Những người đàn bà tắm 1
ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẲ THIẾT NGƯNG
Những tác phẩm chính
- Cửa hoa hồng (tiểu thuyết)
- Thành phố không mưa (Tiểu thuyết)
- Những người đàn bà tắm (Tiểu thuyết)
- Tuyển tập Thiết Ngưng (5 tập)
- Tuyển tập tác phẩm tự chọn (4 tập)
- Tuyển tập truyện (2 tập)
- Tuyển tập 50 nhà văn hàng đầu Trung Quốc - (tập Thiết Ngưng)
- Tuyển tập tác giả đương đại Trung Quốc - (tập Thiết Nhưng)
Ngoài ra, các nhà xuất bản ở Trung Quốc lần lượt cho in của Thiết Ngưng 29 tập
truyện ngắn, truỵện vừa và 16 tập tùy bút, tản văn, nhật ký (Theo thống kê đến
tháng 4.2003).
Cùng bạn đọc
Bản tiếng Việt của tác phẩm này lần xuất bản đầu tiên (tháng
3.2003 - Nhà xuất bản Thanh niên) có tên là Khát vọng thời con gái ; lần tái bản
này chúng tôi lấy lại tên nguyên tác Những người đàn bà tắm, được tác giả Thiết
Ngưng viết lời tựa, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn viết lời bạt, bản dịch
cũng đã được sửa chữa và chỉnh lý.
Tại Trung Quốc, tác phẩm Những người đàn bà tắm đã được đề cử Giải thưởng Mao
Thuẫn - giải thưởng văn học lớn nhát của Hội Nhà văn Trung Quốc.
NHÀ XUẤT BẲN HỘI NHÀ VĂ
Lời tựa của tác giả
(Viết cho bản tiếng việt tái bản)
Những người đàn bà tắm viết năm 1999, mùa xuân năm 2000
xuất bản lần đầu.
Năm 1990, thé kỷ 20 sắp kết thúc, thé kỷ 21 đang đến gần. Năm
ấy, giới báo chí thường hỏi tôi có suy nghĩ gì và tâm tình nào đối với thế kỉ mới; hoặc tôi mong đợi gì ở thế kỉ mới... Trước những câu hỏi ấy tôi thường không
trả lời nổi. Tôi không trả lời nổi vì, thế kỷ mới không để ý gì đến mong đợi và
tâm tình của tôi, nó không để ý gì, cứ lặng lẽ nhưng rất ngang nhiên đến với
nhân loại đúng thời điểm. Lúc ấy, tôi thực sự cảm thấy thời gian triền miên và
vô tình như hoa rơi nước chảy, thần kinh của nhân loại dũng mãnh nhưng lại bất
lực, vững vàng dẻo dai nhưng lại yếu đuối.
Tuy nhiên, ở một ý nghĩa nào đấy, tôi không hy vọng với Những
người đàn bà tắm tôi đã trả xong món nợ thế kỷ, nhưng lại thiển nghĩ, hoặc
giả xen giữa những dòng chữ cũng có những từ ngữ như "kiểm điểm",
"truy hỏi", "chất vấn", "cứu chuộc". Tôi thử với
tinh thần dũng cảm để kiên nhẫn nhìn lại và thận trọng xem xét những âu lo và
khổ đau của một nhóm linh hồn giữa những năm tháng đặc biệt ấy ở Trung Quốc, đồng
thời mong rằng trong sự nhìn nhận và xem xét, tâm linh tan vỡ lại được trắng trong và hoàn chỉnh. Thế giới này liệu có gì tồn tại hoàn chỉnh hơn trái tim
tan vỡ? Những suy nghĩ trên có thể là một trong những thái độ chân thật của một
nhà văn ở cuối thế kỉ, cùng với văn học đối diện trước thế kỷ mới.
Những người đàn bà tắm là tên một nhóm tranh của
P.Cézanne, họa sĩ người Pháp thuộc trường phái ấn tượng, mà tôi đã lấy làm tên
sách. Trên tranh, những tấm than màu nâu nhạt hòa quỵện cùng cỏ cây và đất đai,
những cô giá khỏe mạnh, thản nhiên, an nhàn, chất phác, không điệu bộ mà cũng
không có gì trái lẽ thường. Những người con gái là giới hạn mà nhân loại hướng
tới.
Trong thư của ông Sơn Lê, người dịch Những người đàn bà
tắm cho tôi biết, bạn đọc Việt Nam rất thích tiểu thuyết này. Nhân dịp Những
người đàn bà tắm bản tiếng Việt được tái bản, tôi xin cảm ơn ông Sơn Lê đã
đành công sức để dịch tác phẩm này. Tôi luôn luôn tin rằng, một tác phẩm văn học
hay khả năng biểu hiện linh nhân loại để có thể cùng chung một cảm nhận; một
tác phẩm văn học hay có đủ khả năng vượt qua môi trường văn hóa khác nhau giữa
bạn đọc với bạn đọc. Tôi không cho rằng mình đã đạt được trình độ cao như thế,
bởi vậy tôi càng phải cố gắng hơn nữa để không phụ lòng bạn đọc của tôi.
Ngày 3 tháng 11 năm 2005
THIẾT NGƯNG
Lời dẫn
Nhà Khiêu có một bộ sofa với một chiếc dài và hai chiếc đơn bọc
nhung màu xanh xám, lớp nhung mượt mà mềm mại và sạch như mi mắt cô gái Châu
Âu. Bộ sofa kê theo hình chữ U, chiếc dài ba chỗ ngồi là đáy chữ U và đối diện
là hai chiếc đơn.
Bộ sofa đi vào ký ức Khiêu từ lúc ba tuổi. Đó là đầu những
năm sáu mươi, trong nhà có hai chiếc ghế đệm cũ bọc nhung kẻ đỏ, lò-xo bên
trong đã hỏng, làm rách vải lót, đội lớp nhung không lấy gì làm dày lắm, mặt ghế
lồi lõm, mấp mô, hễ có người ngồi vào lại kêu cót két. Cứ mỗi lần cô bé Khiêu vất
vả leo lên cái ghế cũ lại cảm thấy như có bàn tay đấm vào mông, lò-xo thúc vào
hai đầu gối và tấm lưng non nớt. Thế nhưng cô bé vẫn thích leo lên cái ghế nệm
cũ, so với cái ghế gỗ cứng thì ngồi trên đó thích thú hơn nhiều, từ bé Khiêu đã
thích ngồi thật thoải mái. Về sau, suốt một thời gian dài, những thứ như sofa
được xếp vào loại đồ dùng của một giai cấp, giai cấp ấy có ảnh hưởng xấu đến
tinh thần và thể xác người khác, như một bệnh dịch hay phong hủi. Phần lớn đít
người Trung Quốc không được tiếp xúc với sofa, trong các gia đình người Trung
Quốc cũng rất ít ghế đệm. Chính vào hồi đó, khoảng đầu những năm bảy mươi, cô
bé Khiêu phát hiện trong nhà có những chiếc gối và lấy ra đặt lên những cái ghế
cứng. Đó là những cái gối trên giưưòng bố mẹ, khi bố mẹ vắng nhà Khiêu lấy ra,
một cho mình và một nữa cho cô em gái Tiểu Phàm. Hai chị em đặt gối lên ghế, rồi
ngồi lên, tha hồ vùng vẫy trên những cái gối giả làm "sofa". Cả hai
chị em tận hưởng sự thích thú không thể mách bảo cho ai khác, hai chị em ngồi
trên "sofa" cắn hạt dưa hoặc ăn táo. Cứ mỗi lần như thế, bé Thuyên lại
sốt ruột vẫy đôi cánh tay, miệng kêu a, a, a... chập chững chạy tới.
Thuyên là em gái của Khiêu và Phàm, năm đó mới hai tuổi. Nó
chập chững chạy tới như muốn được đùa với hai chị đang thích thú trên
"sofa", nhưng hai chị không ngó ngàng gì đến em. Cả hai cùng rất ghét
nó, còn miệt thị về khiếm khuyết của nó - đã hai tuổi mà vẫn chưa biết nói, có
thể bị câm. Bé Thuyên câm nhưng rất xinh, ai trông cũng thấy yêu. Nó rất thích
chơi đùa với mọi người, thành ra từ những người đứng tuổi đến những người mới lớn
đều muốn vỗ về, ôm ấp nó. Trong vòng tay mọi người, nó cứ ngước mái tóc vàng
xoăn tự nhiên, chìa đôi môi đỏ chót, ra hiệu bằng những động tác không biết nó
học được từ bao giờ. Khi đã được người khác cưng nựng, nó đưa bàn tay lên miệng
đòi hôn; nếu có ai làm vẻ giận, nó đưa ngón tay trỏ nhọn xinh như búp măng lên
mà xua xua trước mặt người đó; khi người lớn sắp bỏ đi, nó chỉ lên trời, hai
bàn tay áp vào mà như nói: ôi, trời tối rồi, cháu đi ngủ đây...
Bây giờ thì bé Thuyên đang đứng trước hai chị, đòi hai chị
phải cho nó ngồi lên cùng "sofa" kia với. Nhưng hai chị vẫn không để
ý. Nó thay đổi động tác, bực tức giơ cao ngón tay trỏ như bảo rằng: các chị
không tốt, các chị tồi lắm, các chị nhỏ nhen như ngón nay này thôi, em xem thường
các chị đấy! Nhưng vẫn không ai thèm để ý đến nó, thế là nó bắt đầu đấm ngực,
giẫm chân thực sự. Hai tay nó nắm chặt, đấm liên hồi lên ngực đeo yếm màu kem
có thêu hình chim bồ câu trắng và viền hoa chung quanh, đôi chân nhỏ xinh đi giầy
vải đỏ giẫm bình bịch lên nền nhà láng xi măng. Nước mắt nước mũi trào ra, làm
xấu đi hình ảnh của nó. Nó nằm lăn ra nền nhà, đôi chân đạp vào không trung như
đang đạp một bánh xe vô hình.
Mày tưởng mày có thể làm chúng tao xiêu lòng chăng? Mày sấn
đến thì chúng tao hôn gió - đuổi đi! Mày giơ ngón tay trỏ ra - cứ việc! Mày đấm
ngực giẫm chân - cứ thế mà đấm ngực, mà giẫm chân! Mày nằm lăn ra đất ăn vạ -
nằm đấy, nằm đấy!
Khiêu nheo mắt nhìn bé Thuyên đang lăn lộn dưới đất, một cảm
giác bõ ghét trào lên đầu rồi lan nhanh toàn thân. Một sự cuồng nhiệt băng giá,
điềm tĩnh xốn xang. Khiêu nhắm mắt vờ ngủ. Phàm ở ghế bên cạnh cũng nhắm mắt
như chị, nó luôn phục tùng chị một cách tự nhiên. Phàm cũng chẳng ưa gì bé
Thuyên, bé Thuyên ra đời làm nó mất đi vị trí được cưng chiều, bé Thuyên đã thay
vào vị trí ấy. Bởi vậy Phàm không thích, cũng như tất cả các vị lãnh tụ trên thế
gian đều dè chừng và ghen ghét người kế vị.
Khi cả hai đã tỉnh lại sau giấc ngủ giả vờ thì không còn thấy
bé Thuyên đâu nữa, nó biến mất, nó đã chết.
Ký ức trên đây có thể là thật, cũng có thể là do ký ức của
Khiêu đã được sửa chữa. Nếu ký ức con người có thể sửa chữa ít nhiều thì sự thiếu
tin cậy của con người không phải là điều sai trái của riêng Khiêu. Bé Thuyên chết
sau hôm nó đấm ngực, giẫm chân đúng sáu ngày. Có thể vì thế mà Khiêu và Phàm mới
khỏi bối rối: bé Thuyên từ giã cõi đời chỉ sau lúc hai chúng mình giả vờ ngủ,
như một giấc mộng vậy. Chúng mình không ra khỏi nhà, cái gối kê dưới đít có thể
chứng minh điều đó. Thế rồi đã xảy ra chuyện gì? Không xảy ra chuyện gì sất,
không bày đặt không mưu mô, không hành động. Ô, mình như kẻ hèn yếu, độc địa như
một con rắn! Khiêu tin vào điều như đã lựa chọn, điều không muốn tin chỉ là giả
thiết không tồn tại. Sự việc giấu kín trong lòng và Khiêu chưa bao giờ vứt bỏ
nó.
Cả hai ngồi lên chiếc sofa dài, khi Khiêu và Phàm nói chuyện
với nhau đều ngồi trên hai chiếc đơn đặt đối diện. Hơn hai mươi năm qua bé
Thuyên vẫn tồn tại, nó ngồi trên chiếc sofa dài, chiếc sofa như để dành riêng
cho nó. Nó vẫn cao như năm lên hai, chỉ sáu mươi phân thôi. Nhưng tỉ lệ giữa đầu
và thân thể không phải là 4/1, nghĩa là thân thể dài gấp bốn lần cái đầu, tỉ lệ
thân thể và đầu nó là 7/1, hoàn toàn như một người lớn, trông nó không giống một
bé gái hai tuổi, nó như một cô gái thu nhỏ. Nó mặc một cái váy áo ngủ đeo dải,
may bằng lụa màu kem, hai đùi kẹp chặt, chốc chốc nó lại đưa ngón tay lên ấn ấn
vào khuôn mặt bóng bẩy mềm mại, ngón tay trỏ thon hình búp măng, uốn cong tựa
cánh hoa lan, trông như đang gãi đầu. Nó như một đóa hoa kiêu sa - Khiêu nghĩ
như vậy. Không rõ vì sao Khiêu lại dùng cách gọi đã lỗi thời ấy để hình dung bé
Thuyên? Bởi không muốn dùng những từ ngữ thông thường như "con ong bé nhỏ".
Hoa kiêu sa tuy hàm nghĩa ấm áp, nghịch ngợm, phù phiếm và không thanh khiết
nhưng năm bé Thuyên mất đi đã dọng lại sắc màu lãng mạn, thần bí và mông lung để
đến tận bây giờ không có một lời nào có thể thay thế. Nó là đứa con gái bi
thương, ngạo đời mà không phải kẻ dựa dẫm vào quyền thế giản đơn, không xứng
đáng để đạt tới đích riêng. Người đời mãi mãi không thể hiểu được cái hoang vu
lạnh lẽo thăm thẳm phía sau cái chói lòa và nhiệt tình của nó.
Cuộc đời hoa rơi nước chảy ơi, bé Doãn Tiểu Thuyên như đóa hoa kiêu sa!
CHƯƠNG MỘT
Kiểm tra trước hôn nhân
1. Nắng tỉnh lẻ và nắng ở thủ đô kỳ thực chẳng khác gì nhau. Một
ngày đầu xuân ấm áp nhưng vẫn còn vương vấn hơi lạnh, nắng tỉnh lẻ và nắng ở thủ
đô giống nhau, đều rất quý. Những ngày đó, lò sưởi trong các văn phòng, khu
chung cư và nhà dân đã tắt, ban ngày trong nhà lạnh hơn ngoài trời. Vào mùa
này, các khớp xương và cơ bắp Khiêu thường hay nhức mỏi. Có lúc đang đi ngoài
phố bắp đùi bỗng tê nhức, khớp xương hai bên chân buốt như kim châm. Cái đau thật
khó chịu, nhưng là khó chịu dịu nhẹ, đau nhẹ như nũng nịu, như tiếng kêu se sẽ
ngất ngây dưới nắng. Hàng dương hai bên đường lá đã xanh, sắc xanh non uốn lượn
bên những tòa cao ốc nhạt màu, hiện rõ cái mềm mại và xốn xang của một thành phố.
Khiêu ngồi trên xe taxi tỉnh lẻ, hạ kính vươn đầu ra, dường
như để xem nhiệt độ ngoài trời, lại như để ánh nắng đang chan hòa khắp nơi chiếu
lên mái tóc cắt ngắn của mình. Tư thế Khiêu vươn ra ngoài cửa xe có chút gì đó
tự nhiên thoải mái, quá đi một chút sẽ trở nên khó coi. Nhưng Khiêu không quá,
từ thủa bé không ai dạy, Khiêu đã biết giữ chừng mực, bởi thế lúc này cô đưa đầu
ra ngoài cũng rất tự nhiên và trang nhã. Tấm kính cửa xe tì dưới cằm như mũi
dao uốn cong sáng loáng kề cổ, cảm giác như đang dưới máy chém. Một cảnh tượng
đẫm máu, mang sắc thái lẫm liệt bất khuất, là câu chuyện về Lưu Hồ Lan đã hằn
sâu trong ký ức Khiêu từ thời nhỏ. Mỗi lần nghĩ đến Lưu Hồ Lan bị bọn Quốc Dân đảng chém đầu thì trong cổ họng của Khiêu như có tiếng kêu ừng ực. Một nỗi khủng
khiếp không thể diễn tả bằng lời, một cảm giác sung sướng không thể hình dung.
Những lúc ấy Khiêu thường tự hỏi, tại sao điều sợ hãi nhất cũng là điều thu hút
người ta nhất? Khiêu không thể phân biệt bởi khát khao trở thành anh hùng mà
người ta nằm dưới máy chém hay vì càng sợ hãi càng muốn nằm dưới máy chém?
Khiêu không thể hiểu nổi.
Chiếc taxi chạy trên đường phố đầy nắng, nắng tỉnh lẻ kỳ thực
chẳng khác gì nắng ở thủ đô. Khiêu nghĩ vây.
Nhưng nắng ở thủ đô cũng khác nắng ở tỉnh lẻ. Khiêu lại nghĩ.
Lúc này ở thành phố Phúc An, tỉnh lỵ của tỉnh, chỉ cách Bắc
Kinh hai trăm cây số, bụi bặm và những sợi tơ trong trắng, vẻ mặt con người và
hình hài vật thẻ, không hiểu tại sao lại khác với thủ đô? Khi đến ngã tư,
Khiêu bắt đầu nhìn kỹ những người đi xe đạp đang dừng lại trước đèn đỏ. Một cô
gái mảnh mai, khuôn mặt xinh xắn, mái tóc nhuộm vàng, mặc đồ đen, đi giày đen
làm Khiêu nhớ đến những cô gái mặc đò đen đã gặp ở Tel Aviv, New York và Seoul.
Những mốt nào đang thịnh hành tại đâu. Cô gái tỉnh lẻ ngồi trên yên xe đạp,
chân chống mặt đường, vừa giơ cánh tay nhìn đồng hồ với vẻ sốt ruột, vừa nhổ xuống
đất. Cô gái xem đồng hồ, nhổ xuống đất, nhổ xuống đất rồi nhìn đồng hồ. Khiêu
đoán chắc cô gái này đang có việc vội, thời gian với cô ta thật quan trọng.
Nhưng sao cô ta lại khạc nhổ xuống đất? Cô gái có đồng hồ. Cô gái có đồng hồ.
Cô cần gì phải nhổ xuống đất. Cô gái nhổ xuống đất còn nhìn đồng hồ làm gì. Cô
gái đã học biết sống theo thời gian, cô ta cũng nên học biết cách kiềm chế khạc
nhổ. Cô gái có đồng hồ thì đừng nên có đờm. Mà đã khạc nhổ thì đừng nên có đồng
hồ. Đã có đồng hồ thì tuyệt nhiên không nên khạc nhổ. Đã khạc nhổ thì đừng nên
có đồng hồ. Đã có đồng hồ... đã khạc nhổ... đã có đồng hồ.. đã khạc nhổ... Đèn
đỏ chuyển sang màu xanh. Cô gái mặc đồ đen vút đi như tên bắn, còn Khiêu vẫn quẩn
quanh với ý nghĩ đồng hồ và khạc nhổ. Khiêu cứ vướng bận với ý nghĩa cực đoan
phải thế này phải thế nọ, khiến người ta cho rằng Khiêu sắp lớn tiếng gào trên
đường phố. Nhưng sự vướng bận cực đoan không thế này phải thế kia của Khiêu lại
không phải là điều bực bội thực sự. Giá như Khiêu phải nhắc lại mười lăm lần
câu "đã có đồng hồ thì không khạc nhổ xuống đất" kết quả sẽ không thể
hiểu nổi ý nghĩa của nó. Vậy điều vướng bận không có ý bực tức chỉ là những lời
nói liến thoắng không liên quan gì đến nhau, là chuyện thời đại cái đồng hồ và
khạc nhổ xuống đất cùng tồn tại, nhất là ở một tỉnh lẻ.
Khiêu rụt đầu vào trong xe. Máy thu thanh trong xe đang phát
một bìa hát cũ: Nắng trên đỉnh núi vàng Bắc Kinh tỏa bốn phương, Mao Chủ
tịch là mặt trời trên đỉnh núi vàng kia, ấm áp và hiền hòa soi sáng lòng nông
nô chúng ta, chúng ta mạnh bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hạnh phúc...
Hây, hây a dô! Đó là tiết mục thi tìm hiểu có thưởng của buổi phát thanh
ca nhạc đài địa phương, người dẫn chương trình mời bạn nghe đài đoán xem tên
bài hát và ca sĩ đang thể hiện, đoán đúng sẽ được thưởng một lọ kem dưỡng da hiệu
SOD nổi tiếng. Người nghe liên tiếp gọi điện về đài, nói tiếng phổ thông với giọng
Phúc An, đoán mãi nhưng không ai đoán đúng. Bài hát và ca sĩ thật xa lạ với người
nghe ngày nay, xa lạ đến mức ngay cả người dẫn chương trình của đài cũng thấy bỡ
ngỡ. Khiêu biết rõ tên bài hát và cả tên người đang thể hiện, vô hình trung cô
cũng bị hút vào cuộc thi, tuy không có ý định gọi điện thoại về đài mà chỉ lẩm
nhẩm hát đi hát lại câu cuối cùng: Hây, hây à dô!... Hây, hây à dô!...
Hây, hây à dô!... Hơn hai mươi năm trước, Khiêu cùng bạn học khi hát bài
này rất khoái câu cuối cùng: Hây, hây à dô!... Đó là bài hát của
nông nô Tây Tạng vươn mình ca ngợi Mao Trạch Đông, hiển nhiên lời Hây a dô không
phải tiếng Hán. Bởi không phải là tiếng Hán nên thời đó Khiêu thích hát đi hát
lại do có một chút tình cảm mơ hồ về giải phóng, hát như người tụng kinh, chỉ
ba hoa liến thoắng thế thôi. Nghĩ đến ba hoa liến thoắng nên Khiêu bực mình
không nhắc lại câu Hây, hây a dô. Khiêu trở lại với hiện tại trở lại với
chiếc taxi tỉnh lẻ. Tiết mục ca nhạc của đài bỗng ngừng, trong xe trở nên yên
tĩnh. Đệm ghế của xe được bọc một lớp vải hoa không lấy gì làm sạch sẽ, trông
như đế giày vải khâu tay của các cô gái thôn quê miền Bắc hồi trước. Mỗi lần ngồi
vào những taxi như thế, Khiêu có cảm giác ngồi lên sập đắp bằng đất. Tỉnh lẻ mà! Khiêu than thở. Tuy đã sống ở cái thành phố này hơn 20 năm nhưng Khiêu vẫn có
thói quen so sánh những gì ở đây với thủ đô. Dẫu là khoảng cách tâm lí hay là địa
lý thì Bắc Kinh vẫn gần Khiêu, gần lắm. Điều này bởi Khiêu sinh ra ở Bắc Kinh,
là người Bắc Kinh, nhưng phần lớn thời gian không cảm thấy mình là người Bắc
Kinh, mà cũng không phải là người Phúc An. Có lúc Khiêu như hờn dỗi, như vui mừng
nghĩ mình không là người ở đâu. Dường như Khiêu cố tình để mình không chốn trở
về, không chốn trở về mới làm Khiêu cao hơn hẳn thành phố này, khiến Khiêu bình
tâm, cố ý đối lập với thành phố và cuộc sống. Nghĩ đến bình tâm có thể Khiêu mới
cảm thấy mình ngồi trong xe này cũng không bình tâm, có thể vì Khiêu sắp kết
hôn.
Khiêu chưa một lần kết hôn - nghe ra có phần lạ, hình như những
người ở độ tuổi này mà chuẩn bị kết hôn thì đã kết hôn nhiều lần rồi. Nhưng
Khiêu thì chưa một lần - Khiêu vẫn nghĩ như vậy. Không có ý khen , không có ý
chê, có lúc thấy tự hào có lúc oán trách. Khiêu biết mình không như người gần bốn
mươi, ánh mắt Khiêu có lúc vô cớ mờ ảo đẫm nước; cơ thể vẫn khỏe mạnh, nhanh
nhẹn, giữ được tỉnh táo của người con gai chưa chồng chưa một lần chửa đẻ.
Trong ngăn kéo phòng làm việc của Khiêu thường có những thứ lặt vặt như ô mai,
khô cá, sôcôla, hạnh nhân. Là Phó giám đốc một nhà xuất bản sách thiếu nhi của Phúc An, bạn bè không ai gọi Khiêu bằng chức vụ mà vân gọi bằng tên Khiêu. Nhiều
lúc Khiêu tỏ ra rất vui, nhưng người không chịu nổi cái vẻ vui mừng của Khiêu lại
là cô em gái Tiểu Phàm, nhất là từ sau khi Phàm đi Mỹ thì điều ấy càng rõ hơn.
Từ lâu Khiêu rất sợ phải nói chuyện tình yêu của mình với Phàm, nhưng càng sợ
thì mỗi lần yêu ai đó Khiêu không thể không kể với em gái. Dường như Khiêu muốn
lấy đấy để chứng minh rằng mình chẳng sợ, có thẻ chịu được mọi điều mà em gái
gây ra cho tình yêu của mình. Ngay lúc này, trong ý nghĩ của Khiêu như muốn giấu
giếm, lại muốn khoe khoang, cô tưởng chừng như đã cầm điện thoại lên, đã trông
thấy Phàm ở đầu kia đường dây, tận Chicago,với vẻ mặt thiểu não. Lại cả cái giọng
mũi của cô ta nữa chứ ! Hai chị em Khiêu và Phàm cùng chung hoạn nạn, đồng tâm,
đồng đức, nhưng điều gì lám cho Phàm xem thường cuộc sống của chị gái như thế ?
Đúng là xem thường, từ trang phục từ kiểu tóc, người đàn ông trong cuộc sống của
Khiêu, không một thứ gì là không bị Phàm chế giễu và bài bác, thậm chí cả buồng
tắm của Khiêu cũng gây sự bất bình cho Phàm. Năm đó, cô ta về nước thăm thân, cứ
phàn nàn mãi bình nước nóng của chị chảy yếu quá, làm cô ta gội đầu không sạch,
hỏng mái tóc dài quý báu của cô ta. Phàm ôm mặt mà phàn nàn, phàn nàn thật sự.
