phó với ta...
- Kế hoạch tôi đã xây dựng rất cụ thể - Lân điềm tĩnh - Hôm nay nó lại bắn, nếu ta không làm ngay, nhất định chúng sẽ tiếp tục. Vì vậy, ngay ngày mai, ban tranh đấu của Đức Đại sẽ lên tận dinh tỉnh trưởng, mang đơn kiến nghị của dân làng mình lên. Việc đấu tranh lần này, chúng ta tập trung vào tố cáo tội ác của quân địch tại đồn Phương Điếm khi chúng đã cho quân nã đại bác vào làng gây chết người. Mạng người không thể đùa. Tập trung vào tố cáo tội ác này, nhất định chúng ta sẽ giành được phần thắng, khiến quân địch phải chùn bước...
- Thằng cháu Lân phân tích rất trúng. Mình không đấu tranh dải mành mành với chúng nó làm gì cho tốn hơi, mà cần xác định mục đích chính. Mục đích chúng ta đi lần này là kêu với tỉnh trưởng để chống không cho quân địch bắn đại bác vào làng. Nếu chúng không bắn đại bác, dân không chết một cách vô tội, chúng ta sẽ củng cố được niềm tin của dân trong cuộc đấu tranh này, khắc phục được tư tưởng hoang mang lo sợ của dân trước việc địch khủng bố trắng. Tôi nhất trí với phương án này... - Cụ Bùi Quang Đẩu nhấn mạnh - Vấn đề bây giờ là chúng ta cần cố công thảo một lá đơn - Tôi có nhời thế này, nhà Lân cứ thảo nội dung, tôi sẽ phiên sang tiếng Pháp một bản, cần thiết chúng ta vào thẳng cả dinh tổng đốc.
- Đề nghị các đồng chí đảng viên nữ, nhất là đồng chí Khứu, đồng chí Sự, Họp, Yển, là thành viên ban chấp hành phụ nữ xã lo chuẩn bị điều kiện cơm nước để ngày mai ban Tranh đấu lên tỉnh. Chúng ta cũng nên soát lại danh sách những người ngày mai sẽ đi... Theo tôi chúng ta nên đi khoảng ba chục người là hợp tình hợp lý nhất...
Cuộc họp kết thúc. Lân đang lúi húi khoác cái áo nâu lên vai thì ông Lung bước tới.
- Về thôi chứ! Muộn quá rồi còn gì…
- Ông chờ cháu tí. Cháu về đây ông ạ - Lân xoay người về phía cụ Đẩu. ông cụ gật gật đầu. Cái bóng ông chao đi, chao lại trên vách tường.
- Lân này… Tao có việc này mà khó nghĩ quá. Chả biết tính toán ra làm sao nữa… Ông Lung đi sát vào Lân, giọng thì thầm.
- Có chuyện gì thế? Lân xoay người, chân vẫn đều đều bước - Chuyện chung hay chuyện riêng?
- Thì vừa riêng vừa chung… Ông Lung vẫn băn khoăn - Mày còn nhớ thằng Tí không?
- Nhớ chứ! Nó đang trong đội du kích xã chỗ ông Tuyển còn gì?
- Thì thế mới là chuyện nửa riêng nửa chung. Nó đang muốn cưới vợ. Vợ nó người bên Cốc kia kìa. Lúc nó báo cáo với đội, tao thấy cứ kho khó thế nào. Bom đạn mù giời thế này, lòng dạ đâu mà cưới với xin. Nhưng nó cũng sắp đi bộ đội Tây Sơn rồi. Nếu không cưới vợ cho nó, nếu có thế nào, kể cũng mệt, nhà đấy lại độc đinh, có mỗi mình nó.
- Ối giời, tưởng chuyện gì, chuyện ấy thì băn khoăn gì. Cưới! Cưới ngay chứ lờ vờ gì nữa - Lân vỗ mạnh tay vào vai ông Lung - Thì vợ chồng nhà cháu đấy, ngày cưới cũng mù mịt đạn pháo, chả đúng hôm nó càn suốt từ làng Chằm Tó sang làng Anh, làng Chuối… cơ mà. Thôi thì, bánh chưng, bánh chiếc ôm tất cả ra ruộng… Ông quên à? Thế mà có sao đâu. Việc nào cứ việc ấy địch nó mới sợ mình mà mình mới thắng được nó. Ông cứ để cho đoàn thanh niên chúng nó đứng ra tổ chức. Cần thì đội du kích xúm một tay vào.
- Được. Anh đã nói thế thì tao về thống nhất với bọn thanh niên, du kích. Nhà thằng Tí cũng chả còn ai. Bu nó thì chết trong nạn đói. Thầy nó cũng chết hôm Tây càn làng mấy năm trước rồi. Số thằng này cũng vất. Mà mày đã nói thế thì… Cưới thì cưới chứ sợ chó gì cha con thằng nào. Đồn bốt gì cũng là cứt chó tất. Ông Lung ôm vai Lân, cười khà khà. Tiếng cười của người biết mình đang ung dung đứng trên đầu địch.
Tờ mờ đất. Mưa lại bắt đầu nặng hạt tuy không dầy như hồi đêm. Con đường làng được mưa gột rửa, mặt đá phơi màu xanh dịu lẫn trong màu nâu của đất thẫm dần trong bóng nước. Cỏ chỉ, cỏ may ướt đẫm, nằm ệp xuống hai bên đường. Chỉ có những cây cúc dại vẫn kiên cường vươn mình trong mưa, thi thoảng nở những bông hoa trắng muốt, nhỏ xinh như chiếc cúc áo. Trời càng mưa, khoảng nhìn xa càng ngắn lại. Mưa giăng trắng xoá tất cả, nhìn trước nhìn sau, bên tả bên hữu cũng chỉ thấy một màn nước đục mờ. Mặc! Đoàn đấu tranh của dân Đức Đại vẫn lên đường. Lân đứng nhìn theo họ. Trong cơn mưa, những bóng người nhòa dần đi. Nghe tiếng mưa rơi, nhìn đoàn người trôi đi trong màn mưa trắng đục, Lân lại thấy trong lòng anh như có tiếng trống giục. Thuở ấu thơ, có lần mưa, Hơn ba chục con người với đủ các thành phần, lứa tuổi do cụ Đẩu dẫn đầu. Họ theo con đường quen thuộc, mang đơn lên dinh tỉnh trưởng. Con đường thường ngày buồn tẻ với những chiếc xe, dáng người lầm lũi bước, hôm nay bỗng trở nên lao xao, uyển chuyển hẳn lên. Bên cạnh con đường, dòng sông nhỏ nối vào sông Lĩnh Đào nằm im lìm như một bà già khó tính, già cỗi, lững lờ đếm thời gian. Dường như nó không chảy. Mà có lẽ, nó cũng chẳng muốn chảy. Mưa gõ nhịp, ném vãi rất đều đặn những đốm sôi lúc búc trên mặt sông như nồi cơm khổng lổ đang sủi. Thi thoảng, một chiếc xe zíp lao theo hướng Gia Lộc - Hải Dương rú lên điên loạn. Mấy tên Tây đen, Tây trắng chao đảo người trên chiếc xe nghiêng ngửa, ngoằn nghoèo vẽ những luồng rắn lượn trong mưa. Nước trên mặt đường toé lên như vòi phun nhỏ. Dòng người đi đấu tranh của dân Đức Đại vẫn trôi trên đường như một dòng nước lũ.
Mưa tạnh dần. Đoạn đường lên dinh tỉnh trưởng ngắn dần lại. Bước chân của những người trong đoàn đấu tranh vẫn đều đều đếm trên mặt đường. Mồ hôi rịn ra lấm tấm rồi bắt đầu đọng thành giọt, trườn dần theo cổ, vai, lưng, eo mỗi người. Dinh tỉnh trưởng đây rồi. Nhưng hai cánh cổng khép im ỉm. Chỉ thấy mấy tên lính gác bồng súng đứng như trời trồng giữa cái nắng nhợt nhạt. Chúng cản không cho đoàn người vào dinh. Không vào được, bà con kéo nhau ngồi đợi phía ngoài.
Mặt trời lên cao dần. Ánh nắng bắt đầu gay gắt. Đi từ khi trời còn tờ mờ đất, giờ đã thấy bóng đổ gần tròn dưới chân vẫn không thấy bóng dáng viên tỉnh trưởng xuất hiện. Hàng ngày, giờ này, tên tài xế đã lái xe đưa hắn ra ngoài từ lâu. Hay hắn đánh hơi thấy sự xuất hiện của toán người đang đợi hắn ở phía ngoài. Bà giáo tiến lại gần cụ Đẩu, băn khoăn:
- Sao mãi không thấy hắn đâu, bác nhỉ? Hay hắn lại trốn biệt rồi?
- Trốn sao được. Khi mình đến đây tới giờ, chưa thấy nó thò mặt ra. Nó cũng chẳng thể cứ ở lì trong dinh được mãi. Đám lính không cho mình vào thì mình cứ ngồi lại ngoài này. Nhất định nó phải bò ra khỏi hang. Cô xem cơm nước thế nào, giục bà con lấy ăn đi. Có thực mới vực được đạo.
- Cơm nước thì đủ cả bác ạ. Vợ Lân cùng với mấy cô trong ban chấp hành phụ nữ xã, thôn đã lo sẵn cơm nắm, muối vừng đây rồi.
- Thế thì cô giục bà con ăn đi. Muốn thắng nó, mình phải chiến đấu dài lâu kia đấy...
Mặt trời đã tròn bóng. Bóng đã thấp thô ẩn núp ngay dưới chân mỗi người. Không khí bắt đầu như rang lên. Mấy cụ bà tìm những bóng cây, ngồi, mặt vẫn bình thản chờ đợi. Tiếng gió thì thào khe khẽ, len qua bóng phi lao trong sân dinh, vọng ra ngoài vi vút như những điệu nhạc buồn khiến người ta dễ chìm dần vào giấc ngủ. Bà giáo Thuận đang ngồi cúi đầu trên hai đầu gối, bỗng choàng dậy. Có tiếng xe ì ì vọng từ sân dinh ra. Bà lay vai bà khán Chai, bà Tuần Ngột:
- Dậy, dậy đi! Xe tỉnh trưởng ra đấy.