Còn Khiêu thì không vui, cứ cười gượng, Khiêu vẫn nhớ mình đã cười gượng như thế
nào.
Có thể Khiêu không nói với em gái.
Taxi đưa Khiêu đến siêu thị Ức Khắc Long, cô mua đủ thức ăn
cho một tuần rồi thuê xe về nhà.
Trong nhà lò sưởi đã tắt có phần lạnh, nhưng không buốt lạnh
như mùa đông. Không phải cái lạnh đặc quánh không gian mà chỉ phảng phất mơ hồ.
Vào mùa này những buổi tối như thế này, Khiêu rất thích bật hết đèn trong nhà,
bắt đầu từ hành lang, bếp, đến phòng làm việc, phòng ngủ, nhà vệ sinh... tất cả
đèn, đèn trần, đèn tường , đèn bàn, đèn cây, đền trước gương, đèn đâu giường...
Tay Khiêu lần lượt bật tanh tách, chỉ có chủ nhân của căn hộ mới bật quen và
chuẩn xác đến vậy. Khiêu là chủ nhân của căn hộ này, bằng cách bật hết đèn để
chào căn hộ những ngọn đèn cùgn ánh sáng cũng vui mừng đón Khiêu trở về. Ánh
sáng chiếu vào mỗi đồ dùng, mỗi bóng đen mờ ảo đều làm Khiêu cảm thấy thân thiết
tin cậy. Khiêu đi hêt các phòng , cuối cùng cô khoanh mình vào một góc, trên
chiếc sofa đơn màu xanh xám, cái góc Khiêu vẫn thích ngồi mỗi khi thức . Mỗi lần
đi đâu về, hết giờ làm việc hoặc đi công tác xa về, Khiêu đều ngồi lặng một lúc
trên chiếc sofa này , uống một cốc nước lọc, nghỉ ngơi cho đến khi cơ thể thư
giãn và tinh thần hoàn toàn sảng khoái . Khiêu không ngồi trên chiéc sofa dài,
ngay cả khi Trần Tại ôm Khiêu vào lòng, muốn Khiêu bị thật thoải mái nằm trên
đó, Khiêu cũng nhất quyết không chịu. Lúc cần lắm, Khiêu nói chúng ta lên giường
đi anh !
Đó là câu nói mà Trần Tại không thể quên , bởi trước đó hai
người chưa hề lên giường cho dù họ quen nhau cả chục năm, hiểu rõ về nhau. Về
sau, mỗi lúc hai người tranh cãi ai " gợi dẫn" trước, Trần Tại nhắc lại
câu nói của Khiêu : "Chúng ta lên giường", câu nói thẳng thắn bấtn gờ
không mang sắc thái nhục dục cố hữu khiến Trần Tại một vạn lần nghĩ , vào giờ
phút ấy anh ôm trong vòng tay người con gái mềm nhũn như không xương, tình yêu
suốt đời của anh. Tưởng như vì câu nói ấy mà suốt buổi tối họ không làm được việc
gì khác.
Tối nay Trần Tại không có nhà, anh đi công tác miền nam.
Khiêu ăn tối xong, ngồi trên sofa đọc bản thảo một cuốn sách, rồi đi tắm và lên
giường. Khiêu thích chui vào chăn sớm, muốn chui vào chăn nằm chờ điện thoại của
Trần Tại. Khiêu rất thích nói "chui vào chăn". Cô không quen với
khách sạn ,nhà hàng và cách ngủ của người nước ngoài : chân chăn gài vào nệm,
cho chân vào, một cảm giác trống trải, chênh vênh. Khiêu cũng không thích chăn
lông vũ hoặc bông xốp, bông hoá học cứ nhẹ bẫng trên người nhưng lại gây cho
người ta cảm giác mệt mỏi. Khieu rất thích đắp chăn bông vải, chăn bông vải có
nhiều ưu điểm, đắp lên người chắc nịch, thích những góc ấm khác nhau của chăn
bông vải, khi quá khó ngủ, đôi chân lại tìm kẽ hở lành lạnh phía dưới. Khi cần
quấn vào người, cái chăn vẫn có thể ôm chặt cơ thể không như những cái chăn gài
chặt vào nệm, không thể nào quấn được mà chỉ có thể chiều theo ý nó. Bởi thế,
muốn cho tư thế ngủ thật thoải mái cần phải thế nào ? Khiêu nghĩ. Mỗi lần đi
công tác hoặc ra nước ngoài Khiêu đều cố tình xới tung chăn đệm. Chăn bông làm
Khiêu ngủ ngon. Mỗi lần có chuyện không vui Khiêu thường thức giấc lúc nửa đêm.
Khiêu bật đèn, loạng choạng từ nhà vêj sinh ra, tắt đèn nằm lại vào chăn, những
lúc đó Khiêu mới cảm thấy như nắm bắtđược nỗi cô đơn, vô vị. Khiêu lại nghĩ vẩn
vơ, mà đã thức vào lúc nửa đêm lại nghĩ đến chuyện không vui. Khiêu không muốn
thức vào lúc nửa đêm. Kể từ sau ngày có Tràn tại, Khiêu mới không thấy sợ phải
một mình thức dậy lúc nửa đêm.
Khiêu cuộn tròn mình trong tấm chăn nằm chờ điện thoại của
Tràn Tại. Anh hôn Khiêu qua điện thoại, hai người nói chuyện rất lâu. Gác máy rồi
Khiêu mới thấy mình không buồn nữa. Tối nay Trần Tại ở một nơi xa tỉnh Phúc An,
Khiêu muốn đọc lại ngững lá thư tình cất giữ trong tủ nhiều năm nay. Không phải
là thư của Trần Tại, từ lâu rồi Khiêu không còn yêu người viết thư kia nữa.
Khieu muốn đọc lại không phải vì nhớ chuyện cũ hoặc có ý nhìn nhận lại mối tình
xưa, có lẽ vì trân trọng những dòng chữ viết bằng tay mà thôi. Ngày nay, không
còn mấy ai viết thư bằng tay, nhất là thư tình.
2
Tất cả sau mươi tám lá thư, lá thư nào cũng được Khiêu đánh số
thứ tự theo ngày tháng. Cô giở lá thư thứ nhất, mép giấy đã ngả vàng. Đồng
chí Khiêu, gặp nhau vội vàng ở Bắc Kinh, đồng chí để lại cho tôi một ấn tượng hết
sức sâu sắc. Tôi dự cảm, chúng ta sẽ còn có dịp gặp nhau. Lúc này tôi đang ngồi
trên máy bay viết thư cho đồng chí, hôm nay đến Thượng Hải, ngày mai sẽ bay đi
Francisco. Đồng chí đề nghị tôi viết truyện thời niên thiếu, tôi sẽ suy nghĩ
kĩ, bới đó là yêu cầu của đồng chí. Phương Kăng. Thời gian là tháng 3 năm 1982.
Nói đúng ra đó là một mảnh giấy hơn là một lá thư. Chứ rất lớn,
nghiêng ngả, thưa thớt trên trang giấy khổ nhỏ, những con chữ như giương cặp mắt
khờ khạo nhìn người đọc. Dúng ra, đó không phải lả một lá thư tình, nhưng hồi ấy
nó lay động tâm hồn Khiêu còn mạnh mẽ hơn những thư tình thật sự sau này anh ta
viết.
Phương Kăng, người viết thư hồi đó là một nhân vật nổi tiếng
trong giới điện ảnh, anh tự biên kịch, tự đạo diễn, vào vai chính trong bộ
phim Cuộc đời tươi đẹp được chiếu không biết bao nhiêu lần tại các rạp
chiếu phim trong cả nước, lại còn được mấy giải thưởng lớn nữa. Bộ phim miêu tả
một trí thức ở độ tuổi trung niên trải qua những năm tháng bị hành hạ phi nhân,
nhưng vẫn sống rất lạc quan. Phương Kăng sắm vai người trí thức bị đưa đi cải tạo
lao động ở một nông trường tận trên biên giới. Anh ta là một nhạc sĩ biểu diễn
violon, lao động cải tạo đã cắt đứt mối duyên nợ của anh với cây đàn. Trong
phim có cảnh nhân vật chính sau một buổi lao động vất vả, ăn đói, khi đứng thẳng
trên ruộng lúa mì, chợt trông thấy ánh chiều rực rỡ nơi xa, bất giác anh ta nầng
cao tay. Anh ta nâng cánh tay phải lên làm đàn, tay trái nhấn trên cánh tay phải,
những ngón tay nhảy nhót tựa như người đang chơi đàn. Màn ảnh có cảnh đặc tả, nhân
vật chính gầy gò, cánh tay đầy sẹo và bàn tay biến dạng kì quái. Cái cánh tay
giả làm cây đàn và cánh tay vờ kéo đàn gây xúc động người xem, mỗi lần xem đến
đây Khiêu đều không cầm nổi nước mắt. Khiêu tin rằng đó không phải là cảnh biểu
diễn mà là những năm tháng Phương Kăng phải chịu đựng. Những cảnh như thế trên
phim ảnh ngày nay có thể bị coi là không thật, nhưng thời đó, thời mà con người
bị ức chế quá lâu, nó rất dễ làm người xem phải xúc động đến rơi nước mắt.
Khiêu không nghĩ rằng mình được gặp Phương Kăng. Hồi đó cô mới
tốt nghiệp đại học, mới vào làm ở nhà xuất bản sách thiếu nhi của thành phố
Phúc An nhờ mối quen biết. Như tất cả những người trẻ tuổi tôn sùng người nổi
tiếng, Khiêu cùng bạn học và đồng nghiệp sôi nổi bàn luận về bộ phim Cuộc
đời tươi đẹp và bản thân Phương Kăng, tìm đọc các bài viết về Phương Kăng
đăng trên các báo và tạp chí, đồng thời kháo nhau về xuất than của anh ta, hiện
nay anh ta đang sáng tác gì, anh đang đem phim đi dự thi ở nước nào và được giải
thưởng gì, thậm chí người anh ta cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu... Khiêu đều biết
rõ. Khiêu quen anh ta trong một trường hợp ngẫu nhiên. Lần ấy, Khiêu lên Bắc
Kinh đặt bài, gặp lại một bạn học thời sinh viên, cô bạn này có bố làm ở Hội Điện
ảnh, bởi thế biết rất nhiều chuyện của giới điện ảnh. Cô bạn mách với Khiêu, hội
điện ảnh sắp có buổi hội thảo, cô sẽ đưa Khiêu đến dự.
Hôm hội thảo, Khiêu được bạn đưa vào hội trường, cả hai cùng
ngồi một góc. Buổi hội thảo hôm đó nói những gì Khiêu không còn nhớ, chỉ biết
Phương Kăng trẻ hơn trên màn ảnh, nói giọng miền nam. Tiếng anh ta nghe sang sảng
khi cười thường ngả về phía sau, tỏ ra rất tự nhiên, thoải mái. Còn nhớ, tay
anh ta cầm cái tẩu thuốc, khi hứng lên cứ khua khua cái tẩu trong không trung,
có người coi đó là vẻ tự nhiên, lịch sự. Chung quanh anh toàn là những trai
thanh gái lịch. Khi hội thảo kết thúc đám người này ào lên đưa sổ tay xin chữ
kí của anh. Cô bạn kéo tay Khiêu định ào lên cùng những người kia, Khiêu cũng đứng
lên nhưng lại lùi về phía sau theo bản năng. Cô bạn đành buông Khiêu ravà một
mình chen lên. Kì thực, cuốn sổ trong tay Khiêu cũng đã lật sang trang trắng
chuẩn bị đưa cho Phương Kăng kí. Nhưng rồi Khiêu xếp lại, lùi về phia sau, có
thể là nhút nhát, có thể là kiêu căng vốn có trong cốt tuỷ chẳng hiểu vì sao
chúng đến không đúng lúc đã trì kéo Khiêu lại. Dù rằng Khiêu rất bé nhỏ trước
anh ta, nhưng cô cũng không muốn ngốc nghếch chạy theo xin chữ kí một người nổi
tiếng. Khiêu lùi lại, song cũng rất tiếc đã bỏ lỡ một dịp may. Lúc đó, giữa
xoáy người, Phương Kăng lại giơ cánh tay dài như tay vượn về phía Khiêu, nói:
Nào, cô em! Rồi anh ta rẽ đám đông tiến đến trước Khiêu.
Anh ta đến trước mặt Khiêu, đón lấy cuốn sổ và kí lên đấy.
Bây giờ thì cô em bằng lòng rồi chứ? Anh ta như hạ cố nhìn thẳng
vào mắt Khiêu mà nói.
Cảm ơn chú, chú Phương Kăng! Bỗng nhiên Khiêu xúc động, quên
hết và trở nên mạnh dạn. Nhưng sao chú biết cháu muốn xin chữ kí? Khiêu cũng
nhìn thẳng vào mắt anh ta.
Thế em muốn gì nhỉ? Anh ta không hiểu.
Cháu muốn... thế này, cháu muốn đặt chú viết. Thế là Khiêu tự
tách mình ra khỏi những người xin chữ kí, với một vẻ trịnh trọng ấu trĩ, vừa
vui vừa như thách thức nói với Phương Kăng.
Bây giờ thì chúng ta đổi chỗ cho nhau nhé - rồi anh ta lấy từ
trong túi ra một cái phong bì nhàu nát - Tôi muốn xin em một chữ kí có được
không? Anh ta đưa cái bì thư đến trước mặt Khiêu.
Khiêu thật sự ngượng, nhưng cũng kí tên mình lên đó và ghi rõ
địa chỉ nhà xuất bản cùng sô điện thoại theo yêu cầu của Phương Kăng. Không bỏ
lỡ thời cơ, Khiêu nói với Phương Kăng về kế hoạch đặt bản thảo cho dù kế hoạch
mới phác ra trong vài phút trước đó. Khiêu nói đã đăng kí đề tài này và đã được
nhà xuất bản đồng ý, Khiêu chuẩn bị ra một bộ truyện danh nhân, bao gồm nhà
khoa học, nghệ sĩ, nhà văn, học giả, đạo diễn, giáo sư,... cho đối tượng học
sinh từ lớp bốn đến trung học cơ sở. Tác phẩm và cuộc đời chìm nổi của Phương
Kăng rất nổi tiếng trong xã hội, nếu viết một cuốn tự truyện bắt đầu từ thời
niên thiếu nhất định sẽ được các em hoan nghênh, đồng thời rất có ích cho xã hội.
Khiêu vừa nói nhanh, vừa cảm thấy ngương vì những lời ba hoa thiếu trách nhiệm.
Càng ngượng Khiêu càng làm như thật, nói đau vào đấy. Càng nói càng như thật,
đúng thế, Khiêu rất muốn Phương Kăng từ chối trong khi mình đang thao thao bất
tuyệt, như vậy Khiêu được giải thoát, sẽ như chưa có chuyện gì xảy ra. Mọi chuyện
vốn chưa hề xảy ra, một người nổi danh và một biên tập viên bình thường của một
nhà xuất bản tỉnh lẻ. Nhưng Phương Kăng không ngắt lời Khiêu và cũng không từ
chối mà bởi mấy phóng viên truyền hình đã cắt ngang câu chuyên, kéo anh ta ra
phỏng vấn tại chỗ.
Sau lần hội thảo ít lâu, Khiêu nhận được thư này của Phương
Kăng viết trên máy bay. Khiêu đọc nó không biết bao nhiêu lần, nghiên cứu, nghiền
ngẫm, trăn trở với những câu chữ như có nghĩa và như vô nghĩa ấy. Tại sao anh
ta lại phải viết trên máy bay? Tại sao anh ta phải nói với một người còn xa lạ
về hành tung của mình như đi Thượng Hải, San Francisco? Trong ý niệm của Khiêu
những gì thuộc về danh nhân đều rất thần bí, bao gồm cả hành tung của họ. Vì
sao anh ta phải suy nghĩ cẩn thận về việc mình đặt bản thảo? Điều đó có hợp lẽ
thường tình không nhỉ? Khiêu cứ trăn trở mãi, không sao nghĩ thấu đáo, càng
không thể không nghĩ sâu, cô cứ để vị ngọt dâng lên chiếm lòng mình. Ít nhất,
cái háo danh của Khiêu được thoả mãn một cách bất ngờ, công việc mở đầu thật
may mắn. Cô phải trân trọng cái ba hoa và kế hoạch đặt bài, cô phải báo cáo đề
tài khả thi, rất chặt chẽ, có sức thuyết phục với trưởng phòng biên tập và
tranh thủ để nhà xuất bản duyệt đề tài, bởi danh nhân đã nhận lời viết, tất cả
như thật vậy.
Ít hôm sau, Khiêu lại nhân được của Phương Kăng lá thư thứ
hai viết từ San Francisco. Lá thư được Khiêu đánh số hai.
Khiêu em,
Anh bỏ hai chữ "đồng chí", em bằng lòng chứ?Rất lạ,
tại sao anh lại liên tiếp viết thư cho em, viết thư cho một cô bé không thèm
xin chữ kí của anh. Khi một đàn gái đẹp chạy ùa đến anh thì em lùi lạ. Hãy thứ
lỗi cho anh vì đã dùng một câu khiếm nhã mà anh tự cảm thấy đó là một lời nói tốt
đẹp. Nhưng quả là bọn con gái ấy đổ xô đến anh, trong hai năm vừa rồi đương
nhiên anh đã được hưởng, nửa thật nửa giả, nửa từ chối nửa đón nhận. Lúc em xuất
hiên, lạnh lung xiết bao, thật khó hiểu. Bây giờ anh đang ở bờ biển phia Tây nước
Mĩ cách xa vạn dặm, trước mắt anh luôn chập chờn hình bóng em hôm đó, anh không
dám nhìn thẳng vào đôi mắt như vực thẳm, đôi môi thần bí mím chặt của em. Anh
nghĩ, em không phải là con người hiện ra trước mắt anh mà là một sức mạnh thần
linh.
Khi anh đi Mĩ, không biết ma sai quỷ khiến thế nào anh lại
mang theo một tấm bản đồ Trung Quốc. Tưởng như anh là một người yêu nước, một
người theo chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt. Về sau anh mới phát hiện ra rằng, anh
đã đem theo cả thành phố Phúc An trên bản đồ Trung Quốc, thành phố của em, nơi
em đang ở. Trên bản đồ nó chỉ nhỏ như hạt tấm, ngón tay anh cứ mân mê trên đó -
hạt tấm nhỏ, tựa như...tựa như...anh nghĩ, tuy chỉ một lần gặp mặt, kì thực
chúng ta không cách xa nhau, chỉ hai trăm kilomet. Biết đâu anh sẽ có ngày đến
thăm em ở thành phố của em. Em có thấy buồn cười không? Nếu em thấy bất tiện có
thể không gặp anh nữa, anh sẽ đứng dưới cửa sổ nhà em chỉ một lát là đủ. Ngoài
ra, anh đã suy nghĩ kĩ, đề tài em chon rất có ý nghĩa, anh quyết định viết cho
em một cuốn sách vào thời gian rỗi sau khi làm phim.
Buổi chiều, anh đi thăm cầu Vàng. Buổi chiều, đứng bên cầu ngằm
nhìn San Francisco, thành phố do con người lấp biển tạo nên, đẹp như giấc mơ, lần
đầu tiên anh có khái niệm rõ ràng về thành phố. Nếu trước đây anh không có cảm
tình hoặc thiên kiến đối với thành phố, thì San Francisco đã thay đổi cách nhìn
của anh, cho anh thấy trí tuệ và sức mạnh của con người đã được phát huy đến cực
điẻm, con người và thành phố là cảnh tượng tráng lệ đã chinh phục lẫn nhau. Anh
chưa hiểu những gì em đã phải trải qua trong cuộc sống, không rõ ở tuổi em biết
gì về bữa ăn Phương Tây. Ở bến tàu Người Cá bán một loại thức ăn rất có ý
nghĩa: bánh mì làm thành hình con sò (cái vỏ sò cũng làm bằng bánh mì) bên
trong là súp bò nóng hổi, thật ra cái bánh mì ấy là một cái bát lớn làm bằng bột
mì. Khi ăn, em bưng cẩn thận cái bát ấy, cắn một miếng bánh rồi húp một ít súp.
Hút hết súp thì cũng là lúc em vừa ăn hết cái bánh. Khi anh đứng trước gió biển
ăn bánh thạt ngon lành, anh lại nhớ đến những năm tháng lao động cải tạo ở nông
trường. Anh nghĩ, dù có vận dụng hết cái lãng mạn trong anh thì cũng không thể
tưởng tượng ra nổi một loại thức ăn đơn giản nhưng lại đặc biệt kì lạ đến thế.
Anh thoáng nghĩ đến em, không hiểu vì sao anh cảm thấy em cũng rất thích ăn.
Dĩ nhiên phần lớn thời gian anh nghĩ đến đất nước chúng mình,
đất nước mình nghèo quá, dân mình phải giàu nhanh lên thì mới có thể đến được bất
cứ thành phô nào trên thế giới, mới thật sự loại bỏ được cái mặc cảm tự ti ăn
sâu trong long chúng ta, cái tự ti luôn xuất hiện dưới hình thức tự mãn mãnh liệt
mà trong anh cũng có... Ôi, anh lại làm mất nhiều thời gian của em quá, còn nhiều
chuyện sẽ kể lại khi gặp em, còn nhiều chuyện anh sẽ kể dần cho em. Anh cảm thấy
sau này chúng ta còn nhiều thời gian, anh và em.
Đã khuya lắm rồi, ngoài cửa sổ vẫn âm vang sóng Thái Bình Dương.
Mong em nhận được và đọc bức thư này. Một tuần nữa anh sẽ về nước, nếu có thể,
em viết thư cho anh được không? Gửi về xưởng phim cũng được. Tất nhiên đó là điều
anh mong muốn.
Chúc em vui vẻ.
Ngày... tháng... năm 1982
Phương Kăng
3
Hồi Khiêu học năm thứ tư đại học ở Bắc Kinh, cô bạn nằm giường
trên, cô bạn đã đưa Khiêu đến dự buổi hội thảo tác phẩm của Khương Kăng, đêm
nào cũng thật khuya mới về kí túc xá, mọi người đều biết cô đang yêu say đắm.
Cô bạn này dung nhan cũng bình thường thôi, nhưng bởi cô đang yêu, đôi mắt sáng
lên khác thường , vẻ mặt cũng thay đổi kì diệu. Một buổi tối cô bạn rón rén trở
về, cô ta vẫn chưa leo lên giường như mọi lần. Tối ấy, Khiêu nằm giường dưới vẫn
chưa ngủ. Khiêu lặng lẽ quan sát cô bạn, thấy cô ta lấy cái gương nhỏ từ ngăn
kéo ra, đứng quay về phía cửa sổ, ngắm nhìn khuôn mặt mình trong gương. Ánh
trâng mờ ảo không làm thoả mãn ý muốn của cô bạn, vậy là cô bạn lại rón rén ra
mở cửa. Ánh đèn vàng vọt ngoài hành lang chiếu lên người, cô bạn đứng dưới ánh
đèn, ngước mặt soi gương. Một khuôn mặt đẹp chắc chắn là nóng đỏ hồng. Cô ta rất
hài lòng với mình. Trong kí túc xá nữ sinh viên đang ngủ say tỏ ra sung mãn và
yên tĩnh hơn bởi cô gái đứng ở cửa, soi gương dưới ánh đèn hành lang. Lúc này,
Khiêu chợt cảm động, không riêng gì vì cô bạn nằm giường trên, tại sao nhỉ?
Lại một đêm khác, cô bạn nằm giường trên trằn trọc không ngủ
đựơc, thò đầu xuông giường dưới, đánh thức Khiêu dậy. Cô bạn xuống giường dưới
nằm cùng với Khiêu, không kìm giữ nổi cô bạn nói chuyện với Khiêu. Cô ta nói,
Khiêu ơi, tớ bảo với cậu nhé, cần phải bảo với cậu, rôt cuộc tớ không còn trinh
nữa rồi. Có một người yêu tớ thật tuyệt vời, cậu không biết được đâu. Cô bạn bảo
Khiêu đoán xem là ai, Khiêu đoán mấy thằng bạn học, côbạn không thèm để ý và
nói, bọn chúng, bọn chúng ấy à? Không bao giờ thèm quan hệ với bọn cùng trường,
bọn chúng là lũ không có tư tưởng, còn cô bạn thì sùng bái những nhân vật có tư
tưởng giải phóng, có sức nhìn thấu suốt xã hội. Đó là những con người đi tiên
phong mở mang khai phá lòng người. Cô bạn yêu một người đi tiên phong, đi tiên
phong giải phóng tư tưởng và than thể đàn bà, biến cô từ một người con gái trở
thành... đàn bà. Đàn bà, cậu hiểu không? Khiêu, cậu có quyền hưởng điều đó lâu
rồi nhưng có điều cậu không biết đấy thôi. Cô bạn nằm giường trên thuật lại quá
trình ăn nằm với người đi tiên phong kia. Cô bạn nói, nếu biết chắc chắn cậu phỉa
giật mình. Cô bạn ngừng một lát dường như để Khiêu sôt ruột. Qủa nhiên, những lời
nói của cô bạn làm Khiêu nóng lòng hỏi đó là ai? Cô bạnnằm giường trên thở dài
thườn thượt, tiếp theo, cô ta nói rất khẽ như sợ người khác bỏ chạy, như dũng
khí nói ra chứ không phải lời nói từ cửa miệng: tác giả Hồ sơ độ không!
Cho đến nay, Khiêu vẫn nhớ như in, hồi hộp của cô bạn khi nói mấy tiếng Hồ
sơ độ không.