Đoàn người đứng bật cả dậy. Họ chỉnh lại khăn áo chỉnh tề. Cụ Đẩu đưa tay nắn lại nếp khăn xếp trên đầu, đĩnh đạc bước ra, trên tay là lá đơn kêu cứu của người dân Đức Đại.
Quả thật không nhầm. Tiếng xe ì ì vọng ra đúng là xe của viên tỉnh trưởng. Thấy đoàn người rồng rắn đứng chắn ngang cổng, hắn lệnh cho viên thư ký đẩy cửa xe bước ra:
- Có chuyện gì vậy? Viên thư ký cất giọng hách dịch.
- Chúng tôi xin dâng đơn lên ngài tỉnh trưởng... Cụ Đẩu trịnh trọng.
- Có việc gì, các người cứ trình, tôi sẽ bẩm lại ngài.
- Không, xin phép ông, cho chúng tôi được gặp đích danh ngài tỉnh trưởng... Cụ đưa mắt về phía sau. Hơn ba chục con người đã vây kín xe viên tỉnh trưởng tự lúc nào. Họ đứng trật tự, không kêu thét, la hét. Không thuyết phục được cụ Đẩu đưa đơn cho mình, viên thư ký quay vào xe. Không biết hắn bẩm với tên tỉnh trưởng những gì, chỉ thấy tỉnh trưởng đẩy cửa bước ra. Hai bên là hai tên lính ôm súng bảo vệ, mặt hằm hằm, giận dữ:
- Có chuyện gì thế? Dân ở đâu thế này?
- Bẩm ngài tỉnh trưởng, dân chúng tôi ở thôn Đức Đại, xã Nghĩa Hưng, huyện Gia Lộc. Chúng tôi lên đây dâng đơn lên ngài để kêu cầu một việc...
- Có việc gì vậy? Tại sao lại dám ngang nhiên chặn xe tỉnh trưởng ngay tại cổng dinh thế này?
- Vì mấy chú lính không cho chúng tôi vào gặp, nên dân chúng tôi mới mạo muội đón ngài ở ngoài đường ngoài chợ thế này. Biết ngài bấn bận, chúng tôi xin hỏi ngài vài điều thôi: Chúng tôi muốn biết vì sao ngài lại ra lệnh cho đồn Phương Điếm bắn đại bác vào làng giết chết dân lành vô tội? Cụ Đẩu đứng đối diện với tên tỉnh trưởng. Giọng cụ chậm rãi, nửa như chất vấn, nửa như tâm sự. Viên tỉnh trưởng đứng yên, hắn nhìn Đẩu chằm chằm. Chắc hắn không ngờ, cái ông già cục mịch đang đứng trước mặt hắn lại có dáng vẻ ung dung lạ thường đến thế - Ngài là tỉnh trưởng, là người đại diện cao nhất cho người dân ở tỉnh này, chúng tôi không tin chính ngài lại ra lệnh cho đồn Phương Điếm làm việc dã man ấy nên chúng tôi tới để hỏi ngài cho rõ ngọn nguồn, rất mong nhận được câu giả nhời của ngài để chúng tôi về nói lại cho dân biết...
- Tại sao khi chúng tôi đi tản cư, quốc gia đã chiêu dụ dân quay về cố hương để nhận được sự bảo bọc của quốc gia. Dân Đức Đại chúng tôi nghe chiểu dụ ấy mới quay về quê cũ, cui cút làm ăn, lập tề hẳn hoi, cơn cớ gì, ngài tỉnh trưởng lại cho đồn bắn đại bác vào làng để giết hại dân lành? - bà giáo Thuận bước lên. Bà nói chỉ đủ nghe nên viên tỉnh trưởng khẽ nghiêng người. hắn hết nhìn cụ già tóc bạc như cước vừa nói lại nhìn người đàn bà nhỏ bé yếu ớt vừa cất lời cật vấn...
- Quốc gia dụ chúng tôi trở về, quốc gia không bảo vệ lại còn bắn giết thế thì còn ai dám về theo quốc gia nữa... Bà tuần Ngột rẽ vòng vây người tiến vào, nhướng người, nói tõm một câu như đá ném ao bèo nhưng lại rất trúng ý mọi người khiến những người đang đứng đó nhao nhao hưởng ứng.
- Nhất nhất hôm nay, ông tỉnh trưởng nên giả nhời việc này cho dân tôi rõ, chúng tôi không làm loạn, không chống đối lại quốc gia, duyên cớ gì đồn bắn giết dân làng tôi? Không có nhẽ đây lại là lệnh của tỉnh trưởng để đồn Phương Điếm làm càn thế sao?
Hết người này tới người khác trong đoàn người kể tội của đồn Phương Điếm gây ra cho dân làng. Cái chết của những người dân bị đại bác giết chết cũng được họ mô tả tỉ mỉ khiến gương mặt viên tỉnh trưởng đỏ dần lên. Mồ hôi vã lấm tấm trên trán hắn.
Biết không thể chối từ, cũng không thể rút lui khỏi vòng người đang như chiếc dây thừng khổng lồ thít chặt chiếc xe như con rắn quấn con cua trước khi nhấm nháp, viên tỉnh trưởng nhã nhặn:
- Tôi không ra lệnh gì cho đồn Phương Điếm bắn đại bác vào Đức Đại. Nhất định tôi sẽ về tận nơi xem xét việc này. Bà con cứ về, đơn bà con đưa cho viên thư ký, tôi sẽ dò việc này thật rõ nguồn cơn.
Gặp được viên tỉnh trưởng, đưa được đơn, bà con kéo nhau về. Chuyện râm ran suốt từ dinh tỉnh trưởng đến đầu làng khiến đoạn đường dần ngắn lại. Nắng thu dần, thu dần. Mặt trời ngả dần xuống chân luỹ tre. Bóng người đổ dài, bóng nọ níu vào bóng kia thật khó tách bạch. Nắng nhập nhòa nhảy nhót quanh khối người vừa trở về từ chỗ mà hàng ngày họ vẫn nghĩ là hang hùm miệng rắn ấy.
Vừa tới đầu làng, dân làng đã đổ ra. Họ mong ngóng tin tức của đoàn đấu tranh từ lúc mở ngày, giờ mới thấy trở về. lân bật ra. Anh đến bên cụ Đẩu, Lân chưa kịp cất lời, cụ Đẩu đã vỗ vai anh, cười khà khà:
- Bố anh! Đúng là tính toán như thần. Những việc anh dự liệu hôm qua, hôm nay y sì phóc. Chúng tôi cũng làm đúng những gì anh đã dặn. Nó nhận đơn rồi, nhất định nó sẽ về xem xét đấy...
- Được bước nào mừng bước ấy ông ạ. Nhưng mình cũng vẫn phải đề phòng, khi nào nó về tận nơi, lúc mà thằng Phương Điếm không dám bắn đại bác vào làng mình nữa mới chắc ăn, ông ạ.
- Ừ, nhời hứa của quân hai lưỡi thì chả biết thế nào thực. Nhưng thôi, mưa đến đâu mát mặt đến đấy. Nó không về, mình lại lên. Anh chả vẫn bảo chúng tôi phải kiên trì là gì... Thôi, về nhà tôi, làm hụm nước. Gớm, lâu lâu nhảo một chuyến mà xem ra nhọc nhọc là... Đúng là khoẻ đâu đến già thật!
Sau cuộc đấu tranh của bà con trên dinh tỉnh trưởng ấy, không thấy đồn Phương Điếm bắn đại bác vào Đức Đại nữa. Mọi người hả hê. Cuộc đấu tranh của quân dân Đức Đại bước đầu đã dành được thắng lợi.
Đang lúi húi buộc lại tấm dại che nắng trước thềm hè, Lân giật bắn người khi Tằm hớt hải chạy về, hổn hển nói trong tiếng thở gấp:
- Xe..e...e thằng tỉnh trưởng về... Anh Lân! Xe..., nó về...
- Nó ở đâu? Lân nắm vai Tằm hỏi dồn
- Ngoài đầu làng, trên đường 17. Bọn em chăn trâu... thấy nó về từ trên đường chỗ trước khúc cong nhưng chạy bộ về không kịp...
- Sang gọi ông Đẩu với mấy ông bà trong ban tranh đấu, mau lên.
Lân đẩy Tằm rồi vội vàng chạy ra ngõ. Chỉ một thoáng, dân Đức Đại kéo ra rất đông. Người trong làng chạy ra, người ngoài đồng nhảo về, người ngoài phố kéo đến. Dòng người chen chúc chật như nêm cối. Chiếc xe của viên tỉnh trưởng lọt thỏm như con bọ hung bị vây bởi đám lá xanh ngút, rậm rịt. Chưa hết, người ta còn kéo nhau ra, thành dãy dài ken dầy cả một quãng đường suốt từ làng Đức Đại vượt qua cả đầu phố Giỗ. Tiếng hô mỗi lúc một vang:
- Không được bắn đại bác vào làng giết hại dân lành!
- Đề nghị bà con trật tự để ngài tỉnh trưởng nói chuyện - Viên thư ký cầm chiếc loa tay, chõ về bốn phía, gào lên. Tằm lại nhễ nhại mồ hôi, chạy về thông báo tình hình với Lân. Phương châm của mình chủ yếu vẫn là đấu tranh chinh trị. Nếu bà con găng quá, nó sẽ có lý: dân dữ dằn thế, thảo nào đồn chả phải cho bắn đại bác, ô bi vào dẹp. Vậy nhất định phải đấu tranh đúng theo kế hoạch đã chuẩn bị trước đó. Lân dặn Tằm. Cô bé gật gật đầu liên hồi rồi lại ngôi nghể chạy ra chỗ đấu tranh. Lúc này, đoàn người đã đông nghịt. Tằm len vào chỗ mấy ông, mấy cụ trong ban tranh đấu.
- Anh Lân bảo, nhắc bà con trật tự để nghe xem nó nói gì. Cứ để yên cho nó nói, còn mình cần nói gì đã có các thành viên trong Ban tranh đấu. Đừng la hét, kẻo nó lại kiếm cớ mình làm loạn, nó khủng bố thì gay đấy.
Những đảng viên trong tổ Đảng toả ra. Trật tự được lập lại. Bà con không còn la hét nữa nhưng không khí căm hờn vẫn ngùn ngụt bốc cao.
Tên tỉnh trưởng khệnh khạng bước ra. Hắn đeo kính gọng đồng vàng choé. Cái gọng đồng gặp nắng, thi thoảng loé lên như ánh chớp khan trước mỗi trận mưa rào. Hắn cất tiếng hiểu dụ dân chúng, giảng giải về các chính sách quốc gia. Nhưng cuối cùng điều người dân Đức Đại đang cần nghe nhất thì hắn lại nói hết sức qua loa:
- Bà con chú ý. Về việc dồn dân, rời làng, lập khu tập trung, chính phủ quốc gia cũng đã xem xét rất kỹ. Vùng này Việt Minh hoạt động mạnh trên đường cái quan nên là khu vực rất nguy hiểm. Chính từ mối nguy hiểm ấy, nên chính phủ quốc gia thấy để nhân dân sống cạnh đường cái là không an toàn. Vì lo cho tính mạng của nhân dân, và để đảm bảo an ninh cho dân, chính phủ quyết định phải đưa dân chúng về một nơi mới, sống tập trung cho an toàn hơn. Việc dồn dân chỉ là mong muốn an toàn cho dân, mong dân thông cảm và thực hiện đúng chính sách quốc gia.
Đã chuẩn bị từ trước, cụ Đẩu khăn xếp, áo the chỉnh tề bước lên trước khối người đang rùng rùng chuyển động quanh tên tỉnh trưởng. Cụ hướng về phía bà con rồi quay nhìn thẳng vào viên tỉnh trưởng:
- Thưa ngài tỉnh trưởng, thưa bà con! Cụ cất lời, chậm rãi - Mong ngài tỉnh trưởng soi sét, chúng tôi dân ngu khu đen, thấp cổ bé họng, nghe những điều ngài vừa hiểu dụ thì mười phần cũng thấu được phần nào, nhưng cũng xin thưa lại với ngài tỉnh trưởng thế này... Xưa nay, dân chúng tôi chỉ biết cắm cúi làm ăn, thời nào cũng vậy, không có ý trái lệnh chính phủ quốc gia. Từ khi chính phủ lập tề, dựng bốt, dân chúng tôi vẫn vậy. Chúng tôi không dám chứa Việt Minh, cũng chưa nhìn thấy ai là Việt Minh bao giờ nên không biết họ làm những gì, chỉ thấy chính lính của quốc gia đến càn quét, bắt bớ dân làng đốt dỡ nhà dân, hãm hiếp đàn bà con gái. Đồn còn cho lính bắn pháo giết chết dân. Chúng tôi xin với quốc gia, hãy đừng làm những điều gây thiệt hại đau thương cho dân chúng... Đói ăn, rách mặc, dân chúng tôi đã khốn khổ lắm rồi, chỉ muốn yên ổn làm mà ăn thôi.
- Đúng đấy! Chả thấy Việt Minh Việc miếc đâu, chỉ thấy lính quốc gia làm càn thôi... Cướp, phá, bắn giết… ăn quịt… Đủ trò. Làm gì có Việt Minh nào, chỉ có lính bốt, lính đồn của chính phủ quốc gia làm khổ dân thôi.
Bà con phía dưới túa lên. Lại ầm ào như cái chợ vỡ. Hàng nghìn tiếng ỉ ôi, than khóc như những làn roi quất vào mặt tên tỉnh trưởng. Ngôn ngữ người dân thật khó chống đỡ. Lời qua tiếng lại, những người trong Ban tranh đấu tới tấp đưa đơn cho tên tỉnh trưởng, dúi cả vào tay đám lính đang đứng bảo vệ xung quanh. Bà già, trẻ con kêu khóc ầm ĩ. Những vành tang trắng bỗng mọc lên trên đầu người dân nhanh như nấm mọc sau trận mưa rào. Hàng tiếng đồng hồ sau, tên tỉnh trưởng nói vã mồ hôi mà vẫn không sao làm cho cái lò lửa của người dân đang hừng hực cháy trước mặt hắn nguội bớt đi. Hắn nhìn quanh. Dòng người dân thít chặt lại. Tiếng khóc, tiếng gào thống thiết ai oán. Đám lính bảo vệ lên đạn rôm rốp. chúng liều thân lập thành một hàng rào bao lấy tên tỉnh trưởng để bảo vệ. Tên tỉnh trưởng không thể thoái thác. Hắn buộc phải nhận đơn của dân đưa lên. Sợ nán lại lâu sẽ gặp chuyện chẳng lành, hắn nắm hai bàn tay vào nhau, giơ lên ngang đầu, giọng hổn hển cáo lỗi bà con rồi chui tọt vào trong xe như con chuột chui vào hang tối.
Thấy đã đạt được mục đích, Lân kéo mấy đảng viên trong tổ đảng. Các anh trà trộn vào đám người đang kêu khóc inh ỏi phía dưới. Phía trên kia, những tên lính giơ súng, gạt, đẩy cho vòng người rộng dần ra lấy chỗ cho xe tên tỉnh trưởng nổ máy. Chiếc xe như con bọ hung nhích dần, nhích dần, cuối cùng cũng thoát ra được khỏi biển người, phóng vù lên con đường hướng về phía Hải Dương. Có lẽ trong cuộc đời hắn, chắc chắn viên tỉnh trưởng này sẽ không bao giờ dại dột đi thị sát tình hình như lần về Đức Đại này nữa.
Nhận định tình hình của cuộc đấu tranh sẽ đến hồi phức tạp, Lân hội ý nhanh tổ đảng Đức Đại. Anh quyết định báo cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo của chi uỷ Nghĩa Hưng. Bí thư chi bộ Nghĩa Hưng Đỗ Văn Xô lập tức cho triệu tập cuộc họp khẩn cấp để rút kinh nghiệm.
- Tôi rất muốn các đồng chí trình phân tích thật kỹ tình hình hiện nay - Bí thư chi bộ Đỗ Văn Xô bắt đầu cuộc họp - Để chuẩn bị cho những công việc trong thời gian sắp tới, chúng ta không thể bàng quan trước những gì chúng ta vừa chứng kiến. Tổ đảng Đức đại phải nắm thật chắc tình hình này. bây giờ, đồng chí Lân, tổ trưởng tổ đảng, người trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh này cho ý kiến.
- Tôi hiểu tình hình hiện nay và chính vì vậy tôi mới báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của chi uỷ. Trong những ngày vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp chỉ đạo bà con, đặc biệt là các thành viên trong ban tranh đấu đấu tranh công khai, trực diện với địch. Việc chúng ta gặp viên tỉnh trưởng đấu tranh khiến bốt Giỗ không bắn đại bác vào làng và đích danh viên tỉnh trưởng phải xuống đây gặp bà con đã là một thắng lợi. Nhưng đây cũng chỉ là thắng lợi bước đầu, tổ đảng Đức Đại chúng tôi hiểu rất rõ điều đó. Cũng từ buổi nói chuyện của tên tỉnh trưởng với dân, chúng ta đều biết không dễ gì bọn địch từ bỏ ý đổ dồn dân đuổi làng. Chắc chắn, bằng cách này hay cách khác, chúng sẽ phải thực hiện tới cùng…
- Điều ấy thì hiển nhiên rồi - Ông Tỳ cắt ngang lời Lân… Nó định dồn làng mình để thành mô hình dồn tiếp những làng khác, làng mình bị nó lấy ra làm mẫu thì làm gì có chuyện nó dễ dàng bỏ qua…
- Mình kiện thì cứ kiện thôi, chứ nghe giọng thằng tỉnh trưởng thì mình hiểu cả, nó không bỏ qua chuyện này đâu… Anh Bạ thủng thẳng - Việc nó không bắn đại bác và thằng tỉnh trưởng xuống đây hiểu dụ dân cũng chỉ là bước lùi tạm thời của nó thôi. Nó đang chơi trò mèo vờn chuột mà lại…
- Tất nhiên là như thế - Lân tiếp tục. Ánh mắt anh rực sáng - Chính vì vậy mà chúng tôi đều hiểu thắng lợi vừa qua chỉ la những thắng lợi bước đầu, nhất định ta không thể chủ quan được. Tôi muốn xin ý kiến chỉ đạo của chi uỷ để họp ban tranh đấu bàn các biện pháp đấu tranh tiếp.
- Đồng chí được giao nhiệm vụ chỉ đạo trực tiếp, đồng chí cứ nêu hết ý kiến của mình về việc này - Bí thư chi bộ Đỗ Văn Xô lên tiếng.
- Tôi xin nhấn mạnh, tổ đảng Đức Đại sẽ chỉ đạo bà con đấu tranh tới cùng. Trước khi tiến hành các bước tiếp theo, tôi đề nghị, tất cả hầm hố vẫn phải nguỵ trang thật kỹ để đảm bảo bí mật. Các tổ đấu tranh ở các xóm phải luôn luôn sẵn sàng đề phòng, có tín hiệu là có mặt để trực tiếp đấu tranh. Đội thiếu niên quân báo phải tăng cường cảnh giới, thấy địch xuất hiện là phải báo cho tổ đảng nhanh nhất. Mỗi phần việc này đều đã được phân công trực tiếp cho từng đồng chí đảng viên, nên phần việc của ai người nấy phải thực hiện nghiêm túc và có báo cáo thật chi tiết. Nếu có thể được, đề nghị tổ du kích thôn sát cánh cùng bà con trong việc chống càn trong thời gian sắp tới… Gì thì gì, có tiếng súng, tiếng mìn của anh em du kích, quân địch cũng phải chợn chân hơn.