Hồ sơ độ không là một tiểu thuyết, có thể coi đólà tác
phẩm tiêu biểu cho dòng "văn học vết thương" rất được giới trẻ hoan
nghênh, tác giả của nó đương nhiên cũng được lớp trẻ kính trọng. Vào thời đó,
người ta rất chân thành và nhiệt tình với tiẻu thuyết và những người viết tiểu
thuyết. Nhiệt tình có lẽ cũng rất ấu trĩ, mỏng manh nhưng rất trong trắng, thật
thà không thể tái hiện. Cô bạn nằm giưòng trên không nghi ngờ được Khiêu hâm mộ,
cô muốn dừng lại, muốn thôi không được, cô cần phải để người khác chia sẻ hạnh
phúc thầm kín của mình. Cô ta nói, nên nhớ, anh ta không phải là người bình thường
mà là một nhà văn đấy nhé, một nhà văn tài hoa xuất chúng đấy! Khiêu, cậu biết
không, bây giờ, cho đến tận bây giờ tớ mới hiểu thế nào là xuất chúng. Cô ta
nói, nhà văn xuất chúng ấy rất tốt với tớ, một đêm tớ không ngủ được, them ăn mứt
hoa quả, tớ đánh thức anh ấy dậy đi mua, anh ta đạp xe đi mua thật, một nhà văn
tài hoa đang đêm đi mua mứt quả cho tớ! Cậu nghe thấy không, Khiêu, cậu vẫn
nghe đấy chứ? Cậu vẫn còn trinh à, cậu vẫn còn trinh hay sao? Cậu cần nó hay là
chịu để thiệt thòi? Cậu không thấy muộn quá sao, hỏng qúa...
Khiêu không hiểu tại sao cô bạn cứ phải đem chuyện mứt hoa quả
với chuyện trinh tiết ra nói, hình như ai giữ trinh tiết thì không được ăn mứt
hoa quả chăng? "Rốt cuộc tớ không còn trinh nữa rồi," hai tiếng
"rốt cuộc" của cô bạn sao ma khó nghe thế, có gì đó lúngtúng và xốc nổi.
Dẫu sao thì cái "rốt cuộc" đó không nên là điều mong đợi cao nhất của
tuổi trẻ cô bạn. Có thể cô ta có phần thổi phồng, khi thời đại này muốn thay thế
thời đại khác đều có phần thổi phồng tất cả, tất cả, từ một thiên tiểu thuyết đến
trinh tiết. Nhưng sự xúc động và phần khích của cô bạn cũng lây lan sang Khiêu.
Khi cô bạn lải nhải chuyện kia thì Khiêu thấy mình giống như một bà nhà quê ngu
dốt, đần độn, thấp kém, chưa được khai hoá, một kẻ khờ dại không theo kịp thời
đại cứ thế tuổi thanh xuân trôi theo dòng nước. Đúng là thời đại giải phóng tư
tưởng, giải phóng, hỡi ôi giải phóng! Trào lưu cuốn theo Khiêu, Khiêu như bị cô
bạn lôi kéo, quở trách , vừa chế nhạo vừa chỉ bảo, toànthân như thẫm đẫm ước vọng
tươi trẻ, nồng nàn. Khiêu cần phải làm gì? Khiêu chưa yêu, trong trường chưa có
một ai đáng chú ý, vậy thì ra ngoài. Một hôm, cô bạn nằm giường trên muốn giới
thiệu cho Khiêu một người, người này tuy không phải là một nhà văn, nhà thơ,
nhưng cách nhà thơ rất gần, một biên tập viên tạp chí thơ. Theo cô bạn, nếu
Khiêu nói chuyện với người ấy sẽ cảm thấy rất thú vị. Cô bạn nói, trong một lần
họp mặt, anh ta đọc cho mọi người nghe một bài thơ có tựa đề Cái đít của
tôi: Cái đít của tôi, cái đít của tôi ơi, sao mi lại ngồi sang phía giai cấp tư
sản?Cái ghế gỗ của giai cấp vô sản ơi, tôi xin cầu khẩn ngươi, cầu khẩn ngươi
hãy nhận lấy cái đít ngu dốt của tôi - dù đó là cái ghế gỗ lạnh lẽo... Khiêu
không cho đó là thơ, có thể tác giả tự mô phỏng những ngườiđiên cuồng phê phán
trong các buổi họp phê đấu trước đây.Cái gọi là thơ đó chỉ làm Khiêu lien tưởng
đến cái đít của mình, nghĩ đến thời lấy trộm gối đầu ra làm sofa ngồi rất thích
thú. Chưa bao giờ Khiêu nghe nói thơ viết về cái đít cả, không phải ai cũng có
hùng khí như Mao Trạch Đông, ông có thể đưa đít vào thơ. Khiêu muốn đi gặp anh
biên tập viên kia như cố đi tìm sự kích thích. Khiêu chỉ là một sinh viên, mà đối
phương lạilà một biên tập viên tạp chí thơ. Địa vị của biên tập viên chỉ thua
kém nhà văn một ít, thua kém chút ít, rất ít thôi.
Một buổi tối lanh, trước cung mĩ thuật, họ gượng gạo bắt tay
nhau, tự giới thiệu rồi đi đi lại lại, cả hai đều mặc áo len dày cộp, quần bò
bó sát người, trông xa như hai con đà điểu dạo chơi. Chưa bao giờ Khiêu hẹn đi
chơi riêng với một người con trai, nhất là với một người "cách nhà thơ rất
gần" như thế. Khi cả hai cùng đi lại gò bó, thiếu tự nhiên, Khiêu phát hiện
ra rằng tất cả thật vô nghĩa. Mình đang làm gì? Mình định đi đâu? Cô bạn nằm
giường trên khi giới thiệu chẳng đã nói rõ anh ta có gia đình rồi đó sao? Thời
trước, khoảng những năm 60, 70 thì có thể là chuyện hoang đường, bây giờ không
thế. Cứ theo quan niệm của cô bạn giường trên, hình như một nữ sinh viên chưa
chồng luôn luôn hẹn hò buổi tối với một anh biên tập viên thì mới chứng tỏ mức
độ cởi mở của thời đại và tự do của trái tim con người. Vào thời điểm này, cô
ta đang thong qua con người Khiêu, giúp cô ta thực thi quan niệm đó. Thật bất hạnh,
trái tim Khiêu lại không cảm thấy tự do, chỉ thấy hết sức căng thẳng, khi trong
lòng căng thẳng thì Khiêu nói huyên thuyên. Khiêu nói về bạn trai và bạn gái
trong lớp, nói chuyện thức ăn ở nhà ăn sinh viên, nói chuyện về thầy giáo dạy
văn cài nhầm cúc áo khi vào lớp... Khiêu thao thao, bối rối, nói như không suy
nghĩ, không tỏ ra thông minh, không hứng thú, không hài hước. Trong long Khiêu
hết sức trống trải, sự trống trải cứ từng hồi từng hồi thức tỉnh Khiêu, việc hẹn
gặp con " đà điểu" đi bên cạnh này thật buồn cười, phải trừng phạt sự
vớ vẩn này của mình bằng câu chuyện huyên thuyên không đâu vào đâu. Khiêu cứ
thao thao, trong lòng thì tràn ngập nỗi lo, bởi cô không có kinh nghiệm, không
biết kết thúc cái buổi gặp gỡ này như thế nào. Thâm chi, Khiêu rât ngu dại cho
rằng, chỉ cân không ngừng nói thì sẽ kết thúc cuộc gặp gỡ này. Khó khăn lắm anh
biên tập viên kia mới nói chen vào đuợc. Lúc này khiêu mới phát hiên ra giọng
nói của anh rất nặng. Khiêu không thích những người con trai có giọng nói nặng
như thế, âm thanh dó khiến cho người nói làm điệu làm bộ cứ như nói chuyện để
luyện cách phát âm. Anh biên tập hỏi, sau khi tốt nghiệp Khiêu có ý định về quê
không - về chỗ các cô, Phúc An ấy mà? Đó là một đô thị cổ nhưng dù sao thì nó
cũng là tỉnh lẻ. Anh ta khuyên Khiêu hãy tranh thủ ở lại Bắc Kinh, đây mới là
trung tâm văn hoá, anh rất hiểu.
Khiêu rất không thiện cảm với cách nói của anh này, tư cách
gì mà anh ta cứ luôn mồm "chỗ các cô", "chỗ các cô"? Cô bạn
nằm giường trên cho biết, anh ta từ vùng cao nguyên đất đỏ Tây Bắc mới tới Bắc
Kinh vài năm nay thôi, thế mà đã vội xem mình như chủ nhân của Bắc Kinh tỏ lòng
thương hại người Phúc An như Khiêu. Khi mà Khiêu ở trong ngõ Bắc Kinh , uống nước
mơ tây, chơi đùa với mèo thì anh ta còn ở tận đẩu tận đâu.
Chuyện cũ, tất cả những chuyện cũ hiện lên, là người của Bắc
Kinh hồi mới đến Phúc An, Khiêu đã phải trải qua bao nhiêu cực khổ. Khiêu có những
uất ức, nhưng cũng có cái tự hào. Khiêu phải cố gắng hoà nhập vào thành phố
kia, có thể Khiêu đã hoà nhập, hoà nhập được mới có đủ tinh lực và năng lượng,
cùng với mấy người bạn thân dũng cảm gìn giữ giọng Bắc Kinh ở cái thành phố cổ
xưa, hết sức bài ngoại. Bắc kinh ơi, Bắc Kinh không thể nào biết được có những
cô gái như thế, những cô gái không lượng nổi sức mình, muốn đem văn minh của Bắc
Kinh đến một thành phố xa lạ. Dù rằng Bắc Kinh không cần những người như thế,
không bao giờ cần như thế nhưng Khiêu và bạn bè vẫn cố chấp tuôn trào cái đam
mê ấy. Con người ở trước mắt đây, con người đã làm gì cho Bắc Kinh mà đã tự cho
mình là người Bắc Kinh. Hơn nữa anh ta nói đến chuyện phân công sau khi tốt
nghiệp làm Khiêu không vui, chẳng nhẽ Khiêu lại đi bàn chuyện riêng với một người
không quen biết - chuyện phân công công tác sau khi tốt nghiệp sao? Tất cả đều
không ra sao. Khiêu giận cách nhìn nhận của cô bạn giường trên, giận mình nhẹ dạ,
Khiêu muốn dùng từ ấy để hình dung bản thân. Khiêu cảm thấy chua xót bởi đã ném
mình không phương hướng. Khiêu cũng đã tỉnh táo không để tuổi thanh xuân của
mình trôi theo dòng nước, cái Khiêu gìn giữ vẫn rất quí, cảm thấy may mắn vì đã
giữ gìn nó. Về rất nhiều phương diện, Khiêu không như cô bạn giường trên, không
theo kịp cô ta, đành chịu "lạc hậu" vậy.
Khiêu đứng chờ tuyến xe buýt cuối cùng, suy nghĩ mỗi lúc một
rõ. Người lên xe rất đông, Khiêu phải chạy nhanh đến chỗ xe đỗ, vừa cười vừa
chào anh biên tập viên. Khiêu cố chen chân lên xe, Khiêu quay lại nói to: nào,
anh đẩy mạnh lên! Anh ta đẩy mạnh Khiêu, cuối cùng cô cũng len vào được trong
xe, cánh cửa xe khép chặt sau lưng.
Đứng trên xe Khiêu cười thầm, nghĩ vừa rồi nhờ anh ta đẩy mạnh
mình mới lên được xe là câu nói cần nhất tối nay. Khiêu còn nghĩ, anh chàng
biên tập viên này là người thật thà. Nhưng cô cũng nhận ra, mình không thích
anh ta cũng như anh ta không thích mình một chút nào vậy thôi.
4
Không phải Khiêu không muốn ttrả lời thư Phương Kăng mà cứ
dung dằng chưa viết, bởi không biết viết gì. Có thể sự việc đến quá bất ngờ, dẫu
sao thì cô cũng không thể xem thư Phương Kăng viết ở San Francisco chỉ là mảnh
giấy. Khiêu chưa bao giờ đọc một lá thư hay như thế, không có lí do gì để nghi
ngờ lòng chân thành của người viết.
Vậy là Khiêu bắt đầu viết. Chú Phương Kăng, chào
chú... Khiêu viết, rồi xé đi, viết lại. Anh ấy lớn quá, mình thì nhỏ bé.
Khiêu thiếu tự tin, e ngại, nhưng làm sao viết được một lá thư trả lời cho
ngang tầm một danh nhân như Phương Kăng? Không, không thể được, Khiêu không đủ
tài để viết một lá thư như thế, mà cũng không sẵn sàng có đủ tình cảm như thư của
Phương Kăng. Nhưng cứ như lá thư ấy, Khiêu cảm thấy mình đã yêu anh, mà cũng phải
yêu anh ấy. Bởi Khiêu tin rằng, anh ấy đã yêu mình, được anh ấy yêu là hạnh
phúc lắm, Khiêu nghĩ. Ở tuổi Khiêu, với sự từng trải, Khiêu không phân biệt được
sùng bái và yêu, cũng không thể nhận ra một khi tình cảm được cái tính háo danh
kích động đã nhanh chóng lấn át mọi thứ thế nào. Vào lúc đó, Khiêu nhớ đến cô bạn
nằm giường trên vào hồi học năm thứ tư đại học, so với Phương Kăng, cái anh nhà
văn "tài hoa xuất chúng" kia có là gì, mà làm sao có thể so sánh với
cuộc sống nội tâm bí ẩn của Khiêu lúc này. Ôi, thời sinh viên, nhiệt tình đến vội
vã mà ra đi cũng thật nhanh chóng!
Khiêu lại bắt đầu viết, nhưng cũng chỉ được mấy chữ: Chú
Phương Kăng, chào chú...
Khiêu chạy ra rạp xem phim của anh chiếu buổi thứ hai, muốn gặp
anh trên màn ảnh. Khiêu lắng nghe anh nói, chú ý đến anh, tìm hiểu biểu cảm của
anh, cố ghi nhớ hình ảnh cuả anh, nhưng khi về đến nhà, nằm lên giường thì bỗng
tỉnh ra rằng, mình chẳng còn nhớ gì sất. Điều ấy làm khiêu sợ hãi lo lắng,
thoáng dự cảm chẳng lành. Hôm sau Khiêu lại đi xem phim lần nữa, chăm chú nhìn
anh ta trên màn ảnh như để tìm nguời thân bị lạc.
Đang chưa viết nổi thư trả lời thì Khiêu nhận được điện thoại
của anh ở ngay phòng làm việc.
Vào lúc đông đủ biên tập viên, ông trưởng phòng gọi, cô
Khiêu, nghe điện thoại của chú cô. Khiêu cầm ống nghe lên, lập tức nhận ra giọng
miền nam. Anh ta phân bua, có cái gì đó không tự nhiên, nói một thôi một hồi: đồng
chí Khiêu đó à? Anh, Phương Kăng đây. Anh biết trong phòng làm việc của em đang
đông người, em đừng lên tiếng nhé, đừng gọi tên anh, cứ nghe anh nói thôi nhé.
Anh đã về dến Bắc Kinh, vẫn không nhận được thư từ gì của em. Có thể em đang cười
anh là một kẻ không biết điều nhưng em nghe anh nói hết đã, đừng đặt máy xuống,
cũng chẳng có gì phải sợ anh, không phải anh bất lịch sự với em đâu. Anh rất
mong được gặp em, nghe anh nói đây, mấy hôm nay anh đang họp ở khách sạn Bắc
Kinh, em có thể mượn cớ lên Bắc Kinh đặt bản thảo chẳng hạn, anh biết có rất
nhiều biên tập viên quanh năm ở Bắc Kinh. Em lên đây, chúng ta gặp nhau, anh đọc
số điện thoại của anh cho em. Em đừng trả lời anh vội, tất nhiên anh muốn được
nghe em trả lời ngay, câu trả lời khẳng định. Không, không, em nghĩ kĩ đi đã.
Cuối cùng anh muốn dài dòng thêm vài câu, anh biết, anh đang thiếu bình tĩnh,
nhưng anh không có cáh nào kiềm chế nổi, điều này thật hiếm thấy ở anh, anh tin
vào trực giác của anh, bởi vậy em đừng từ chối anh một cách dễ dàng, đừng từ chối
anh. Anh đọc số điện thoại cho em, em nhớ được không, có nhớ được không?...
Khái niệm về con số của Khiêu rất kém, nhưng số điện thoại của
Phương Kăng chỉ nghe một lần là nhập tâm. Ba hôm sau Khiêu lên Bắc Kinh, gặp
Phương Kăng trong phòng khách sạn Bắc Kinh. Nhưng khi ngồi một mình với anh ta,
Khiêu thấy anh có phần cao hơn lần gặp đầu tiên, anh cũng gù hơn những người
cao khác. Nhưng điều ấy không làm mất đi phong độ của anh, một chút kiêu kì và
không để ý đến xung quanh như mọi người biết về anh. Khiêu tin rằng mình rất
không tự nhiên khi vào phòng anh, cái không tự nhiên hình như cũng lây sang cả
Phương Kăng. Anh cười rất vui với Khiêu, nhưng rõ ràng không thoải mái tự nhiên
như hôm hội thảo. Anh rót nước, không hiểu tại sao nước nóng trào làm bỏng tay
Khiêu và cả tay anh nữa. Chuông điện thoại reo liên hồi. Danh nhân có khác, lúc
nào cũng có người tìm. Anh liên tục nhận điện thoại, nói dối với người ở đầu
dây bên kia mà mặt không biến sắc, tim không hồi hộp. Không được hôm nay không
được đâu, bây giờ à? Bây giờ lại càng không được, ngay bây giờ tôi phải đi xem
bản nháp phim. Ngày mai vậy, ngày mai tôi sẽ mời bạn đi nhà hang Đại Tam
Nguyên...
Khiêu ngồi yên trên ghế sofa nghe Phương Kăng nói chuyện điện
thoại, cảm thấy sự thân cận này như thể điều tân kì trong mơ vậy. Khiêu thầm cảm
ơn sự nói dối trơn tuột của anh, cảm ơn anh vì mình mà đã nói dối anh (hay chị)
nào đấy. Đúng là vì Khiêu mà nói dối, tất cả vì buổi gặpmặt. Khiêu dần tự nhiên
thanh thản trở lại, dường như điện thoại của ai đó đã cho cô một khoảnh khắc
thư giãn.
Các cuộc điện thoại cũng phải xong, Phương Kăng đến ngồi xổm
trước mặt Khiêu. Anh ta ngồi đối diện với Khiêu, cao hẳn lên, tư thế rất tự
nhiên, rất chất phác, như một nông dân trên đồng ruộng, như một người lớn ngồi
nói chuyện với trẻ con, như một người ngồi xuống để quan sát một động vật nhỏ
bé nào đó, con kiến hoặc con bọ rầy chẳng hạn. Với cái tuổi của anh và địa vị của
Khiêu, anh ngồi như thế giống như một đứa trẻ nghịch ngợm. Anh ngồi như thế và
nói với Khiêu đang ngồi trên sofa: hay là chúng ta ra ngoài nhé, ở đây điện thoại
quấy nhiều lắm.
Hai người rangoài, ngồi trong nhà hang giải khát ở sảnh lớn.
Họ chọn một góc thật yên tĩnh và cùng uống cà phê. Tay anh vẫn nắm chặt cái tẩu
thuốc. Một khoảnh khắc im lặng. Vẫn là anh ta lên tiếng trước, em đánh giá anh
thế nào?
Khiêu nói, em rất kính trọng anh, rất thích bộ phim Cuộc
đời tươi đẹp của anh, em cũng như nhiều người khác... nghĩa là, nhiều người
cũng như em rất kính trọng tài năng của anh, anh là đề tài được bàn luận trong
phòng biên tập chúng em...
Anh ta ngắt lời Khiêu: phải chăng có một buổi tối nào đó em
đã nói với anh như thế, phải không, em?
Khiêu lắc đầu rồi lại gật đầu, muốn lắc đầu và gật đầu để trấn
tĩnh sự xúc động trong lòng. Khiêu phát hiện ra rằng, cô rất muốn, rất muốn ngồi
cùng anh.
Phương Kăng vội vã nói, hôm hội thảo em đứng ngoài vòng người
hơi ngây ngô, nhưng lại rất gây chú ý. Anh hiểu ra rằng, Thượng đế đã sai khiến
em xuống giám sát con người anh. Anh cũng đang cần em giám sát, ngoài em ra
không một ai có thể giám sát anh. Trước mặt em, anh không thể nói dối, anh muốn
nói hết mọi chuyện với em. Anh anh anh... Anh ta rít mạnh một hơi thuốc rồi
nói, những điều anh viết cho em đều là suy nghĩ tự đáy lòng anh, em hiểu không?
Anh chưa hề viết thư cho một người con gái nào, chưa bao giờ. Nhưng khi nhìn thấy
em, anh không thể không viết thư cho em. Anh hiểu rằng, tài năng và thân phận của
anh, còn lâu mới nở rộ. Danh tiếng anh còn hơn thế này. Sẽ có ngày, em sẽ biết.
Anh muốn nói với em thái độ của anh với phụ nữ, anh không từ chối những phụ nữ
đến với anh. Phụ nữ đến với anh phần lớn đều chuộng danh anh, tiền bạc nữa. Dĩ
nhiên, có một số tự nguyện hiến thân không đòi hỏi gì. Đó là những con người
đáng thương, bởi nhiều phương diện... anh là người vô cùng tởm lợm, mong câu
nói đó không làm em ghê sợ.
Kì thực, những lời nói đó của anh ta cũng làm Khiêu ghê sợ
đôi chút. Thật sự trần trụi doạ người, nhưng sao anh ta lại trần trụi như thế đối
với Khiêu? Khiêu khó chịu thay cho anh ta bởi cái "tởm lợm" kia,
Khiêu muốn được nghe những câu lãng mạn hơn thế. Cuối cùng anh ta là người thế
nào? Anh ta muốn Khiêu làm gì? Khiêu nghi ngờ, nhưng lại biết mình chưa đủ khả
năng nắm quyền chủ động trong khi nói chuyện. Khiêu bị động, bị động ngay từ đầu
và không thể ngờ được mình trở nên bị động như thế.
Bởi thế - anh ta rít một hơi thuốc và nói - bởi thế anh không
xứng với em. Bây giờ hình như anh đang theo đuổi em, làm sao anh có thể theo đuổi
em được? Em là người không thể theo đuổi, không ai nghĩ khác được. Nhưng sớm muộn
gì rồi anh và em sẽ đến với nhau.
Cuối cùng Khiêu cũng phải lên tiếng: anh nói thế biết lấy gì
làm căn cứ? Khiêu vừa nói, tim vừa đập mạnh bởi cái điều cô bày tỏ rõ ràng.
Anh ta không trả lời thẳng vào câu hỏi của Khiêu, mà nhắc lại
như để củng cố câu nói của mình: sớm muộn gì rồi em và anh cũng sẽ đến với
nhau. Nhưng anh muốn nói với em, sẽ có một ngày anh yêu em, yêu em như điên,
khi chúng ta đến với nhau rồi anh vãn còn nhiều phụ nữ khác nữa. Mà anh thì
không giấu giếm em, anh sẽ nói tất cả với em họ là ai, việc gì... Anh để em
phán xét trừng phạt anh, bởi em là người con gái anh yêu nhất, chỉ có em mới
đáng được anh vừa thẳng thắn vừa chân thực và vừa tỏ ra hư đốn như thế. Em là
Thượng đế của anh, anh cần một Thượng đế. Em hãy nhớ lời anh, có thể em đang
quá trẻ, sau này em sẽ hiểu, nhất định sẽ hiểu. Kẻ phàm phu tục tử cho rằng anh
nói những lời của kẻ lưu manh. Có thể thế chăng, cũng có thể không phải thế.
Khiêu nghe Phương Kăng nói những lời chưa được nghe ai nói
bao giờ, cô không nghĩ đó là lời nói của kẻ lưu manh, nhưng mà anh ta nói gì thế
nhỉ? Một người đàn ông có gia đình, có công ăn việc làm lại nói những điều như
thế với một cô gái trẻ được sao? Mà Khiêu vào lúc này như bị những lời thần chú
đầy bùa phép ma thuật cuốn hút lún sâu vào trong những câu nói càn rỡ của anh
ta, cố hiểu được "tư tưởng" của anh ta, đuổi theo cái "giới hạn"
của anh ta. Cái vẻ tự tin hung hăng độc đoán của anh ta như hiện lên sức quyến
rũ kì quái, ánh mắt nhiệt tình của anh ta thi thoảng lại thoáng chút lạnh lùng
làm xao động lòng Khiêu. Thậm chí, để theo kịp suy nghĩ của anh ta, Khiêu bắt đầu
phải đánh giá lại mình, phát hiện và khẳng định lại mình: mi là ai, mi có thể
trở thành người như thế nào, sức cuốn hút của bậc danh nhân đang ngồi đây đối với
mi là gì?
Kì lạ hơn là anh ta càng nói càng ngồi xa Khiêu, anh ta ngả
người ra sau, càng nói càng xa Khiêu. Không phải anh ta muốn thoả mãn cái thèm
khát Khiêu bằng cách sờ mó và áp sát người một cách giản đơn và nóng vội, khoảng
cách thích hợp của anh ta không phải là sự tính toán của một gã đàn ông lão luyện
được đám đàn bà con gái nuông chiều.
Rất muộn, rất muộn Khiêu mới rời khách sạn Bắc Kinh, Phương
Kăng đòi đưa Khiêu về nhà khách.
Hai người đi, gió xuân và con đường Trường An thênh thang khiến
lòng Khiêu thanh thản, lúc này cô mới phát hiện ra mình đến với Phương Kăng rất
mệt mỏi, xưa nay vẫn mệt mỏi như thế, nhiều năm nay cô vẫn chấp nhận cái mệt mỏi
đến với mình.
Lúc đi thì anh đi bên phải, lúc lại đi bên trái Khiêu. Anh
nói, anh bảo em câu này nhé.
Bảo gì? Khiêu hỏi.
Em là người con gái tuyệt vời.
Nhưng anh không hiểu em.
Đúng là anh không hiểu em, nhưng anh tin rằng không ai hiểu
rõ em hơn anh.
Tại sao?
Em biết đấy, bởi nói cho cùng, đó là một sức mạnh bất khả quyết
định. Em và anh có nhiều điểm giống nhau, ví dụ nhạy cảm, ví dụ dưới vẻ lạnh
lung bề ngoài là nhiệt tình nóng bỏng...
Sao anh biết em có nhiệt tình nóng bỏng? Anh lại hình dung vẻ
bề ngoài lạnh lùng của em, phải chăng anh thấy em chưa thật tôn trọng anh?
Em xem, em lại muốn anh cãi nhau với em rồi. Em lại tỏ ra ngạo
mạn rồi. Không, không phải ngạo mạn, mà là kiêu ngạo, anh không kiêu ngạo, kiêu
ngạo là của riêng em. Anh ta phấn khởi nói.
Tại sao lại của riêng em? Giọng Khiêu dịu hẳn xuống: nếu
trong cốt tuỷ anh không kiêu ngạo thì tại sao anh lại nói ra những điều vừa rồi,
những điều anh nói trong khách sạn Bắc Kinh ấy?