- Chi uỷ nhất trí với những gì đồng chí Lân vừa nêu - Bí thư chi bộ Đỗ Văn Xô gật gù, bàn tay ông miết xuống mặt chiếc phản gỗ kèn kẹt - Chúng ta cần nắm thật chắc rằng: Xét về mặt vị trí chiến lược thì Đức Đại là một vị trí quan trọng với cả hai bên ta và địch, vì nằm giữa hai con đường huyết mạch, muốn ngược lên phía Bắc hay xuôi về phía Nam đều phải qua nơi này. Hơn nữa, đây lại là quê hương của rất nhiều lãnh đạo lớn của phong trào Việt Minh. Cán bộ Việt Minh cũng thường qua lại con đường này toả về các nơi lãnh đạo phong trào. Nếu địch thực hiện được kế hoạch đồn dân đuổi làng Đức Đại thì coi như việc bình định đồng bằng Bắc bộ của chúng sẽ thực hiện được. Do vậy, như các đồng chí đã nói rất đúng, đây là nơi thí điểm, vì vậy chắc chắn chúng muốn làm cho bằng được. Về phía chúng ta, những kết quả các đồng chí đạt được trong thời gian qua là không nhỏ. Chúng ta cần phát huy những kết quả đó để tiếp tục chỉ đạo nhân dân đấu tranh phá tan ý đồ bình định của địch. Nhất định chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn ở phía trước, thậm chí một trong số chúng ta ngồi đây sẽ có người phải hy sinh. Nhưng kiểu gì, chúng ta cũng không thể địch thực hiện được âm mưu của mình.
Ba ngày sau! Một đại đội lính Âu Phi và lính Nguỵ người dân tộc Thái lùa theo dân phu từ các nơi khác đến quây càn làng Đức Đại. Ngay từ sáng sớm, những tiếng tăng… xình, tăng … xình đã dập xuống Đức Đại như giã gạo. Địch đã cho bắn đại bác dọn đường rồi xua dân phu các nơi trèo lên dỡ những nhà dân nằm sát ven đường. Nắm được tình hình địch sẽ càn, ngay từ đêm trước, Lân đã cùng với nhóm địch vận vào tận trong đồn nguỵ làm công tác binh vận với đám dân phu, đặc biệt là những người dân phu bị đưa đến từ những xã lân cận. Anh em đã được nhắc nhở triệt để lãn công không được dỡ nhà dân. Chính vì làm tốt công tác binh vận nên khi đám cai ra lệnh, đám dân phu chỉ trèo lên cho lấy lệ. Chỉ cần dân túm nhẹ vào chân là họ giả vờ lăn xuống. Cứ thế, phu trèo lên mái nhà, dân xúm lại kéo xuống. Phu tụm lại, vờ giằng co với chủ nhà rồi lại lảng đi, ngồi thanh minh cãi vã với tụi lính.
Ngay từ khi quân địch còn cách đầu làng vài trăm thước, Lân đã nắm được thông tin cụ thể về số lính, số vũ khí chúng mang theo và lượng dân phu địch dồn theo để dỡ nhà dân. Anh nhẩm tính trong đầu rất nhanh. Khứu đã ra hoà vào những người trong ban tranh đấu. Trong nhà chỉ còn mẹ anh - bà giáo . Mẹ anh sẽ vừa là người liên lạc, vừa là người canh hầm, bảo vệ cho anh. Căn hầm anh sử dụng vẫn là căn hầm bí mật cũ của nhà, cái hầm đã gắn bó, che trở cho anh trong bao ngày gian khó nhất. Hầm rộng đủ cho ba người ngồi
Mặc cho quân địch lùng sục, căn hầm của anh vẫn hết sức an toàn. Không chỉ che chở cho anh, nó còn là nơi tiến hành các cuộc họp bí mật, là nơi che giấu những đồng chí cán bộ lãnh đạo quan trọng của phong trào khi họ về công tác tại Đức đại và cả Nghĩa Hưng. Căn hầm của Lân không an toàn sao được khi nó được bảo vệ bởi chính tấm lòng người mẹ đã sinh và nuôi dưỡng anh.
- Cộc, cộc, cộc! Nghe thấy tiếng gõ nhẹ đúng tín hiệu trên nắp. Một lát sau, nắp hầm mở ra, Lân nhô đầu lên. Tằm cúi đầu xuống, nói nhẹ như người thì thầm:
- Bọn Tây không dám trèo lên dỡ nhà, chúng nó chỉ lùa dân phu thôi. Phu thì chỉ trèo lấy lệ, khẽ động là lại lăn xuống rồi quay ra cãi nhau với lính om sòm. Bây giờ thì phải làm gì tiếp…
- Bảo bà con cứ tiếp tục giằng co. Nhất định không để chúng dỡ nhà một cách dễ dàng. Nếu bọn lính trèo lên, dân phải tập trung lại, lôi cổ chúng nó xuống…
Ngoài kia, dân đấu tranh với địch bằng nhiều hình thức. Người kêu khóc ầm ĩ, các bà già cứ xông vào ôm chặt lấy những người phu không cho họ trèo lên mái nhà. Nhìn tức mắt, mấy tên lính Âu Phi nhao lên. Tên nào leo lên mái liền bị bà con tập trung lại, túm chân lôi xuống. Chùng chình mãi, giằng co tới tận trưa, nhiều mái rạ bị dỡ dở dang nhưng chúng vẫn chẳng dọn gọn được nhà nào. Thằng cai đồn nghiến răng:
- Mẹ chúng mày. Lũ ăn hại. Chỉ có mấy cái nhà rách mà chúng mày cũng không dỡ được là cớ làm sao. Buộc dây vào, kéo đổ xuống cho ông. Không cho dỡ thì chúng ông kéo sụp hết, xem chúng mày có tự khắc phải dỡ đi không nào?
Hắn vung vẩy khẩu súng ngắn trong tay. Đám lính theo lệnh hắn, xúm lại kéo đổ mấy ngôi nhà xem chừng lụp sụp nhất. Mặt trời gần đứng bóng, chúng phải dẫn dân phu uể oải tạ rút quân về. Một vài người người phu còn quay đầu lại, nháy mắt ra chiều đắc ý với những người dân vừa giằng co với họ.
Đêm ập xuống. Mưa. Những hạt mưa li ti như mưa tro trùm xuống, thoảng nhẹ như tiếng thì thầm than thở. Những hạt mưa đọng lại trên các rặng cây, tán lá. Nhiều hạt lọt qua lá cây rơi vào cổ Lân nhột nhạt. Mưa nhỏ chỉ khiến không khí nồng nực của những trận giằng co của người dân với địch ban ngày dịu lại. Lân đang cùng các đồng chí trong chi uỷ và các đoàn thể đi thăm hỏi, động viên từng tổ đấu tranh, tới những gia đình bị nạn, khắc phục những hậu quả do quân địch gây ra. Anh hít thật sâu bầu không khí vừa lẫn vị ngọt đắng của lá cây, vừa lẫn vị khét lẹt của thuốc súng. Phía sau anh, Khứu cũng đang chầm chậm bước. Lân bỗng thấy lòng thư thái lạ thường. Bao căng thẳng trước cuộc đấu tranh một mất một còn với địch bỗng như loãng ra, tan đi trong bầu không khí thăm thẳm của làng quê lúc về đêm. Và hạnh phúc hơn khi trong cuộc đấu tranh này, bên những người đồng đội, anh còn có những người gắn bó cả đời với cuộc đời anh, đó là mẹ anh, vợ anh, em gái anh. Họ sẽ sát cánh cùng anh trong suốt cuộc chiến đấu này.
Ngày đầu tiên bọn địch từ bốt Giỗ xua quân đi dồn dân đuổi làng đã không thực hiện được kế hoạch của chúng. Không những thế, bọn địch trong bốt Giỗ còn tức nổ máu mắt khi những ngôi nhà bị chúng dỡ nham nhở và cả những ngôi nhà vốn rất lụp sụp bị chúng kéo đổ hôm trước chỉ đến hôm sau đã được dựng lên và lợp lại đàng hoàng hơn. Những ngôi nhà ấy được dựng lên từ tấm lòng đùm bọc của nhân dân các thôn trong xã và các "xã tề" lân cận được sự chỉ đạo của huyện uỷ đã gánh tre, gánh rạ đến giúp dân Đức Đại dựng lại nhà. Nhân dân Nghĩa Hưng còn mang thóc gạo đến giúp đỡ bà con. Chính những việc làm nghĩa cử ấy đã cổ vũ mạnh mẽ cho tinh thần đấu tranh của nhân dân Đức Đại.
Chắc chắn chúng sẽ không ngừng lại! Đầu Lân văng vẳng ý nghĩ ấy. Phải có thêm biện pháp đấu tranh gì đó khiến quân địch phải chùn bước. Nhân dân vẫn đấu tranh bằng chính trị, đấu tranh trực diện với địch. Nhưng phải để cho địch biết, nếu cố tình bắt dân dồn đi, rời nhà, chúng sẽ phải trả giá. Nghĩ đến đấy, Lân bật dậy. Anh rẽ màn đêm, tìm đến chỗ căn hầm bí mật của Tuyển.
- Có chuyện gì mà mày lần mò đêm hôm thế? Nó mà biết được, bọp cho phát thì thôi…
- Cháu định thế này. Nhất định chúng nó sẽ tập trung càn vào làng mình. Chỉ để bà con kêu khóc, đấu tranh giằng co với nó không có lực lắm. Chú thử tính xem, có thể cho du kích nổ vài phát thị uy chúng nó, chia sẻ với bà con được không?
- Nổ à? Nổ cũng được, để tao xem lại xem đạn dược thế nào… Mình có phải đám thừa đạn đâu. .. Nhưng mày nói cũng phải, cứ để bà con chỉ gào thét kêu khóc xuông cũng không ổn lắm… Thôi được. Ngày mai tao sẽ cho anh em nổ… Giờ thì mày về tranh thủ mà chợp mắt một lúc đi. Râu ria lởm chởm hết cả lên như chổi sể kia kìa, trông khiếp khiếp quá…
Sớm đầu tháng chín. Một buổi sớm chưa có sương mù. Bầu trời dẫu có bị kéo xuống thấp hơn ngày thường nhưng phía chân trời đằng đông vẫn rực rỡ một quầng mây rất sáng. Những cơn gió chớm heo may thổi nhè nhẹ qua cánh đồng rộng. Chỗ những chiếc lều tạm của người dân làng Giỗ dựng giữa đồng, một làn khói tím biếc đang uyển chuyển bay lên, vừa như nhẩn nha, vừa như vội vã.
Tiếng súng thô bạo xé toang buổi sáng yên tĩnh và nên thơ ấy. Một đoàn lính Nguỵ và lính Âu Phi xuất phát từ bốt Giỗ mở trận càn vào Đức Đại. Thằng đội Gầy và tên xếp Triệu hung hăng đứng ngay cầu đá, vung vẩy súng ngắn, chỉ huy đám địch:
- Đi đi. Cứ xăm thật kỹ vào. Hầm bí mật của bọn Việt Minh đào ở những vị trí quan trọng, nguỵ trang thường giống như những cây rơm. Lỗ thông hơi thường trổ ra bờ ao, xa đường cái. Cửa hầm thường nguỵ trang kỹ, gõ kêu cộc cộc, dùng thuốn xăm xuống, đất sẽ sụt nhẹ, đi đi, lũ ăn hại. Cứ tóm được vài thằng đầu sỏ là bố bảo dân làng này dám cứng đầu chống lại chính phủ… Trận này phải làm thật mạnh tay. Nhà nào không dỡ được thì đốt, đốt sạch cho tao… Hôm nay, cho chúng mày xả láng… ha ha ha.
Tràng cười man rợ của hai tên chỉ huy vang lên. Đáp lại tiếng cười ấy là những tràng cười khả ố và man rợ của đám lính. Những quầng lửa bắt đầu bùng lên. Bọn lính đã châm lửa đốt nhà. Rừng rực cháy. Tre nứa nổ lốp đốp. Chúng dồn dân tụ lại, túm lấy các chị, lôi ra ngoài giở trò hãm hiếp. Dân chúng xúm lại. Các tổ đấu tranh huy động dân chúng tới kêu khóc ầm ĩ. Các cụ già, em nhỏ lao vào, túm đám lính đang đè ngửa chị em lôi dậy. Nhìn thấy hai chị phụ nữ đang bị hai tên lính Âu Phi lôi ra đám đất rộng, bà Khê đã lao vào, lấy đầu húc trúng bụng một tên, đẩy tên kia ngã kềnh ra đất, gỡ cho hai chị chạy thoát. Phía cuối làng, các bà, các chị bôi bẩn đầy người, ruồi bay xung quanh từng đàn vo ve, mặt mũi lem luốc cứ túm chặt những tên lính đang nhăm nhăm cầm mồi lửa đốt nhà. Mùi hôi từ những thân hình tiều tuỵ ấy khiến đám lính nhăn mặt, lảng đi chỗ khác. Bà Tham già, răng rụng hết miệng móm mém, túm chặt một tên lính nguỵ, khóc thảm thiết. Cái miệng trống hoác, trơ lợi đỏ hỏn cứ phều phào:
- Xin các ông đừng đốt nhà tôi, tội nghiệp lắm. Chúng tôi già rồi… Các ông ai cũng có nhà có cửa, có cha mẹ già, vợ dại con thơ. Nếu người khác đến đốt nhà, chém giết cha mẹ, hãm hiếp vợ con mình thì các ông nghĩ gì… Khốn khổ thân tôi thế này… Giời ơi là giời…
Khắp trong làng Đức Đại khói lửa mịt mù. Tiếng kêu thóc thảm thiết, vang đến khắp xung quanh. Mặt trời đỏ ối len lỏi trong đám khói bụi, nhích dần lên phía đỉnh đầu. Thấy khói bụi mù mịt bốc lên từ phía làng, Tuyển dẫn tổ du kích nhích lại gần. Ông bố trí anh em phân bố tại Đống Thiên, Ao Hải, Quán Múc, Đống Đỏ… Những khẩu tiểu liên hướng về phía làng. Tiếng kêu khóc cùng những đụn khói từ phía làng bốc lên cứ như mũi dùi xoáy vào tâm can họ.
- Chuẩn bị! Bắn! Tiếng Tuyển thét to. Hình như bao uất ức căm hờn quân địch, bao xót thương cho những người thân của anh trong ngôi làng đang bốc lửa rừng rực kia gửi vào tiếng thét ấy. Nước mắt căn hận bỗng nhiên rỉ ra từ khuôn mặt góc cạnh của người tổ trưởng du kích ấy.
Tiếng súng nổ từ ngoài vọng vào khiến quân địch hoảng hốt. Chúng sững lại. Trong ánh mắt của quân địch, tiếng súng đó là lời cảnh cáo của Việt Minh. Mặt trời ngả dần về phía tây. Phần sợ bị Việt Minh tấn công, phần cũng đã quá mệt mỏi, quân địch đành lui quân, kết thúc thêm một ngày càn quét không hiệu quả.
CHƯƠNG XIX
Tiếng con gà trống gáy từng hồi. Tên lính gác bên đồn Phương Điếm đã bắn ba phát tắc… bọp báo đổi phiên. Đằng đông, một tảng mây như hình chiếc bừa nổi lên cuồn cuộn. Xung quanh cái bừa mây ấy, mây trắng ngập tràn như nước ngập mênh mang khắp cánh đồng đang mùa đổ ải. Vòm trời về sáng se se lạnh và quang đãng. Có tiếng điếu cày rít lên nghe khô như rang. Lân lách người chui vào căn hầm hàm ếch khoét ngay bên bờ con ngòi nhỏ ngoài rìa làng:
- Mấy bố du kích liều thật. Ngồi ngay đây mà bắn Bazôka cứ giòn như không. Nó mà biết, nện mấy tràng 75 li xuống thì hết hơi.
- Ối dào. Việc nó nó làm, việc mình mình chiến. Sợ nó thì có mà… Một gương mặt trẻ măng đang gà gật ngủ phía trong, nghe tiếng Lân vùng dậy. Thu hai chân lại, anh ta dụi mắt, nhòm ra:
- Tưởng ai, hoá ra anh Lân. Kệ cha chúng nó anh ạ. Anh thấy đấy. Dân mình vẫn việc nào việc ấy đấy thôi. Ban ngày nó đốt. Ban đêm ta lại dựng. Anh có nhìn thấy mấy ngôi nhà ngoài rìa đường không? Chúng em vừa dựng lại đêm qua cùng những người dân các thôn khác xúm vào đấy.
- Cậu này, hỏi gì lạ - Ông Tuyển nghếch cái điếu cày vào vách hầm - Chính tay Lân này cũng tham gia trong đám người dựng lại nhà cho dân hàng đêm đấy chứ đâu mà còn phải hỏi. Rõ là…
- Hì hì… Lân cười
- Thằng này nó đang lú tình, anh ạ - Một cậu mặt còn non choẹt ngồi khuất trong bóng tối ở góc hầm, nói với ra…
- Sao lại lú tình? Lân ngạc nhiên
- Thì vợ mới. Say quá hoá lú chứ sao nữa hả anh?
- À, ý cậu bảo cậu Tí mới cưới vợ chứ gì… Chuyện ấy thì tôi biết rồi. Thế hôm cưới cậu Tí, cậu có đi không? Lân háy mắt hỏi.
- Sao lại không? Em cứ gọi là… chứng kiến từ đầu đến đuôi.
- Lại sắp, lại sắp đấy… Ông Tuyển giật giọng… Mày mà nghe chúng nó tán phét thì có mà… đổ thóc giống trong lu ra mà xay.
- Bố thì… Tí nhoài người - Nó không đùa đâu. Hôm cưới em, nó lại còn có quà mừng cho cô dâu hẳn hoi cơ đấy. Mà anh biết quà mừng của nó cho cô vợ mới tỉnh tình tinh của em là cái gì không?
- Cái gì thế? Lân cười
- Một quả lựu đạn! Tí bất ngờ giơ quả thụi, giúi một nhát vào vai cậu bạn bên cạnh.
Cả Lân và ông Tuyển cùng bật cười. Tiếng cười sảng khoái bật lên từ trong lòng đất nghe vang dữ dội. Chờ cho hai người dứt cơn cười, cậu bạn cậu Tí mới nhấm nhẳng:
- Nó thì biết cái cóc khô gì. Phải con vợ nó toét mắt mới chịu lấy nó chứ vào em á… Cứ gọi là đợi sang mùa quýt.
- Ai bảo mày thế? Tí lại giơ nắm đấm. Vợ tao đẹp gái nhất làng Cốc, có mày ấy... Sau này thế nào cũng vớ được con vợ có đôi mắt bồ câu trâu con đậu con bay, chỉ có mày mới lấy vợ mắt toét chứ tao mà lại thèm…
- Không thèm… Ai chả biết - Cậu bạn kia dài giọng - mà anh Lân biết không, ai đời, đi gác du kích mà chúng nó lại tranh thủ đổi cho mọi người để gác cùng một cặp. Gác sách gì mà lại chụm đầu vào, hấm hứ ới a: nếu còn giặc Tây thì nhất định chưa đẻ con vội. Sau này, thắng Tây rồi anh sẽ đẻ một đứa con trai, còn em sẽ đẻ một đứa con gái… Đấy, anh thấy tình yêu của thằng Tí khoai thế đấy. Anh đẻ một đứa con trai, mày thì có mà đẻ gì… Đái được thôi. Mà con vợ mày cũng … lạ, Tí nhỉ…
- Mày chỉ phét lác ... Tí túm chặt cậu bạn, quay qua Lân, van vỉ - Anh đừng tin nó... Thằng này...
- Sao lại không tin, hai đứa chúng mày gác hết cả phiên mà không gọi tao ra đổi, tự tao phải mò ra, đứng ngay đằng sau cũng chả biết gì. Tự mày gà đẻ gà cục tác thì tao mới biết chứ? - Cậu bạn cậu Tí không vừa.

Không thể nào nhịn được, Lân cười chảy cả nước mắt. Ai ngờ được, giữa những ngày bom đạn mù trời này vẫn nảy nở những mối tình đẹp đến thế. Hóa ra bom đạn của địch cũng không thể ngăn nổi cuộc sống đang đâm chồi, nảy lộc trên mảnh đất này. Đêm ấy, kéo đầu vợ gối lên cánh tay mình, Lân bỗng bật cười. Rồi không nhịn được, anh cười như nắc nẻ khiến Khứu hoảng quá, bật dậy, nhìn anh chăm chắm, mắt đầy hoảng hốt. Cô thấy nước mắt cứ nhoèn ra trên mắt chồng mình. Mãi Lân mới kể lại được câu chuyện của hai người du kích trẻ ban sáng với vợ. Hai vợ chồng rúc rích mãi.