Bỗng anh ta cười buồn và nói, em cho như thế là kiêu ngạo
sao? Trong cốt tuỷ của anh có nhiều chất đểu cáng, đểu cáng, em hiểu chứ?
Khiêu không đồng ý với cách nói của anh ta, hoặc không cho
phép anh ta nói mình như thế. Dù rằng nhiều năm sau nhớ lại, anh ta rất đúng
khi tự phân tích về mình như thế, nhưng vào lúc đó Khiêu cực lực phản đối.
Khiêu bắt đàu nói ra suy nghĩ của mình về anh ta, từ việc đọc hai lá thư đến việc
sợ quên hình bóng của anh mà phải đi xem phim của anh ta đến hai lần. Khiêu nói
rất vất vả, lại sợ nói không hết ý. Khi cô nói đến cảnh trong phim thấy cánh
tay anh chằng chịt sẹo, cố phải kìm giữ không để nước mắt trào ra. Anh ta không
để Khiêu nói tiếp, nhưng Khiêu vẫn cứ nói. Không phải để anh ta xúc động mà để
chính mình xúc động. Khiêu mơ hồ cảm thấy trước người đàn ông bị đày đoạ giày
vò này mình có thể chịu đựng được tất cả những gì mà anh ta cần. Ví thử anh ta
phải đi lao động cải tạo một lần nữa Khiêu sẽ đi theo chia sẻ cùng anh, chịu cực
chịu khổ suốt đời như vợ của những người thuộc đảng Tháng Chạp nước
Nga tình nguyện theo chồng đến tận Xibir. Để chứng thực long kiên trinh
dũng cảm cao cả, Khiêu rất muốn Phương Kăng một lần nữa chịu đựng những năm
tháng ấy thử thách long mình. Nhưng mà mình là ai? Phương Kăng đã có vợ và đã
có cô con gái yuêu quí rồi kia mà?
Đã về đến nhà khách. Khiêu thôi không nói nữa, cô đưa tay ra
cho anh. Anh ta bắt tay và nhìn thẳng vào mắt Khiêu nói, anh nhắc lại một lần nữa,
em là một cô gái tuyệt vời.
Họ tạm biệt. Anh ta quay về. Khiêu đi vào cửa nhà khách.
Nhưng Khiêu lại chạy nhanh ra cửa, ra phố, gọi anh lại.
Anh ta biết Khiêu định làm gì rồi, sau này anh mới nói lại.
Anh đứng yên, chờ đợi. Khiêu đi nhanh đến, đứng ngay trước mặt
anh nói, cho em hôn anh !
Anh dang rộng vòng tay nhẹ nhàng, nhẹ nhàng ôm, hai thân thể
chưa sát vào nhau. Khiêu kiễng chân ngửa mặt, hôn anh ta, rồi nhanh chóng rời
anh, quay vào nhà khách.
Phương Kăng không thẻ nào quên nụ hôn đầu của Khiêu. Bởi nó
lướt nhanh như chuồn chuồn đạp nước, không phải là một cái hôn, nếu có thể đo đếm
được thì mới chỉ là nửa cái hôn. Như sợi tơ nhẹ lướt qua miệng, như một bông
tuyết tan ngay trên lò than hồng. Nhưng Khiêu thì thành kính và e thẹn, bởi quá
thành kính nên đã cẩu thả, bởi quá e thẹn nên đã... gì nhỉ, chỉ một chút nữa là
không tìm thấy môi anh ta.
Có thể không chỉ có thế. Khi Khiêu dứt khoát chạy đến trước
Phương Kăng, lòng Khiêu bỗng chút chần chừ, không ai giúp Khiêu phán đoán,
Khiêu đã chạy đến trước người đàn ông kia rồi. Chỉ trong nháy mắt Khiêu đã hoàn
tất điều thỉnh cầu của chính mình, và cũng trong nháy mắt đôi môi đã rời bỏ tất
cả những gì mà Khiêu chưa kịp biết. Đó là sự do dự bắt nguồn từ sợ hãi, bởi thận
trọng mà giữ được mình.
Bởi nửa cái hôn trịnh trọng và cẩu thả, trong trắng và phức tạp,
khiến Phương Kăng không thể hôn đáp lại Khiêu. Anh ta không dám. Khi đôi cánh
tay anh ta nhẹ nhàng ôm ngang tấm thân nhỏ bé mềm mại của Khiêu thì anh ta biết
mình đã bị một con người xa xôi nhưng rất gần gũi chiếm trọn.
5
Thư Phương Kăng viết cho Khiêu thường rất đi. Chữ nhỏ li ti.
Anh ta viết bằng cây bút Parker đem từ nước ngoài về, nét rất nhỏ, như người ta
vẫn nói nhỏ như sợi tóc. Nét bút nhỏ giúp anh anh viết chữ bé và dày xít lại,
chẳng khác gì một đàn kiến bám lấy trang giấy. Anh ta thích viết chữ nhỏ, thích
đọ sức với con chữ nhỏ và trang giấy dưới tay anh ta. Anh xâm lấn và giày vò
trang giấy bằng những con chữ nhỏ, không chia ô và không chia dòng, không chừa
lề và không chú ý xuống dòng. Không phải anh viết mà anh đang dùng những con chữ
để gặm nhấm trang giấy, anh nóng lòng xâm chiếm từng dòng từng dòng, che kín tất
cả những chỗ trống mà mắt thường có thể thấy, phủ những đám mây đen nặng nề lên
từng trang. Anh muốncầu trời cho anh một trang giấy không gì to bằng để anh viết
tất cả những gì trong cuộc đời anh lên đó.
Trước đấy và sau đó, Khiêu không bao giờ nhận được những lá
thư như của anh. Mười năm sau Khiêu giữ một khoảng cách và tâm trạng thẩm định
đọc lại những lá thư đó mà vẫn có thể làm Khiêu cảm thấy đôi chút chua xót. Bởi
yêu mà anh ta kiên tâm viết những dòng chữ nhỏ như thế, bởi viết những lá thư
như thế mà mất biết bao nhiêu thời gian, anh ta và những câu chữ vô hạn của anh
ta đã phải tham lam và khao khát tranh giành từng phân từng li của trang giấy
có hạn. Điều mà Khiêu trân trọng ấy là sự kiên nhẫn và cẩn thận, sự yêu thương
gắn bó nguyên thuỷ, tấm lòng thành khẩn, xác thực, sự vụng về trên trang giấy
và dòng chữ, dù là viết cho ai, dù là viết cho người con gái khác.
Trong thư anh ta viết :
Khiêu, anh đau khổ thay cho mắt em phải đọc những dòng chữ nhỏ
như thế này, nhưng anh càng viết nhỏ bao nhiêu thì giấy càng tốn bấy nhiêu,bởi
anh có rất nhiều chuyệnmuốn nói với em. Nếu anh không viết to ra, thư sẽ dày
hơn, gửi đến nhà xuất bản sợ không an toàn, có thể có người cho là bản thảo của
tác giả, bóc ra xem...
Cũng có những bức thư anh ta viết về những chuyện lăng nhăng
của mình.
Khiêu em,
Thư này sẽ làm em không vui, nhưng anh cần phải viết, bởi anh
không viết thì em sẽ nhìn anh, nhìn thẳng vào anh. Mấy hôm trước, trong khi
quay ngoại cảnh ở Phong Sơn, ngoại cảnh cuẩ bộ phim Giấc ngủ mùa đông của
anh như em đã biết, anh và cô diễn viên... đã làm tình với nhau (cô ta kém tuổi
em và không nổi tiếng), anh cảm thấy rất không hay. Có thể tất cả vì quá vội
vã, tính mục đích của cô ta quá rõ ràng, quá trực tiếp. Liền mấy hôm cô ta nói
chuyện với anh, không phải cô ta muốn sắm vai chính trong phim này (vai chính của
phim này đã có) cô ta chuẩn bị cho bộ phim sau, muốn anh chú ý đến cô ta nhiều
hơn trong phim sắp tới. Xem ra cô ta rất có kinh nghiệm tiếp xúc với đàn ông,
cô ta rất trắng trợn, không cho đối phương lùi, mà cái háo danh đàn ông trong
anh làm anh mong rằng cô ta phải yêu anh. Nhưng đáng tiếc là không, cô ta không
ve vãn anh. Trong con mắt những con người ở độ tuổi như cô ta, có thể anh là một
ông già nhạt nhẽo đầy quyền lực, đủ khả năng làm cô ta nổi danh, tuy anh chưa tới
năm mươi. Cô ta cứ đòi anh làm tình. Anh phải thừa nhận cơ thể cô ta rất hấp dẫn,
nhưng anh có thái độ đùa bỡn với cô ta, sau đó cũng có chút hưng phấn, bởi
không hiểu vì sao lúc đó anh nghĩ đến em. Nghĩ đến em làm cho anh muốn được cô
ta hôn. Không có gì khác hơn là cái hôn của cô ta, cái hôn toàn tâm toàn ý, sâu
nặng, quên chết, như anh mong muốn được em hôn, tuy chưa bao giờ anh có ở em.
Vào lúc đó, anh không thể nào quên nổi, thế rồi cả đêm không sao ngủ được, em
cho anh cái quyền chí cao vô thượng, dó là: không dám!
Đối với... anh không có gì phải không dám, khi cô ta nhanh
chóng trút bỏ tất cả quân áo trước mặt anh, anh ngăn cô ta lại. Anh đòi cô ta
hôn anh, cô ta làm theo. Cô ta dựa sát vào anh, vòng tay ôm chặt cổ anh, hôn
anh rất lâu và luôn dừng lại hỏi anh: được không, có được không anh? Cô ta hôn
rất hết mình và rất nồng cháy, lưỡi cô ta lùa khắp nơi trong miệng anh nhưng bụng
dạ cô ta như để đâu đâu. Anh nhắm mắt và cố tưởng tượng đó là em, đó là môi em
đang hôn anh. Nhưng không được, cô ta hôn càng lâu anh càng nhận ra không phải
em. Mà cô ta cũng tỏ ra sôt ruột lắm rồi, còn anh thì đang bắt cô ta phải hôn nữa
hôn mãi. Hai tay anh ôm ngang người cô ta, không để thân thể cô ta nhún nhẩy
lên xuống, hai người như vật nhau, đang hà hiếp nhau. Thế rồi tất cả đều thay đổi,
cô ta bỏ một tay ôm cổ anh xuống, sờ mó nghịch ngợm khắp người anh. Cô ta nôn
nóng lắm rồi, còn anh lúc này đang muốn biết cái nôn nóng của cô ta. Cô ta
không biết dụng ý của anh đòi cô ta hôn, nhất định cô ta cho rằng chỉ với động
tác ấy với anh không đạt mục đích, mà mục đích của cô ta có thể sẽ không đạt.
Cô ta nôn nóng sờ nắn anh, như bảo với anh: em hôn anh tuy không thoả mãn anh,
nhưng em có cái khác có thể chiều anh... Anh và cô ta làm tình với nhau, trước
mắt anh vẫn là em... Anh thật đốn mạt! Nhưng anh xin em hãy đọc hết lá thư này.
Rồi anh rất đau khổ, vừa nghĩ người nằm dưới anh là em, người anh yêu nhất.
Nhưng khi anh mơ tưởng là em thì cảm giác tội lỗi lại ức chế cái khoái cảm có
thể có, thậm chí anh không thể phân biệt nổi người đang nằm dưới anh là ai, anh
đang làm gì. Cuối cùng anh phải dùng tay... dung tay để làm nó ra.
Anh muốn em ngàn lần nguyền rủa anh, khi em nguyền rủa anh
thì linh hồn của anh được yên tĩnh. Linh hồn anh có thể được để nơi đâu? Có thể
anh đòi hỏi quá nhiều, tại sao anh không được cái tốt đẹp như trong mơ: thành
công, danh vọng, giải thưởng trong nước và quốc tế, gia đình, con cái, vinh
quang, gái đẹp, tiền của... Càng ngày anh càng lo lắng hơn.
Trước khi anh lấy vợ cũng đã có một người đànbà, người đànbà
một chân mà nông trưởng gán cho anh, lớn hơn anh mười lăm tuổi. Đó là một mụ
đàn bà điên cuồng, tai ngược. Anh phải tiếp nhận mụ ta vì anh là kẻ dưới tận
cùng nhân loại, mà anh cũng cần một người đàn bà. Cũng có thể nói mụ ta tiếp nhận
anh. Nhưng anh không thể tưởng tượng được. Mụ ta tiếp nhận anh lại không để cho
anh làm nghĩa vụ của một người đàn ông, mụ ta chỉ có một chân nhưng khoẻ khủng
khiếp, so với thể lực suy nhược của anh lâu ngày vất vả lại không được ăn no,
thì anh không phải là đối thủ của mụ. Thường thường đêm khuya mụ ta trói anh lại,
dùng cái dùi khâu giày đâm vào cánh tay, vào đùi anh, đâm không sâu, chỉ đủ để
chảy máu. Càng sợ hãi hơn, một đêm anh đang ngủ say thì mụ ta tung chăn anh ra,
rứt lông... của anh như điên như dại. Mụ ta không bình thường, nhất định không
phải là người bình thường. Nhưng không thể vì thế mà tinh thần anh hoảng loạn,
anh nghĩ có thể ra cửa sẽ gặp núi, khi anh ra khỏi căn nhà thấp le tè thì thấy
ngọn núi ngàn năm đứng trầm mặc không thay đổi, khi anh thấy những con gà chạy
nhảy ngoài sân và những bãi phân bò nóng hổi trên mặt đường, thì nguyện vọng sống
lại trở nên ,mãnh liệt. Anh đã rèn cho mình một bản lĩnh: cứmỗi đêm mụ ta hành
hạ anh cho đến máu me đầm đìa, mặt mũi sưng húp lên mới thôi, thì anh có ngay
được giấc ngủ say sưqa không hề mộng mị. Nhưng ngày hôm sau, nhiều lần, anh
không thể không tự hỏi, cuối cùng mi muốn gì, muốn gì?
Anh không muốn dung những dòng chữ trên đay để làm bẩn mắt
em, nhưng anh viết được như tjhế cho em thì lòng anh mới tĩnh lặng, thanh thản.
Anh khát khao được cùng em, theo đó niềm khao khát ấy lại biến thành nỗi sợ
hãi. Nhưng anh cũng không khách khí và ngang ngược vô lý sợ người khác đến với
em. Anh hiểu con gái và hiểu con trai, anh hiểu rõ sức hấp dẫn của em. Khi ngồi
uống cà phê ở khách sạn Bắc Kinh, có thể em không để ý gì đến hai người đàn ông
ngồi bàn bên nhìn em, cả cái ông già người Anh ngồi đối diện, anh khẳng định đó
là một người Anh, lão ta cứ nhìn em chòng chọc. Em không chú ý, bởi lúc đó em
đang căng thẳng. Anh không quan sát kĩ nhưng chỉ thoáng là đủ, anh rất tin ở cảm
giác của mình. Em là người có khả năng nắm bắt người khác, trên người em có những
thứ để nắm bắt người khác, em là người có thể để người khác nhìn ra bản lĩnh của
em, tuy em không biết mình. Anh khuyên em nên chú ý mình. Dã có ai nói với em
điều đó chưa? Anh tin rằng, anh là người duynhát nói với em điều đó. Lúc nào em
cũng phải cài kín cúc áo lại, không cho mắt người khác nhìn vào, không ai được
nhìn vào. Không phải anh nói những người thích chú ý đến em đều đối với em như
thế, không, anh thừa nhận những người nhìn xoáy vào em đều có cái nhìn mãnh liệt,
bọn họ không phải lũ lưu manh, lũ đê hèn, chính vì thế mà anh càng lo, anh lo bọn
chúng cướp mất em, cho dù đến tận bây giờ anh vẫn chưa biết tình cảm thật của
em đối với anh, mà anh cũng không muốn biết. Có lần anh nói với em, một ngày
nào đó anh sẽ đến thăm cái thành phố của em, thành phố Phúc An, cái điểm bằng hạt
đậu trên bản đổ mà những ngày ở Mĩ anh vẫn lấy ngón tay mân mê trên đó. Anh sẽ
tìm cách dể không ai nhận ra anh, sẽ có ngày như thế ư.
Bây giờ anh nói về bản thảo mà em đặt anh viết. Anh thử mở đầu,
viết được 1.500 chữ, khó quá, bởi anh không tìm đâu ra tâm tư nhẹ nhàng và
trong sáng. Nêú bạn đọc của em là những trẻ nhỏ, trước hết người viết phải có tấm
lòng trong sáng, ít nhất là đối với em anh lại không trong sạch. Anh cảm thấy
ngượng lắm, và cũng cảm thấy bị thách thức. Anh định sau khi làm xong bộ
phim Giấc ngủ mùa đông sẽ tập trung thời gian và công sức để viết,
anh cũng muốn thử xem năng lực của anh đến đâu. Rm có thấy thư anh viết lôn xộn
quá không? Lộn xộn là triệu chứng của tuổi già. Em biết anh đang nghĩ gì không?
Anh mong em chóng già, chỉ đến khi em không còn già hơn được nữa, anh cũng
không còn già hơn được nữa thì chúng ta mới được bên nhau. Lúc đó chúng ta
không còn phân biệt được ai là đàn ông, ai là đàn bà, em như một ông già, anh
như một bà gìa. Răng của chúng ta đều rụng hết, nhưng đôi môi vẫn còn nguyên vẹn,
bởi thế chúng ta còn nói chuyện được. Cácbộ phận của cơ thể thật kì quái, cái cứng
rắn nhất lại chóng mất như răng, cái mềm như lưỡihoặc môi lại tồn tại đến
cùng...
6
Một ngàymùa thu năm 1966, Khiêu mới là học sinh lớp một trường
tiểu học ngõ Đặng Nhi, được dự đại hội phê đấu rất ồn ào náo loạn diễn ra ở sân
trường. Hội phê đấu có đầy đủ cô giáo, thầy giáo và học sinh nhà trường tham
gia, bàn học sinh được kê thành sân khấu. Phía dưới học sinh ngồi trên những
dãy ghế sắp xếp theo từng lớp.
Vừa mới đi học được mấy hôm, Khiêu cảm thấy rất lạ, hồi đó cô
chưa có khái niệm thế nào là họp, ngồi như thế chẳng khác nào buổi học ngoài trời,
nhưng tự do hơn buổi học. Nếu là buổi học, thầy cô giáo bắt học sinh vòng tay
ra phía sau, ngồi thật ngay ngắn nghe giảng, ngồi ngay ngắn để không bị vẹo cột
sống. Nhưng hôm nay, trên sân trường, lớp trưởng không yêu cầu các bạn vòng tay
ra sau lưng, tay để đâu cũng được. Có thể lúc đó không khí quá trang nghiêm,
quá nặng nề, các thầy cô giáo không để ý đến tư thế ngồi của học sinh. Khiêu chỉ
còn nhớ, các anh học sinh lớp lớn, lớp trên dẫn đầu hô khẩu hiệu. Không ai bảo
cho học sinh lúc đó biết hô khẩu hiệu phải nắm tay, cánh tay phải giơ cao,
nhưng không dạy học sinh đều biết. Cứ từng đợt, từng đợt học sinh giơ những
cánh tay non nớt lên, từng đợt từng đợt hô rất mạnh mẽ những khẩu hiệu không hiểu
nghĩa là gì. Dần dần, có những khẩu hiệu được cụ thể hoá, Khiêu mới hiểu được ý
nghĩa và khẩu hiệu nhắm vào ai. Ví dụ khẩu hiệu "Đả đảo con đĩ Đường Tân
Tân". Khiêu biết Đường Tân Tân là cô giáo của trường, dạy toán bậc trung học
phổ thông. Khiêu còn nghe những bạn nam bàn luận phía sau, chẳng nhẽ cô ấy lại
là một con đĩ sao?
Cô giáo Tân bị mấy nữ học sinh dẫn lên san khấu, trước ngực
viết mấy chữ bằng mực đen: "Tôi là một con đĩ". Học sinh lớp một ngồi
ngay hàng ghế đầu, bởi thế Khiêu nhìn rất rõ dòng chữ ngay trên tấm biển. Khiêu
đọc được mấy chữ "Tôi là một..." còn hai chữ sau không biết, nhưng kết
hợp với khẩu hiệu vừa hô, Khiêu đoán ra đó là hai chữ "con đĩ".
"Tôi là một con đĩ", dòng chữ làm Khiêu ghê người, trong ý niệm của
cô bé, con đĩ không chỉ là xấu xa, xấu hơn cả địa chủ, nhà tư bản. Khiêu nghĩ,
không hiểu tại sao một người lớn nhận "tôi là một con đĩ" nhỉ? Khiêu
không thể lí giải nổi tại sao lại dùng nhân xưng ngôi thứ nhất để gọi "Tôi
là..."
Bởi ngồi ở hàng ghế đầu nên Khiêu nhìn rất rõ cô giáo Tân. Cô
giáo Tân chừng ba mươi tuổi, da trắng người gầy, quá gầy và trắng, cắt tóc ngắn
và sống mũi cao, trông như một cây tăm. Một cây tăm, khi đã lớn Khiêu mới hình
dung như thế. Cô đúng là một cây tăm mà không phải là cây dương liễu, bởi trông
cô mảnh mai nhưng cứng rắn, cô như cây tăm cắm trên mặt bàn, mấy nữ học sinh lớp
trên cứ xô đẩy nhưng cô vẫn không chịu quỳ mà cũng không cúi đầu. Hồi đó Khiêu
chưa đủ khả năng hình dung cô như cây tăm, mà chỉ có thể theo bản năng đồng
tình với cô giáo Tân gầy yếu đang đứng trên kia. Bởi, nói ra thật buồn cười,
Khiêu không thể hiểu nổi cô giáo lại có thể là con đĩ được? Khiêu có phần đồng
tình với cô giáo Tân bởi cô đẹp. Đẹp, chỉ có thế thôi.
Cô giáo Tân không quỳ mà cũng không cúi đầu nên sân trường nhốn
nháo cả lên. Các nữ học sinh lớp trên thì không biết làm thế nào, mà các thầy
cô giáo khác chỉ hô khẩu hiệu, không ai muốn tự tay ấn đầu cô giáo Tân xuống.
Sân trường lặng đi trong giây lát, chợt có một phụ nữ trạc tuổi trung niên mặc
áo cánh xẻ màu mỡ gà (sau này Khiêu mới biết đó là bà tổ trưởng của ngõ ĐẶng
Nhi) lên sân khấu, xỉa xói vào cô giáo Tân nói, gọi mày là con đĩ oan ức lắm à,
tao hỏi mày, mày đã lấy chồng chưa, đã lấy chồng chưa? Theo những tài liệu mà
tao nắm được, mày chưa bao giờ lấy chồng. Mày chưa lấy chồng mà đã có con, thế
thì mày ngủ với ai, khia thật ra. Tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên: mụ Tân phải
khai ra! Không khai thì thầy giáo và học sinh cách mạng sẽ không tha! Lúc này,
một đám nam học sinh lớn tuổi ào lên sân khấu, bọn chúng là học sinh trung học
một trường gần đây, tay đeo băng đỏ, đến ủng hộ cuộc cách mạng của các học sinh
nhỏ.
Những học sinh này rất biết đấu, một đứa trong bọn chúng đi
vòng ra phía sau cô giáo Tân, đạp mạnh vào khuỷu chân cô giáo, cô giáo "hự"
lên một tiếng rồi ngã quỵ xuống. Cả sân trường hoan hô, vậy là cái cô giáo chết
cũng không chịu quỳ kia đã bị bọn học sinh lớp lớn khuất phục. Đại hội phê đấu
tiếp tục, mấy giáo viên trẻ thay nhau lên phát biểu chỉ trích gay gắt cô giáo
Tân đã giấu nhẹm chuyện nghiêm trọng trong cuộc sống riêng, lừa dối để được đồng
nghiệp tin tưởng, nhà trường tín nhiệm, học sinh tin yêu. Các em học sinh hãy
nghĩ xem, một sự việc ghê tởm biết chừng nào, một phụ nữ suy đồi về đạo đức,
tác phong xấu xa như thế mà có thể là cô giáo... Tiếnghô khẩu hiệu lại vang
lên: Mụ Tân phải cút khỏi trường tiểu học ngõ Đặng Nhi! Không cút thì những người
kế tục sự nghiệp cách mạng của nhà trường sẽ không tha! Người phụ nữ mặc áo xẻ
tà màu mỡ gà tiếp tục bổ sung tội của cô giáo Tân: còn nữa, hàng xóm của mụ còn
phản ánh, ở trường mụ Tân giả bộ giản dị, ở nhà thì sống theo lối sống của giai
cấp tư sản, mụ nuôi mèo, đối với mèo tốt hơn đối với người, có hôm mụ ta dám ngồi
ngoài sân ôm con mèo, hôn hít nó! Trời đất ơi, hôn mèo!
Cả sân trường cười ồ lên, tiếp theo là khẩu hiệu tỏ ra phẫn nộ
hơn: đả đảo con đĩ Tân!
Những cái xấu của cô giáo Tân càng nói càng nhiều, chỉ bắt cô
quỳ thôi thì chưa đủ. Nhất là khuôn mặt gầy, trắng trẻo kia tỏ vẻ đối nghịch,
nhất định không chịu nói điều gì làm cho những người trên sân khấu thêm phẫn nộ
xung thiên. Một học sinh nam lớn tuổi gí ngay chiếc giày lính hắn đang đi ở
chân vào mặt cô giáo và nói, mèo của giai cấp tư sản mày còn hôn, chẳng nhẽ mày
không hôn giày của giai cấp vô sản hay sao! Hắn vừa nói vừa gí giày vào mặt cô
giáo, một nữ sinh đến gần ấn đầu cô giáo xuống bắt cô áp miệng vào chiếc giày của
thằng kia. Rất nhiều chân cùng giơ ra, bắt cô giáo phải áp miệng vào những chiếc
giày đầy bụi bẩn.
Cả sân trường sục sôi, trên sân khấu người đứng lố nhố. Học
sinh ngồi dưới không còn trật tự nữa, chúng xô đẩy, có đứa trèo lên ghế, có đứa
chen nháo nhào lên sân khấu để nhìn cho rõ. Bụi bay mù mịt làm cho Khiêu ho sặc
ho sụa. Khiêu cũng đứng dậy, muốn nhìn cho rõ. Nhưng Khiêu không đứng lên ghế
như mấy bạn trai cùng lớp, đứng lên ghế là không ngoan, học sinh không nên thế.
Khiêu nhỏ bé giữa đám đông hỗn loạn hầu như không trông thấy gì đang diễn ra
trên sân khấu, càng làm nó thêm sốt ruột. Bỗng có một múi thối, không hiểu ai
đang đem đến một ca phân. Chỉ nghe tiếng nói: quá lắm, mụ Tân không chịu
hôngiày chúng ta, mồm mụ ta chỉ xứng đáng ăn cứt! Đúng, đúng... Có tiếng phụ hoạ:
bắt mụ ta phải khai thành thật với giáo viên và học sinh cách mạng, không khai
phải ăn cứt!
Bắt cô giáo ăn phân!
Phân xuất hiện làm cả sân trường trật tự trở lại, mùi thối
làm mọi người ngơ ngác. Dúng là phân được đựng vào ca nước uống đưa lên sân khấu
đã kích thích dây thần kinh sâu nhất trong cơ thể con người. Sức uy hiếp của
phân đã lên đài như thế. Những người chen chân đến sát sân khấu bỗng lùi lại,
những người đứng trên ghế ngồi cả xuống. Giống như một vở diễn vào hồi gay cấn
thì mọi người cùng chăm chú thưởng thức. Bắt cô giáo ăn phân có thể là hồi gay
cấn nhất của đại hội phê đấu này.
Ca phân đặt trước mặt cô giáo Tân, chỉ cách cô chừng một mét.
Vẫn khuôn mặt thật trắng trẻo. Mọi người chờ cô khai báo thành thật, vì cớ gì
mà lại không nói... Trái tim Khiêu như có ai bóp chặt, nó cứ mong cho cô giáo
Tân nói ngay ra, như thế cô giáo không phải ăn phân. Nhưng nhiều người không
nghĩ như Khiêu, bọn họ không muốn cô giáo khai báo. Khi mọi người phải lựa chọn
khai báo và ăn phân thì bọn họ muốn không phải là thấy người kia khai báo, mà
muốn thấy người đó ăn phân.
Cô giáo không nói mà cũng không chịu ăn. Lúc này có một thằng
học sinh lớp lớn đến thì thầm gì đó với bà tổ trưởng mặc áo màu mỡ gà, rồi hắn
quay sang nói với cô giáo Tân - mà cũng để mọi người cùng nghe - nếu mụ không
chịu khai báo, không chịu ăn cứt thì chúng ta còn cách khác, lẽ nào quần chũng
cách mạng lại chịu thua con đĩ này, chúng ta điệu đứa con gái của mụ lên đây
cho mọi người thấy, cho mọi người trông thấy đứa con của mụ, bằng chứng cho
hành động đĩ thoã tội lỗi của mụ ta.
Cô giáo Tân không còn giữ nổi bình tĩnh nữa, Khiêu tháy cô lê
bằng đầu gối đến trước ca phân, cô không chờ cho tiếng hò hét đinh tai nhức óc
của bọn người kia mà đi đến quyết định dứt khoát, để lại cho Khiêu một ấn tượng
suốt đời không quên, Cô giáo quỳ gối bưng ca phân lên, nhìn vào trong ca một
lúc, rồitrước mặt mọi người, đưa lên ăn...
Khiêu về nhà việc đầu tiên là đánh răng súc miệng, tưởng như
phải dùnghết ống kem Con thỏ trắng mà hai chị em vẫn dung chung. Đánh
răng làm Khiêu nôn oẹ, nôn oẹ rồi lại đánh răng. Đánh răng xong, Khiêu đưa nhẹ
cái bàn chải vào họng cho nôn thốc nôn tháo. Khiêu nôn ra thức ăn, cuói cùng là
nước nhờn. Nôn xong lại đánh răng, hai tay bịt mũi, bịt miệng, bịt thật chặt,
hà hơi thật mạnh - ở vườn trẻ Khiêu học được cách hà hơi như thế để biết được
mùi gì trong miệng. Rồi Khiêu cũng yên tâm trong miệng mình sạch sẽ, sạch như
kem đánh răng. Khiêu lấy khăn lau miệng, lau đi lau lại, miệng đỏ lên, bật cả
máu, đau cả miệng. Khiêu ở trong nhà vệ sinh rất lâu.
Từ trong nhà vệ sinh ra, mắt Khiêu đỏ, đầu nặng trĩu, Phàm đến,
Khiêu ôm hôn Phàm. Phàm cũng hôn chị, hai chị em hôn nhau kêu chun chút. Khiêu
hôn bố, hôn mẹ, hôn hai cái ghế bọc nhung kẻ cũ kĩ, hôn cái ghế nhỏ, hôn cái
máy thu thanh kèm máy quay đĩa lạnh ngắt của Liên Xô. Chắc hẳn bố mẹ nghĩ Khiêu
ốm, bảo Khiêu lên giường đi ngủ. Khiêu lên giường, trên giường có cái khăn tay,
Khiêu giở khăn ra, giữa chiếc khăn là hình một chú mèo trắng mắt vàng. Khiêu
nhìn chú mèo rồi vứt nó vào mộtgóc. Khiêu lại với lấy chiếc khăn tay, giở ra
nhìn chú mèo, hôn lên miệng mèo rồi khóc..
CHƯƠNG HAI
Thời của những cái gối
7
Hai vợ chồng Chương Vũ và Doãn Xích Tầm sau khi đến nông trường
Vĩ Hà, cũng như những người khác, được phân về đội nam và đội nữ. Đây là vùng đất
chua phèn vùng Tây Nam Phúc An, nơi lao động tập trung khép kín của trí thức Viện
Thiết Kế Kiến Trúc từ tỉnh khác đến.
Hai vợ chồng được điều từ Bắc Kinh về Phúc An hồi cuối những
năm sáu mươi, việc điều động này đã là một hình thức kỉ luật: Doãn Xích Tầm vốn
là một kiến trúc sư của viện kiến trúc Bắc Kinh, bởi đã phát biểu những ý kiến
bất đồng với quy hoạch thành phố. Hồi ấy, anh còn trẻ, sôi nổi, nói năng không
giữ ý. Có một chuyện cũ ít người bíêt: ngày đầu dựng nước, chủ tịch Mao Trạch
Đông mời ông Lương Tư Thành 1 lên lầu Thiên An Môn để thảo luận quy hoạch
tương lai của thành phố. Mao Trạch Đông hiểu biết về đô thị không sâu, hoặc giả
đang bận chỉ đạo đất nước, lòng đang say sưa với thắng lợi của cách mạng, hoặc
đang suy tư mong muốn dân giàu nước mạnh, phải cấp bách phát triển công nghiệp.
Người đứng trên lầu Thiên An Môn nhìn xuống phía dưới, chậm rãi và kiên nghị
vung cánh tay vĩ nhân về phía xa xôi mờ mịt, nói với Lương Tư Thành: Sau này đứng
đây phóng tầm mắt phải thấy một rừng ống khói. Lời nói dứt khoát của lãnh tụ
làm Lương Tư Thành sợ hãi, nhưng Doãn Xích Tầm một kiến trúc sư trẻ, khi nghe
thấy tin đó, chỉ trong một phạm vi nhỏ hẹp, lập tức bày tỏ nghi ngờ. Anh cảm thấy,
nếu đứng trên Thiên An Môn mà nhìn thấy một rừng ống khói thì quả là một chuyện
hoang đường không thể tưởng tượng nổi. Bắc Kinh, thành phố văn hoá nổi tiếng
sao có thể biến thành một đại công xưởng được! Mấy năm sau, người ta điều tra
ra ý kiến của Doãn Xích Tầm ngả về phía Lương Tư Thành, anh và vợ là Chương Vũ
bị điều từ Bắc Kinh về một viện kiến trúc tỉnh lẻ. Lúc đó Chương Vũ là phiên dịch
tiếng Anh của phòng tư liệu viện thiết kế.
Lần điều động ấy không gây sóng gió trong lòng họ, hồi ấy
cách mạng đang lên, các thành phố không có gì khác nhau. Phần lớn người của viện
kiến trúc thiết kế Bắc Kinh cũng về nông trường này, nông trường nọ ở miền Nam
để lao động và học tập tập trung, cách mạng sẽ không bỏ rơi những đối tượng
cách mạng đó.
Họ đem theo hai cô con gái Doãn Tiểu Khiêu và Doãn Tiểu Phàm
đi theo, vừa làm quen với Phúc An lại phải xa ngay. Họ thu xếp ổn định cho con
cái, giao tất cả sổ hộ khẩu, sổ gạo, phiếu vải, tem thực phẩm, cả sổ tiết kiệm
và tiền nong cho Khiêu. Giao trách nhiệm nặng nề quản lí gia đình cho Khiêu
xong, họ cùng hầu hết những người của viện thiết kế đem theo hành lý về nông
trường Vĩ Hà. Cách thức này như ngầm bảo với họ lao động không có giới hạn,
không phải một tuần, không phải một tháng, có thể là mấy năm, họ chuẩn bị lâu
dài. Họ được giai cấp công nhân của nông trường lãnh đạo và quản lí, điều quan
trọng trước tiên là hai vợ chồng phải ở riêng - vợ chồng ở riêng sẽ giúp cho ý
chí cách mạng them kiên định và lao động nghiêm túc hơn. Họ ở trong căn nhà tập
thể lớn, đàn ông ở với đàn ông, đàn bà ở với đàn bà, nhà thì trống rỗng. Lao
đông cụ thể của họ là đóng gạch cho nông trường. Doãn Xích Tầm hàng ngày phải
kéo xe bò nặng nề, Chương Vũ thì hai tay đeo găng tay vải to xù đứng xếp gạch
lên xe.
Những trí thức lao đông ở nông trường Vĩ Hà, đội nam và đội nữ,
không ai phản đối cách mạng, sau giờ lao động họ có dư thời gian học tập, hoặc
phê phán đấu tranh, hoặc kiểm điểm lẫn nhau. Bằng phương thức đó họ nỗ lực tẩy
rửa những tàn tích phi vô sản còn rơi rớt trên thân mình, toàn thân lấm lem bùn
đất, chân giẫm lên phân bò, họ nhiệt tình muốn thay đổi cốt tuỷ, thịt da. Nhưng
đồng thời họ là lũ người nhu nhược, mơ tưởng hão huyền, than xác và long họ
không lúc nào yên ả. Khi kết thúc một ngày lao động mồ hôi nhễ nhại, mặt mày
nhem nhuốc, nam về nhà nam, nữ về nhà nữ, chồng khát khao vợ, vợ khát khao chồng.
Nếu không bị ràng buộc bởi bầu không khí và tâm lý thời đó,
xuất phát từ cách nhìn của một người thưởng thức, nông trường Vĩ Hà có một cảnh
sắc mênh mông xa vời . Hàng vạn mẫu lau sậy bao vây, lau sậy là của nông trường,
giống như những cánh hoa dày sít và mềm mại chung quanh bong hướng dương, nông
trường là một bông hoa hướng dương.Nhất là về mùa thu, lau vàng cao quá đầu người
và hoa trắng mịn như nhung trên ngọn bừng nở, hương thơm nhẹ nhàng, hiện lên một
vẻ yên tĩnh thanh khiết chối bỏ trần thế. Nó che tầm mắt mà cũng ngăn cản mọi
âm thanh, chỉ có những chú vịt trời màu nâu đậm chui lủi trong lau lách, vui
đùa, đẻ trứng không ai quấy rầy. Trong cái tĩnh lặng của lau sậy, con người chợt
cảm thấy sợ hãi và bất giác kêu lên, nhưng lại có cảm giác được sảng khoái được
tắm mình trong cái thanh khiết của ngàn lau. Khi đêm xuống, gió thu lay động, rừng
lau tựa như những cô gái đầu chùm khăn voan trắng, mặc váy trắng đang nín thở vội
vã dồn bước. Thật đáng tiếc, bức tường của nông trường đã ngăn cách rừng lau với
con người. Vợ chồng Chương Vũ và Doãn Xích Tầm không còn lòng dạ nào để ngắm
nhìn cánh rừng lau sậy nhấp nhô ngoài kia.
So với những làn sóng lau sậy nhấp nhô cùng vẻ yên tĩnh mênh
mang, nông trường càng tỏ ra bình lặng, đơn điệu. Từng dãy nhà gạch giống nhau
đứng thẳng hàng. Chỉ có một nơi hấp dẫn người ta nhất đó là ngôi nhà nhỏ tren đồi
kia. Nhưng đâu phải là đồi. Nơi này là đồng bằng không thấy đâu là cùng, cái gọi
là đồi kia chỉ là khu đất cao hơn một chút nằm ở cuối ruộng rau của nông trường,
gọi là gò đất cũng không đáng. Nhưng ở đồng bằng cao hơn một chút cũng là cao, ở
nơi bằng phẳng nếu có cao hơn cũng là cá biệt, trở thành khác thường, dù nó có
cao hơn bao nhiêu, nếu người ta muốn thì vẫn có thể gọi là đồi. Ngôinhà nhỏ
trên đồi.
Trên đồi có ngôi nhà nhỏ, ngày chủ nhật, chỉ có ngày chủ nhật,
cửa mới mở cho các đôi vợ chồng ở tập thể đến đây... vui vẻ. Còn ngày thường nó
bị khoá chặt. Chương Vũ và Doãn Xích Tầm không tính được ở đội nam và đội nữ có
bao nhiêu đôi vợ chồng, ít nhất có hơn sáu chục đôi. Là vợ chồng ai cũng cần
cái nhà nhỏ trên đồi kia, nhà chỉ có một gian, mà ngày cũng chỉ có một, bởi thế
họ phải xếp hàng.
Họ xếp hàng không giống xếp hàng mua rau ngoài chợ, tuy là cặp
vợ chồng chính đáng đấy nhưng lại không đàng hoàng xếp hàng chờ sử dụng cái
ngôi nhà nhỏ trên kia. Ai đấy đều hiểu hàm ý của "sử dụng", hiểu rõ đến
mức cực kỳ hưng phấn nhưng lại rất ngượng ngùng, xấu hổ. Bởi việc xếp hàng kia
mang vẻ mất tự nhiên, khiêm nhường hoặc là có học của người trí thức, có lẽ cả
chút mưu mẹo, bất lực. Từ sáng sớm chủ nhật, không ai thấy người xếp hàng rồng
rắn chung quanh ngôi nhà nhỏ mà chỉ thấy từng cặp trai gái ngồi quanh đấy. Họ,
hoặc ngồi dưới gốc cây, hoặc trong vườn rau, hoặc ngồi bó gối trên vài viên gạch
nói chuyện với nhau. Vẻ mặt họ cũng bình thản thôi, nhưng mắt lại nhìn chằm chằm
vào cánh cửa khép kín của ngôi nhà. Mỗi lần cửa mở là một đôi vợ chồng đã xong
việc ra về, một đôi khác ngồi gần cửa lại vào, một đôi ngồi xa lại nhích lên một
bước. "Một bước" ấy cũng thật đáng kể, ít ra còn cách cử mười lăm
mét, ai có thể đang tâm đến ngồi sát cánh cửa được. Có những đôi vợ chồng đến
muộn, đến muộn thì tính xem vị trí của mình nên ở chỗ nào, không có đôi vợ chồng
nào đến muộn lại tranh vào trước người khác. Kẻ trước người sau, các cặp vợ chồng
đều tính toán cả rồi. Thế trận mỗi nhóm hai người, trinh sát tiếp cận ngôi nhà
từ các hướng khác nhau, lại giống với thế cờ mà người khác không thể hiểu nổi.
Từng cặp vợ chồng mệt mỏi chờ đợi là những quân cờ trên bàn cờ. Kì thực đó là
thế cờ tản mạn nhưng không rối, chỉ cần xuất hiện một nước đi thì thế cờ mới có
chút rối rắm, tuy vậy vẫn không lộ rõ sự rối rắm. Trong kí ức, Chương Vũ và
Doãn Xích Tầm cũng có lần như vậy.
Cuối cùng thì cánh cửa kia cũng mở, một đôi vợ chồng ra. Vợ
chồng Chương Vũ và Doãn Xích Tầm biết rằng đã đến lượt mình, lập tức lặng lẽ tiến
vào. Lúc này có một cặp vợ chồng khác đang từ phía trước họ đi tới. Hai cặp vợ
chồng này đến cùng một lúc và khoảng cách của họ với ngôi nhà cũng bằngnhau. Nếu
thể hiện trên bản vẽ, hai đoạn thẳng nối hai đôi vợ chồng này với ngôi nhà nhỏ
kia sẽ tạo thành hai cạnh bằng nhau của một tam giác cân. Khi họ cùng xuất phát
về phíangôi nhà nhỏ thì họ cũng đồng thời phát hiện ra vẻ lúng túng khó xử. Khi
thấy lúng túng, có thể thoáng do dự, mà cũng chỉ thoáng do dự trong lòng, là biểu
hiện bề ngoài của những người được giáo dục. Nhưng hiện thực lại mạnh mẽ hơn,
hiện thực bảo họ phải vứt bỏ cái danh dự kia đi. Chương Vũ cảm thấy đôi chân
mình bước gấp hơn, bởi chị thấy từ một phía khác đôi vợ chồng kia đi nhanh hơn,
hình như họ bước dài hơn. Thế là chị cũng bước dài hơn... Chỉ chừng vài chục
thước thôi mà họ cảm thấy con đường xa quá, hai cặp vợ chồng lặng lẽ và quyết
liệt đua tốc độ. Họ vừa điều chỉnh bước đi, vừa quan sát đối phương, tính xem
phải đến trước bằng cách nào. Họ vội vã nên cũng chẳng để ý đến dáng đi. Dáng
đi chắc cũng chẳng đẹp gì, tranh nhau mà đi, cách đi cũng chẳng phải của vận động
viên. Thiêu một chút nữa là họ cất bước chạy, nhưng họ không chạy, cuối cùng họ
không chạy để làm cái việc vợ chồng mà chạy thì sẽ làm mất long nhau, tuy trong
lòng thì đã chạy như điên như cuồng rồi. Lúc này Chương Vũ vươn người bước
nhanh, quyết chiếm trước ngôi nhà nhỏ. Chị thấy xấu hổ vì bước đi dài, bởi bước
đi dài là nỗi thèm khát của chị. Chị chỉ muốn chồng mình thôi nhưng giữa thanh
thiên bạch nhật thế này, với dáng đi không lấy gì làm đẹp, chị đã nói với đất
trời, nói với lau sậy, nói với cây cối, nói với gạch ngói không liên quan rằng,
chị đang thèm khát được làm tình với chồng. Chị bước đi thật dài, không rõ mình
không biết xấu hổ hay không còn cách nào khác. Cho đến khi họ may mắn đẩy cánh
cửa bước vào nhà, chị cảm thấy vô cùng không phải với đôi vợ chồng đang đứng
ngoài.
Cuộc đua làm vợ chồng Chương Vũ và Doãn Xích Tầm mệt thở
không ra hơi, họ không kịp vuốt ve âu yếm và càng không nhiều lời với nhau mà cố
nhanh chóng hành sự. Bởi họ giành được trước, cảm thấy không nên ở trong này
lâu. Hầu hết các cặp vợ chồng vào căn nhà này đều làm thế cả, họ hiểu cái ràng
buộc mình, không ai có thể khép cánh cửa lại rồi còn dềnh dàng làm gì. Dù vậy,
cứ mỗi chủ nhật không phải cặp vợ chồng nào cũng được như ý muốn, những ai chưa
kịp đến lượt thì lặng lẽ chờ đến tuần sau vậy.
Cách nông trường chừng hai cây số, ở phố Vĩ Hà có một nhà
hàng bán thịt gà quay, chủ nhật, cũng chỉ có chủ nhật, những người ở đội nam và
đội nữ mới có thể ra phố giải toả sự thèm thuồng. Cánh đàn bà thường thèm ăn
hơn đàn ông. Sau khi Chương Vũ và chồng đã chiếm được căn nhà nhỏ, họ lại nghĩ
đến hang gà quay trên phố Vĩ Hà. Nhưng thật đáng tiếc, họ không thể cùng lúc có
được cả hai, không có cách nào vừa được vào căn nhà nhỏ vừa được thưởng thức
món gà quay. Muốn mua gà quay thì mỗi chủ nhật phải dậy thật sớm, hồi ấy gà
cũng là thứ quí hiếm, bởi nông trường có thêm những người bạn như Chương Vũ thì
số gà quay có hạn cũng nhanh chóng bán hết.
Cũng có cặp vợ chồng muốn được cả hai, lúc mờ sáng, cửa nông
trường vừamở, họ liền ra khỏi nông trường, chui ngay vào đám lau sậy dày đặc. Họ
không thèm chờ đợi cái nhà nhỏ kia nữa, chỉ cần hành sự xong trong đám lau sậy
rôì đi thẳng đến phố Vĩ Hà mua gà quay. Nhưng họ bị công nhân nông trường bắt
quả tang và bị qui kết là ý chí cách mạng không kiên định, tác phong sinh hoạt
đồi truỵ, phải kiểm điểm không biết bao nhiêu lần trong các cuộc họp.
Nhiều năm về sau Chương Vũ vẫn nhớ lại chuyện cũ, khi nhớ đến
nông trường Vĩ Hà thì chị lại phải cố lảng tránh không nghĩ nữa. Chị không thể
tưởng tượng nổi chỉ vì cùng lúc không đạt được cảhai việc mà chị đâm ốm nặng;
sau nửa năm ở nông trường Vĩ Hà chị bị chứng hoa mắt chóng mặt nặng. Hai lần chị
ngã xuống đống gạch và được phép nghỉ mấy hôm, nhưng vãn phải tham gia học tập
vào buổi tối, dù sao thì học tập cũng nhẹ nhàng hơn lao động.
Cũng không may, hai lần nữa chị ngã gục giữa buổi học tập. Chị
được đưa đến trạm xá của nông trường, thầy thuốc của nông trường không thể chuẩn
đoán ra cái bệnh hoa mắt chóng mặt kì lạ của chị. Huyết áp, mạch của chị vẫn
bình thường, nhưng cứ mỗi lần hôn mê chị lại tỏ ra chán nản, cứ tiếc rằng sao
mình lại sống làm gì. Nhưng rồi trông thấy vẻ tiều tuỵ và lo lắng của chồng, chị
mới cố để mình tỉnh hẳn lại. Chị rất yêu chồng nhưng khi thấy đôi tay nứt nẻ của
mình, gửi thấy mùi ẩm mốc của chăn chiếu, nhìn cái hòm gỗ dùng làm bàn để ở góc
nhà, cái cốc sứ bị chuột chạy làm gãy quai - cái cốc sứ sứt quai làm cho tất cả
trở nên khốn khổ... Chị nhìn mọi thứ rồi mạnh dạn nghĩ, trước cái khốn khổ vô
cùng vô tận này, chị lại muốn chìm đắm trong cơn mê sảng. Đúng là chìm đắm, chị
trốn trong cái mê sảng, đến chết cũng không thú nhận sự thật với ai, kể cả chồng
mình.
8
Nằm thật thích, đầu và cổ chị vùi trong chiếc gối lông vũ to
xốp. Vài lọn tóc ngắn buông xoã trước trán, che lấp khuôn mặt, những người ở
nông trường Vĩ Hà không thể nào tìm thấy chị, chị cho hai tay vào chăn, sẽ
không còn cho tay vào đôi găng vải thô, đứng thở ttrước đống gạch đầy bụi đỏ.
Chương Vũ tỉnh lại, biết rằng mình đang nằm ở nhà mình, phía
dưới là cái giường của mình, gối lên cái gối của chính mình - cái gối, gối ơi,
chị uể oải xoay đầu trên gối. Đầu chị di nhẹ trên cái gối trắng tinh, cái đầu
như nũng nịu cái gối đắt tiền bởi phải xa nhau lâu ngày mới được gặp lại. Chị
nghĩ, thủa nhỏ chị là đứa trẻ lười biếng, mỗi buổi sáng phải dược chị Điền (vốn
là vú nuôi, về sau thành người giúp việc gia đình) đứng trước giường gọi vài ba
lượt mới dậy. Hồi đó Chượng Vũ như thế, đầu cứ lăn lăn trên gối làm tóc sau gáy
rối cả lên, chân đạp mạnh trong chăn, lăn bên này rồi lăn bên kia vờ ngủ. Chị
Điền phải kiên trì gọi vài ba lần cô bé Chương Vũ mới mở mắt đòi chị làm mặt xấu,
làm tiếng mèo, tiếng chó, tiếng vẹt học nói. Chị Điền lấy tạp dề quấn thành
khăn mỏ quạ giả làm bà sói, rồi chị kéo dài giọng làm tiếng mào, cuối cùng mới
giả làm tiếng vẹt học nói: "Chị Điền dọn cơm! Chị Diền dọn cơm!" Chị
Điền chìa cặp môi dày, vươn dài cổ làm con vẹt khiến Chương Vũ phá lên cười. Chị
học theo tiếng con vẹt nuôi trong bếp vẫn làm bạn với chị. Những lúc nhàn rỗi,
Chương Vũ hay vào bếp, rất thích nghe tiếng vẹt, bởi chị Điền học tiếng vẹt hay
vẹt học tiếng chị đều rất giống nhau. Về sau, khi đã vào đại học, Chương Vũ rất
muốn đưa chị Diền theo, tất nhiên không phải để gọi dậy sớm, dậy sớm đã trở
thành thói quen, mà vì tiếng gọi léo nhéo của chị mỗi buổi sáng đã trở thành một
phần giấc ngủ ngon lành và biếng nhác của Chương Vũ.
Chương Vũ vẫn di di cái đầu vào gối như muốn dựa thật sát vào
nó. Chị được nông trường cho về Phúc An chữa bệnh, chữa hoa mắt chóng mặt không
rõ căn nguyên, thời hạn là một tuần lễ. Chị thích lắm, Doãn Xích Tầm cũng mừng
cho vợ, anh tranh thủ ngày chủ nhật ra phố mua hai con gà quay đem về cho con.
Tuy Khiêu viết thư cho bố có nói "chúng con sống rất tốt", nhưng anh
lại nghĩ, để hai đứa trẻ sống như thế với nhau chẳng có gì là tốt cả, bản thân
sự việc ấy đã là không tốt. Nếu em ở nhà được lâu thì tốt. Anh nói với vợ. Anh
không nghĩ rằng câu nói ấy trở thành lí do đầy thuyết phục để Chương Vũ ở lại
Phúc An lâu: anh chẳng mong thế là gì? Chẳng phải anh rất muốn em ở nhà sao? Chị
nói to với chồng nhưng lại thiếu tự tin.