Mọi chuyện kéo dài trong rất nhiều ngày. Địch vẫn mỗi sáng lại dàn quân kéo nhau sang dỡ nhà của người Đức Đại. Gương mặt của mỗi người dân Đức Đại sạm lại nhưng ý chí sắt đá cũng thêm hiện hữu trên mỗi gương mặt ấy. Họ sẽ chiến đấu đến cùng. Bên cạnh họ, tấm lòng của những người dân các làng, các xã xung quanh tiếp thêm sức mạnh cho họ trong trận chiến đấu không hề cân sức với quân thù này.
Trăng ngày giáp rằm chưa tròn nhưng sáng vằng vặc. Chính luồng ánh sáng của trăng khiến cho bầu trời đêm trở nên rạng rỡ. ánh trăng chảy tràn qua những kẽ lá trên rặng tre đầu làng, rung rinh chảy xuống mặt đất. Từ xa, những đoàn người vẫn cắm cúi bước. Trên vai họ, nào tre nào gỗ… củi gạo. Những bà, những chị gánh những gánh rơm lặc lè, nhìn từ xa trông không khác gì đoàn nấm di động.
- Dân các làng quanh vùng vẫn tiếp tế vật liệu để mình dựng lại nhà đấy Lân ạ - Ông Tỳ nhìn những bóng người đang rõ dần trên con đường mòn, quay lại bảo Lân.
- Vâng. Đức Đại không cô độc trong chiến đấu này đâu ạ. Bà con xung quanh vẫn nhường cơm, sẻ áo với mình. Mà ông thấy đấy, đã bao tháng nay, bọn bốt Giỗ cũng có phá dỡ được nhiều đâu.
- Ừ, thì nó cũng chỉ mới chỉ phá được mấy chỗ toen hoẻn này thôi. mà phá làm sao được. Phá ít, đêm mình lại dựng lên nhiều. Ngày hôm trước phá, hôm sau đến vẫn lại như cũ… Ông Bạ trầm tư - Dân mình cũng kiên cường đấy chứ…
- Không kiên cường đâu có phải người làng mình, đấy các ông xem, đồng lòng thế này, giặc nào phá nổi… Này, đây cơ mà. lân cất tiếng gọi khẽ một người đang vác bó tre loay hoay nhìn xung quanh như tìm chỗ dựng… Anh em vất vả với Đức Đại chúng tôi quá…
- Có gì đâu. Cũng là bà con mình cả. Đức Đại thay chúng tôi chường mặt chiến đấu với chúng nó, chúng tôi ở phía sau chả lẽ không góp được cành tre, cọng rạ hay sao… Nào, các bác gọi mọi người ra, chỉ xem hôm nay dựng chỗ nào, anh em chúng tôi xúm vào mỗi người một chân một tay… ù lên không có lại sáng bảnh mắt bây giờ…
- Vâng, vâng… Đây đây, bác ạ. Lân cuống quýt chỉ đỡ bó tre trên vai người đàn ông, đưa vào một nền nhà còn đang ngổn ngang que, rơm bọn địch kéo đổ ban ngày - Biết là có bà con phía sau nên Đức Đại chúng tôi vững tâm lắm. Trận chiến này cũng còn gay đấy, bác ạ.
- Gay cũng chiến. Còn một người cũng chiến. Mẹ cha chúng nó, cái thứ sói lang đến cướp nhà người, xem chúng nó to gan hay mình lớn mật hơn.
Không thể khuất phục được nhân dân, giữa tháng mười năm 1952, bọn địch bên bốt Giỗ ắng đi vài ngày không thấy thúc quân càn sang Đức Đại. Sáng ấy, Lân đang lúi húi đánh giậm ngoài con sông nhỏ. Nước theo dòng rút xuống khiến bãi đất hai bên bờ phơi dần. Soãi tay úp chiếc dậm xuống nước, chân lựa cho chiếc mõ đúng tầm, Lân nhún chân dận đều. Nước theo mõ dậm sủi kêu lên những tiếng ùng ục thật vui tai. Hai chiếc giỏ hai bên, một chiếc đựng cua, một chiếc đựng tất tật các loại cá, tôm tép… Bỗng anh dừng lại, nghe có tiếng gì ì ầm. Tiếng ì ầm vọng về từ phía Hải Dương. Rồi tiếng vọng gần thêm. Thôi chết! Tiếng xích xe bọc thép. Không thể dừng lại. Quăng cả giậm, cả mõ, anh hộc tốc chạy về làng.
Bốn chiếc xe bọc thép, xe ủi lừ lừ tiến tới cả từ hai hướng. Từ Hải Dương về, từ Ninh Giang theo đường 17 bò lên. Chúng giơ những cái mồm đầy răng như mõm con quái vật khổng lồ hung hăng nghiến bánh xích xuống mặt đất. Con đường đá oằn mình khi chiếc bánh xích lăn qua, để lại trên những phiến đá xanh rất nhiều đường rãnh hằn như vết sẹo trên một khuôn ặt vốn đang rất mịn màng.
Theo sau những chiếc xe bọc thép, hàng đại đội lính Âu Phi từ bốt Phương Điếm, từ Ninh Giang trèn theo. Súng tiểu liên lăm lăm trong tay. Chắc hôm nay, chúng định san phẳng làng. Dân đã được tổ đảng thông báo. Ban tranh đấu đã tập hợp. Tiếng xe bọc thép gầm rú như lời tuyên chiến của địch với quân dân Đức Đại. Không cần leo lên mái nhà, chẳng cần buộc dây kéo, những tên lái xe ngang nhiên cho xe ủi đất lao vào giữa làng. Cái tháp pháo nghênh ngang gạt tung hai cây cột ngoài cổng đình, xồng xộc xông vào khoảng sân rộng rênh của đình làng Đại Phong. Xích xe nghiến trên sân lát gạch nghiêng xào xạo.
Đình làng Đại Phong toạ lạc trên một khoảng đất rộng, là nơi thờ Thành hoàng làng theo đúng phong tục tín ngưỡng của người Việt cổ. Theo các cụ cao niên kể lại, Cách đây vài trăm năm cụ tổ phái nhà Lân năm 38 tuổi từ quan, về đã cùng các cụ cao niên trong làng lên tận Tuyên Quang mua hàng trăm cây gỗ lim hàng người ôm về dựng đình, qua thời gian, những thân gỗ ngày nào giờ trở nên nhẵn bóng. Đình Đức Phong là trung tâm hành chính. phục vụ cho mọi hoạt động công cộng của cộng đồng làng xã, là nơi làm việc của Hội đồng kỳ mục trong thời phong kiến và là nơi dân làng tụ họp trong những ngày gần đây. Đình Đại Phong kết cấu năm gian theo kiểu chữ Nhất, bốn mái với đủ cả hậu cung, ống muỗng, tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam quan trụ biểu, thuỷ đình... với những hàng cột bằng gỗ lim sừng sững, có thớ xoắn rất chắc chắn. Loại gỗ này hàng vài trăm năm vẫn không bị rỗng lõi, có cột cái đường kính cột lên tới năm bảy chục phân. Đẹp nhất vẫn là tòa đại bái, tòa nhà lớn nhất có sàn lát ván, cao khoảng trên 60 phân, chia làm ba bậc xứng với vai vế những người được ngồi ở đình mỗi khi làng có việc phải bàn. Không gian của đình thoáng đãng, tràn đầy ánh sáng với rất nhiều những hoa văn độc đáo. Các đầu đao đều uốn cong, gắn long, ly, quy, phượng. Xà đấu, kèo, cốn, đầu bẩy, đầu dư, đố, ván gió, ván nong... đều có chạm khắc rồng, phượng xòe cánh tung bay và các khung cảnh, sinh hoạt của con người nơi thôn dã như bơi thuyền, đốn củi, múa hát... Hậu cung của đình là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng, cùng bài vị, sắc phong. Hậu cung của đình thường được ít khi được mở, bao trùm bởi một bầu không khí linh thiêng, huyền bí. Xung quanh đình, những tán lá cây xòe rợp bóng, trùm lên mái đình vốn đã thấm đẫm rêu phong của thời gian. Hàng mấy trăm năm nay, đình Đại Phong là nơi dân làng gửi gắm tất cả tấm lòng của con dân với ngôi làng mình đang sống.
Nhưng... bánh xích của cái xe xích nhích dần. Nó gầm gừ, rú lên điên dại rồi chồm lên. Hai cây cột ngoài cổng đình đổ ụp. Rồi đến tam quan, tả vu, hữu vu... đến trước tòa đại bái, chiếc xe ủi ngần ngờ một lát rồi chồm lên. Những hàng cột lim vẫn đứng trơ trơ như thi gan cùng quân kẻ cướp. Tên lính lái xe mở nắp, nhảy xuống.
- Này chú lính. Đình làng là nơi thờ tự, phá đình chùa liệu có yên ổn với các Ngài không? Mấy cụ già trong ban tranh đấu dàn hàng ngang trước mặt tên lính lái xe.
- Không biết. Tao chỉ làm theo lệnh cấp trên - Thằng lính mặt đỏ vung. Nó lại gần tòa đại bái nghiêng ngó rồi nhảy lên buồng lái. Khẩu đại bác trên tháp xe xoay tròn, nhằm đình làng, nhả khói. Tăng...xình. Tăng...xình! Hàng rào sống của dân đức Đại trước cửa toàn đại bái giạt ra. Lửa bắt đầu bốc lên. Mái ngói rêu phong ghi dấu ấn mấy trăm năm với bao kiếp người của Đại Phong từ từ sụp xuống. Lửa bén vào những đầu đao, xà đấu, kèo, cốn... Chiếc xe ủi phía sau chồm lên. Ngôi đình cổ kính một thời trong thoáng chốc chỉ còn là đống gạch vụn.