Một tuần đối với Chương Vũ thật quí báu. Trước tiên, chị vùi
đầu vào gối ngủ ba ngày liền, bất chấp ra sao, ba ngày không rời giường, ngủ bù
lại sáu tháng thiếu ngủ. Chị lúc đói, lúc khát mới mở mắt bảo cô con gái lớn
đưa cơm đưa nước dến bên giường. Ăn xong, uống xong lại ngủ, lại ngáy se se.
Khiêu phát hiện mẹ ngáy, nó nghĩ mẹ từ ngày về nông trường Vĩ Hà mới bắt đầu
ngáy.
Rồi chị cũng thức dậy, chị hoạt động cho giãn gân giãn cốt, cảm
thấy đầu óc tỉnh táo, chân tay khoẻ khoắn, bụng sạch sẽ trống rỗng như đang chờ
ăn uống thật nhiều. Chứng hoa mắt chóng mặt như biến đi đâu mất. Chị thấy thật
hạnh phúc vì không chóng mặt nhức đầu, nhưng lại nhanh chóng cảm thấy sợ hãi:
bao giờ chứng chóng mặt nhức đầu sẽ trở lại? Nếu không còn chóng mặt nhức đầu
thì chị đâu còn được khám bệnh ở bệnh viện nữa. Mà chị thì rất cần được đi khám
bệnh, trong tuần lễ nghỉ này chị phải đi khám để khi về báo cáo lại với y tế
nông trường.
Chị ngồi trên giường, cố tìm lại cảm giác của chứng chóng mặt.
Phàm cứ đứng bồi hồi vân vê váy của nó vàhỏi: mẹ, mẹ còn chóng mặt nữa không?
Đúng là chị còn hơi chóng mặt, ngay cả Phàm cũngbiết mẹ có chứng chóng mặt, tại
sao nó lại không bị nhỉ? Chị đến bệnh viện bằng xe buýt.
Hành lang bệnh viện Nhân dân ồn ào, lôn xộn, mùi thuốc mê lẫn
với nhịp thở ốm yếu của bệnh nhân ngồi chờ khám làm Chương Vũ định bẻ về. Ngồi
chờ rất lâu cô y tá mới gọi đến số của chị, chị vừa ngồi trước mặt một bác sĩ
thì một bác nhà quê vào nói: bác sĩ ơi, bác sĩ đừng đùa với lão nhà quê này nữa,
lão phải đi cả trăm cây số đến khám bệnh, bác sĩ chỉ cho được một hào thuốc thì
chữa bệnh gì kia chứ? Có phải bác sĩ đùa lão không đấy... Ông già khẩn thiết
yêu cầu bác sĩ kê thêm vài thứ thuốc quí, ông cứ kì kèo mãi, bác sĩ đành phải
viết lại đơn thuốc.
Họ tên? Người bác sĩ hỏi nhưng vẫn cúi đầu. Chị nói họ tên
mình, lúc này bác sĩ mới ngước lên, nhìn Chương Vũ rồi nghe chị kể bệnh tình.
Không hiểu sao chị có chút bối rối, chị cứ ấp úng, chị như không chịu nổi cái
nhìn của người bác sĩ, tuy biết đó chỉ là cái nhìn nghề nghiệp. Bác sĩ trạc tuổi
chị, khuôn mặt gầy gò sáng sủa dưới vành mũ trắng sạch sẽ, đôi mắt bé nhưng
lòng đen rất đen, anh nhìn chị bằng đôi mắt đen nhỏ, ánh mắt của anh như hai
viên đạn chì bắn ra, nhảy nhót trên khuôn mặt chị. Cũng như những bác sĩ khác,
anh không nói nhiều. Anh nghe nhịp tim của chị rồi viết mấy phiếu xét nghiệm
thông thường như đưòng trong máu, mỡ trong máu, điện tâm đồ và bảo chị đi chụp
X quang ở vùng cổ.
Có những xét nghiệm phải chờ mấy hôm sau mới có kết quả, có
xét nghiệm chỉ một hôm là được. Hôm sau chị lại đến bệnh viện, chị lấy sổ khám
nội khoa trước, rồi đi lấy kết quả các xét nghiệm và ngồi chờ bác sĩ Đường - chị
biết tên bác sĩ nhờ ở đơn thuốc.
Một lần nữa chị ngồi trước mặt bác sĩ và cảm thấy ngay lòng
đen mắt bác sĩ đang lướt trên khuôn mặt mình. Chị đưa các phiếu xét nghiệm, bác
sĩ cúi xuống xem một lúc rồi ngước lên nói, chị yên tâm, sức khoẻ của chị rất tốt,
không có bệnh gì cả. Tôi nghĩ đến đốt sống cổ của chị hoặc tim chị có vấn đề
nhưng bây giờ thì tôi có thể nói chị không có bệnh gì cả.
Anh ta nói gì vậy? Chị nghĩ. Lẽ nào bác sĩ nói mình không có
bệnh? Nếu không có bệnh thì làm sao rời bỏ nông trường được? Phải, phải bỏ cái
nông trường Vĩ Hà ấy thôi. Lúc này chị hiểu ý muốn của mình: bỏ nông trường Vĩ
Hà. Chị không muốn trở lại cái nông trường kia nữa, bởi thế chị phải có bệnh,
không thể không được.
Không thể thế được! Chị nói vớibác sĩ và tái mặt, đứng dậy.
Bác sĩ vừa ra hiệu mời chị ngồi xuống, vừa ngạc nhiên hỏi, tại
sao chị cứ muốn mình có bệnh?
Bởi tôi yếu, tôi có bệnh. Chị ngồi xuống và trả lời dứt
khoát.
Vấn đề là chị không có bệnh gì cả. Bác sĩ xem lại những phiếu
xét nghiệm trên mặt bàn và cả bản điện tâm đò, phim chụp X quang, nói: nguyên
nhân có thể do tinh thần, tinh thần quá căng thẳng.
Tôi không căng thẳng, xưa nay tôi chưa bị căng thẳng bao giờ.
Chị phản bác lại bác sĩ.
Nhưng chị đang có biểu hiện tinh thần căng thẳng. Bác sĩ Đường
nói.
Một lần nữa chị bác lời bác sĩ mà nói rằng chị không bị căng
thẳng mà thật sự có bệnh. Chị cảm thấy mình ngang ngược bất chấp lẽ phải, chẳng
những không thuyết phục được bác sĩ mà còn không thuyết phục được cả chính
mình.
Bác sĩ cười nói: dĩ nhiên tinh thần căng thẳng cũng là một thứ
bệnh, một trạng thái của bệnh. Nhưng tôi là một bác sĩ nộikhoa, không có quyền
chuẩn đoán bệnh này, tôi chỉ có thể... chỉ có thể...
Kết luận của bác sĩ làm một lần nữa chị đứng dậy, chị bắt đầu
nói năng lộn xôn như một bà già: tôi không những có bệnh mà còn có hai đứa con,
chúng còn nhỏ lắm. Tôi và chồng tôi đều ở nông trường, không ai chăm sóc chúng
cả. Nông trường Vĩ Hà như bác sĩ biết đấy, rất xa Phúc An, ngày thường tôi không
thể về được, hai dứa con gái của tôi, chúng... chúng... cho nên... Chợt chị ghé
sát mặt bác sĩ, hạ giọng nói thật khẽ, thì thầm như tuyệt vọng - anh không thể....
không thể... tiếp theo chị thấy trời đất quay cuồng, cơn chóng mặt lại đến, chị
mất hẳn cảm giác.
Chị vào nằm ở khoa nội, do bác sĩ Đường điều trị.Khi tỉnh lại, điều chị nghĩ đến trước tiên là đôi mắt đen của
bác sĩ. Chị còn nghĩ lại những điều chị nói nhỏ với bác sĩ trước khi chóng mặt
ngã xuống, những lời thì thầm van xin - đúng là những lời van xin, chị nói thầm,
khe khẽ với người đàn ông không quen biết. Chị có thể giải thích vì sợ người
khác trong phòng khám nghe thấy, vậy thì, chị không sợ người bác sĩ không quen
biết đuổi một phụ nữ không bệnh tật ra khỏi bệnh viện và thông báo về đơn vị của
chị ư? Thời ấy, mỗi bác sĩ có thêm chức trách giám sát ý thức tư tưởng bệnh
nhân. Chị sợ, nhưng chị muốn dùng lời thì thầm để sống mái một phen với người
đàn ông cầm giữ số phận mình. Cơn chóng mặt cũng giúp chị. Một phụ nữ có thể
chóng mặt hôn mê bất cứ lúc nào thì những lời thì thầm van xin thê thảm, đáng
thương hơn cả khóc kêu trời đất, những lời thì thầm mềm mỏng ấy giống như một
tín hiệu mờ tỏ và khơi gợi mơ hồ, bất định. Có thể không phải chị cố ý phát tín
hiệu và sự khơi gợi nơi chị đã dẫn dắt chị.Chị nằm trên giường trắng tinh của khoa nội mà cảm thấy chưa
bao giờ được khoẻ khoắn như thế này. Sau này chị nói với hai cô con gái chị khoẻ
như thế là nhờ thời nhỏ được bồi dưỡng đầy đủ: dầu cá, viên canxi, vitamin... dầu
cá của Đức, bà ngoại bắt chị bịt mũi mà uống. Khiêu nhìn mẹ bằng con mắt xét
đoán, thế tại sao mẹ còn chóng mặt?Nằm trên giường đệm trắng của khoa nội chị có cảm giác mình
được thu nhận - bác sĩ thu nhận chị, khiến chị được xa nông trường Vĩ Hà, xa là
gạch, xa các buổi học tập kiểm điểm, xa cả cách mạng. Cách mạng, bài học mà
ngày nào ở nông trường chị cũng phải ôn tập. Những lời chủ tịch Mao Trạch Đông
về cách mạng không những ngày nào cũng phải đọc thuộc, nó còn được phổ nhạc, chị
nhớ nhập tâm, hát cũng thật đầy đủ: Cách mạng không phải là mời khách ăn
cơm, không phải là viết văn làm thơ, không phải là vẽ vời thêu thùa hoa lá,
không thể đẹp mắt, không thể ung dung nhàn hạ, tao nhã lịch sự, không thể ôn
hoà. Cách mạng là bạo động, là hành động bạo liệt của một giai cấp với một giai
cấp...Cách mạng là bạo động, phải bạo động. Chương Vũ phải xa lánh
bạo động, chị khao khát đôi mắt đen với cái nhìn tập trung điềm tĩnh của bác sĩ
Đường, chị rất muốn được anh áp ông nghe lành lạnh, tròn tròn vào ngực.Một đêm, đúng phiên trực của bác sĩ Đường, chị cảm thấy chóng
mặt, ấn chuông, thế là anh chạy đến ngay phòng chị nằm. Thời gian đó, phòng bệnh
có bốn giường thì chỉ có một mình Chương Vũ, về sau chị không bao giờ hỏi bác
sĩ Đường phải chăng anh cố ý sắp xếp như thế hay là ngẫu nhiên chị được nằm
riêng một phòng. Lúc đó, đêm đã khuya, anh bật đèn, cúi xuống hỏi chị khó chịu
thế nào, chị lại nhìn thấy đôi mắt đen của anh. Chị nghiêng đầu về mộtbên,nhắm
mắt nói tim khó chịu. Anh lấy ống nghe, theo cảm giác chị biết anh đang lấy ống
nghe. Anh áp ốngnghe lên người chị, khi cái vật lành lạnh áp vào da thịt, chị ấn
tay anh xuống, bàn tay đang cầm ống nghe, thế rồi chị tắt dèn.Trong bóng tối hai người để yên hồi lâu, cả hai cùng nín thở.
Bàn tay anh bị ép chặt không động đậy, dù anh biết chị ép chặt để anh không cử
động. Chị cũng không động đậy, chỉ có con tim đang đập điên cuồng dưới bàn tay
ép chặt đang chồng lên nhau. Hai người không động đậy, dường như đang đọ sức,
kéo dài thời gian, như chờ đợi đối phương tấn công, như đợi đối phương buông
tha. Lòng bàn tay chị ướt mồ hôi, mồ hôi làm ướt mu bàn tay anh, cơ thể chị bắt
đầu lên xuống nhấp nhô trong bóng tối, bởi một luồng hơi nóng từ bụng dâng cao,
trào ra, cháy lên giữa hai cặp đùi. Chị bắt đầu thì thầm bên tai anh như hôm ở
phòng khám. Tiếng chị nhỏ hơn, kèm theo hơi thở gấp. Trong hơi thở rõ ràng có
phần vờ chủ động, lại có chút gì như bị động. Chị thì thào nhắc đi nhắc lại:
anh không được... anh không được... không được... Anh không hiêủ chị bảo anh
không được buông tay ra hay không được tiếp tục như thế nữa, nhưng anh rút ống
nghe ra, vứt nó đi, rồi rất bình tĩnh và quyết đoán đặt hai tay lên bầu vú chị.Khi cả tấm thân cao gầy sạch sẽ của anh áp lên tấm thân trần
truồng ngồn ngộn của chị, thì lòng chị bỗng thanh thản chưa từng có. Đúng vậy,
thanh thản, chị không hề cảm thấy tội lỗi. Lúc này chị mới tin mình đã bị bác
sĩ Đường thực sự thu phục. Cánh cửa khát khao của chị mở toang, hai tay chị ôm
ngang người anh, hai chân chị giơ cao cặp chặt lấy đùi anh, chị không để cho
anh ngưng nghỉ, trong cùng động tác chị kê cái gối xuống mông, để anh vào thật
sâu, không phải vào sâu mà là xuyên xuốt người chị, xuyên suốt toàn thân...9Đêm tối đã đến như thế, đến trong nỗi trông mong khi chị ăn
không ngồi rồi, không biết xấu hổ. Chị hít thở trên tấm gối đầy mùi của phòng
giặt, hít thở không khí sặc mùi lizon cố hữu của bệnh viện. Khi một
phụ nữ khoẻ mạnh bị bỏ vào bầu không khí lẫn lộn mùi phòng giặt và mùi lizon cách
li với thế giới bên ngoài, thì một bộ phận nào đó của cơ thể chị ta sẽ sản sinh
hưng phấn hợp tình hợp lí.Lúc này Chương Vũ nén chặt hưng phấn, thầm đợi chờ. Tối hôm
qua, khi rời phòng bệnh bác sĩ Đường nói với chị, có thể chị bị bệnh tim thể
phong thấp, anh cấp cho chị một giấy chứng nhận bệnh tình và giấy nghỉ ốm một
tháng, thời hạn tối đa mà một bác sĩ bệnh viện Nhân dân được phép cấp vào thời
đó. Chị không trông đợi tờ giấy nghỉ ốm để được ở lại Phúc An, trông đợi như thế
làm chị tỏ ra thấp hèn, hàm ý trao đổi thật rõ ràng, thà rằng chị trở thành người
chờ đợi tình dục. Đến với bác sĩ Đường chị có cảm giác chưa từng có, tưởng như
vì căng thẳng, vụng trộm nên khoái cảm cũng khác thường, lại tự như sa xuống vực
cứ phó mặc cho số phận, để nó rơi xuống đáy sâu.Bác sĩ Đường đến, khi anh đưa chị tờ giấy nghỉ ốm, chị lại tắt
đèn. Lần này thì chị chủ động vuót ve anh, có thể việc kích thích cơ thể làbản
năng nguyên thuỷ nhất của người đàn bà. Chị vuốt tóc anh, vuốt ve khuôn mặt
quen thuộc, chị phủ phục lên người anh, tìm cặp môi anh, chị không chạm vào môi
anh, mà anh cũng không chạm vào chị. Chị phát hiện anhkhông muốn áp sát vào mặt
chị, khi tóc chị quệt ngang khoé miệng anh, anh như vội vã kéo mạnh đầu chị xuống,
kéo mạnh xuống, khuôn mặt chị lướt ngang, lướt ngang, lướt ngang ngực anh, lướt
ngang bụng anh, rồi khuôn mặt chị lướt xuống vùng có bụi gai rậm rạp chọc vào
da thịt... Chị không còn nhớ anh rời khỏi phòng lúc nào, khi chị trấn tĩnh định
lau sạch cơ thể thì mới phát hiện ra tờ giấy nghỉ ốm vẫn nắm chặt trong tay.Chị ra viện về nhà. Chị nói với hai cô con gái rằng chị được ở
nhà một tháng, một tháng. Nói xong chị nằm xuống giường, chị nghĩ mình có bệnh
tim thể phong thấp, nên cần phảinằm. Chị ngồi tựa vào cái gối lông vũ to tướng,
lần lượt viết thư cho lãnh đạo nông trường và cho chồng, gưỉ kèm giấy khám bệnh
và giấy nghỉ ốm. Chị đưa thư cho bé Khiêu đi gửi. Khiêu cầm thư hỏi, mẹ, mẹ muốn
ăn gì không?Muốn ăn gì? Chương Vũ nghe con hỏi, nhìn cô con gái mười hai
tuổi. Câu hỏi tỏ rõ vẻ quan tâm của con gái, khó mà có một đứa bé nhỏ thế đã biết
quan tâm đến người khác, nhưng cái quan tâm như thiếu một chút nồng ấm giữa
haimẹ con. Khiêu chưa bao giờ làm nũng mẹ, cũng chưa bao giờ quấy khóc, chị
không biết trong cái đầu thơ dại của con gái mình nghĩ gì. Phàm mới bảy tuổi
cũng bị ảnh hưởng của chị, đứngbên cạnh bắt chuyện với mẹ: mẹ, mẹ ăn gì nào? Tưởng
mẹ thích ăn gì thì nó có thể làm cho. Chị nhìn hai cô con gái đứng bên giường,
thế rồi cảm thấy mình như khách trong nhà mà hai chị em Khiêu, Phàm là chủ.
Nhưng chị cũng đã nghĩ được mình muốn ăn gì, chị nói với hai con muốn ăn cá.
Khiêu ra bưu điện bỏ thư, rồi đến hàng thực phẩm mua một con cá chép thật to.
Người bán hàng luồn sợi dây qua miệng con cá để Khiêu xách về. Nó nhớ giá tiền
con cá: chin hào năm xu. Năm tháng làm Khiêu quên nhiều chuyện nhưng con cá
chín hào năm xu thì nhớmãi. Cái đáng nhớ nữa là tình cảm của Khiêu lúc bấy giờ:
nó vừa đi vừa vất vả giữ con cá vẫy vùng, vui, chân thật, thêm chút tự hào.
Khiêu muốn mẹ ra mở cửa, muốn mẹ biết khi bố mẹ vắng nhà với nó thật không đơn
giản. Nó không những biết mua, còn biết làm cá. Khiêu về đến nhà, bỏ con cá vào
chậu nước, đánh vẩy, mổ bụng, rửa sạch, cắt cá thành từng khúc, rắc lên một lớp
bột mỏng, rán... Cuối cùng nó làm một đĩa cá rán vàng ươm lên cho mẹ. Lửa nóng
làm khuôn mặt xinh xinh của Khiêu đỏ hồng, mồ hôi trên trán chảy ròng ròng xuống
hai bên, tay áo xắn cao, cánh tay của nó mới bé làm sao.Phàm thì chạy lăng xăng, hoan hô rối rít, nó thấy tự hào vì
chị. Nó khoe với mẹ về những điều thường thức: mẹ biêt khi làm cá bị vỡ mật thì
phải làm thế nào không? Mẹ ơi, mẹ phải đổ nhanh một ít rượu vào bụng cá...Món cá rán của Khiêu làm mẹ bất ngờ, sống mũi cay cay, đúng vậy,
sống mũi cay, chị khóc. Đó là lần đầu tiên sau khi về nhà, một lỗi lầm, một nỗi
ân hận không thể nào gìm giữ nổi. Lúc này chị mới nhớ ra, từ lúc về đến giờ chị
chưa hỏi han hai con gái ở nhà ra sao, học hành thế nào, hàng ngày ăn uống gì,
có ai bắt nạt không... Chị muốn ôm hai con vào lòng nhưng lại không có khả năng
đó. Không phải người mẹ nào cũng có khả năng vỗ về vuốt ve con cái, cho dù mọi
đứa trẻ ở đời đều muốn được đón nhận tình mẹ. Có thể Khiêu giữ thái độ cảnh
giác vì trước tình cảm nồng nàn của mẹ, cả lúc mẹ khóc, ví như khóc cũng là là
một tình cảm nồng nàn, khóc làm Khiêu thấy khó xử. Đó là điều đáng tiếc suốt đời
của hai mẹ con, cả hai dường như không thể cùng vui, cùng buồn, nếu mẹ không chậm
nửa nhịp thì con chậm nửa bước. Bởi thế, Chương Vũ khóc cũng không an ủi và gây
xúc động Khiêu, nó chỉ cố để hiểu được mẹ, đồng thời rất hài lòng.Ba mẹ con bắt đầu ăn món cá. Chị nói, mẹ sẽ đan cho mỗi đứa một
cái áo len. Chị nói rất khẩn thiết, tưởng như đan áo là một hình thức ôm ấp
khác, chị không thể ôm ấp chúng nên chị phải đan áo cho chúng. Khiêu nói, mẹ
đan cho em Phàm trước, áo màu hoa hồng đẹp nhất, phải không Phàm? Phàm cũng nói
áo màu hoa hồng đẹp, con thích màu hoa hồng. Lòng trung thành của nó đối với chị,
sự hưởng ứng nhiệt liệt khiến Khiêu mỗi lần nhớ lại đều như một giấc mơ. Tiếp
đó, Chương Vũ mượn bầu không khí vui vẻ để nói chuyện mời khách đến chơi. Chị
nói, mẹ nằm viện đã làm cho một bác sĩ... bác sĩ Đường phải vất vả nhiều, bởi
thế mẹ muốn mời bác sĩ Đường đến ăn cơm để cảm ơn. Chị nói, các con nhỏ dại các
con không hiểu được khám bệnh phải khókhăn đến mức nào, nếu không có bác sĩ Đường
giúp thì không chừng mẹ gặp nguy hiểmtính mạng t\rồi, đừng nói đến giấy nghỉ ốm.
Chị cố tình nói ba tiếng "giấy nghỉ ốm" thật mơ hồ, nhưng Khiêu vẫn
nghe rõ. Nếu không có cái giấy nghỉ ốm ấy thì mẹ đâu được ở nhà một tháng.
Khiêu nói, điều ấy thì con hiểu lắm, mẹ có bệnh thì mới được cấp giấy nghỉ ốm,
chứ làm sao bác sĩ cho mẹ được? Chương Vũ nói, không nhất thiết mọi người ốm đều
được nghỉ. Tóm lại, bác sĩ Đường rất quan trọng, chúng ta phải cảm ơn bác sĩ.Vậy là cảm ơn. Một hôm chủ nhật, Chương Vũ dậy sớm khác thường,
chị bảo Khiêu giúp, chị vào bếp bận suốt ngày. Đã lâu lắm chị không làm việc
nhà, rất lạ với việc bếp núc, cảm thấy mình không còn chuẩn xác đối với muối,
đường, mỡ, mì chính, thật ra chị sợ công việc bếp núc như sợ nông trường Vĩ Hà
vậy. Nhưng chỉ khi bận bịu ở trong bếp, chỉ những lúc như thế chị mới nghĩ ở
nông trường Vĩ Hà cũng có cái tốt, ấy là không phải nấu cơm, mọi người cùng ăn ở
nhà tập thể. Chị làm mấy món ăn, luôn miệng hỏi Khiêu cách nêm gia vị. Nào là
tương ớt, hương liệu... chị đều quên sạch. Cuối cùng chị định làm món ngọt: món
tiểu tuyết cầu rán. Chị bàn với con gái, Khiêu nói đó là món của bố, bố không
có nhà không ai biết làm. Chương Vũ nói, sao không biết, nguyên liệu là sữ
tươi, trứng gà, đường trắng chứ gì. Khiêu nói, còn hương liệu với acid
citric nữa, không có acid citric thì sữa chỉ là nước, nó không
thể trở thành viên tuyết câu được. Khiêu nói không có acid citric, mẹ tin
lời con gái, tuy chị cảm thấy Khiêu có vẻ giấu nghề.Món tiểu tuyết càu được đổi sang món táo thái chỉ, Khiêu rất
ghét món đó. Xưa nay nó rất ghét những món thái chỉ, cái món mà mỗi người gắp
những sợi thức ăn thái nhỏ, kéo tung cả lên rồi chấm vào nước chấm, có gì là
ngon đâu, vừa không vệ sinh, vừa không văn minh. Món táo tẩm đường ấy có gì lạ,
có gì lạ. Hơn nữa, Chương Vũ làm món táo thái chỉ lại không biết cách xào đường,
cho dù làm thế nào đi nữa cũng không thành được những cuộn sợi táo, đành phải
làm thành từng đống bết vào nhau, ăn chỉ tổ dính răng dính lợi. Khiêu cứ phải lấy
lưỡi đá vào hàm, có lúc phải cho tay vào cậy nó ra. Tuy vậy cũng coi là món ngọt,
kỹ thuật xào nấu của Chương Vũ rất xoàng, Khiêu đã bảo với mẹ là không có acid
citric rồi mà.Thức ăn đã dọn lên, Chương Vũ đi thay quần áo. Cái gọi là
thay quần áo cũng chỉ là mặc đi mặc lại mấy bộ, kiểu cách cũng tàm tạm, có xám,
có xanh lá cây, có xanh lam. Nhưng sắc mặt Chương Vũ rất đẹp, có thể nói dáng
điệu đã đổi khác. Chị cứ soi gương luôn, rồi cúi đầu bảo Khiêu ngửi xem có mùi
hành mỡ gì không, hay là mẹ đi gội đầu?Khiêu ngửi đầu mẹ thấy có mùi mỡ, nhưng không có thái độ gì.
Đột nhiên nó hỏi mẹ, bác sĩ Đường là đàn ông hay đàn bà hả mẹ? Chương Vũ lặng
đi rồi đứng thẳng dậy, tóc che nửa khuôn mặt, chị nói là... là chú, các con phải
gọi bằng chú, chú thì sao nào?Không sao cả! Khiêu nói. Không hiểu sao nó không nói vớimẹ đầu
mẹ có mùi dầu mỡ, nó không muốn mẹ đi gội đầu bởi lần tiếp khách này. Nó thấy mẹ
chuẩn bị bữa ăn thật công phu, tỉ mẩn, mất thời gian mà xưa nay chưa thấy mẹ
làm bao giờ, cả việc đối với nó và Phàm. Chương Vũ không để ý đến thái độ của
con gái, chị đi gội đầu, dường như phát hiện ra Khiêu không nói thật. Mái tóc
ngắn đen nhánh cùng khuôn mặt rạng rỡ sang láng, đôi lông mày uốn cong mềm mại
không ai có, khiến Khiêu thấy mẹ đẹp lắm. Chưa bao giờ nó nói với mẹ điều đó,
tuy nó thấy mẹ rất đẹp.Bác sĩ Đường đến, một người đàn ông rất gò bó, nói giọng Bắc
KInh. Anh không đội mũ trắng, đến lúc này Chương Vũ mới được thấy mái tóc anh.