Nhà cửa, tài sản của nhân dân bị tàn phá rất nặng nề. Người dân Đức đại dưới sự lãnh đạo của tổ đảng, của các thành viên trong ban tranh đấu đã ra làm hàng rào cản giữ làng. Cuộc chiến đấu của họ lại thành công. Ủi đổ đình làng nhưng địch không thể chà qua những thân hình đang tạo nên một hàng rào sống giữ đất, giữ làng của người dân Đức Đại. Quá trưa, quân địch lại phải rút về đồn.
Nhận thấy tình hình đấu tranh giữa ta và địch ngày càng trở nên căng thẳng, nhất là không thể đem tính mạng của dân ra thí mạng với quân địch. Hình ảnh những người dân làm thành hàng rào sống cản xe bọc thép và xe ủi của địch không cho chúng phá đình làng đã găm vào đầu Lân rất nhiều. Với bọn địch không tim chuyên lấy đốt phá, giết chóc làm trò tiêu khiển ai dám chắc chúng sẽ lại chùn tay trước tính mạng của dân một lần nữa. Không thể để điều ấy xảy ra. Nhất định sẽ phải tìm một phương thức đấu tranh khác.
Cuộc họp tổ đảng cùng với chi uỷ xã mở rộng tới ban đấu tranh thôn tổ chức ngay trong đêm. Tất cả mấy chục con người ngồi im lìm. Họ như đang chìm đắm trong cái yên tĩnh đến rợn ngợp của đêm khi những gì thiêng liêng nhất của họ vừa bị kẻ thù tàn phá. Ngoài xa, vẫn tiếng côn trùng rả rích, tiếng mưa đọng trên tán xoan gầy rơi xuống tàu chuối lộp độp. Thi thoảng, tiếng chó cắn ma nhấm nhẳng vọng từ xa lại. Trong ánh đèn leo lét, giọng Lân như nghẹn lại khi nhắc đến tội ác của quân địch và những nỗi đau, sự mất mát người Đức Đại đã phải chịu đựng thời gian qua. Tiếng anh nặng dần:
- Các đồng chí ạ. Chúng ta phải thay đổi hình thức đấu tranh. Ngoài đấu tranh quần chúng trực diện, phải nhanh chóng đấu tranh chính trị, nhất là đấu tranh bằng hình thức khác, hình thức tạo sức ép của dư luận, phải để dư luận biết mà ủng hộ cuộc đấu tranh chống dồn dân đuổi làng của Đức Đại buộc địch phải lùi bước.
- Đúng rồi - Cụ Đẩu đứng lên. Gương mặt của vị lão làng mếu xệch khi cụ khắc khoải - Đình làng Đại Phong đã bị chúng phá tan hoang rồi. Thành hoàng làng của chúng ta nó cũng không để yên. Vậy thử hỏi còn điều gì chúng không dám làm nữa đâu? Một mình làng mình không thể đánh chúng đứt đuôi tiệt nọc. Mà muốn chúng bỏ hẳn dã tâm, muốn chúng không được chạm đến mồ mả cha ông mình, thì chỉ có làm theo cách của thằng cháu Lân vừa nói. Các ông, các bà cứ ngẫm mà xem, chả có còn cách nào khác nữa đâu...
- Muốn làm được điều đó, việc cần kíp nhất là phải nhanh chóng cử một đoàn đấu tranh lên tận Hà Nội đưa đơn kiến nghị lên cấp cao nhất là quốc trưởng bù nhìn Bảo Đại và phủ Thủ hiến Bắc Việt. Mình cứ lên đó, gọi là xin sự che chở, nhưng cái chính là ta lên để tố cáo tội ác của địch. Phải đưa bằng được những sự việc đốt phá nhà cửa, hãm hiếp giết hại dân lành vô tội lên công luận. Phải để khắp nơi biết tội ác tày trời của chúng.
Đêm đã về khuya. Trăng hạ tuần phủ màu bàng bạc khắp mặt đất, lọt qua khuôn cửa sổ, len vào chỗ những người Đức Đại đang ngồi họp. Chập chờn phía xa là tiếng gà eo óc gáy. Chi uỷ Nghĩa Hưng, tổ đảng Đức Đại và cả những người trong ban tranh đấu thôn đều nhất trí với phương án đấu tranh mới Lân vừa đề ra. Đơn từ được thảo sẵn với hàng ngàn chữ ký, dấu điểm chỉ tay của dân làng.
Ngày 21 tháng 10 năm 1952, đoàn đại biểu của ban tranh đấu thôn Đức Đại gồm năm người do cụ Bùi Quang Đẩu, cụ hội Níp, cụ khán Môn, bà Nguyễn Thị Thuận (mẹ Lân) và bà thủ Phiên cấp tốc đi Hà Nội.
Suốt mấy ngày, những người qua lại trước dinh thủ hiến Bắc Việt gần bờ hồ Hoàn Kiếm luôn thấy một tốp người đứng chờ ở phía ngoài cổng dinh. Ấy là năm người trong ban tranh đấu đại diện cho người dân Đức Đại lên xin gặp ngài thủ hiến Bắc Việt. Nhưng trời như thử thách lòng người, suốt mấy ngày, cả khoảng sân rộng của dinh thủ hiến cứ lặng như tờ. Không biết ngài thủ hiến Bắc Việt đi đằng nào.
Gần một tuần sau! Tiếng máy ô tô êm ái rù rù vọng ra từ sân dinh thủ hiến. Chiếc xe con màu đen bóng nhoáng từ từ lăn bánh hướng ra phía ngoài, trên đầu xe phất phơ một lá cờ nhỏ. Hai cánh cổng dinh từ từ mở ra. Cụ Bùi Quang Đẩu đứng phắt dậy:
- Xe thủ hiến Bắc Việt kia rồi!
Không chờ cho xe ra hết cổng, đoàn năm người áp sát thành xe. Mấy tên lính hộ vệ đẩy cửa xe, bước xuống, mặt đằng đằng sát khí:
- Có chuyện gì vậy?
- Các ông làm ơn cho chúng tôi gặp ngài thủ hiến...
- Ngài thủ hiến đang có công việc phải đi gấp. Có việc gì cứ vào gặp bộ phận canh phòng...
- Chúng tôi là dân quê, nhà cháy sạch, người chết gần hết... Cả làng chỉ còn có vài người, mong gặp ngài thủ hiến... Giời ơi! Oan khuất lắm!
- Không được! Một tên hộ vệ xoay ngang khẩu súng, định gạt cụ Đẩu và bà giáo Thuận lùi ra xa để lấy chỗ cho xe đi. Nhưng dường như những tiếng van vỉ của họ đã lọt qua tấm kính xe, lọt vào tai viên thủ hiến Bắc Việt. Ông ta hạ thấp kính xe, hỏi với ra:
- Dân ở đâu lên, có chuyện gì vậy?
Không bỏ lỡ cơ hội, bà giáo Thuận nhào tới:
- Bẩm ngài thủ hiến, chúng tôi là dân ở làng Đức Đại, xã Nghĩa Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Cùng bất đắc dĩ mới phải xin gặp ngài thế này. Chúng tôi cùng đường rồi, bẩm ngài, thương dân với ạ.
- Có chuyện gì thế? Thủ hiến hạ hẳn kính xe - Có chuyện gì, bà lão từ từ nói...
- Chúng tôi thuộc khu vực đất của chính phủ quốc gia, không làm gì phương hại đến quốc gia, vậy mà gần năm trời nay, đồn Phương Điếm luôn cho quân xuống càn làng, đốt nhà, giết người, bắt bớ, hãm hiếp vô tội vạ. Bẩm ngài thủ hiến, có an cư mới lập nghiệp mà. Vậy mà lính đồn liên tục càn xuống bắt chúng tôi dỡ nhà, đuổi dân đi chỗ khác. Ngài xét cho chúng tôi với, mồ mả cha ông, quê hương bản quán bao đời, giờ chúng tôi biết dọn đi đâu?
- Mà không dọn đi thì lính đồn bắn đại bác, ô bi xuống. Người chết vô thiên lủng thủ hiến ơi! Dân làng tôi thuộc đất quốc gia mà còn bị thế này, những chỗ khác nhìn cảnh ấy, làm sao họ về với quốc gia được? Cụ Đẩu tiếp lời - rất mong ngài soi xét, thương cho dân chúng tôi với! Dân chúng tôi thấp cổ, bé họng chẳng biết kêu ai, chỉ biết cậy nhờ ngài.
Như đã lờ mờ hiểu điều những người dân đang nói, thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí gật đầu:
- Được rồi. Tôi sẽ truy xét việc này. Bà con cứ hồi hương đi.
- Để ngài truy xét thật kỹ, chúng tôi xin gửi ngài tâm nguyện của bà con Đức Đại. Mong ngài soi xét - Cụ đẩu vừa nói vừa trịnh trọng dâng lá đơn tới trước mặt thủ hiến Bắc Việt. Không thể chối từ, hắn nhận lá đơn rồi nâng kính xe. Chiếc xe từ từ trôi đi. Ngoài đường, những chiếc lá vàng trên vòm cây cao rời cành, chao mình xuống mặt đất nhẹ bẫng rồi đuổi nhau lăn xào xạc trên mặt đường nhựa.
Đưa được đơn cho thủ hiến Bắc Việt, đoàn đi tiếp sang báo Tia sáng, một trong những tờ báo theo khuynh hướng tiến bộ. Nói bã bọt mép, tên gác cổng mới cho mọi người vào gặp chủ bút. Nghe cụ trình bày nguyện vọng của dân làng Đức Đại, đọc hết lá đơn vừa nhận từ tay những người dân chân chất, chủ bút báo Tia sáng chậm rãi:
- Việc của dân làng, nếu đúng sự thực như các cụ đã trình bày, nhất định chúng tôi sẽ đưa tin… Chỉ e một nỗi…
Như đoán được tâm sự của chủ bút, bà giáo Thuận vội đỡ lời:
- Mong ngài đừng ngại. Chuyện của làng của nước, chúng tôi dân quê mùa, có sao nói vậy, không có thêm bớt một cắc, một xèng. Ngài cứ cho người viết về tận nơi, mọi phí tổn dân chúng tôi xin chu cấp chu đáo.
- Thôi được, các cụ cứ về, tôi sẽ liệu bề thu xếp thấu đáo việc này.
Chuyến xe cuối cùng cũng dừng lại bên đường, nơi họ định đến. Năm người trong ban tranh đấu của Đức Đại trở về. Gần một tuần lễ ăn chực nằm chờ, khó khăn vất vả khiến gương mặt ai trong đoàn cũng trở nên hốc hác. Mệt mỏi nhưng mắt ai cũng ánh lên niềm vui. Gặp được thủ hiến Bắc Việt và chủ bút báo Tia sáng, chắc chắc những gì họ kiến nghị lên sẽ được soi tới.
Bước chân chưa chạm tới con đường đá xanh quen thuộc của làng, tiếng ríu rít của những người thân ùa ra từ các con ngõ khiến nỗi mệt nhọc của mọi người như tan biến đâu mất. Thì ra, tổ thiếu niên quân báo đang chăn trâu trên cánh đồng đầu làng đã nhận ra những người trong ban tranh đấu trở về. và không gì nhanh bằng thông tin của những thiếu niên quân báo. Khứu chạy sát vào bên bà giáo Thuận, tay cô nắn nắn mãi cánh tay của người mẹ:
- U! Chúng con lo quá. Chả ai biết đằng nào mà lần. Cứ ở nhà đoán già đoán non rồi ngóng tin thôi. U mệt lắm không?
- Mệt nhưng vui. Mọi việc đều thuận theo ý mình cả mà. Mà ở nhà thế nào rồi?
- Từ hôm nghe tin mình có đoàn lên gặp thủ hiến, bọn bên bốt Giỗ cũng không thấy bắn đại bác vào làng nữa u ạ.
- Ừ, chắc nó cũng sợ. Mà anh ấy đâu? Bà giáo Thuận hỏi con dâu rồi hướng mắt tìm kiếm.
- Nhà con kia mà u!
Theo tay con dâu chỉ, bà giáo Thuận đã nhận ra Lân giữa đám đông những người bà con đang vây quanh họ. Con trai bà đang cười. Nụ cười tan nắng
Tháng 12 năm 1952, ngay trên đầu trang nhất báo Tia sáng - Hà Nội đăng tin: "Dân làng Đức Đại huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương thuộc khu vực chính phủ quốc gia mà vẫn bị quân quốc gia đến đốt nhà, phá đình chùa, hãm hiếp đàn bà, con gái… không cho dân lành yên ổn làm ăn…" Bài báo đã gióng lên tiếng chuông vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của đội quân vẫn được mệnh danh là chính phủ quốc gia ấy.
Sau những sự kiện liên tiếp xảy đến, sau khi công luận lên tiếng, đầu năm 1953, quận lỵ Tam Lâm - Hoàng Diệu và chi khu quân sự Phương Điếm cùng thông báo đồng ý cho dân làng Đức Đại ở lại, nhưng vẫn với một yêu sách phải chuyển những ngôi nhà gần đường lùi vào trong làng cách đường cái quan ba trăm mét. Nhân dân lại lên đồn. Lần đấu tranh này không gay gắt như trước nhưng cũng chẳng kém phần quyết liệt. Bà con xin lùi lại một thời gian để thu hoạch nốt hoa màu và xin chuyển nhà nhưng không chặt phá những cây ăn quả lâu niên.
Nhân dân quanh vùng vẫn không bỏ rơi Đức Đại trong cuộc đấu tranh này. Bà con lại tiếp tục đem tre, gỗ, rơm rạ đến giúp nhân dân Đức Đại dựng lại nhà. So với những gì bọn địch đã đề ra, dân Đức Đại chỉ lùi vào cách đường cái quan chưa đầy một trăm mét. Bọn Pháp trên đồn, bọn trên quận và phòng nhì đều biết song chúng đã quá ngán ngẩm với lòng kiên cường của người dân nơi này. Chúng quá bất lực nếu lại phải đấu tranh, lại giằng co với những con người gan dạ . Ngậm bồ hòn làm ngọt, quan quân Pháp nguỵ đành làm ngơ.
Ở vùng quê này, mùa xuân đến sớm nhất trên những cành xoan. Những cây xoan đã trút hết lá trong mùa đông giá rét, vươn lên trời những cành khẳng khiu như ống chân người già, lọng khọng, quăn queo. Thế mà chỉ qua một đêm, từ những cành khẳng khiu, buồn thỉu buồn thiu ấy, nhú lên mấy lộc non. Những mầm chồi bé tí hé mắt nhìn đất trời như tự hỏi tại sao mình có thể sinh ra từ cái cành xù xì, cỗi cằn kia. Để rồi, chỉ qua một đêm nữa, những chiếc lá non cựa mình, bung ra… Rồi hoa xoan nở. Tím bâng khuâng…
Cuộc đấu tranh chống dồn dân đuổi làng của nhân dân Đức Đại kéo dài gần một năm trời cuối cùng đã thắng lợi. Vậy là Đức Đại vẫn giữ được làng, bà con vẫn bảo bọc được cho cán bộ dân quân du kích đi về. Vành đai trắng mà địch định lập nên ở đây không bao giờ có. Nó vẫn mãi là một vành đai xanh, vành đai được trồng cấy và nuôi dưỡng từ chính tấm lòng của người dân Đức Đại với cách mạng mà một trong những mầm sống ấy có Lân.
Vĩ thanh
Khi viết những dòng này, mảnh đất Đức Đại đã phát triển thành một vùng quê trù phú. Chúng tôi đã dạo bước rất nhiều lần trên mảnh đất này, đã lượn qua rất nhiều ngõ ngách… đã đắm mình vào hương đất, hương cây, đã bắt tận tay vào bức tường xù xì thô tháp, ghê rợn của cái bốt Giỗ tàn ác một thời, đã thả hồn theo dòng chảy miên man của con sông đầy ắp phù sa giữa một chiều cả gió để thấy nắng lấp loá chiếu xuống như ngàn vì sao treo trên đầu ngọn sóng… Và cũng đã cảm cả tấm tình của người Đức Đại… Miên man, bồi hồi mà vẫn không sao lí giải nổi điều gì đã làm nên tất cả những gì đang hiện hữu trên mảnh đất này. Không còn tìm đâu thấy những con đường làng quanh co lát đá xanh, tên của những dòng sông, những mô đất gắn với bao chiến tích xưa giờ có lẽ cũng chỉ còn trong trí nhớ của rất ít người. Họ là những con người của rất nhiều những thế hệ trước, thế hệ hào hùng một thuở đã làm nên kỳ tích của một mảnh đất vốn bình dị như bao miền quê thuần hậu quanh tôi. Chúng tôi đã từng được ăn món cốm nếp dẻo ngọt dính dấp chân răng được làm nên bởi bàn tay khéo léo của những bà, những chị trên mảnh đất này, cũng chưa ngấm hết vị ngọt của đất đồng bãi thấm đẫm trong từng hạt cốm vặn mình từ đất để trong vắt như những hạt bích ngọc, nhưng những gì chúng tôi biết, chúng tôi được nghe kể về những con người đã sống, đã giành giật từng thước đất với quân thù khiến trong lòng rộn lên niềm trân trọng khó tả. Và cũng như bao người của thế hệ đi sau, chúng tôi bỗng thấy như mình mắc nợ mảnh đất này dù món nợ ấy khá mơ hồ nhưng cũng thật hiện hữu, vô hình mà lại rất hữu hình. Món nợ ấy gợi lên bởi bao nhiêu chuyện làng, chuyện nước chúng tôi đã nghe kể. Thầm thì, nhẹ nhàng mà như những giọt mưa tro thấm ướt tôi lúc nào không hay. Và chúng tôi tin, cũng như chúng tôi, món nợ về quê hương sẽ trở thành niềm trăn trở trong lòng những người con Đức Đại khi họ xa quê. Nó thành hành trang da diết trong cuộc đời mỗi con người dù họ có đi cùng trời cuối đất, có chìm nổi cùng bao hạnh phúc hay cay đắng ở đời.
Sau năm một nghìn chín trăm năm ba, bác sỹ Nguyễn Đình Lân, người đảng viên kỳ cựu trong cuốn sách này rời làng thoát ly đi kháng chiến. Những gì ông cùng đồng đội đã làm trong cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ thù trên mảnh đất Đức Đại trở thành hành trang cho ông trên con đường công tác, ngay cả những khi là cán bộ của Sở y tế Hải Dương hay trong hành trình gian khó trên đất bạn Cam Pu Chia giữa những ngày rực lửa.
Dẫu giờ đây, những người đang sống trên mảnh đất này, có những người không biết đã từng có một đoạn đường Đức Đại gian khó đến vậy, không biết đã từng có một thế hệ những con người hiếu lễ, kiên cường vò nhàu mình giữ làng, giữ xóm trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, thì câu chuyện về cuộc đấu tranh của người dân Đức Đại ngày ấy cũng sẽ không giản đơn chỉ còn phảng phất trong trí nhớ của những người đã từng chứng kiến mà sẽ còn ghi dấu trong tâm khảm của rất nhiều thế hệ sau này, thế hệ được hưởng thành quả của chính những cuộc đấu tranh ấy đem lại.
Cuộc chiến đã đi qua rất lâu. Những con người cùng thế hệ của các ông các bà ngày ấy theo dòng chảy của thời gian còn lại cũng chẳng bao người. Nhưng chúng tôi tin, chuyện làng, chuyện nước thì sẽ mãi còn đó. Nhiều người trong ban tranh đấu của Đức Đại ngày ấy mãi trở thành những chiến sĩ vô danh. Họ không hề nhận một tấm huân chương, một lời ghi nhận nhưng vẫn không một lời oán thán. Và đó cũng chính là lí do chúng tôi viết cuốn sách này. Viết để khắc ghi về một thời cha ông ta đã đi qua. Viết như lời tri ân với những người còn sống, một nén tâm nhang thắp lên cảm tạ những gì cha ông ta đã cống hiến, viết để bày tỏ tấm lòng, sự trân trọng của chúng tôi với chính những người con kiên trung của mảnh đất giàu truyền thống này.
 Nguyễn Đình Vinh - Thương Huyền
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...