Tóc hơi vàng, lòng đen của đôi mắt càng đen hơn. Hai người thật khách khí, lúc
ăn cơm mẹ bảo hai con gọi bác sĩ Đường bằng chú,nhưng Khiêu chỏi gọi bác sĩ Đường.
Phàm cũng gọi bác sĩ Đường, bác sĩ Đường. Phàm có một bộ đồ chơi dụng cụ y tế,
có bơm tiêm, ống nghe, lại cả cái bàn mổ hình bầu dục. Nó đem bộ dụng cụ y tế
ra cho bác sĩ Đường xem, nói chỉ tiếc là không có cái cặp sốt, nó phải dung que
thay thế, đo xem ai sốt thì tiêm, sốt thì phải tiêm, có phải không bác sĩ Đường?
Nó nhắc đi nhắc lại tiếng "sốt", từ khi biết nói nó cho rằng mọi thứ
bệnh đều phải sốt cao.Cơm xong, bác sĩ Đường ngồi nói chuyện rât lâu với Chương Vũ,
anh đưa cho chị cuốn Thường thức y học gia đình đóng bìa cứng, nói với
chị trong đó có chương viết về bệnh tim thể phong thấp. Chị nhận cuốn sách, bất
chợt nhìn thấy tay áo len của anh bị tuột sợi. Chị nghĩ, tại sao mình lại nói
trước với hai con gái rằng sẽ đan áo lên cho chúng nhỉ?Chị mua len màu ghi nhạt trông rất sạch sẽ, bắt đầu ngồi tựa
gối đan áo. Chị đan vào ban ngày, đan khi Khiêu di học và buổi tối khi hai con
đã đi ngủ. Điều đó khiến chị có vẻ như lén lút, vụng trộm, bởi chị không muốn
cho hai cô con gái trông thấy. Nhưng nhà cửa tuyềnh toàng trống trải, chị biết
giấu tấm áo đan dở vào đâu? Cuối cùng Khiêu cũng thấy cái áo len màu ghi nhạt
đang đan dở.Nó hơi lạ, hỏi mẹ có phải áo của em Phàm không, mẹ bảo đan áo
cho em Phàm kia mà? Chương Vũ giật lấy tấm áo và nói, mẹ sẽ đan cho em, nhưng mẹ
đan cho mẹ trước dã. Khiêu nói, đây không phải là kiểu áo nữ, không phải áo của
mẹ. Nó đứng bên giường mẹ rất giận.Hôm sau Chương Vũ giở tấm áo ra định đan tiếp thì thấy mất một
ống tay áo sắp đan xong.10Ống tay áo nhất định là Khiêu đã tháo ra, kim đan cũng không
thấy đâu, len thì bị tháo tung, từng mũi đan đều mang tâm huyết của chị. Chị bực
lắm nhưng lại không dám làm ồn, chị cầm tấm áo rối tung ấy, nén giận hỏi Khiêu
cho ra nhẽ. Chị cứ tưởng phải mất thì giờ lắm mới làm nó thừa nhận sự việc,
nhưng không ngờ vừa hỏi, Khiêu trả lời thật rõ ràng, cứ như chờ sẵnđể trả lời
khi mẹ hỏi đến.Con tháo tay áo này ra phải không? Chị hỏi.Con tháo đấy! Khiêu trả lời.Mẹ có làm điều gì không phải để con tháo tay áo này ra?Mẹ nói đan cho em Phàm trước, mẹ không giữ lời hứa.Đúng là mẹ nói thế, nhưng... mẹ đi phố không có len màu hoa hồng,
thấy màu này, màu này đẹp, rất thích hợp cho người lớn...Người lớn nào? Khiêu cắt ngang lời mẹ.Người lớn nào? Chương Vũ nhắc lại câu hỏicủa con. Như mẹ chẳng
hạn, như mẹ đây. Tiếng chị nhỏ lại.Đâu phải áo của mẹ, kiểu áo đàn ông đấy chứ! Giọng của nó rất
đanh.Sao con biết đây là áo đàn ông, con đâu biết đan. Chị giận lắm
rồi.Con biết, trước kia mẹ đã đan, đan cho bố, cái áo này mẹ đan
cho bố à? Khiêu nhìn thẳng vào mắt mẹ.Đúng... đúng thế. Chị tưởng như bị con gái dồn cho không lối
thoát, chị biết nếu nói dối đan áo cho chồng thì thật ngu xuẩn, biết đâu nó viết
thư cho bố, bảo mẹ đang đan áo cho bố đấy. Chị nói, áo đan cho bác sĩ Đường,
bác sĩ Đường nhờ đan giúp. Bác sĩ Đường chưa có vợ, không ai chăm sóc, nên chị
đồng ý đan giúp, chị còn chuẩn bị giới thiệu cho anh một người bạn gái...Không
hiểu tại sao chị nói với Khiêu những điều ấy.Sao vừa rồi mẹ nói đan cho mẹ? Khiêu vẫn chưa chịu.Chương Vũ ngượng quá hóa khùng, chị nói con định gì nào? Con
không biết mẹ đang ốm hay sao?Mẹ ốm sao còn mất thì giờ đan áo? Khiêu không kém.Mẹ mất thì giờ đan áo vì.. vì mẹ muốn có nhiều thời gian ở
nhà với các con. Các con không bằng lòng hay sao?Con xem người ta ở Viện Thiết kế đấy, trẻ con ở nhà nheo nhóc
thật tội nghiệp. Có phải cha mẹ nào cũng được may mắn ở nông trường về chăm sóc
các con đâu...Khiêu không nói gì nữa, nó nghĩ, có lẽ mẹ nói đúng, nhưng
trong lòng thì vẫn chưa tin, bởi mẹ nói về chăm sóc nhưng có thấy mẹ chăm sóc
gì đâu. Chị không quan tâm tới các con, chị không biết Phàm vừa mất một cái
răng, thậm chí cũng chẳng hỏi han nửa năm vừa rồi hai chị em ở nhà ăn uống ra
sao. Hồi mới từ Bắc Kinh về, Khiêu chưa biết nói tiếng Phúc An, bị người địa
phương kì thị, những chuyện ấy Chương Vũ đâu có biết. Bởi thế Khiêu vẫn không
tin, nó không tin mẹ. Điều nó không tin bấy lâu đã rõ, đã được xác thực từ việc
cái áo len. Đó là chuyên đau lòng của một người mẹ, là sự thật không thể khác,
vì không thể khác nên càng tỏ ra tàn nhẫn.Chị không vì con gái không nói nữa mà tỏ ra đắc thắng, nhưng
chị không muốn nghĩ nhiều, là người trốn chạy suy nghĩ, trốn chạy, trốn chạy suốt
cuộc đời. Đầu óc chị không suy nghĩ về người khác mà cũng không đểt phân tích
chính mình. Chị cầm chiếc áo len trở về giường ngồi trước cái gồi nhăn nhúm, bắt
đầu đan. Dưới ánh đèn bàn, chị luồn lại những mũi đan vào kim, cả đêm không ngủ
cố đan cho xong. Rồi chị mua len về đan áo cho chồng. Chị chon màu khác, màu
kem. Chị đan ngày đan đêm, hai tay thoăn thoắt, mắt đỏ ngầu, tưởng như với công
việc đan áo để bày tỏ nỗi đau trong lòng, để trấn tĩnh nỗi thấp thỏm. Chị đan
thật thành thạo, mũi đan ngay ngắn, chị cũng thấy lạ cho tốc độ đan của mình, để
đan cho hai người đàn ông hai cái áo len chỉ mất bảy ngày, bảy ngày thôi. Trước
và sau đó chị không thể đạt được kỉ lục ấy. Chị không biết mình đang bị chừng
phạt sự sa ngã của mình hay trải đệm để sa ngã tiếp, có lẽ cả hai, cả hai đều
đúng. Chị có dự cảm, chị còn tiếp tục đi lại với bác sĩ Đường .Cả hai đều chưa muốn kết thúc, dường như chư nhật nào bác sĩ
Đường cũng đến nhà Chương Vũ ăn cơm. Một tháng nghỉ ốm của chị cũng đã hết anh
lại cấp cho chị một giấy nghỉ khác. Nếu anh cứ cấp giấy nghỉ ốm mà không ai biết
thì Chương Vũ sẽ được ở nhà lâu dài. Điều mà chị không dám tưởng tượng và cũng
là điều chị mong muốn. Khi cách mạng là bạo động thì chị nhàn rỗi...người của
phái nhàn rỗi, đó là cách gọi những người trốn tránh lao động và rèn luyện lao
động, từ chối phân rõ trái phải. Phái nhàn rỗi... những kẻ khờ dại và lạc hậu,
không thể tiến bộ được! Nếu bác sĩ phát hiện đã cấp giấy chứng nhận giả ốm thì
hậu quả vô cùng tai hại. Họ không dựa vào nguyên tắc và đạo đức nghề nghiệp để
chỉ trích, đạo đức nghề nghiệp và nguyên tắc là chuyên nhẹ tênh. Họ sẽ quy cho
anh phá hoại công cuộc cách mạng vĩ đại, phá hoại cách mạng có nghĩa là phản
cách mạng. Bác sĩ Đường thật mạo hiểm vì Chương Vũ . Bây giờ thì bác sĩ Đường
đàng hoàng mặc cái áo len của Chương Vũ đan, áo vừa người , rất đẹp. Giữa ban
ngày ban mặt, Chương Vũ rất thích ngắm cái miệng anh nhai thức ăn. Anh ăn với vẻ
thật đẹp, động tác miệng không qua lớn nhưng rất chuẩn xác, xử lí linh hoạt những
thứ chẳng hạn như đầu cá hoặc xương. Anh dùng miệng làm dao phẫu thuật các món
thật khéo léo các món ăn. Cái miệng như chuyên để ăn và im lặng, khi không ăn
thì tương đối im lặng. Lời lẽ của anh quý như vàng, và miệng anh cũng là vang.
Khi không có ai, Chương Vũ hôn miệng anh, anh tỏ ra rụt rè. Chị không miễn cưỡng.
Chị không nhất định phải được hôn, về mặt nào đó chị là người rất dễ thỏa mãn,
chị ngồi ngắm miệng anh, chị ít hiểu đàn ông, chị nghĩ anh ngượng chăng anh là
người chưa vợ mà.Chị luôn luôn nói với các con chị sẽ giới thiêu cho bác sĩ Đường
một cô bạn gái, nhưng thật khó, thành phần xuất thân của bác sĩ Đường không cơ
bản hơn nữa lại phải nuôi một cô cháu gái cô độc, con của bà chị Chương Vũ đã
có lần gặp. Chị nói nhưng chưa bao giờ làm, Khiêu chưa thấy một cô gái nào đến
nhà. Thời gian này chồng chị tạm nghỉ mùa, được ở nhà ba hôm, anh chỉ có ba
ngày nghỉ. Ở nhà anh cũng gặp bác sĩ Đường, anh mời bác sĩ uống bia. Hồi ấy ở
Phúc An không có bia đóng chai, chỉ có bia đong bán ở các nhà hàng. Các cô bán
hàng đong bia bằng bát, bia đựng trong vại, đong đổ vào chai người mua. Bia
không có bọt, vừa chua vừa đắng.Hai người đàn ông ngồi uống bia với thịt gà quay, thịt gà
quay, thịt gà quay mua ở phố Vĩ Hà. Anh hỏi thăm bác sĩ Đường bệnh tình của vợ,
khi chồng hỏi đến bệnh tình chị mới nhớ ra mình là người có bệnh, mình phải có
bệnh, bệnh tim thể phong thấp. anh hỏi rất kĩ, tỏ râ quan tâm đến vợ và rất cảm
ơn bác sĩ Đường. Bác sĩ Đường cho anh biết, bệnh tim này rất thường thấy ở người
Trung Quốc, chiếm từ bốn đến năm mươi phần trăm tổng số người nhiễm bệnh tim.
Người bị bệnh thường ở độ tuổi tráng niên, từ hai mươi đến bốn mươi, nữ bị nhiều
hơn nam. Đây là di chứng của phong thấp cấp tính, thường gây nên ở vành tim, ở
vành tim và động mạch chủ, làm hẹp hoặc tắc động mạch, dẫn đến tình trạng thiếu
năng tuần hoàn máu. Doãn Xích Tầm nói, vậy theo bác sĩ bệnh tim này có liên
quan đến chứng chóng mặt hôn mê không? Bác sĩ Đường nói rất có thể,bởi ở một số
ít bệnh nhân nặng sau khi hoạt động nhiều thường thở dốc chóng mặt, vân vân.
Trong khi nói, bác sĩ Đường và Chương Vũ đưa mắt nhìn nhau, nhìn thật nhanh
không ai biết, trước sự quan tâm của Doãn Xích Tầm hai người tưởng như không
còn nơi ẩn náu. Hai người không nghĩ rằng, Doãn Xích Tầm lại mời bác sĩ Đường uống
bia và nói chuyện thân mật như thế. Đây là tâm lí bình thường của người bình
thường. Doãn Xích Tầm cảm ơn lòng nhân đạo của bác sĩ Đường. Chương Vũ trong
thư gửi cho chồng cũng nói, khi bị hôn mê trong phòng khám đã được bác sĩ Đường
cấp cứu và nhận vào nội trú ở khoa nội. khi bác sĩ Đường nói bệnh này chỉ cần
nghỉ ngơi tránh các hoạt động nặng sẽ không xảy ra nguy hiểm thì Doãn Xích Tầm
tỏ ra yên tâm.Ba hôm sau anh trở lại nông trường, Chương Vũ cho chiếc áo
len màu kem vào túi du lịch cho chồng.Trong nhà yên tĩnh được mấy hôm, Chương Vũ nằm yên trên giường
như sợ hoạt động mạnh. Cô bé Khiêu cảm thấy mọi việc đều ổn, trong nhà tưởng chừng
như chưa có một người như bác sĩ Đường, cho dù hàng trăm lần cứu sống mẹ. Nhưng
yên tĩnh cũng chỉ được mấy hôm, Chương Vũ lại bắt đầu hoạt động. Chừng như chị
không mời bác sĩ Đường đến nhà nữa, hoặc chị thấy ngượng bởi mới đó mà đã mời
anh đến - mới đó, chồng chị mới đi xong. Chị không muốn thấy các con so sánh
khi trông thấy bác sĩ Đường, chị ngượng với Khiêu , thế là chị đi chơi.Nhất định mẹ đến bệnh viện hoặc đến nhà bác sĩ Đường , Khiêu
nghĩ. Cứ chập tối chị lại đi, rất muộn mới về. Mỗi lần ra khỏi cửa chị lại đứng
trước gương hồi lâu, chải tóc, ngắm vuốt, thay quần áo, soi trước, soi sau. Khi
lăn lóc trên giường trông chị mới thiểu não làm sao, tóc tai rối bù, trì độn,
thỉnh thoảng nước dãi, nước dớt chảy ra bên khóe miệng, nếu có con ruồi nào đậu
vào đấy cũng sẽ để lại dấu chân. Bác sĩ Đường có nhìn thấy chị những lúc ấy
không? Nếu nhìn thấy liệu anh có còn đến thăm chị nữa không nhỉ? Khi chị đứng sửa
soạn trước gương trông chị hoàn toàn khác, chị ngời ngời nồng cháy như ngọn nến
thắp sáng. Có lúc chị đi và đem theo vài món ăn, đem món ăn cho bác sĩ Đường. Bởi
thế chị lại phải vào bếp, vào cái nơi mà cả đời chị rất ghét. Chị lúng túng làm
các món ăn như cà chua nhồi thịt, củ cải xào thịt bò. Chị chịu đựng cái cười chế
nhạo của cô con gái lớn, cảm thấy như nó cố ý, Khiêu cố ý chê các món của mẹ thật
khó nuốt, cố ý nói món củ cải xòa thịt bò phải cho bột ca-ri, nếu không sẽ
không thơm. Chị khẽ hỏi bột ca-ri để đâu, Khiêu rất khoái chỉ trả lời không
còn, mà ở Phúc an này không mua đâu ra, bột ca-ri vẫn dùng là đem theo từ Bắc
Kinh về hồi dạn nhà. Chị rất sơ ý không biết rằng Khiêu giấu gia vị, dúng là nó
giấu đi, không muốn mẹ dùng, bởi nó biết những món ăn đó mẹ sẽ đem cho bác sĩ
Đường.Những lúc mẹ vắng nhà, Khiêu còn lật giở cuốn Thường thức
y học gia đình của bác sĩ Đường tặng, nó lật giở đến chương nói về bệnh
tim thể phong thấp nhưng thật đáng tiếc, cói nhiều chữ nó không đọc được. nó lật
giở những trang có hình người, trong dó có hình vẽ phụ nữ bụng to, trong có
thai nhi cuộn tròn đầu chúc xuống. Khiêu lấy bút chì viết sang bên cạnh mấy chữ:
"Đây là bác sĩ Đường". Tại sao nó lại viết đó là bác sĩ Đường? Bởi nó
thấy cái thai này không lớn như nó, nó muốn dùng hình vẽ cái thai để tỏ ra coi
thường bác sĩ Đường.Chương Vũ đem cả cơm, đem thức ăn và cả bản thân chị cho bác
sĩ Đường. Có một đêm chị không về nhà. Đúng đêm hôm đó Phàm sốt cao. Sốt cao, sốt
cao, lại đúng với cái điều nó vẫn nói khi chơi trò chơi của mình, sốt cao! Toàn
thân nó nóng hầm hập, mặt đỏ gay, cánh mũi phập phồng, nó kêu khát nước, bắt
con chị phải ôm nó. Khiêu ôm em vào lòng, chịu đựng cái nóng của nó. Nó cho em
uống nước, uống nước cam vắt cũng không hạ sốt. mẹ đâu rồi, chúng đang rất cần
mẹ. Sốt quá cao, Phàm khóc, Khiêu cũng khóc theo. Nó vỗ vỗ vào lưng em bằng bàn
tay bé nhỏ của mình, chị kể chuyện nhé, em thích nghe chuyện lắm cơ mà! Nhưng
Phàm không muốn nghe kể chuyện , nó rất khó chịu, ho liên tục, còn nôn ọe nữa,
tiếng nôn ọe của nó nghe vừa trẻ con vừa già yếu như bà cụ non. Khiêu cũng nẫu
cả lòng, em ốm làm nó buồn. Nó giận mẹ lắm, nó nghĩ giá như mẹ về nó sẽ cãi
nhau với mẹ. Nó ôm em suốt cả đêm, con người nhỏ bé của nó ôm đứa em trong lòng
mình. Suốt đêm nó không ngủ, hề buồn ngủ lại lấy nước lạnh rửa mặt cho tỉnh ngủ.
Nó quyết tâm thức chơ mẹ về để mự nhìn thấy nó suốt đêm không chợp mắt. Trời
sáng, Chương Vũ mở cửa rón rén vào nhà.Một cái gối bay thẳng ra đón Chương Vũ, Khiêu cầm gối quật mạnh
vào mẹ. Nó cũng không biết mình lấy đâu ra dũng khí, cái hành động thô bạo, mất
dạy của nó, hành động không phải đối với người lớn, đối với mẹ. Nhưng cái gối
ném đi không lấy lại được nữa, nó nhìn mẹ bằng con mắt ngang tàng oai phong.
Chương Vũ che mặt, khi Khiêu lớn tiếng nói với chị rằng Phàm sắp chết thì chị mới
tỉnh lại, chạy vội đến với Phàm. Phàm đang ngủ mê mệt, vẫn sốt trước trán và
bên vành tai có nhiều nốt đỏ, chị sợ nó lên sởi.Phàm ốm làm chị vừa lo vừa sợ, lúc đó chị vẫn chưa kịp hối hận,
không có thời gian hối hận. Chị bế Phàm ra ngoài. Khiêu hỏi mẹ đi đâu. Chị bảo
đến bệnh viện. Khiêu hỏi đến viện nào. Chị nói bệnh viện nhân dân.Mẹ không được đến bệnh viện nhân dân. Khiêu như đứa trẻ điên
dẫm chân nói.11Người lớn vẫn là người lớn, cho dù ném gối vào mặt người lớn,
vẫn là người lớn có chút hồ đồ thao túng sự việc đến cùng. Chương Vũ không hiểu
tại sao Khiêu giẫm chân, chị đặt Phàm lên xe, đưa đến bệnh viện Nhân Dân. Khiêu
chạy theo xe. Trong phòng cấp cứu bác sĩ đo nhiệt độ cho Phàm. Chương Vũ sang
khoa nội tìm bác sĩ Đường . Chị không tin bác sĩ trực, cho là bác sĩ Đường đáng
tin hơn. Ở giữa thành phố lạ nước lạ cái này mỗi khi có điều gì rắc rối thì một
bác sĩ nam có quan hệ mật thiết với chị sẽ là chỗ dưa tinh thần, cho dù anh
không trực cấp cứu hoặc không biết gì về nhi khoa. Khiêu không có cách nào ngăn
bác sĩ Đường , mẹ và bác sĩ Đường xoay quanh Phàm, nó có cảm giác như đang bị lừa
dối, bị lừa rối, một nam một nữ lừa dối, khi đã lớn, nhớ lại chuyện cũ nó mới
hình dung đúng những người trong phòng cấp cứu và bản thân. Lúc đó nó nghĩ ngay
đến bố, cảm thấy đau long thay cho bố, nhất định phải viếtcho bố một lá thư, gọi
bố về cứu nó, cứu cả em Phàm.Phàm lên sởi.Khiêu giấu mẹ, viết thư cho bố, viết lên trang giấy khổ nhỏ
có dòng kẻ xanh nhạt. Loại giấy này ở góc bên phải có in dòng chữ xanh nhỏ như
hạt vừng: Công ty xe điện Bắc Kinh. Giấy đem theo từ Bắc Kinh về khi dọn nhà, hồi
Khiêu còn học ở trường Tiểu học ngõ Đăng Nhi mua ở hiệu bán văn phòng phẩm. Hồi
đó nó không hiểu tại sao giấy viết thư lại có dòng chư Công ty xe điện Bắc
Kinh, dòng chữ màu xanh nhạt chỉ làm cho nó có ý nghĩ: viết thư nên trang giấy
này thư sẽ theo tàu điện đến một nơi rất xa, đến nơi cần đến. Khi Khiêu trưởng
thành vào làm ở nhà xuất bản được thấy nhiều loại giấy viết thư, giấy viết bản
thảo, nhớ lại thời niên thiếu, Khiêu mới hiểu giấy viết thư đó do nhà in trực
thuộc Công ty xe điện sản xuất, Khiêu vẫn thấy lạ: tại sao Công ty xe điện có
nhà máy in? Loại giấy do nhà in này làm ra chiếm chọn các cửa hàng văn phòng phẩm
ở Bắc Kinh thời đó.Khiêu viết thư cho bố bằng giấy viết thư của Công ty xe điện
Bắc Kinh.Bố yêu quý, con chào bố!Hôm nay con rất nhớ bố, vì em Phàm bị lên sởi. Nó sốt cao,
ho, lại còn nôn ọe. Con cảm thấy em cũng rất nhớ bố, nhưng bố lại không có nhà.
Dưới đây con kể bố nghe chuyện này, con phải vạch trần mẹ để bố biết. Từ ngày mẹ
về nhà không chịu chăm sóc các con, nếu mẹ không ngủ ở nhà lại đến bệnh viện
khám bệnh. Con nói với mẹ chuyện ở lớp học, con sắp tốt nghiệp tiểu học rồi
nhưng lại chưa được vào đội Hồng vệ binh nhỏ, có hai bạn ông là địa chủ, một bạn
bố viết thư cho Quốc Dân đảng Đài Loan, một bạn nữa mẹ là Phó hiệu trưởng trường
Đại học bị phê đấu. Con và các bạn ấy không như nhau, con nghĩ bố mẹ đều là người
tốt, tại sao con lại không được vào đội Hồng vệ binh nhỏ? Hay là vì nhà ta ở Bắc
Kinh về, tiếng nói của con khác với của các bạn? Con hỏi mẹ, mẹ nói không được
vào đội thì thôi không vào, mẹ không cho con học nói tiếng Phúc An, mẹ bảo tiếng
Phúc An khó nghe. Bố thấy đấy, mẹ kém tiến bộ quá! Bố ơi, bố không biết đấy
thôi, chúng con không còn học nữa, ngày nào cô giáo cũng hướng dẫn con đào hầm
phòng không, cô giáo bảo đào hầm để đề phòng xét lại Liên Xô xâm lược nước ta.
Vì ccon chưa phảo là Hồng vệ binh nhỏ nên đào rất tích cực, tích cực hơn cả các
bạn là đội viên Hồng vệ binh nhỏ, con mong sao cô thấy con đào tích cực. Có lần
con mệt quá, nằm ngủ ngay trong hầm, con nằm trong hầm vừa bẩn vừa dính đất, đầu
tóc đầy đất. Trời săp tối cô giáo mới phát hiện ra con. Cô không biểu dương
con, có lẽ cô phải biểu dương các bạn Hồng vệ binh nhỏ, con kém các bạn ấy một
bậc. Con thất vọng quá, con muốn nói những chuyện đó với mẹ, mẹ cứ nói biết rồi,
biết rồi, mẹ bận không nghe con nói: " Mẹ bận" đó là câu nói mẹ vẫn
thường nói. Mẹ là gì nhỉ? Mẹ là " biết rồi, biết rồi, mẹ bận lắm!" Mẹ
bận, mẹ bận quá thể, mẹ bận đan áo cho cái ông bác sĩ Đường . Mẹ nói đan áo len
cho con và em Phàm nhưng mẹ lại đan áo cho bác sĩ Đường . Bố kính yêu, con muốn
nói với bố, con ghét cái ông bác sĩ Đường ấy lắm, con ghét ông ấy hay đến nhà
ta, con biết cũng có khi mẹ đến nhà ông ấy. Em Phàm ngốc quá, lần nào bác sĩ Đường
đến nó cũng bàn chuyện khàm bệnh với ông ấy, lấy cả đồ chơi của nó ra cho ông ấy
xem. Mẹ cứ bắt con với mẹ nấu cơm cho bác sĩ Đường . Bác sĩ Đường không phải là
người nhà ta, nhưng có bao nhiêu thời gian mẹ đều giành cho ông ấy, con thật
không hiểu sao nữa! Mới hai hôm trước đây thôi, đúng cái buổi tối em Phàm lên sởi
, sốt cao thì mẹ đi cả đêm không về. Đêm tối con biết tìm mẹ ở đâu, tại sao mẹ
bỏ mặc con! Bố kính yêu, viết thư đến đây con lại muốn khóc, con nhớ hồi ở Bác
Kinh, cứ mỗi chủ nhật bố mẹ lại đưa chúng con đi Cố Cung, đi công viên Bắc Hải,
bố bảo Cố Cung là nơi vua ở, một lần em Phàm trông thấy một chú công nhân đang
dán cửa sổ trong cung lớn, nó chạy đến bí mật nói với mọi người con thấy vua rồi,
vua đang gián cửa sổ đấy! Cả nhà con đi bơi thuyền ở hồ Bắc Hải, ăn mì, ăn
bánh, trời tối mới ra khỏi công viên Bắc Hải, bố vẫn thường cõng con, mẹ thì bế
em. Chúng con ngủ, con còn nghe thấy bố nói với mẹ, xem kìa, chúng nó ngủ say
quá! Thật ra thì con chưa ngủ, con còn có thể xuống đất, nhưng vờ ngủ là để được
bố cõng mà thôi. Bố đọc xong thư này hãy về với chúng con, con không thể chịu đựng
được nữa rồi.Doãn Tiểu Khiêu con của bố.Một bức thư dài, lời lẽ lẫn lộn những ngôn từ thời bấy giờ
như "không thể chịu đựng được", "vạch trần...". Bức thư như
một bản tố cáo đẫm nước mắt đối với Chương Vũ . Khiêu viết cứ phải tra từ điển
học sinh, mất đến ba ngày mới viết xong. Mỗi lần viết đến những chỗ buồn nước mắt
lại nhỏ xuống trang giấy, làm nhòe nhiều chỗ, trang giấy loang lổ đậm nhạt.
Khiêu định chép lại nhưng phải vội gửi đi. Lá thư không chép lại, chữ nghĩa lộn
xộn nhưng là những tình cảm chân thật và nó nóng lòng như thế nào. Nó tìm được
cái phong bì, nắn nót viết tên, địa chỉ người gửi thư rồi giấu thư vào cặp
sách, trên đường đi học nó bỏ thư vào thung thư bưu điện. Thùng thư hình tròn,
đứng ở ngoài cổng Viện thiết kế, cách nhà nó, nhà số sáu trong khu tập thể chừng
một trăm mét. Nó kiễng chân bỏ là thư vào thùng, lá thư rơi xuống đáy thùng,
kêu "xạch" một tiếng, lòng nó cũng nhẹ tênh, tựa như thùng thư đã giải
phóng cho nó, giải phóng những nỗi niềm không vui chất chứa từ lâu.Buổi chiều đi học về, mẹ đã nấu xong cơm, thật khó nuốt,
Khiêu nghĩ vậy. Nhưng nó ăn ngon lành, nó tin bố sắp về, trong nhà sẽ thay đổi,
sẽ không còn như thế này nữa. Tình cảm của nó bắt đầu thay đổi từ sau bữa ăn,
lúc đó Phàm nằm ở một góc giường mẹ, nó đã hạ sốt, sởi mọc cũng khá đều, bởi thế
nó cứ nằm yên nhắm mắt. Chương Vũ ngồi cạnh giường đan áo cho Phàm, chị nghe lời
con gái mua len màu hoa hồng. Liền trong mấy đêm phải trông con ốm, chị có hơi
gầy đi, mắt đỏ, đầu tóc rối bù lên. Trên mặt bàn ở đầu giường có một nọ thuốc
đau mắt,chị đan một lúc rồi lấy thuốc nhỏ mắt, thuốc xót, chị ngả đầu nằm trên
gối, lặng lẽ chịu đựng. Mấy giọt nước chảy xuống khóe mắt, thuốc và nước mắt lẫn
lộn, Khiêu nghĩ vậy. Nó thấy mẹ nằm nghiêng đầu lên gối, tóc rối, nước mắt chảy
trông thật khổ sở, đáng thương, hay tay nắm chặt kim đan làm nó có cảm giác khó
chịu không thể diễn tả nổi. Căn nhà yên tĩnh, phẳng lặng như chưa hề có người lạ
đến, chưa hề xảy ra chuyện gì. Chỉ trong khoảnh khắc mấy giây, mấy giây, tất cả
đều thay đổi.Tại sao nó phải viết thư cho bố, những điều trong thư đều thật
cả sao? Khi bố về, trong nhà sẽ xảy ra chuyện gì? Tại sao nó phải "vạch trần"
mẹ với lời lẽ đúng ra chỉ dùng cho kẻ địch. Khiêu bỗng thấy đầu óc căng lên như
tai họa sắp đổ ập xuống đầu, nhất định tai họa sẽ đổ xuống đầu nó. Đấu óc nó
căng lên, nó lén ra cửa lúc mẹ không để ý.Nó đi qua mấy dãy nhà tập thể của Viên thiết kế, đi qua khu
văn phòng dán đầy khẩu hiệu. Ban ngày, báo chữ to dán trùm dán lợp bị gió đánh
tả tơi, trông cái nhà văn phòng như gã điên đanh khóc lóc thảm thương. Về đêm,
gã điên này trầm lặng, toàn thân nó phát ra tiếng xào xạc nhỏ nhỏ thê lương
nhưng không đáng sợ. Nó đi qua sân ra cổng, trông thấy cái bóng đen thùng thư vẫn
đứng trung trinh chân thành. Nó chạy đến bên thùng thư, chạy gần đến nơi thì đã
giơ hai tay ra. Nó khẩn khoản đưa hai tay sờ lên miệng thùng thư nhỏ hẹp, lập tức
nhận ra rằng nó đã mất công vô ích, bởi không thể nào cho tay vào khe thùng ấy
được. Phía dưới thùng thư có hai dòng chữ nó đọc ra được nhờ ánh đèn đương vàng
vọt: Giờ mở thùng thư : buổi sáng 11 giờ, buổi chiều 17 giờ.Khiêu đọc xong hai dòng chữ lại đưa tay lên miệng thùng thư,
cho từng ngón tay vào khe hở sờ sờ trong đó, mong có điều kì diệu xuất hiện:
hai ngón tay bé nhỏ có thể moi được phong thư không còn trong thùng ra. Khi ở
trong nhà chạy ra, nó cho rằng chỉ cần tìm thấy thùng thư là có thể lấy lại
phong thư kia. Bây giờ thì nó mới hiểu, điều mà nó muốn kia chỉ là sự mê muội,
là cách nghĩ lừa dối đáng thương. Thùng thư bằng sắt lạnh lùng cao hơn người,
nó đưa hai bàn tay sờ toàn thân thùng thư. Nó đi vòng quanh, ôm lấy thùng thư
như muốn nhấc nổi lên, xô đổ tan tành. Nó đọ sức, cầu khẩn rồi giận rỗi, không
cần biết tại sao mà cứ cho rằng, cho rằng chỉ cần luôn tay luôn chân thì phong
thư đáng sợ kia sẽ về tay mình. Nó làm đi làm lại không biết bao nhiêu lần, cho
đến khi mệt rũ ra. Nó ôm thùng thư, đấm mạnh. Ôi, cái thùng thư giả vờ vững chắc,
mày không biết vâng lời! Nó đứng tựa vào thùng thư mà khóc, khóc sụt sùi, đấm mạnh,
không biết tìm lại phong thư ở đâu. Bỗng có tiếng nói ở phía sau: này, em làm
sao thế?Khiêu giật mình, lập tức không khóc nữa, nhìn người vừa hỏi bằng
đôi mắt cảnh giác. Người này tuy cao hơn, nhưng không phải người lớn, nhiều lắm
chỉ hơn nó ba, bốn tuổi, cùng lắm là năm tuổi. Phải là một học sinh trung học rồi.
Dĩ nhiên trong con mắt Khiêu học sinh trung học là người lớn, bởi trong mọi
tình huống đều rất vênh trước học sinh tiểu học, trước mặt học sinh tiểu học
thường hay tỏ vẻ người lớn, bởi thế người này nói với Khiêu: này em, làm sao thế?Nhưng Khiêu không thể coi người đứng trước mặt đầy kiêu ngạo,
tiếng hỏi của người này hoà nhã, có phần quan tâm thành thật. Người ấy cúi xuống
nhìn Khiêu đang dứng dựa vào thùng thư, nhẹ nhàng hỏi, em làm sao thế?Khiêu lắc đầu không nói, tiếng "em" làm Khiêu trấn
tĩnh, lùi lại và nước mắt trào lên, câu hỏi "em làm sao thế" như điều
Khiêu chờ đợi từ lâu. Lẽ ra trong nhiều việc khác, Khiêu cũng được hỏi như thế.
Lúc này có một người không quen biết hỏi, khiến Khiêu có lòng tin rất bản năng
đối với người đó, cho dù Khiêu lắc đầu không nói. Khiêu không muốn nói và muốn
chạy nhanh về nhà, bởi nhớ lời người lớn dặn, không nên bắt chuyện với người lạ.Người kia đi theo, thấy Khiêu vào sân viện thiết kế liền hỏi,
em cũng ở trong này à? Thế thì chúng ta cùng ở một khu, anh cũng ở đây, anh đưa
em về nhé. Người kia định đi song song với nó, nhưng nó cất bước đi nhanh bỏ
người kia ở phía sau, cứ tưởng đó là người xấu. Cuối cùng nó đến cửa, lên cầu
thang nhưng còn nghe tiếng người kia nói ở ngoài: anh là Trần Tại, ở nhà số
hai.12Tại sao tôi gặp anh toàn những lúc không may mắn nhất. Khi
tôi không muốn gặp ai thì lại phải gặp anh. Những lúc tươi tỉnh hãnh diện, vui
vẻ nhất thì anh không có mặt. Tối hôm ấy tôi đứng bên vỉa hè đấm vào cái thùng
thư quên rằng người khác có thể trông thấy, rất có thể bị bắt. Ở Phúc An sau đấy
xảy ra một chuyện: có hai thanh niên rỗi việc, đốt pháo cho vào thùng thư. Kết
quả đốt cháy hết thư trong đó, họ bị tù. Một năm sau mới nghe thấy chuyện đó.
Tôi thật hối hận, may mà tôi không biết có chuyện đốt pháo cho vào thùng thư,
may mà chuyện đó xảy ra sau khi tôi quanh quẩn bên thùng thư, nếu không trong
lúc cuống lên tôi cũng sẽ cho pháo vào thùng thư, tôi sẽ phạm tội, tôi biết.
Lúc đó tôi sẽ như một tên tội phạm, hoặc ít ra cũng là kẻ manh tâm phạm tội.
Anh đã trông thấy tôi với dáng vẻ không ra sao, anh đã nhìn tôi trong bao lâu?
Ngay từ khi tôi đến bên thùng thư thì anh đã bắt đầu theo dõi tôi hay anh mới
phát hiện và hỏi tôi ngay? Tôi rất không muốn tình huống thứ nhất, bởi anh theo
dõi tôi hồi lâu thì anh sẽ biết tôi định lấy trộm thư, một việc mà không thể,
không thể nói với ai, việc tôi tự đấu tranh với mình. Có lẽ anh đã bất chợt
trông thấy tôi, câu nói "em làm sao thế" thật sự quan tâm, giống như
người lớn hỏi han tôi vậy. Biết đâu tôi không kìm giữ nổi tiếng khóc và sau đó
cầu khẩn anh giúp tôi moi lá thư trong thùng ra. Anh không phải người thân của
tôi. Việc tôi đấm lên thùng thư kia có tác dụng gì đâu. Khi đầu óc tôi tỉnh táo
lại thì mới hay vào lúc đó trong thùng thư đâu còn lá thư của tôi nữa. Anh bảo
anh ở cùng khu tập thể, ở nhà số hai, chúng ta chỉ cách nhau có ba nhà thôi, điều
ấy khiến tôi yên tâm và có chút không yên tâm, yên tâm bởi ở cùng khu giống như
"bạn chiến đấu cùng chiến hào" - câu nói rất quen thuộc thời đó;
không yên tâm bởi anh có thể gặp tôi một lần nữa, có thể anh nói nhỏ với bạn học,
với hàng xóm về chuyện tôi tối hôm ấy, ai mà biết được! Một hôm, vào buổi trưa
hè, tôi một mình chơi nhảy dây chun trước cửa, tôi rất thích chơi nhảy dây
chun, chơi suốt từ năm lớp một đến năm lớp sáu. Tôi nhảy thành thạo đến bậc
"hai", mong nhảy được "bậc ba". Đó là đẳng cấp cao nhất của
trò chơi nhảy dây chun. Độ cao của dây chun bằng bao nhiêu, bằng độ cao đầu
ngón tay khi tôi giơ cao tay. Chân tôi lúc bấy giờ chưa với cao được như thế,
tôi không chịu, bởi có bạn thấp hơn tôi nhưng đã nhảy được "bậc ba",
điều ấy nói rằng tôi rất kém, chân cẳng không nhanh nhẹn, người tôi không dẻo.
Bởi thế, trưa hôm ấy không phải là lần đầu tiên tôi chơi dây chun một mình, mà
đó là lần tập rất khó. Tôi cứ mong mình nhảy được "bậc ba" để khi đến
trường sẽ gây ngạc nhiên cho các bạn vẫn phạt tôi bằng cách bắt tôi cầm dây
chun vì không nhảy được qua. Tôi móc hai đầu dây chun vào hai cành cây, lần lượt
nâng cao dần. Tôi nhảy qua rất thuận lợi, cuối cùng tôi nâng dây chun lên độ
cao "bậc ba". Tôi vươn nhẹ chân, vươn nhẹ chân phải lên sợi dây,
nhưng động tác quá mạnh, mất thăng bằng tôi ngã. Có thể buổi trưa yên tĩnh, tôi
ngã "phịch" một cái. Mặt tôi đập xuống, rách cả đầu gối. Tôi là người
sĩ diện, ngã đau như thế còn cố nhìn xung quanh xem có ai trông thấy không. Tôi
lại trông thấy anh, tôi nhận ra anh, người tối hôm ấy nói với tôi "em làm
sao thế". Vào lúc anh đi xe đạp qua, anh trông thấy tôi ngã. Điều ấy làm
tôi bực lắm, bực anh, bực tôi. Tôi vừa bực vừa vội vã đứng dậy, nén đau giả vờ
như không việc gì, đi thẳng về nhà như không gặp ai, bước vào cửa còn véo von
hát nữa chứ, không muốn để anh biết, đừng nghĩ rằng tôi ngã, ngã không đau nhé,
tôi cứ ngã thế đấy, muốn nhảy được "bậc ba" thì phải ngã... Tôi vội vã
luốn cuống quên cả lấy sợi dây chun trên cành cây. Đến chiều tôi mới nhớ đến sợi
dây và chạy ra lấy về, nhưng sợi dây của tôi ai đã lấy mất rồi! Sợi dây chun
dài thế, tôi phải góp nhặt từng vòng chun để nối lại, mất bao nhiêu lâu!Nhiều năm về sau, tôi đã thành người lớn. Vào mùa đông Phương
Kăng bỏ tôi mà đi, tôi viết thư bắt anh ta phải trở lại gặp tôi ở Phúc An. Anh
ta đồng ý, nhưng lại nói rất bận, chúng tôi chỉ có thể nói chuyện với nhau ở ga
xe lửa. Anh ta vừa xuống tàu liền mua vé chuyến tàu tiếp theo để trở lại Bắc
Kinh. Chúng tôi ngồi trong phòng chờ tàu ồn ào đầy khói thuốc - nơi công cộng ồn
ào có lúc là nơi tốt nhất để nói chuyện riêng. Tôi vặn hỏi anh tại sao nói sẽ
li hôn vợ nhưng không li hôn, không chịu li hôn nhưng lại không cho tôi có bạn
trai. Tôi nói rất nhiều, anh ta nói rất ít, tôi nói mười câu, anh ta nói một
câu. Cuối cùng anh ta nói, em yêu anh là một sai lầm, em hãy bình tĩnh bắt đầu
lại cuộc sống mới của mình. Anh ta vênh váo tự đắc, nói rồi đứng dậy bỏ đi. Tôi
túm lấy tay áo anh, cái áo da Brazil màu nâu lạc đà. Tôi rất sợ câu
nói ấy của anh ta, thà rằng tôi phải nghe câu nói "em đừng có bạn trai,
anh không cho phép", chí ít cũng nói lên rằng anh còn để ý đến tôi. Tôi nắm
lấy tay áo anh, cúi đầu và nước mắt bắt đầu trào ra. Im lặng nhưng sóng cuộn
dâng. Tôi không biết anh ta đi từ lúc nào, chỉ nghe tiếng loa thông báo chuyến
tàu... đã rời ga mới biết anh ta không còn trước mặt mình nữa, trong tay tôi vẫn
cầm cái túi đựng bánh mật ong, đặc sản của Phúc An. Phương Kăng mặc áo da màu lạc
đà có xem cái bánh mật ong đặc sản của Phúc An ra gì đâu, vậy mà tôi định dùng
cái bánh này để giữ anh lại, cho dù trước tôi anh tỏ ra không kiên nhẫn. Tôi ngồi
trên chiếc ghế phòng đợi tàu mà lòng rối bời, cứ nắm chặt túi bánh, không muốn
về nhà. Tâm trí tôi yếu đuối đến cực điểm, ngu xuẩn đến cựa điểm, bởi Phương
Kăng đã thoát khỏi sự ràng buộc - nếu coi đó là sự ràng buộc - của tôi để về Bắc
Kinh. Tôi giận anh ta nhưng cũng nhớ anh ta - giận có nghĩa là nhớ đấy. Tôi ngồi
lại nơi đó không chịu đi, bởi Phương Kăng vừa ngồi đây xong, nơi đây còn vương
nhịp thở và hơi ấm của anh ta. Trần Tại, anh lại đến rồi sao, anh cứ xuất hiện
vào những lúc như thế. Nhưng tôi không còn sợ anh hoặc ra vẻ giấu giếm trước mặt
anh như hồi nào tôi nhảy dây chun bị ngã. Chúng tôi đều lớn cả rồi, anh như người
anh, người anh không gần không xa của tôi. Chúng tôi ở cùng một khu tập thể, gặp
nhau cười cười nói nói, chào hỏi nhau. Bản năng tôi cảm thấy anh không hề ác ý
với tôi, xưa nay không cười chê tôi. Anh đến ngồi bên tôi, anh cũng đi Bắc
Kinh, tôi biết anh đang làm nghiên cứu sinh khoa kiến trúc. Anh nói, người nói
chuyện với em vừa rồi trông rất quen, có phải đạo diễn điện ảnh Phương Kăng
không? Tôi òa khóc, úp mặt vào hai bàn tay, bất chấp tất cả. Năm tháng làm tôi
dần hiểu, trong phòng chờ tàu hôm đó tôi bất chấp tất cả bởi đang trước mặt
anh. Không ai có thể làm tôi bất chấp tất cả để khóc trước đông người duy chỉ
có anh. Vô hình trung anh trở thành chứng nhân tất cả, tôi lén lút, tôi ngã,
tôi trong nỗi thất vọng thê thảm, tất cả anh đều tận mắt trông thấy. Tôi gặp
anh như được ngọn cỏ cứu sinh, tôi không kịp chuẩn bị và nói hết những gì giữa
tôi và Phương Kăng, bất chấp anh có muốn nghe hay không. Chúng tôi ngồi trong
phòng đợi tàu suốt cả ngày, lúc đói anh đi mua bánh mì và nước uống, cả hai
chúng tôi không đụng đến cái bánh mật ong kia. Trời tối một lúc lâu tôi với anh
cùng về, anh nói dối tối hôm nay anh không đi Bắc Kinh mà là sáng mai, khi tôi
vào nhà anh mới bảo tôi, anh phải đáp chuyến tàu đêm để kịp về trường. Lúc này
tôi mới biết anh ở lại chỉ để đưa tôi về. Không hiểu tại sao tôi lại trút mọi nỗi
phiền muộn và đau buồn lên một người mà tôi chưa hiểu, năm tháng đã làm tôi dần
hiểu, thật không công bằng, nhưng số phận là thế.Tại sao những lúc em có điều không may lại gặp tôi? Buổi tối
trời nổi gió hôm đó, tôi đã gặp một cô bé nhỏ nhắn đứng ôm lấy thùng mà khóc,
em khóc không tự giác, lại còn đấm vào thùng thư, lúc đó tôi chưa nhìn rõ mặt
em, nhưng trên con người em, bóng đen trên người em, thật lạ kì tôi cảm nhận được
nỗi đau sâu sắc chưa từng gặp. Sau rồi em quay lại, trời tối quá tôi không nhìn
rõ mặt em nhưng nỗi đau của tôi lại càng sâu sắc thêm bởi nỗi đau của em, cho
dù nét mặt em không biểu lộ điều gì. Nỗi đau chân chính không bao giờ bộc lộ ra
ngoài, nỗi đau thật sự có thể chỉ là của một cô bé đứng ôm lấy thùng thư dưới
ánh đèn mờ ảo. Tôi không thể không xúc động bởi nỗi đau của em, nỗi xúc động ấy
sẽ theo tôi suốt cuộc đời. Đã có lúc tôi nghĩ rằng, lời thề thốt kia chỉ là sự
bồng bột nhất thời của tuổi trẻ, chỉ là bản năng đồng cảm với cái nhỏ yếu. Lúc
đó tôi chưa phải là người lớn, tuy tôi hơn em năm tuổi. Nhưng tôi đã nhầm, tình
yêu bất diệt của tôi đối với em bắt đầu từ khi em mới mười hai tuổi, bắt đầu từ
buổi tối em ôm thùng thư kia. Tôi vui biết bao khi biết được tôi và em ở cùng một
khu tập thể. Rất nhiều năm em không biết được tôi và em ở cùng một khu tập thể.
Bao nhiêu năm em không biết được tôi vẫn mượn cớ đi qua cửa nhà số sáu của em.
Buổi trưa hè năm ấy, buổi trưa mà em nhảy dây bị ngã, mong gặp mặt em, giữa ban
ngày. Nhưng em ngã khi chúng ta gặp nhau, em ngước lên nhăn nhó nhìn tôi, nửa
khuôn mặt em đầy mồ hôi và lấm đất. Tôi muốn nói tôi yêu khuôn mặt lọ lem kia của
em, tôi yêu dáng đi khập khiễng nhưng giả vờ nhẹ nhàng vì sĩ diện của em, tôi
yêu hình bóng có bím tóc phất phơ hoảng hốt bỏ chạy của em, thậm chí tôi còn nhớ
khi đó em còn khẽ hát bản làng ơi, nổi trống nổi chiêng lên, cùng hát bài
ca mới... Đầu gối em chảy máu, vừa chạy về nhà vừa hát, không để tôi được
hỏi thăm. Nhưng có sao đâu, tôi yêu em là việc của tôi. Trông thấy em lấm lem bụi
đất hốt hoảng bỏ chạy tôi có dự cảm xa vời, em làm tôi cảm nhận thật đầy đủ em
sẽ là bất động sản trong tim, trong cốt tủy tôi. Nhiều năm qua tôi không ra
công tìm kiếm cơ hội để nói với em về cảm tưởng của mình, tôi không nghĩ rằng
trong phòng đợi tàu bỗng nhiên em lại nói với tôi mọi chuyện của em. Tôi không
ngờ em lại tin cẩn tôi mà không giữ lại một chút gì, niềm tin ấy tàn nhẫn quá,
nó vô tình đẩy tôi xa em hơn. Tôi không thể bày tỏ tình yêu của mình khi tình
yêu của em vừa mất, như thế tôi tỏ ra tiểu nhân lợi dụng lúc em đang gặp bất hạnh.
Từ trước đến nay em vẫn là người thao túng khoảng cách giữa tôi và em, chúng ta
chỉ có thể gần như thế và xa như thế. Tôi không biết mình phải giữ kín tình yêu
thương trong bao lâu, nhưng tôi không mong mãi mãi phải xa em, tôi mong thường
xuyên nhìn thấy em, khi em cần tôi cố gắng giúp em.Một tuần lễ sau sự việc bên thùng thư, một hôm, Khiêu mở hộp
thư để lấy thư và báo, bất ngờ lại nhận được lá thư gửi đi, lá thư gửi đến nông
trường Vĩ Hà cho bố. Thì ra khi gửi thư, Khiêu quá vội vã quên dán tem, bức thư
trả lại cho người gửi với lí do thiếu tem.Suốt một tuần lễ tâm trạng bất định, lúc nào Khiêu cũng bồn
chồn chờ bố về và gia đình sẽ đảo lộn cả lên, lúc nào cũng sợ tiếng gõ cửa đến
toát mồ hôi, khi nhận lại lá thư kia nó mới dám cười thật to. Bưu điện ơi, tá cảm
ơn ngươi lắm! Nó ôm chặt lá thư đã lang thang đâu đó mấy hôm, trong lòng cứ kêu
gào sợ nó bay đi. Mây đen mấy hôm, trời lại sáng, bức thư đi rồi trở về làm Khiêu
suốt đời cảm ơn bưu điện và cái thùng thư ấy, nó thấy mình như có duyên số với
vận may kia.Nó giấu thư vào túi áo rồi mở cửa vào nhà, đưa tập báo cho mẹ
rồi vội vàng vào nhà vệ sinh, cài chặt của. Nó xé bức thư, xé thành mảnh vụn,
xé vụn như hoa tuyết rồi bỏ vào bồn cầu. Cũng may, Chương Vũ không quan tâm đến
hành động của cô con gái, nếu không chị nghĩ là con gái bị đâu bụng đi ngoài.Từ trong nhà vệ sinh đi ra, Khiêu đi thật thanh thản, nó nghĩ
phải tha thứ cho mẹ, thậm chí bác sĩ Đường đến nữa cũng không phản đối.Chú thích:
1 |
Kiến trúc sư trưởng của TP. Bắc Kinh, chết trong Cách Mạng Văn hóa - ND. |
Thiết Ngưng
Sơn Lê dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét