Vùng mắt bão 1
CHƯƠNG I
"Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời
Mỗi số phận chứa một điều cao cả"
Đêm trở gió. Ngôi nhà tranh đã thấp càng như chùng xuống dưới
những đợt gió quét liên hồi. Mái rạ đã oải mục rung lên bần bật. Tiếng cột kèo
đòn tay xoắn vặn vào nhau, rít lên, oằn mình chống đỡ. Tiếng trẻ con giật mình
khóc thét làm bà Thuận bừng tỉnh. Vừa sờ soạng luồn tay xuống lưng con bé xem lại
mảnh lót, bà vừa cất tiếng vỗ về, giọng còn ngái ngủ:
- Ui chao! U thương, u thương...
Vừa ru, bàn tay bà vỗ nhè nhẹ. Một lúc, tiếng trẻ ọ ẹ rồi nín
bặt. Vươn tay quấn lại mớ tóc dài vừa xòa xuống lưng, bà nhẹ nhàng quờ chân xuống
đất, bưng ngọn đèn mỡ phập phù, lần lần soi sang chỗ hai đứa con lớn đang ôm
nhau ngủ. Lạnh như cật nứa cắt da! Nhìn hai đứa con xo người vì lạnh, quắp chặt
vào nhau, bà xuýt xoa. Kéo tấm chăn cũ đắp lại cho con, bà nén tiếng thở dài.
Trời thật chẳng thương người nghèo. Hết nắng hạn nứt đồng lại
mưa thối đất thối cát. Vừa nắng ong ong như vãi trấu hôm trước, ngoắt cái trở mặt,
làm cua cá chết sạch gió bấc tràn về như bào da cắt thịt. Đến lá rau ngọn cỏ
cũng không sao ngoi lên được, cua cá hiếm hẳn. May mà mấy đứa con bà đều ngoan.
Cuộc sống thiếu đủ thứ, lăn lóc cùng khoai sắn nhưng được cái khỏe mạnh, chẳng
mấy khi đau ốm gì.
Chồng bà - ông Kiến - đi làm công nhân dưới Hải Phòng không mấy
khi có mặt ở nhà. Nghiệp thợ làm thuê cho chủ Pháp, bát cơm đổi hai bát mồ hôi
cũng chẳng dư dật. Lâu lâu ông đem về được vài đồng Đông Dương cho bà thêm thắt
rau mắm nuôi con. Sau lần bị tai nạn lao động gẫy một bên chân, chẳng còn khoẻ
khoắn, ông về quê hẳn. Vốn chữ Quốc ngữ, Pháp ngữ và cái bằng Sertifica hạng ưu
ông có được lúc này thành cái cần câu cơm giúp bà nuôi đàn con dại.
Làn gió len qua dại liếp, lách vào khe cửa. Ngọn đèn mỡ chao
đi chao lại, leo lét như ma trơi. Tiếng thở dài cố nén bật ra. Cuộc sống ngày một
khó. Rồi ngày mai, ngày kia, ngày kìa nữa… Bà Thuận chưa biết sự thể sẽ xoay sở
thế nào?
Cái làng Bung của bà vốn có tên chữ là Đức Phong trên đất xã
Hội Xuyên. Mảnh đất nằm kẹp giữa đường 17A về Ninh Giang và 192 đi Hưng Yên.
Ngôi làng thuần hậu ấy quần tụ rất nhiều dòng họ lớn trong đó có họ Nguyễn của
chồng bà. Nghe đâu cách đây bốn - năm trăm năm, cái thời Lê - Mạc phân tranh
đánh nhau mù trời ở Thanh Hóa, tổ tiên ông đã phải bỏ quê, tha hương đến nơi
này, tới ông cũng đã được mười một, mười hai đời. Con cháu họ Nguyễn Trọng nhà
bà chỉ biết, mảnh đất này đã có thời được mệnh danh là Cối Xuyên nhất xã lục
thôn thuộc huyện Gia Phúc, phủ Lộ Hồng - cái mảnh đất đã được Cao Biền chép
trong sách "Cao Vương địa lý cảo" là nghèo hèn rồi mới hiển vinh. Hiển
vinh đâu bà chưa thấy nhưng nghèo hèn, khốn khó thì đã ngấm vào đường gân thớ
thịt vợ chồng bà bởi bao tháng ngày vật lộn kiếm miếng cơm manh áo cho con. Lại
còn nay sưu cao thuế nặng, mai phu đài tạp dịch. Phú quý hiển vinh có lẽ phải đến
đời con đời cháu bà mới mở mày mở mặt được chăng?...
Lúc ấy, Lân còn nhỏ lắm. Người làng Đại Liêu quá quen với cảnh
sáng ra ông giáo Kiến đi dạy học, bà Thuận đòn gánh kĩu kịt trên vai, ba người
con (hai trai, một gái) của ông bà vô tư nô đùa cùng các anh chị em đằng mẹ.
Lên bảy, lên tám, trẻ con nông thôn lăn lóc như sỏi, cuội. Chúng chẳng cần biết
đến chính trị, đến đảng này, phe khác. Trò chơi quen thuộc vẫn là đánh khăng,
đánh đáo, chơi chắt, chuyền... Lê la cùng đất cát... mê mải cùng bao trò trẻ
con để chờ mẹ về chợ là mơ ước lớn nhất của đám trẻ con lúc ấy. Ngoài chạy nhảy,
đùa nghịch, nỗi sợ lớn nhất và cũng thích thú nhất của Lân là những lúc được
cha kèm dạy chữ Quốc ngữ. Lên chín tuổi, cậu theo cha mẹ về sống tại làng Bung
trong ngôi nhà nhỏ giữa khuôn viên khoảng một sào Bắc bộ nhìn ra đình làng Đức
Phong cổ kính.
Lân còn giữ mãi trong lòng hình ảnh người cha ngày ngày áo
lương, khăn xếp, giầy láng đen đi dạy chữ Quốc ngữ ở hai thôn Đức Phong, Đại
Liêu. Thời ấy, người như cha ông dạy chữ Quốc ngữ được coi là sớm của vùng. Gia
cảnh ông giáo làng không lấy gì làm dư dật, may nhờ mẹ ông làm nông thêm buôn
bán nhỏ lại dựa được vào gia đình bên ngoại nên cuộc sống dẫu có lúc còn giật gấu
vá vai nhưng cũng tạm đủ ăn.
Năm 1938, bà Thuận sinh thêm cô con gái nhỏ. Nhà thành sáu miệng
ăn. Mấy năm liền, trời hết hạn lại xoay ra lũ lụt. Vừa năm trước vỡ đê sông Hồng,
năm sau lại vỡ đê sông Thái Bình. Cái khó, cái nghèo như có chân chạy cứ kéo
nhau ập vào nhà ông bà giáo.
Tối ấy, chiêu ngụm chè tươi, ông giáo thở dài nhìn ra khu vườn
bên ngoài. Bóng đêm kéo về, giăng màn trên những tán lá, làm cả khu vườn tối sẫm
như nghiên mực tàu mới mài. Đặt cô con gái nhỏ xuống võng, bà giáo tất tả với
đôi quang thừng, chuẩn bị sắp hàng cho buổi chợ sáng mai:
- Chợ búa dạo này có khá không u nó?
Trước giờ, quen lệ, việc gia đình, nội trợ trông cả vào tay
bà, ông chỉ biết ngày ngày đi dạy học, được đồng nào về đưa cho bà nên câu ông
hỏi hôm nay khiến bà thấp thỏm. Nhìn vào gương mặt có phần hốc hác của chồng,
bà giáo giấu tiếng thở dài:
- Hàng họ hôm đắt, hôm ế... Cả làng đều khó riêng gì nhà mình.
Mấy vụ vừa rồi, lũ lụt liên miên. Cày cấy thì chiêm mất đằng chiêm, mùa mất
mùa, lại thêm nay sưu, mai thuế... chắc thầy nó cũng chẳng lạ gì...
Là người kiệm lời, chẳng mấy lúc thể hiện tình cảm qua lời
nói, chỉ nhìn dáng người mảnh mai với nước da xanh mái của người vợ tảo tần
cùng bầy con thơ, ông giáo thấy lòng mình se lại. Chẳng thể ngồi nhìn vợ con
nheo nhóc mãi, ông nung nấu kiếm cách mưu sinh. Ông ngửa cổ nhìn lên như đếm từng
cái vỉ ruồi trên nóc ngôi nhà nhỏ, mặt đăm chiêu. Bóng ông hắt lên, gù xuống
trên vách nhà.
- Thầy nó định mở lò ấp vịt thật à? - Xếp nốt món hàng vào
đôi quang thừng, bà giáo nhìn chồng. Xưa nay, ông định làm gì, nào bà có bàn bạc,
thêm nhời. Lề lối nhà bà mà cũng là lề lối chung của làng vẫn thế. Mãi chiều
nay, nghe cô cháu dâu thì thầm, bà mới ngã người. Ngập ngừng, vòng vo mãi vẫn
không thấy chồng nói gì, bà đành gặng ông.
- Bu nó nghe vợ Lữu to nhỏ hử? Không có nhẽ ngồi chờ chết.
Tôi hỏi kỹ rồi. Đận này sẽ cùng bố Lữu mở lò ấp vịt con xem sao. Đồng đất quê
mình rộng, lúa cấy cũng nhiều, lại có những khoảnh đồng quanh năm ngập úng...
Thức ăn nhiều, nuôi vịt ít phải thả mồi, lãi xem ra cũng khá nên con giống cũng
cần...
- Ầy, thì tôi cũng hỏi cho biết thế thôi. Thầy nó tính thế
nào thì tính. Tôi phận đàn bà...
- Ờ, ờ... Ông giáo gật gù...
Nói là làm, dồn tất tần tật vốn liếng, ông cùng cậu cháu con
anh trai mở lò ngay tại góc vườn. Lòng ông khấp khởi. Nếu xuôi chèo mát mái,
thuận như ý, mẻ vịt này sẽ kiếm được. Biết đâu, chỉ cần một vài lứa là sẽ hết nợ
nần.
Nhưng trời chẳng mấy khi chiều lòng người. Năm đầu tiên mở
lò, đang yên đang lành, nắng dìu dịu, gió nhè nhẹ, trời bỗng trở chứng nóng như
vắt mỡ trong người, có hôm lên tới bốn mươi, bốn mốt độ. Lò ấp vịt của hai chú
cháu ông giáo tưởng lãi cầm chắc trong tay bỗng sạch bách. Trứng nở thành vịt
chẳng thấy đâu, chỉ thấy vỏ trứng thâm đen lại, bốc mùi ung thối.
Mặc, lòng người vẫn kiên gan. Hỏng đợt này, ông giáo làm tiếp
đợt khác. Mấy năm sau, có kinh nghiệm cộng với thời tiết thuận mùa, trứng ít bị
hỏng hơn. Nhưng vận này chưa qua, hạn khác đã tới. Không nóng hỏng trứng thì dịch
bệnh lại kéo về. Vịt chết như ngả rạ ngoài đồng. Nay mua giống về nuôi, mai chết,
chẳng mấy ai còn mặn mà với nghề chăn vịt thả đồng. Người nuôi không có, vịt
con ấp nở ra biết bán cho ai? Ba năm sau, vốn liếng của hai chú cháu hết sạch.
Cái hy vọng có thêm nghề phụ giúp vợ nuôi con không thành, ông giáo còn gánh
thêm gánh nợ ngập đầu, ngập cổ. Thương người cháu, ông đứng ra nhận hết phần nợ
của cả hai chú cháu về mình. "Gánh cực mà chạy lên non. Còng lưng mà chạy
cực còn chạy theo", sản nghiệp ông bán sạch để trả nợ mà vẫn không hết.
Các chủ nợ thúc ép thường xuyên. Nhìn đàn con như trứng gà trứng vịt sàn đầu
đang tuổi ăn tuổi lớn nheo nhóc, ruột gan ông bà giáo thắt lại. Bữa ăn thường
ngày của cả gia đình thường xuyên là cháo độn rau má, củ chuối. Có được thứ
cháo loãng ấy cầm hơi cũng còn nhờ cả vào gánh hàng tảo tần trên đôi vai gầy của
bà giáo nghèo quanh năm dầu dãi.
Mười hai tuổi, Lân bỏ học. Trong trí óc non ớt của mình, cậu
muốn làm việc gì đó đỡ đần cha mẹ. Biết con trai lớn bỏ học, ông bà giáo bực lắm,
nhưng cảnh nhà đang quẫn bách, lấy gì cho con theo đòi nghiên bút cho bằng. Mười
hai tuổi, cậu bé Lân tự ép mình thành người lớn.
Bất chợt, ông Lân buông tiếng thở dài. Những năm tháng khốn
khó tuổi ấu thơ cứ như chiếc bóng toạ đăng chao đi chao lại. Ông cũng không lý giải nổi, tại sao ngày ấy con người lại có thể gồng gánh được nhiều nỗi buồn
đau, cơ cực đến thế. Và ông cũng không hiểu nổi tại sao ngày ấy lại có nhiều thứ
hủ tục lạ đời ngớ ngẩn đến vậy. Không thể hiểu, không thể lý giải bởi những hủ
tục ấy cứ len lỏi, cứ bám riết như thân tầm gửi trên cành bưởi, cành mít nhà
ông, như mớ tơ hồng vấn vít trên rặng cúc tần ngoài ngõ, buộc vào mọi người,
trong đó có ông. Lạ lùng hơn khi khổ đấy mà chẳng một ai than thở. Dường như
khi tất cả đều khổ nên chẳng mấy ai còn nhận ra mình đang khổ đến thế nào. Bị hủ
tục buộc vào, vậy mà không mấy ai phản kháng. Mọi người đều chấp nhận, đều coi
những chuyện ấy là đương nhiên phải xảy ra. Chính điều đó khiến nhiều chuyện
trong làng Bung khi ấy bỗng thành chuyện lạ nếu kể lại cho lớp trẻ bây giờ.
Một năm sau ngày bỏ học, khi ấy Lân mười ba tuổi, người đậm đạp
như cây nấm nhỏ. Chưa đến cả tuổi "thập lục" để làm những việc nhớn
như ông bà đã dạy. Một sáng, Lân đang loay hoay với con quay gỗ của mình ở chái
nhà ngang, thầy cậu gọi. Buông con quay, cậu chạy nhoáng vào, tay quệt ngang
má, ống quần lá toạ luật quật theo nhịp bước chân. Ông giáo đang ngồi trên chiếc
chõng tre, bát nước nụ vối vàng lựng như mật ong, sóng sánh trước mặt. Gương mặt
ông tư lự như đang tính đếm điều gì nung lắm.
Bỗng ông giáo ngẩng đầu, khoát tay vào buồng, bảo con trai:
- Vào lấy quần áo tử tế, mặc rồi đi với thầy!
- Thưa thầy, đi đâu ạ?
- Không hỏi nhiều, cứ đi rồi thầy bảo.
Ông giáo vận áo lương khăn xếp, đi giầy láng đen. Lân cũng
xúng xính trong bộ áo the, khăn xếp của mình. Chưa biết cha sẽ đưa mình đi đâu
nhưng lòng cậu vui lắm. Chí ít cũng được diện quần áo đẹp đi chơi.
Hai cha con vòng vo qua cánh đồng rộng nối giữa làng Bung và
làng Nội. Mùi đất ngai ngái, hương cây cỏ ngòn ngọt, nồng nồng. Lân vừa dõi mắt
theo đám châu chấu, cào cào, vừa lũn cũn bước thấp bước cao chạy theo cha. Những
búi cỏ ba cạnh cao quá đầu người đôi chỗ xòa ngang con đường đồng như níu chân
cậu lại. Thi thoảng một con gà đồng lạc bầy cất giọng gọi bạn, tiếng túc túc khắc
khoải lan khắp khoảng đồng rộng mênh mông. Lân nghiêng đầu ngó vào. Mấy lá cỏ
ba cạnh sắc lẹm, cứa một vết đỏ mờ ngang gò má bắt đầu rám nắng.
Ông giáo dắt con trai lòng vòng qua mấy con ngõ lát gạch
nghiêng tới một ngôi nhà nhỏ, người vào ra tấp nập. Mùi hương trầm ngào ngạt,
tiếng kèn đám ma vọng ra não nề. Chờ ở cổng vài khắc, trong nhà, một người đàn
ông tất tả chạy ra, đặt dải khăn trắng vào tay ông giáo. Nhìn dải khăn tang trắng
trên tay cha, Lân không hiểu gì. Chẳng phải bà con họ hàng vì chưa bao giờ cha
đưa cậu tới chơi ở nhà này bất kể là dịp nào. Người làng lại càng không phải bởi
người làng người nước khi chết đâu phải để tang nhau? Còn đang mải dõi mắt vào
nhà ngóng chuyện, Lân thấy ông giáo vỗ vào vai mình:
- Con đội lên đầu đi.
Cậu ngơ ngác. Dợm môi định hỏi, lại gặp ánh nhìn nghiêm nghị
của cha, cậu đành cúi mặt, im lặng thắt vành khăn trắng lên đầu. Ông giáo nắm tay
con trai, dắt vào sân. Vào nhà, Lân mới biết, bà chủ nhà này vừa mất. Cô con
gái lớn của bà đã được ông bà giáo dạm hỏi cho cậu. Tục lệ thôn quê, nếu nhà có
tang, con cái muốn dựng vợ gả chồng phải chờ ba năm mãn tang mới được cưới xin.
Vả lại lề thói khi ấy, trai gái về làm bạn với nhau từ thuở mười ba, mười bốn
nên ông bà nhất tâm cho Lân sang chịu tang bà mẹ cô gái trước. Ba tháng sau,
ông bà giáo cưới vợ cho con trai. Lân thành chồng của cô gái mười sáu tuổi.
Phải "làm chồng" khi mới mười ba tuổi, Lân chẳng
thích thú gì. Thậm chí sự xuất hiện của cô gái lạ mà mọi người trong nhà gọi là
"vợ" cậu kia chỉ mang đến cho Lân bao điều khó chịu. Làm gì cũng phải
làm cùng "vợ"... Lân đâm bực mình nhưng sợ bố và cả thương mẹ nên cậu
chẳng dám phản ứng chỉ ngấm ngầm chống đối. Ăn cơm cùng mâm, cậu không bao giờ
chịu ngồi gần "vợ". Hết cơm trong bát, cậu lẳng lặng ra đơm lấy. Khổ
nhất là lúc gà lên chuồng... Mọi người đi ngủ, Lân cứ quanh quẩn mãi, hết
nghiêng thứ này lại ngó thứ nọ, cốt kiếm cớ đi nằm sau để lẻn vào ngủ với thằng
em ruột. Được một thời gian, "vợ" cậu thấy không được chồng nhỏ quan
tâm, lại đau ốm liên miên nên đã bỏ về nhà đẻ. Cuộc hôn nhân ép buộc của Lân
khép lại. Lân lại trở về với cuộc sống của một cậu bé mười ba tuổi, với bao buồn
vui, vất vả và cả ngây ngô, ngộ nghĩnh.
Chẳng mảy may quan tâm tới chiến tranh thế giới thứ hai vừa nổ
ra, chẳng cần biết thế giới phân chia thành mấy đại cục, mấy phe phái, không cần
hỏi ngày hôm nay chiến tranh đang xảy ra, chẳng quan tâm xem Trân Châu cảng nằm
ở phương trời nào, mối quan tâm duy nhất của cậu lúc này là làm sao mỗi ngày kiếm
càng nhiều cua cá càng tốt, nhặt được càng nhiều rau má càng hay. Những điều ấy
sẽ giúp cho gánh hàng đặt trên vai mẹ cậu mỗi sáng bớt đằm đi, tiếng thở của mẹ
khi đòn gánh trên vai bớt gấp gáp, giúp cho ba người em kế cậu bát cháo bớt đi
phần rau độn. Cả nhà gồng mình chống cái đói cái nghèo, cuối cùng cũng không
thoát được cảnh chia ly. Cuối năm 1940 cái khó dồn đến chật nhà, ông bà giáo
đành giao người con trai thứ hai, em trai của Lân là Ly cho người bà con trong
làng làm thợ in trên Hà Nội. Nhìn người em trai mới chín tuổi, toòng teng chiếc
tay nải bên đôi vai gầy gò theo người làng lên học làm thợ sắp chữ ở nhà máy in
Đuốc Tuệ, nước mắt Lân trào ra. Cậu không hiểu nổi tại sao một đứa trẻ lên chín
có thể rời nhà đi xa đến thế. Và cậu cũng chỉ lờ mờ nhận ra, mảnh đất Hà Nội xa
xôi kia với cái làng Bung nhỏ nhoi của cậu chắc chẳng gần như từ nhà cậu sang
phố Giỗ. Không biết anh em cậu đến bao giờ mới có ngày gặp lại. Chỉ đến năm
1944, phát xít Nhật ném bom dữ dội ở Gia Lâm - nơi nhà máy in Đuốc Tuệ đang làm
nên ông giáo đã cho đón Ly trở về.
Rau má đào mãi cũng hết. Tôm cá trên đồng không thể có phép
hoá thân nên ngày một ít đi. Cái khó, cái nghèo ngày càng thắt sợi thòng lọng
chặt thêm vào cổ người nghèo. Làng Đại Phong thấm màu xám xịt, lạnh lẽo. Những
sợi khói lam chiều ít thấy vẩn vơ trên nóc bếp mỗi nhà. Những người giầu có của
ăn của để ngày một ít. Người ta kiếm sống bằng đủ nghề. Người chạy chợ, người
làm hàng xay hàng sáo, người buôn chuyến, buôn bè mãi tận mạn ngược. Người
nghèo càng nhiều, nhưng túi của những ông chủ giàu có lại ngày một căng với
mánh cho vay nặng lãi. Cái khó ló cái khôn, nhiều người nhanh nhạy đã mở những
cửa hàng phục vụ cho các ông chủ lắm tiền ham chơi.
Người Đức Phong ngỡ ngàng với cái nhà hát nhỏ ông Đình Tuynh
vừa mở. Tiếng sênh, nhịp phách từ nhà hát vẳng ra thấp thoáng bởi bóng dáng thướt
tha của những cô đào lý dẫu chẳng làm ấm lại không khí tiêu điều của một vùng
quê cái nghèo đang đeo đẳng, nhưng với Lân, tiếng sênh, tiếng phách từ nhà hát
kia đã giúp cậu có việc làm mới. Ông Tuynh vốn là chỗ họ hàng gần, về vai vế là
anh cậu nên ông bà giáo đã cho Lân sang đó học việc. Bao công việc từ quét dọn,
cơm nước, pha trà phục vụ khách đến nghe hát cậu đều làm cả. Những lúc nhà hát
không có khách nghe, ông Tuynh lôi cậu em của mình ra dạy vài đường. Chiếc đàn
đáy cần dài như cái cần câu rô ngọ ngoạy trong tay Lân. Nhưng có lẽ trong cái
khổ, người ta thường tự rèn mình. Mấy ai nghĩ món đàn đáy với những ngón vê,
chuốt, vuốt, tạo nên dòng thanh âm khi trầm lúc bổng hoà điệu cùng nhịp sênh,
phách của những đào hát lại có thể thuần thục trong tay Lân. Thời gian sau, cậu
thành kép chính của nhà hàng. Nhiều người đến nghe hát đã mến tiếng đàn mượt mà
của anh kép trẻ tên Lân.
Sau những buổi lo giúp việc cho nhà hát, trở về nhà, những
câu chuyện cha kể có sức hút Lân kỳ lạ. Mà cậu thấy cha dạo này rất lạ. Ông
giáo vắng nhà nhiều hơn. Ánh mắt ông khi trở về nhà bớt vẻ u uất. Không còn ngồi
bó gối trên phản buồn bã nhìn ra sân với ánh nhìn mông lung, vô vọng khiến anh
em Lân khi ấy chỉ dám len lén vào nhà, ông giáo hồ hởi kể cho các con bao chuyện
sau những chuyến vắng nhà. Những câu chuyện cha kể cho anh em Lân nghe dường
như có thêm hương vị rất mới, rất lạ ùa theo. Đó là chuyện về cuộc đấu tranh của
những người công nhân trong các nhà máy, hầm mỏ, của thợ thuyền trên các bến cảng,
nhà ga, của những người buôn bán nhỏ tại các khu chợ suốt từ nông thôn tới
thành thị...Song với trí óc non nớt của các cô, cậu bé mới lớn, rất nhiều điều
anh em Lân không thể hiểu. Nghe chuyện ông giáo kể, quả thực Lân chưa thể cảm
nhận hết những điều to tát, lớn lao được gửi gắm trong câu chuyện của cha. Thứ
cậu cũng như các em cần nhất là thức ăn để cả nhà có thể sống. Lân chỉ ao ước,
giá nhà mình có thật nhiều gạo để bố mẹ và anh em cậu được ăn một bữa cơm dặt
thật no.
Cuộc sống ngày một khốn cùng. Kham khổ, lao lực cộng với sự sầu
muộn bất đắc chí khiến Lân mất cha năm 1944, khi cậu vừa mười sáu tuổi. Ba
tháng sau khi ông giáo qua đời, người em gái kế Lân cũng mất. Ba tháng, mất
mát, tang thương liên tiếp dội xuống gia đình. Sự ra đi của cha, cái chết vì
nghèo đói, bệnh tật của người em gái khiến cậu suy nghĩ rất nhiều. Bà giáo như
đổ sụp. Ánh mắt bà thất thần cứ nhìn mãi vào khoảng không vô định như tìm lại
hình bóng người chồng, người con đã rời bà ra đi.
Mười sáu tuổi, Lân thành trụ cột gia đình. Chính Lân đã phải
tự tay cắt cánh cửa nhà mình đóng áo quan rồi ban đêm cùng người cậu ruột, gạt
nước mắt, đốt đuốc mang em đi mai táng ở đống Mả Chằm.
Rồi cũng chẳng thể ngồi ngấm nỗi đau khổ mãi. Bà giáo lại dồn
sức vượt lên. Đôi vai gầy của bà lại chất chồng. Bao vất vả toan lo cho gia
đình và đàn con nheo nhóc tụ cả vào đôi vai ấy. Cho đến mãi sau này, Lân cũng
không hiểu nổi, khi ấy, mẹ cậu lấy đâu ra sức lực để chèo chống con thuyền gia
đình cậu vượt qua những thác ghềnh của cuộc sống. Không biết sức mạnh nào thổi
vào thân hình mảnh dẻ của mẹ khối nghị lực phi thường. Thương mẹ, là con trai lớn
trong nhà, Lân lao vào làm việc để phụ thêm cho mẹ. Cậu làm tất cả những việc cậu
có thể làm, dẫu mồ hôi đổ ra đôi lúc nhiều hơn tiền công cậu nhận được.
Ngoài đồng, vụ mùa bắt đầu xuống giống. Những cây mạ mảnh dẻ
theo tay người ấm gốc dần, bén rễ, vọt nõn tỏi. Người làng Bung nhìn cánh đồng,
trong bụng thầm vui.
Trời nhiều khi không ác bằng con người, thậm chí những kẻ
cùng máu đỏ, da vàng. Vụ mùa đã trôi được nửa đường. Lúa con gái đang thì xanh
mơn mởn. Lúc này, trên chính trường Đông Dương, Phát xít Nhật bắt đầu lấn sân
Pháp, bắt Pháp mở cửa biên giới rước Nhật vào Việt nam. Quân Nhật kéo vào Gia Lộc.
Chúng đi thành hàng hai nghênh ngang trên con đường lớn. Nước da tái xám trên mặt
chúng khiến người ta nghĩ nhiều đến đội quân thất trận, đói ăn, khát uống. Và dẫu
chúng có cố làm ra vẻ oai phong, cũng không giấu đi được sự mệt mỏi của đội
quân đang ngập trong thất bại. Quân Nhật tràn vào chợ Cuối, mua hàng nhưng
không chịu trả tiền. Bọn giặc lùn ngang nhiên bày trò cướp giật vơ vét hàng
hoá, vàng bạc, nhũng nhiễu bắt nhân dân nộp gạo thịt. Nhiều tên còn trắng trợn
chiếm nhà của dân để ở. Để phục vụ cuộc chiến tranh phi nghĩa, chúng bắt dân ta
nộp thóc tạ. Hạt thóc quý như hạt vàng dân vẫn phải dồn lại cho chúng nấu rượu
cồn, chạy đầu máy xe lửa. Trong làng, chẳng mấy nhà còn đủ thóc ăn đến đầu vụ
sau. Tất cả đều trông chờ vào vạt lúa mơn mởn đang thì con gái ngoài đồng.
Bọn Nhật ngông nghênh, khua gươm tít mù, chỉ ra cánh đồng trước
mặt: "Nhổ lúa trồng đay". Một câu ngắn nhưng như quả bom tấn nổ ngang
tai người làng Bung. Dân ngỡ ngàng. Các làng đều tìm cách lần lữa, trì hoãn cái
lệnh tai ách ấy. Kẻ cáo bệnh, người lảng đi làm việc khác. Cả cánh đồng đang
mơn mởn ngoài kia, ai có gan nhổ? Nhổ lúa khác nào hất đi bát cơm của cả nhà?
Đám giặc lùn thúc! Dân cứ ngoảnh mặt làm ngơ. Quân Nhật điên
cuồng. Hai thằng lính Nhật, quần áo ka ki vàng, mũ trùm tai, gươm đeo quét đất
nghênh ngang đi lại trong làng. Đôi mắt ti hí của chúng nhòm ngó khắp hang cùng
ngõ hẻm. Vóc dáng lùn tịt cùng thứ ngôn ngữ xì xồ của chúng như tiếng chim cú
báo tai ương cho người dân vô tội. Người làng Bung tái mặt. Bọn Nhật ốp lý trưởng
của làng dồn dân ra đồng. Dân làng dồn lại. Không ai chịu bước xuống ruộng. Mồ
hôi của cả làng đã ngấm xuống đất đai, làm nên sắc xanh của lúa trên những thửa
ruộng bạt ngàn kia. Lúa vẫn xanh nhức mắt, vẫn dồn nhựa sống lên những phiến lá
tơ mềm như trêu, như ghẹo. Bước chân người làng Bung chần chừ, rón rén trước ruộng
lúa đang thì. Ruột gan người làng Bung thắt lại trước sắc xanh ngỡ ngàng của
lúa thời con gái. Không một bàn chân nào nhúc nhích. Không một bàn tay nào vươn
ra. Câm lặng. Chỉ có lúa là vẫn xanh đến cồn cào.
Hai thằng lính Nhật nghiến răng lại. Lưỡi kiếm sáng quắc của
chúng tung khỏi vỏ, vung lên. Mặt chúng đỏ bầm màu máu. Chúng tuôn ra một tràng
như đạn súng máy vọt khỏi nòng. Ông lý trưởng làng Bung run như chim dẻ cùi gặp
bão, lập cập nhắc lại lời chúng với bà con. Lân không hiểu hai thằng Nhật lùn
kia nói gì, chỉ thấy lý trưởng thông ngôn lại, đại khái: Nếu dân làng không chịu
nhổ lúa trồng đay, chúng sẽ dùng kiếm mổ bụng moi gan, hoặc chúng sẽ mổ bụng ngựa,
bụng trâu, bò, nhét người vào đó rồi khâu lại cho chết ngạt. Lời thông ngôn của
lý trưởng, người làng Bung không lạ. Chuyện giặc Nhật ác ôn, man rợ, dân làng
đã nghe rất nhiều. Và người dân làng Bung cũng không ngốc nghếch đến nỗi không
tin quân Nhật dám làm việc đó.
Một người, hai người… Rồi ba người bước xuống. Lúa vẫn xanh
cồn cào trước mặt. Những cánh tay đưa ra, miễn cưỡng, ngập ngừng như sợ thít phải
chính cổ mình. Gốc lúa bật lên. Nước mắt người dân làng Bung rơi xuống. Nỗi đau
đớn, cơ cực tủi hờn của người dân mất nước ngấm đến tận xương tuỷ. Mồ hôi, nước
mắt, miếng cơm manh áo của mình mà chúng cướp trắng trước mắt. Niềm hận thù xăm
vào gan ruột. Nó như quả bom tích điện chỉ chờ ngày phát nổ.
Cả cánh đồng làng vừa mỡ màng xanh thoáng chốc chỉ còn trơ lại
một màu xám trắng. Xám lạnh lẽo của nước bùn, của chết chóc, đói rét. Những
thân đay èo uột cắm vội cắm vàng thế vào bao thửa ruộng mơn mởn trước đó như mầm
dịch của thần chết gieo rắc cho người làng.
Thóc vụ trước đã bị thu hết. Lúa ngoài đồng bị nhổ sạch để trồng
đay. Không còn chút gì để có thể cầm hơi, nuôi sống con người. Người ta nháo
nhác nhìn nhau. Ngơ ngác! Hãi hùng! Điều khủng khiếp nhất đã đến!
Tháng ba! Kỳ giáp hạt! Cái đói lan ra khắp làng. Người ta ăn
rau, ăn củ chuối, rồi ăn cả cỏ. Bất cứ thứ gì có thể nhai, có thể nuốt được đều
biến thành thức ăn. Cái gì lấy mãi rồi cũng hết.
Sáng nửa ngày. Đang loay hoay quảy gánh hàng cho mẹ ra chợ,
Lân giật nảy người bởi tiếng thét chu tréo vang lên từ hai ngôi nhà rạ tồi tàn
cuối xóm. Dừng chân, ghé mắt qua hàng rào, hai người đàn bà quần áo te tua đang
lăn xả vào nhau. Tóc tai họ rũ rượi. Họ vừa túm tóc, vừa xa xả:
- Con mẹ mày. Có trả ngay bà cái củ chuối ấy không thì bảo?
- Mả mẹ mày. Cây chuối ấy mọc trên đất vườn nhà tao, làm sao
mày nhất quyết bảo đó là của mày? Còn trả mày cái củ chuối ấy á? Còn lâu nhá!
Con bà ăn đã ỉa ra rồi, mày biết chửa? Có đòi thì ra nhà gio mà đòi.
- Con mặt nạc đóm dày kia. Mày bảo cây chuối nào là của nhà
mày? Không có bà trồng thì lấy cái đầu lâu xương sọ thằng cha mày để cây chuối ấy
nó mọc lên à? Thế mà hở ra một cái mày đã khoét ngay củ chuối của bà… Bà thì xé
xác mày ra…
- Chuối mọc trên đất nhà tao, tao đào… Mày giỏi thì móc họng
tao đây.
- Mày không phải thách… người kia túm chặt tóc người này. Họ
cùng lăn ra đất. Rồi dường như không gượng được nữa, cái đói làm cho họ kiệt sức.
Họ buông nhau, nước mắt cùng lã chã rơi.
Lân quay người. Cái đói quay quắt khiến con người mất hết lý trí, mất hết cả những mối quan hệ tưởng như thâm cung của những người hàng xóm,
láng giềng. Cái dáng lam lũ của mẹ Lân thấp thô phía trước. Mẹ không chứng kiến
cảnh hai người đàn bà chửi nhau vì một cái củ chuối. Nếu chứng kiến, chắc mẹ sầu
não lắm.
Từng đoàn người ăn xin từ Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Thanh
Hoá... lũ lượt kéo nhau ra. "Đói ăn thì lên Bắc, chạy giặc thì vô
Nam", người người truyền tụng nhau câu ấy. Đường 17 người nối người vật vờ,
dật dờ như những bóng ma. Chợ Cuối thành nơi người đói tụ lại. Làng Bung cũng
chẳng khá hơn. Thức ăn nuôi mình còn không có, lấy đâu để cho mọi người. Bà
giáo vẫn tần tảo ra chợ Cuối bán hàng, lần hồi kiếm cái ăn cho cả nhà. Hy vọng
sống được qua trận đói thành ước ao lớn nhất của cả làng Bung. Đâu cũng thấy
người ta nhắc đến miếng ăn, đến sống, chết. "Đói rã họng". "Đói
vàng mắt" là câu cửa miệng của mọi người.
Chợ Cuối mất hẳn cái dáng vẻ sầm uất mọi khi. Khắp nơi người
đói vạ vật. Những người bán hàng ăn mỗi bên phải có một người cầm đòn gánh đứng
canh. Từng đám người rách rưới, đói khát dồn cục bu lại trước cửa quán. Chỉ cần
sơ hở, họ có thể ùa vào bất kỳ lúc nào để cướp được miếng ăn. Người ngồi trong
hàng thấy miếng ăn tắc lại nơi cổ họng. Người ngồi ngoài hàng nước mắt ứa ra.
Chính Lân cũng ngấm vô cùng cái đói của ngày giáp hạt. Không một hạt thóc nào
còn sót lại. Hai chỉ vàng chẳng đổi nổi một bữa ăn mà vàng nhà cậu cũng không
có. Nhà bốn miệng ăn, gánh hàng rong của mẹ chẳng thể gánh nổi mãi.
Một buổi tối, bà giáo gọi Lân vào:
- Cứ đà này, không biết mọi sự sẽ thế nào. Nhà mình bây giờ
túng quá rồi, mình u chẳng lo nổi nữa. Thôi, đành phải cho em Ly con sang nhà cậu
con bên Đại Liêu để cố qua nạn này rồi tính sau vậy.
Nhìn gương mặt đã se sắt của mẹ, lòng Lân như bị ai đó cầm
con dao cùn nhay đi nhay lại. Ngoài trời vẫn tối như mâm bánh tro có thể sắn ra
thành từng miếng. Biết làm gì giúp mẹ lúc này? Lân đành im lặng. Cậu lần ra
chái nhà, lần tìm nắm lạt. Trong bóng tối nhờ nhờ, bàn tay mò mẫm buộc lại mấy
nút cạp rổ vừa bung mà cổ Lân như có bàn tay ai chẹn lại. Dòng người đuổi theo
một người đói quá cướp cám sáng nay ở chợ Cuối lại chen vào hiện hình trong đầu
Lân. Tiếng hô: "Cướp, cướp…" khiến những người đang ngồi trong những
túp lều chợ lụp sụp ngoảnh cổ quay hết cả ra ngoài. Một bóng người, nói đùng
hơn là một túm giẻ rách đang cố sức cắm cổ chạy phiá trước. Đằng sau là một
thân hình cũng không khá gì hơn kéo theo những cái bóng dật dờ khác. Vừa chạy,
túm giẻ đằng trước vừa cố nhét nắm tay lên miệng. Những hạt cám vụn vương đầy
khoé miệng. Dường như không nuốt nổi, túm giẻ dừng lại, vươn cổ ngắc ngắc mấy
cái. Rồi đôi mắt chỉ còn toàn lòng trắng trợn lên, túm giẻ ấy đổ sụp xuống vừa
lúc bóng người dật dờ phía sau đuổi kịp, hổn hển thở nhưng vẫn chồm lên:
- Đồ ăn cướp! Nhoáng một cái nó đã xô vào mẹt cám rồi… Mày,
mày!
Vừa nói, vừa thở, cái thân hình còm nhom kia vừa đổ ập xuống
túm giẻ nhàu nát, mà giẫm mà đạp. Dường như sức lực cũng chẳng còn mấy nả, rồi
cũng từ từ xịu xuống. Đám đông chạy phía sau ùa theo. Người giơ chân, kẻ giơ
tay… Rồi tiếng ai đó sầu não:
- Thôi, tha cho người ta. Đói ăn vụng, túng làm liều. Mấy hạt
cám cũng tắc nghẹn lại rồi, có nuốt được đâu. Chả biết cầm cự được đến bao giờ…
Đám đông tản ra. Người vừa nói lôi túm giẻ, dựng dậy. Nhưng
gương mặt xác xơ đã tím lại. Không biết túm giẻ ấy chết vì sợ quá hay chết vì sặc
cám khô? Cũng lại một kiếp người
Mặc cái lạnh se se, tờ mờ sáng, Lân đã lọ mọ ngoài đồng. Con
tôm, con tép, thậm chí cả con chuột đồng kiếm được lúc này đều quý. Nó là nguồn
thức ăn cậu có thể góp vào cùng mẹ chèo chống cho cả nhà thoát khỏi những cơn
đói quặn người.
Cái đói không chừa nhà ai. Những nhà hào lý trong làng cũng
đã ngấm đói.
Chiều ấy, Lân loạng choạng từ ngoài đồng về. Bát cháo cám
loãng húp từ sáng đã bay vèo đâu mất. Mắt bắt đầu hoa lên. Vừa thất thểu vào
ngõ, Lân sững người. Bên thềm nhà cậu, một hình người tả tơi trong nhúm giẻ
rách. Một bộ khung xương giơ ra, chẳng còn nhận được ra mặt người, chỉ thấy giọng
nói thều thào, tiếng được, tiếng mất:
- Chết chiều nay rồi bà giáo ạ. Người chết nhiều lắm. Sáng
nay, ngoài ngã tư Giỗ, có hai mẹ con nhà nọ, không biết người Thái Bình hay Nam
Định... Giọng người kể ràn rụa nước mắt - Khốn khổ quá bà giáo ơi! Mẹ chết rồi
mà đứa con có biết gì đâu, nó vẫn bò nhoai trên ngực mẹ mà nhay hai núm vú đã
đen sì lại rồi ngằn ngặt khóc. Ai thấy cũng nhỏ nước mắt nhưng rồi cũng đành
ngoảnh mặt đi. Mấy ai biết mình sẽ sống sót được đến bao giờ mà dám nhặt đứa bé
mang về hả bà? Nhà cháu đây này, chẳng biết ngày nay, ngày mai, hay ngày kia sẽ
chết...
- Nhà chị đừng dại miệng - Bà giáo an ủi người đàn bà nọ - Gắng
xoay xoả cho qua cái nạn này. Lúa non cũng sắp có rồi. Nhà tôi cũng thế thôi, củ
chuối ngoài vườn đào sạch như chùi. Ăn mãi của chuối nó cũng phù người lên mà
cũng có còn để đào đâu. Sáng nay, đi tuốt mãi mới được vài bông lúa mới đông sữa
về đây. Tôi phải rang khô, giã nhỏ rồi đấy, chị cầm lưng bát về nấu cháo loãng
cầm hơi, mai ra đồng mà suốt lúa...Chẳng sàng sẩy được gì đâu, đành nấu cả vỏ
trấu vậy.. Gắng mà qua đận này...
Người đàn bà nọ khóc. Tiếng khóc tức tưởi, ngậm ngùi. Dường
như bao hờn tủi dồn góp lại đọng thành đắng cay, bật ra trong tiếng khóc của
con người khốn khổ. Có lẽ nước mắt cũng chẳng còn để rỉ ra được nữa. Chỉ thấy
tiếng ức ức nghẹn ứ trong cổ bà ta. Giọng nói nghèn nghẹn lẫn trong lời kể sụt
sùi:
- Người chết nhiều lắm rồi bà ạ. Ngoài cổng chợ Cuối, rồi suốt
con đường qua làng, chỗ nào cũng thấy có người chết đói. Quan huyện đã cho đào
cái hố to tướng ở ngã tư chợ kia kìa. Họ thuê những người còn ngắc ngoải nhặt
xác người chết cho xuống hố. Nhiều vô thiên lủng bà giáo ạ. Nhưng những người
nhặt xác ấy cũng lại chết rồi. Họ được thuê nắm cơm để lôi người chết đói đi
chôn, vội vàng cắn, nhai, trợn mắt nuốt, lại nghẹn mà chết. Rõ là không có ăn
cũg chết, có mà nuốt cũng lại chết. Chẳng còn ai nhặt xác, mấy tay lính dõng
đành phải làm việc ấy bà giáo ạ....
- Tôi đi chợ cũng có thấy. Chợ Cuối đông đầy những người chỉ
còn da bọc xương. Giặc Nhật ác quá. Hết thu thóc tạ lại bắt nhổ lúa trồng đay,
làm gì người chẳng chết. Cứ ngắc ngoải, dần mòn mà chết. Lúc đầu tập trung ở
khu nhà Hội đồng hàng xã, sau dồn về khu chợ hàng Trâu, hàng Lợn. Khiếp quá, dọc
đường từ làng Bung lên phố Giỗ, người chết đói la liệt hai bên đường đấy nhà chị
ạ!
Có lẽ lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên, và
không được phép quên cái nạn đói thảm khốc năm bốn nhăm ấy. Cái nạn đói khủng
khiếp đã cướp đi hơn hai triệu sinh mạng con người. Cái nạn đói như một chứng
tích chép lại tội ác của giặc Nhật và bè lũ phát xít. Nó găm sâu trong tâm can
người Việt bởi sau trận chết đói ấy, người dân còn phải chết bởi nhiều hệ luỵ từ
trận đói tháng ba kinh hoàng. Sau chết đói, lại là chết dịch. Dịch từ đâu ư? Từ
chính những người đã chết đói, chết rét kia. Khi xác chết nhiều quá, không đủ
áo quan, người ta bó chiếu. Rồi chiếu cũng chẳng còn để bó xác, người ta cứ thế
bỏ xác lên xe bò, nhiều quá không xe xuể đành lấy dây thừng thòng lọng vào cổ
kéo vứt xuống hố rồi lấp đất. Sơ sài, qua loa. Xác mới chồng lên xác cũ. Lớp đất
lấp mỏng tang bên trên gặp mưa tháng ba, toạt ra. Xác chết trồi lên, trương
phình, bốc mùi, gặp mưa rã rời. Dòi bọ từ các hố chôn lúc nhúc bò lan ra cả khu
đất quanh hố chôn. Ruồi nhặng đậu đen kịt, bay à à như vãi trấu. Mùi hôi thối
theo gió lan khắp các làng lân cận. Bệnh tả, thương hàn, phù thũng... lan nhanh
như qua tay phù thuỷ. Bệnh thành dịch khi ngấm qua nguồn nước, qua nguồn thức
ăn, qua cả những con rận còng ngo ngoe đám chân dài, cắm cái vòi của nó vào hút
máu người bệnh rồi lẩn sang người lành gây nên dịch sốt hồi quy có thể vật đổ cả
những con trâu mộng. Bao thân hình còm cõi vừa ngơ ngác ra khỏi nạn đói còn
chưa hoàn hồn lại bị vùi dập bởi dịch bệnh. Người ta lại chết. Chết thảm khốc
hơn. Có nhà chết không còn một ai. Có họ chết mất cả một chi. Không khí tang
tóc trùm khắp làng. Người chết lúc đầu còn được tổ chức đưa đám theo phong tục.
Sau chết nhiều quá, chẳng ai còn lo được cho ai, nhà nào đành tự lo liệu chôn cất
người nhà ấy. Khói đống giấm ngoằn ngoèo bay lên từ khắp các ngõ xóm. Làn khói
trắng xám nghi ngút ấy cũng không át được mùi tử khí lan trong làng.
Nạn đói tháng ba năm bốn nhăm đã khắc nỗi kinh hoàng vào tâm
khảm của Lân. Cái chết của cha, em gái, nỗi khổ đau, vất vả của người mẹ nghèo
cùng những gì cậu đã chứng kiến ngay trong cái làng Bung vốn hiền hoà, êm đềm
nơi cậu sinh ra, vật lộn để tồn tại khiến Lân suy nghĩ rất nhiều. Và có lẽ đó
cũng chính là lối nhỏ đầu tiên đưa cậu bước vào một trang đời mới - Trang đời của
một thanh niên mười bảy tuổi.
CHƯƠNG II
Con đường làng lát đá xanh mát rượi bám vào gan bàn chân như
bàn tay mềm, ráp, buồn buồn xoa theo từng nhịp bước. Những viên đá đã từng in dấu
chân bao người trở nên láng bóng, trôi qua đôi chân của chàng thanh niên làng
Bung vạm vỡ. Gió thu dìu dịu len vào cánh áo mỏng. Trời cao vút, không một gợn
mây. Cái lễnh loãng, vô định của màn trời cuối hạ đầu thu sao càng dễ gợi thê
lương đến lạ. Trong làng, ngoài đồng, cảnh hoang vắng, tàn tạ của vùng vừa
thoát ra khỏi trận đói vẫn chưa ấm lại.
Chiếc nơm nhỏ vắt vẻo trên vai, Lân lững thững men theo con
đường nhỏ, ra cánh đồng Vãng. Những chuyện liên tiếp xảy ra vài ngày gần đây
quanh cái làng Bung nhỏ bé của anh, khiến Lân trăn trở rất nhiều. Anh chưa biết
Việt Minh là gì, chưa biết ai tham gia vào đó nhưng việc họ bí mật ra những bản
án đanh thép kết tội nhiều tên ác bá từng gây đau khổ với dân làng khiến Lân và
bao người nghèo khổ như anh ở làng Bung khấp khởi trong lòng. Có lẽ, Việt Minh
là tổ chức hội kín gì đó mà trước đây cha anh đã có lần nói tới. Chuyện mấy hôm
trước, nghị Ngợi bị Việt Minh bí mật bắn chết tại phố Cuối lại hiện về trong đầu
Lân. Bước chân anh chậm lại.
Đang lúi húi cuốc lại mảnh vườn, Lân nghe bà con í ới kháo
nhau ngoài ngõ:
- Ra mà xem, ối giời, chết mà mắt vẫn mở trừng trừng...
- Ác lắm vào, chết là đáng kiếp...
Tiếng được tiếng mất, chẳng hiểu đầu cuối ra sao, Lân vứt cuốc
chạy theo đoàn người đang cuồn cuộn đổ về phố Cuối. Lách đám đông, cố nhô đầu
vào, Lân thấy nghị Ngợi nằm ngửa, đầu nghẹo về một bên, đôi mắt vẫn ti hí như
hé nhìn. Trên ngực, vệt máu loang ra đã bắt đầu khô, ruồi nhặng vo ve lượn xung
quanh. Không biết Việt Minh bí mật có mắt mũi thế nào mà tội hắn gây cho dân, họ
biết cả. Trước khi bị bắn chết, Nghị Ngợi "được" Việt Minh tuyên án.
Bằng chứng là mảnh giấy kể tội ác Nghị Ngợi đã gây ra, gài trên ngực áo ngay
bên vệt máu long lổ chảy ra từ vết đạn cầy. Bà con chỉ trỏ, bàn tán xôn xao.
- Thần tình thật đấy. Không biết họ ra làm sao mà tường tận
đường tơ, kẽ tóc thế chứ…
- Cứ phải thế, những thằng khác mới chờn… Không á, chúng còn
tưởng chúng là ông giời, muốn làm gì thì làm sao…
Một vài ánh mắt len lén nhìn rồi cụp vội xuống. Tiếng một người
đàn ông nói nhỏ nhưng rất hào sảng:
- "Bà con biết không, bên trời Tây kia, phát xít Đức đã
đầu hàng quân đồng minh. Ở Đông Dương, bọn Nhật lùn cũng đang giẫy chết. Đội
quan Quan Đông của chúng đã bị Liên Xô đánh cho tan tác. Trên đất Nhật, Mỹ đã
ném xuống hai quả bom nguyên tử làm san phẳng hai thành phố lớn... Nhật Hoàng
đã tuyên bố đầu hàng. Tội ác tày trời quân Nhật gây ra với dân ta đang bị trừng
phạt... Bà con hãy chuẩn bị... Chúng ta phải đứng lên để cứu lấy mình...".
Gió vẫn rì rầm, mơn man. Câu nói của người đàn ông hôm ấy cứ
văng vẳng bên tai... Bước thấp, bước cao, Lân không còn chú ý những vạt cỏ may
ven đường đang chín dần, bắt đầu ngả màu xám bạc. Chúng ngả ngốn quấn vào chân
anh như kéo lại.
Rạch đám cây cỏ trước mặt thành một khoảnh, ném nhúm cám rang
đã trộn kỹ xuống khoảng nước trống, Lân ngồi bệt xuống bờ cỏ, chống nơm chờ.
Anh hy vọng hôm nay sẽ kiếm được kha khá cá mang về cho mẹ. Cánh đồng Vãng vốn
ngập úng quanh năm. Những loại cá đồng như rô, giếc, trê, chuối cũng còn sẵn.
Đám bong bóng tăm cá tròn vo theo bọt nước sủi bắt đầu nổi lên. Đôi mắt Lân
chăm chú vào vũng nước vừa thả thính. Bỗng bên tai anh nghe âm âm. Tiếng gì ầm
ì xa lắm. Nửa như tiếng thì thùng của trống, nửa như tiếng sấm mưa nguồn. Thanh
âm vẳng lại, ngày một rõ dần. Rõ ràng là tiếng trống, cả tiếng người. Bỏ mặc
tăm cá, Lân quăng nơm, quăng giỏ, hối hả lội vào bờ.
Từ phía cầu Gỗ, đoàn người rồng rắn kéo ra. Cờ đỏ sao vàng,
biểu ngữ, cuốc, thuổng, gậy gộc. "Đả đảo phát xít Nhật"; "Ủng hộ
mặt trận Việt Minh"; "Việt Nam độc lập muôn năm"... Tiếng hô, tiếng
thét của đoàn người áo rách cùng những thứ vũ khí thô sơ họ đang lăm lăm trong
tay có sức mạnh ghê gớm! Mây trên đầu như vỡ bung ra. Mặt trời bỗng lách mây,
xoà những tia nắng thu vàng rực chiếu lấp loá xuống đoàn biểu tình. Những lá cờ
được gió, bay phần phật. Đoàn biểu tình đi đến đâu, dân từ các làng hai bên đường
ào theo, nhập thành dòng, đông như trẩy hội. Kệ quần đùi, áo cộc mong manh, Lân
ùa theo dòng người.
Mãi sau này, anh mới biết mình đã tham gia đoàn quân khởi
nghĩa kéo ra từ làng Dôi, do thầy giáo Tuệ dẫn đầu đi giành chính quyền tại huyện
Gia Lộc. Khí thế tưng bừng của ngày khởi nghĩa khiến Lân quên đi tất cả, chỉ
còn niềm vui khi tìm thấy con đường mới cho mình - con đường sẽ đem lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho gia đình và bao người cùng khổ như Lân.
Đoàn biểu tình hừng hực tiến vào cổng huyện. Cả huyện đường vắng
tanh. Huyện Kiểm đã bỏ trốn mất tăm. Loanh quanh trong sân chỉ còn mấy tên lính
lệ, mắt dáo dác, run như dẻ cùi gặp bão. Vừa thấy đoàn người hùng dũng tiến
vào, họ đã vội vàng giao vũ khí, đầu hàng.
Chính quyền về tay nhân dân! Tiếng cười, tiếng hát, tiếng hô
khẩu hiệu vang trời. Nhiều người, cười mà nước mắt chảy. Họ khóc vì mừng vui,
vì từ nay thực sự đổi đời, vì những khổ đau họ đã đè lên vai họ bao năm, nay
lùi vào dĩ vãng... Và còn vô vàn lý do chính đáng khiến họ cười mà nước mắt vẫn
tuôn.
Nắng tháng tám khiến gương mặt người thêm rạng rỡ. Cái nắng
vàng lịm của da bưởi vào thu xua đi không khí hoang lạnh bao ngày. Cả huyện Gia
Lộc mênh mông và cái Bung nhỏ bé, thân thuộc của Lân.
Sau buổi sáng nhập vào đoàn người biểu tình giành chính quyền
ở huyện, Lân cuốn mình vào dòng chảy hừng hực của biển cách mạng. Trong đoàn biểu
tình dự mít tinh mừng ngày Quốc khánh 2.9 tại vườn hoa Bảo Đại (trước cửa nhà
Bưu điện tỉnh), mít tinh chào mừng ra mắt Uỷ ban hành chính lâm thời của tỉnh Hải
Dương, mọi người đều thấy Lân hăng hái tham gia, hòa mình vào dòng thác cách mạng.
Chính quyền vừa thành công, giặc đói, giặc dốt hoành hành
cùng quân cướp nước. Khó khăn vây bủa tứ bề. Thù trong giặc ngoài đe dọa. Vận mệnh
dân tộc ngàn cân treo sợi tóc. Như bao người nhiệt tình, yêu nước khác, Lân
tham gia vào Đoàn thanh niên cứu quốc, hoạt động trong Ban tuyên truyền xã bộ
Việt Minh xã Hội Xuyên do đồng chí Văn Hồi làm chủ nhiệm xã bộ, thành lập tại
đình làng Đức Phong đầu năm một chín bốn sáu. Gian khó đang chờ phía trước,
nhưng Lân thấy rất vui.
Nằm giữa cánh đồng, trên địa phận quán Múc nên ngôi chùa nhỏ
nhắn ấy có cái tên Nôm đáng yêu là chùa Múc. Ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng
trong câu ca cổ "Sư ông chùa Quyến, sư bà chùa So, ông Tư Do chùa
Múc" dân quanh vùng vẫn truyền tụng, khép mình giữa cánh đồng rộng mênh
mông, xa dân, vây kín bởi những tán cây cổ thụ rậm um tùm càng tôn vẻ thâm u
huyền bí nơi Phật ngự. Không mấy ai biết, cửa Phật cõi Thiền ấy lại chính là
nơi ủ lửa, là chốn đi về của những người con cách mạng huyện Gia Lộc. Ngôi chùa
nhỏ, những hàng cột lim lâu ngày lên nước bóng loáng đỡ những bức hoành phi,
câu đối sơn son thếp vàng. Những tấm bình phong, đầu xà, vỉ kèo chạm trổ tinh
vi bởi những người thợ khéo tay. Trong vườn chùa, dưới tán cổ thụ, ngay trước cửa
tam quan, sư cụ cho trồng mấy gốc đại. Vào mùa, hoa rụng trắng chiều, hương hoa
quyện với lư trầm càng khiến không gian chùa nức nở. Những pho tượng Phật hiền
từ, thâm nghiêm. Đêm buông, khu vườn đẫm sương, hương thuốc nam phảng phất càng
khiến ngôi chùa dịu dàng lan toả cái tĩnh lặng của mình. Trong tiếng chuông vô
định mỗi chiều điểm vào thinh không, tiếng mõ trầm tư khắc vào đêm tối, giọng tụng
đều đều vọng ra sau mỗi cữ kinh sớm, kinh chiều. Khung cảnh ấy, mấy ai tin,
chùa Múc nhỏ bé giữa đồng không mông quạnh kia lại chính là nơi đi về của những
con người đang hiến thân cho sự nghiệp cách mạng. Và, sau dáng vẻ cam chịu, lầm
lũi dưới màu áo nâu sồng, mấy ai thấu cho nỗi lòng sư cụ cùng chú tiểu đang
ngày ngày giữ lửa. Mỗi sớm, mỗi chiều, những bóng người thoáng ẩn, thoáng hiện
sau tán cây thâm u nơi cửa thiền là đốm lửa niềm tin và hy vọng của những người
dân đói khổ, cơ hàn.
Trời chuyển về chiều. Những tia nắng cuối cùng của ngày khuất
dần. Rặng tre trước mặt như tấm áo khoác khổng lồ ôm ấp, che chở cho làng. Lân
và một số thành viên trong ban tuyên truyền xã bộ Việt Minh xã Hội Xuyên đang
men theo con đường từ làng Bung sang làng Nội. Tối nay, Ban tuyên truyền xã bộ
cùng đội tự vệ chiến đấu có cuộc họp quan trọng. Không biết vị lãnh đạo về dự
cuộc họp lần này là ai, nhưng Lân thấy tâm trạng thật phấn chấn. Gần một năm
tham gia hoạt động trong Ban tuyên truyền xã bộ Việt Minh và đội tự vệ chiến đấu,
Lân khao khát được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Chiều nay, lúc cùng đội tự vệ
tập quân sự, Lân và các đồng chí được liên lạc thông báo về dự họp.
Ánh đèn dầu lạc leo lét trong hậu cung chùa Múc khiến gương mặt
những người dự họp chập chờn. Bóng người khi sáng khi tối, nhập nhòa trên vách
lẫn trong tiếng nói chuyện rì rầm. Từ Tam Bảo, tiếng sư cụ tụng kinh vẫn đều đều
vẳng ra. Thi thoảng một tiếng chuông điểm như âm cầm canh, lọt thỏm vào không
trung. Ngoài tam quan, chú tiểu vẫn cặm cụi se chiếc chổi lúa, đôi mắt hướng ra
khoảng không, nơi bóng tối đang sánh lại như bưng lấy mắt.
Tiếng kinh chìm dần. Sư cụ bước ra. Mùi bồ kết toả ra từ tấm
áo nâu sồng sư cụ đang mặc phảng phất không gian. Góc vườn chùa có cây bồ kết
già, tốt um tùm, vào mùa chi chít quả. Sư cụ vẫn sai tiểu đồng kèo về, sấy khô
trên giàn bếp để giặt quần áo dần. Thoáng thấy bóng thầy, chú tiểu ngẩng lên.
Chạm ánh mắt sư cụ, chú bước ra ngoài cổng chùa, nép bên cánh gỗ, nghiêng
nghiêng nhìn tứ phía.
Một người đàn ông bước vào. Vóc dáng dong dỏngcủa ông khiến
những người đang ngồi chờ họp à lên. Không cần giới thiệu, đều là người trong
vùng cả, họ nhanh chóng nhận ra đồng chí Bùi Quang Thông - Bí thư liên xã. Đồng
chí là người khá nổi tiếng bởi vốn là người đi nhiều biết rộng. Với những người
đã tham gia vào tổ chức bí mật, cái tên Bùi Quang Thông mang lại cho họ niềm
tin khá vững chắc. Ông là người cùng cha Lân tham gia tổ chức và phát triển
phong trào Phật giáo yêu nước sớm nhất của tỉnh Hải Dương đặt trụ sở tại chùa
Giỗ, thôn Phương Điếm (Về bề bậc ông là em con dì ruột của cha Lân), bàn chân
ông đã từng đặt lên bậc tam cấp chùa Quán Sứ - Hà Nội, từng giữ vai thư ký báo
Đuốc Tuệ của hội Phật giáo xứ Bắc kỳ. Những tiếng xì xầm bật ra:
- Bí thư chi bộ liên xã Hội Xuyên đấy!
Ông Thông cười. Nụ cười của người bí thư chi bộ Đảng đầu tiên
liên xã Hội Xuyên lấp loá trong ánh đèn dầu lạc. Tháo chiếc tay nải đặt xuống
mép bàn gỗ, đôi tay đan lại, tiếng ông nhỏ, trầm nhưng vang. Ông nói về tình
hình thế giới, về những khó khăn trước mắt và lâu dài của cách mạng nước ta, về
kết quả cuộc tổng tuyển cử trên cả nước, về các thành viên của Quốc hội khóa I
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, về việc tập trung xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân để chuẩn bị đối phó với âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa
của Thực dân Pháp… Với công việc trước mắt của liên xã Hội Xuyên, cùng anh em
xây dựng lịch tập quân sự của đội tự vệ chiến đấu, lên kế hoạch tham gia các cuộc
mít tinh, biểu tình của nhân dân, kế hoạch canh gác phòng gian, bảo mật...
Riêng phần tập quân sự của đội tự vệ với các đội viên nòng cốt: Nguyễn Đình
Lân, Bùi Quang Sào, Nguyễn Thị Tỉnh, Nguyễn Công Đà... do Nguyễn Đình Khai huấn
luyện...
Đêm về khuya càng tĩnh mịch, giọng trầm ấm của ông lan trong
không gian, quyện trong hương bồ kết, hoa đại ngoài vườn chùa bén vào. Lân cùng
các đồng chí nghe chăm chú. Chặng đường gập ghềnh chông gai với bao công việc
phía trước hiện dần. Chính đồng chí Bùi Quang Thông đã giới thiệu Lân đi học lớp
cảm tình của Việt Minh bí mật. Nhất định Lân sẽ không phụ lòng tin của ông -
người đồng chí, bậc cha chú đáng kính.
Tiếng mõ cầm canh điểm nhịp một. Đêm dần về sáng. Cuộc họp dừng.
Mọi người lục tục ra về. Lân thấy lòng rưng rưng. Sương đêm rụng từ tán xoan xuống
tàu chuối lộp độp. Không vui sao được khi tại cuộc họp đêm nay, Lân chính thức
có tên trong danh sách đi học lớp Việt Minh bí mật của huyện cùng các đồng chí
Nguyễn Công Tường, Bùi Quang Sào, Nguyễn Thị Tỉnh... Lớp học tổ chức tại chính
ngôi chùa Múc này...
Lân chợt nhớ đến cha. Nếu cha còn sống, biết tin này, chắc
ông giáo vui lắm. Hình ảnh khuôn mặt cha tươi rói khi kể cho các con nghe về cuộc
đấu tranh của thợ thuyền, người buôn bán nhỏ... để đòi quyền sống những năm trước
đó lại hiện về. Nhưng còn mẹ? Người phụ nữ tảo tần chỉ biết thương chồng, lo
cho con, không biết mẹ có bằng lòng? Tham gia vào tổ chức Việt Minh bí mật đồng
nghĩa chấp nhận đi vào con đường chông gai, lắm nhọc nhằn, nhiều thử thách, có
thể hi sinh cả tính mạng, Lân sợ mẹ lo. Anh lại là con trai lớn trong nhà, cha
mất sớm, bao hy vọng mẹ đặt cả vào Lân... Nói thế nào để mẹ bớt lo... Nói thế
nào để hàng đêm, nếu nghe tiếng súng, tim mẹ không nghẹn lại?... Lân vẫn bước đều,
bao lo toan cồn lên nhưng anh tin, với bản chất của bà giáo làng mực thước, yêu
nước, mẹ sẽ hiểu, chấp nhận con đường anh đang dấn thân. Và chắc chắn mẹ sẽ là
chỗ dựa vững vàng cho anh trên chặng đường đầy chông gai sắp tới cũng như trước
đây đã từng là điểm tựa cho cha khi ông tham gia hội kín cùng những người bạn đồng
chí hướng.
Đội tự vệ chiến đấu tập quân sự tại bãi đất trống sau đình.
Ngôi đình làng cách đây vài trăm năm, cụ Đình Tân - tổ phái của Lân sau khi từ
quan về ẩn cư đã cùng một số cụ trong làng lên tận Tuyên Quang mua hàng trăm
cây gỗ lim to vòng mấy người ôm về dựng. Hàng cột gỗ sau bao năm lên nước nâu
bóng soi gương như chứng tích một thời.
Ngoài Lân, Đà, Tỉnh còn có khoảng gần hai chục nam nữ thanh
niên của các thôn Đại Liêu, Đức Phong... Họ chia thành các nhóm, tập chém mã tấu,
ném lựu đạn, bắn súng, đánh giặc bằng gậy gộc, dao, kiếm, mác búp đa, xây dựng
trận địa mai phục... Ngoài các bài yếu lĩnh cơ bản, họ tập thêm đội hình, đội
ngũ, cách ngụy trang giữ bí mật khi chuẩn bị trận địa... Tiếng gậy va nhau lốp
cốp. Mấy anh em tập đánh gần đang xáp lại, cánh tay vươn ra, thở hì hụi. Đám cỏ
gà, cỏ chỉ bị chân người quần thảo ẹp xuống, nát ra, chuyển màu vàng úa. Thi
thoảng, đám bụi mỏng tung lên khi bàn chân miết xuống nền sân, quẩn thành quầng
trước khi tung lên cao, tan loãng vào khoảng không trước mặt.
Trên đầu, mây vẫn thảnh thơi bay.
Không khí thật hồ hởi. Tranh thủ lúc giải lao, Tưởng ngồi dạng
chân, hí húi lau khẩu súng trường báng dài của Nhật đến bóng loáng. Tỉnh lệt xệt
kéo khẩu mút cơtong đến bên cạnh, hích vai Tưởng, chỉ ra phía Lân. Nhìn ra chỗ
Lân đang lúi húi ôn lại cách ngụy trang khi đào hầm bí mật, Tưởng toét miệng cười.
Từ phía sau, Đà bước tới, áo cánh nâu vắt lệch một bên vai, vỗ bộp vào vai Lân,
cười giòn tan:
- Xong chưa? Tuần sau đi học rồi. Thế là chú mày thành nòng cốt
của Việt Minh bí mật!
- Vâng! Em đang cố đây. Không thầy đố mày làm nên. Mình phải
học để biết chứ. Cứ tự mầy mò thế này, chẳng khác nào người đi trong đêm tối mà
không có đèn.
- Cố đi chú mày. Chiều nay đi đánh dậm ở con ngòi làng Chằm
Tó, tao nghe người ta nói nhiều về quân Pháp lắm. Nó chắc chẳng chịu yên đâu.
Nó quay lại hất cẳng thằng Nhật rồi. Không chóng thì chầy nó cũng quay lại đây
thôi. Mẹ cái thằng giặc Pháp, khi Nhật lùn đến thì co vòi mất hút, nay núp gấu
váy quân đồng minh thì lại ra vẻ vênh vang. Bố khỉ cái thằng Anh cũng đểu, mang
tiếng đồng minh đồng mố mà bẩn, rõ là bản chất của bè lũ đế quốc, thực dân. Anh
em mình phải chuẩn bị để nện cho nó tối tăm mặt mũi vào...
- Em học khoảng dăm bảy ngày thôi anh ạ... Nào, tiếp tục...
Lân kéo Đà chạy ra bãi đất trống cùng mọi người. Tiếng đội trưởng oang oang:
- Mọi người chú ý. Tới đây công việc ngập cổ. Đội mình phải
tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình của bà con, vừa để thêm lực lượng nhưng
chủ yếu là để bảo vệ vòng ngoài. Tối tối, phải tổ chức canh gác phòng gian bảo
mật và chuẩn bị kháng chiến lâu dài đối phó với bọn Pháp khi chúng quay lại xâm
lược nước ta.
- Báo cáo đội trưởng, phải chuẩn bị kháng chiến thế nào? Chẳng
lẽ chỉ với mấy khẩu mútcơtong, vài khẩu súng trường, dăm ba quả lựu đạn cùng mã
tấu, gậy gộc à?
- Ta sẽ từng bước chuẩn bị, vũ khí rồi sẽ có...
- Vũ khí có được bằng cách nào?
- Trước mắt mình tự tạo vũ khí, chiến đấu bằng những gì sẵn
có trong tay. Sau đó sẽ kiếm vũ khí từ chính quân Nhật, quân Pháp chứ... Lấy
súng giặc bắn vào đầu giặc cơ mà. Ngoài ra, cũng cần chuẩn bị về chính trị. Đấu
tranh trên mặt trận chính trị quan trọng chả kém gì đánh đấm với chúng nó
đâu... Mà các cậu không nghe rõ bí thư liên xã giảng à, không vũ khí gì thay thế
được sức mạnh lòng dân, có dân ta có tất. Điều này rất cần tới những người
trong Ban Tuyên truyền xã bộ đấy.
Lớp học cảm tình Đảng của huyện Gia Lộc do Việt Minh bí mật tổ
chức tại chùa Múc. Đồng ruộng ba bề bốn bên mênh mang. Khu nhà giải vũ nằm khuất
sau một tán cây lớn. Hàng cột lim kê chân bằng những phiến đá xanh tròn nhẵn,
xung quanh được chạm khắc tinh xảo hình đài sen vững chãi. Chỉ thị của Đảng
trong thời điểm hiện tại, đường lối, sách lược trong cuộc kháng chiến lâu dài,
gian khổ của dân tộc ta trong thời gian sắp tới… Tất cả được Lân và đồng đội
anh háo hức đón nhận. Gương mặt người cán bộ giảng bài dẫu đã được giấu kín
trong tấm khăn đen nhưng giọng nói ấm áp, truyền cảm vẫn gieo vào lòng Lân niềm
tin tất thắng vào tương tai tươi sáng của cách mạng. Không một ai trong lớp học
nói ra, nhưng mỗi người đều hiểu, công cuộc kháng chiến còn đầy chông gai và
gian khổ. Qua những cuộc mít tinh, biểu tình của bà con buôn bán nhỏ tại chợ Cuối,
những người nông dân khốn cùng trong các xã Gia Lộc hàng ngày diễn ra trên mảnh
đất này cũng khiến các anh nhận ra. Không khí cách mạng hừng hực khắp nơi.
Không chỉ có tự vệ chiến đấu, mà thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, cả các cụ
phụ lão, các em thiếu nhi cũng hồ hởi tham gia công cuộc cách mạng này. Cả làng
Bung nhỏ bé của Lân đã như lò lửa khổng lồ. Lò lửa ấy được hun đúc từ khổ đau của
người dân khi đã thấm thía nỗi nhục của người dân mất nước. Lò lửa ấy là nỗi cơ
cực từ những tháng ngày vật lộn qua cơn đói khủng khiếp tháng ba năm trước, là
bao tủi hờn chất chứa khi chính tay mình phải nhổ bật gốc những khóm lúa mỡ
màng đang thì con gái trước đôi mắt hả hê của đám lính Nhật, từ bao xót xa đau
trước cái chết oan ức của bao người. Và cái lò lửa ấy đang chờ dịp ụp xuống đầu
quân xâm lược khi chúng dám một lần nữa trở lại mảnh đất này.
Những thông tin chiến sự từ khắp nơi bay về càng làm sức mạnh
và nỗi hờn căm của người dân nơi này như sức nóng ủ kỹ trong nắm rơm con cúi,
chỉ cần hơi thổi khẽ đã bùng lửa. Khắp hang cùng ngõ hẻm, người dân dừng gánh
hàng ngoài cổng chợ để nghe nội dung hiệp định sơ bộ mồng sáu tháng ba Hồ Chủ tịch
đã ký nhằm hòa hoãn với thực dân Pháp. Người ta chống cuốc, ngừng giục trâu, bật
lên tiếng chửi khi ai đó kể sự ngông cuồng của quân Pháp khi chúng nổ súng chiếm
Lạng Sơn, ngang nhiên cướp bóc ngay trên đường phố Hà Nội. Đám đông tụ lại nghe
tin chiến sự ở đầu làng, đầu phố Giỗ mỗi lúc một đông. Có người đang vác cày
trên vai, nghe chuyện bọn Pháp gây hấn, ngang nhiên đánh giết dân lành tại phố
hàng Bún đã nghiến răng quăng chiếc cày xuống đất. Nỗi căm hận bật thành tiếng
tiếng chửi:
- Mẹ nó. Đánh chết cha nó đi chứ sao lại nhún để chúng hoành
hành thế được. Hoà hoãn vừa ký, chửa ráo mực nó đã giở mặt như thế, không có nhẽ
mình cứ nhịn mặc nó ngang dọc thế sao? Không việc gì phải nhũn nhặn, tử tế với
lũ chó ấy, cứ choảng bỏ mẹ nó đi. Có cái gì choảng bằng cái ấy… Giờ nó lại còn
đòi giải tán chính phủ, giải tán tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát thủ đô…
Giao, giao cái con bòi ông đây này. Đánh chết cha nó đi.
- Phải đấy. Đánh! Đánh cho tới nơi tới chốn đi chứ. Đánh cho
nó hết đường về nhận họ… Giết hết bảy đời cha ba đời ông cái giống ăn cướp ấy
chứ hòa là hòa thế nào? Hòa hiệp với quân chó cùn cắn giậu ấy sao được… Nhất định
là không!
Khổ cho cái cày chìa vôi. Đang đâu bị quăng xuống đường, láng
đi một đằng, vai văng một nẻo. Đám người đang đứng ồ lên tán thưởng, đồng tình
với người nông dân nọ. Những cánh tay vung lên. Giá lúc này, tên Pháp nào vô
phúc có mặt ở đó, có lẽ sẽ không giữ được dẻ xương nào nguyên lành.
Mong ước của người dân làng Bung và người dân nước Việt được
đáp lời. Đêm 19 -12-1946, tiếng kèn xung trận của người Việt Nam cất tiếng, Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch đã điểm. Người dân làng Bung, huyện
Gia Lộc nói chung xung trận.
Mười ngày cuối tháng mười hai năm bốn sáu, trên đường 17, từng
đoàn người không kể trẻ già, trai gái, đêm ngày tiêu thổ kháng chiến, chặn bước
tiến của quân xâm lược. Tiếng cuốc, tiếng choòng bổ xuống mặt đường chát chúa.
Hờn căm dồn xuống đôi tay, bổ từng nhát chắc nịch. Con đường lở loét dần. Những
rãnh hào lắt léo chữ chi, cắt mặt đường thành nhiều hình thù quái dị. Nhiều ụ đất,
con chạch dài hàng vài kilômét nằm chềnh ềnh, án ngữ. Đây đó, ở vài đoạn, dân
còn lấy bùn ao trộn với rơm rạ đắp thành đống trên đường, ngăn xe địch. Từ đoàn
người đang phá đường, ai đó hò mọt tiếng:
- Ai biết hò hò đi. Hò cho đỡ mệt mà làm chứ..
Chẳng phải đợi lâu, một giọng nữ cao vút cất lên:
"Nhà em con bế con bồng/ Em vẫn theo chồng đi phá đường
quan/ Đường đi lắt léo chữ chi/ Hố ngang, hố dọc chữ i, chữ tờ".
Tức thì, giọng nam trầm tich nghịch tung trở lại:
"Cô kia đào đất một mình/ Cho anh đào với chung tình làm
đôi/ Cô còn đào nữa hay thôi/ Cho anh đào với làm đôi vợ chồng".
Tiếng rúc rích to dần:
- Đối trả đi. Câu nào hóc một tí…
- "Em là con gái kẻ mơ/ Em đi đào đất tình cờ gặp anh/
Làm trai đừng vướng quang chành/ Anh đào, em đắp, ta giành đánh Tây"
- Con nào đối khá đấy. Đúng là gái làng mình. Tiếng trầm trồ
khen ngợi lao xao. Không thấy đám nam lên giọng nữa. Cô nàng vừa đối chờ mãi
không thấy bên nam đáp lời, cất giọng bâng quơ:
"Thằng Tây chớ cậy xác dài. Chúng tao người nhỏ nhưng
dai hơn mày/ Thằng Tây chớ cậy béo quay/ Mày thức ba buổi là mày bở hơi/ Chúng
tao thức bốn đêm rồi/ Ăn cháo ba bữa chạy mười chín cây/ Bây giờ tao gặp mày
đây/ Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao".
Tiếng cười lại lan ra. Ai đó vóng vót:
- Bắt nó hàng làm quái gì. Tốn cơm nuôi ăn. Cứ là "bọp"
một phát cho rảnh tay.
- Đúng đấy. Nhiều nơi đánh ác lắm rồi. Quân ta quấy nhiễu suốt
ngày đêm. Lũ chúng nó sống được trên đất mình cũng toi mả cha thằng bá họ.
Chiến tranh ngày một lan rộng. Chính quyền cùng nhân dân ra sức
củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Gia Lộc lúc này là nơi tiếp giáp và trực
tiếp chịu sự uy hiếp của quân địch đã phát triển lực lượng tự vệ tới tận thôn,
xã. Đội tự vệ làng Đức Phong hoạt động mạnh. Không chỉ luyện tập, công tác phá
hoại cản địch tiến quân cũng được đội tự vệ thực hiện triệt để với sự giúp sức
của dân.
Để dân hiểu và ủng hộ các chính sách của Đảng, Ban thông tin
tuyên truyền xã bộ Việt Minh được thành lập. Quyết định này là sự nhìn nhận thấu
đáo vai trò của công tác tuyên truyền, sức mạnh của mặt trận đấu tranh không tiếng
súng. Để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao ấy, Ban thông tin tuyên truyền liên xã tập
hợp những người phải có trình độ văn hoá nhất định, có khả năng vận động, thuyết
phục. Lân được giao chịu trách nhiệm chính trong Ban thông tin tuyên truyền
này. Sát cánh bên các đồng chí như Thịnh, Thoại, Bạ, Tỳ… cùng chiếc loa tay tự
tạo, Lân đã đưa nhiều chủ trương, chính sách đến với người dân, giúp dân ổn định
tư tưởng, giữ vững niềm tin theo Đảng.
CHƯƠNG III
Nắng quái chiều gắng gượng, len lỏi, trùm những vạt cuối cùng
lên mái nhà tranh thấp thô dưới lùm cây. Đám cành tre khẳng khiu xơ xác, cuối
thu đầu đông trút hết manh lá mỏng, giơ lên trời như họa sĩ già giơ tay vạch
vài nét chán chường. Thực dân Pháp đã chiếm đóng Hải Dương. Sau thời gian ngắn
củng cố lực lượng, chúng chuẩn bị đánh nống ra khu xung quanh. Huyện uỷ Gia Lộc
nhận định tình hình và khẳng định, Gia Lộc không nằm ngoài mục tiêu chiếm đóng
của quân Pháp. Làm thế nào để củng cố nhanh lực lượng, tích lũy vũ khí đủ sức
đánh lại chúng. Nghị quyết của Huyện uỷ lập tức được triển khai tới đảng viên.
Cả làng Bung như ngồi trên chảo lửa.
Đêm. Một đêm cuối tháng mười hai năm bốn sáu. Cuộc họp của đảng
viên tại đình Đức Phong vẫn chưa kết thúc. Thi thoảng tiếng chó cắn ma từ rìa
làng eo óc vọng vào. Ánh đèn vàng nhờ càng khiến những gương mặt cương nghị
đanh lại. Nghị quyết của huyện uỷ chỉ đạo đã rất rõ ràng. Âm mưu của Pháp đã phần
nào lộ rõ. Khuôn mặt đồng chí bí thư chi bộ cương nghị, giọng ông trầm ấm:
- Các đồng chí. Thời gian qua, tự vệ ta đã ép địch mạnh tại
vùng ven thị xã. Mấy ngày gần đây, quân Pháp đã đánh nống trận đầu tiên xuống
đường mười bẩy. Cuộc tấn công này vừa để thăm dò lực lượng vừa chặn sức ép của
quân ta vào phía Nam thành phố Hải Dương. Sau trận đánh thăm dò hôm trước, ngay
hôm sau một đại đội lính ngụy của Pháp đã giả làm người tản cư trà trộn vào
dân, lợi dụng đường mười bẩy, thọc sâu xuống Thạch Khôi. Đại đội cảnh vệ chống
càn ở Thạch Khôi chiến đấu căng, diệt tại chỗ mười tên. Nhưng do ta bị bất ngờ,
chúng vào gần trận địa mình mới phát hiện ra nên quân ta chống trả rất khó
khăn. Một đồng chí đại trưởng và mười hai chiến sĩ ta hy sinh. Tổn thất ấy
không hề nhỏ. Hiện nay địch đã chiếm được Thạch Khôi. Đức Đại - Nghĩa Hưng ta nằm
trên vị trí chiến lược này, nhất định chúng không bỏ qua. Ta cần chuẩn bị thật
chu đáo, nện một đòn phủ đầu cho chúng choáng váng. Và, để tránh những tổn thất
mà đại đội cảnh vệ ở Thạch Khôi đã vấp phải, ta cần chủ động lập vành đai chiến
đấu. Nhất định phải giành thế chủ động ngay từ trận đầu.
Quay sang đội trưởng du kích, bí thư chi bộ nghiêng đầu:
- Vũ khí trong tay ta hiện thế nào?
- Báo cáo, cơ số súng đạn ta có quá ít. Ngoài mấy khẩu tiểu
liên, có thêm hơn chục lựu đạn. Còn lại chỉ có mã tấu, mác búp đa tự tạo…
- Vũ khí ta có trong tay mỏng quá… Bí thư chi bộ trầm ngâm.
Thế này thì ta khó có thể đánh vỗ mặt chúng được.
- Không đánh vỗ mặt thì ta chơi kiểu của ta. Cứ cò con tắc bọp…
Nổ phát nào chắc phát ấy…Diệt dần…
- Đành thế, nhưng có lúc mình không thể tắc bọp được chứ. Nó
đâu lúc nào cũng phơi thây cho mình tắc bọp đâu. Gì thì gì, ta vẫn phải sẵn
sàng. Súng đạn ta ít… Ta có sức mạnh lòng dân. Đồng chí Lân - Ánh mắt bí thư hướng
về phía Lân đang ngồi bên cửa - Là trưởng ban Thông tin tuyên truyền của xã, đồng
chí cần có kế hoạch thật cụ thể, tuyên truyền cho dân rõ tình hình hiện nay. Chỉ
khi nào tường tận mọi việc, bà con mới chủ động cùng các lực lượng chuẩn bị
đánh Pháp. Công việc kíp lắm rồi, các đồng chí chuẩn bị, chủ động tác chiến.
Tiết đầu xuân, khi cơn mưa phùn ẩm ướt còn giăng mắc, dùng dằng
như cô gái nán hội thì khắp mặt trận Bắc Bộ, thực dân Pháp đã hối hả triển khai
kế hoạch đánh chiếm. Người dân dọc đường Năm, bên những sông lớn ngày càng gặp
nhiều toán lính Âu - Phi qua lại. Chẳng mấy lúc, mảnh đất hiền hòa được mệnh
danh là "phên dậu phía đông" kinh thành Thăng Long tràn ngập các sắc
lính đánh thuê cho quân đội Pháp. Nước da đen cháy, bộ dạng nghều ngào, hàm
răng trắng ởn của bầy lính là nỗi thấp thỏm, lo lắng kinh hoàng của người dân.
Tháng hai năm bốn bẩy, cậy có quân tăng viện, địch ráo riết
phản công trên khắp mặt trận Bắc Bộ. Một trong những mục tiêu chính của chúng
lúc này là kiểm soát các tuyến giao thông huyết mạch, nhất là tuyến Hà Nội - Hải
Phòng và các tuyến vành đai. Khống chế được các tuyến đường, chúng sẽ thực hiện
bằng được chiến dịch vận tải chiến lược trên bộ, tập trung đè bẹp sự kháng cự của
quân ta.
Cũng thời gian này, quân Pháp từ thị xã Hải Dương tiến đánh bắc
Gia Lộc. Tình hình ngày một nguy cấp. Tỉnh đội Hải Dương được thành lập nhằm củng
cố và phát triển lực lượng vũ trang. Các huyện đội nhanh chóng ra đời. Tại
thôn, xã, tự vệ chiến đấu chuyển thành đội du kích. Nam nữ công dân tuổi từ mười
tám đến bốn mươi lăm được xét vào dân quân.
Hoạt động của ban Thông tin tuyên truyền bước vào giai đoạn mới.
Mớ công việc cần làm ngay dồn lên lút cổ khiến Lân và các đồng chí trong ban
không còn thời gian riêng cho mình. Tình hình chiến sự căng thẳng, vũ khí được
trang bị quá mỏng, ta chủ yếu đánh địch bằng hình thức vũ trang tuyên truyền.
Bao việc bầy ra trước mắt: Nào soạn lời tuyên truyền chế độ, chính sách mới của
Tỉnh ủy, Huyện ủy; Kẻ vẽ khẩu hiệu; Nào chuẩn bị nội dung cho các cuộc mít tinh
của bà con, rồi tham gia tiêu thổ kháng chiến… Tất cả nhằm tập trung chống lại
âm mưu thâm hiểm của địch bởi khi chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh thất bại,
địch trở mặt xúc tiến chiến tranh với thủ đoạn mới: "chia rẽ quốc
gia", "chia rẽ dân tộc". Chúng lập "chính quyền bù nhìn tay
sai phản động ở địa phương", điên cuồng đánh phá cơ sở kháng chiến, triệt
để khai thác "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Đáp trả thủ đoạn đê
hèn ấy của quân Pháp, ban Thông tin tập trung mọi phương tiện đưa đường lối
"Chiến tranh nhân dân, phương châm đánh lâu dài, tự lực cánh sinh, vừa chiến
đấu vừa bảo toàn, xây dựng lực lượng vũ trang nhất là dân quân du kích, chủ động
chống càn, tập trung vào công tác địch vận, bảo vệ vùng tự do, đẩy mạnh sản xuất,
bảo vệ lực lượng kháng chiến…" đến với nhân dân. Chỉ với những chiếc loa
tay tự tạo, Lân cùng đồng đội đã lăn mình vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đang lụi cụi chuẩn bị nội dung thông tin cần tuyên truyền cho
bà con trong buổi chiều, Lân giật mình khi bóng anh Bạ thoáng qua cây cầu đá
ngoài con ngõ nhỏ. Vừa bước vào cổng, nhảy ba nhảy tới góc sân Lân đang ngồi,
anh Bạ rút vội mảnh giấy nhỏ:
- Tớ sợ về muộn, không kịp cho chú mày làm bản tin chiều nay.
Tin nóng nhất đây. Liên lạc vừa chuyển trong kia về đấy…
Lân dán mắt vào mảnh giấy. Những dòng chữ nhảy nhót trước mắt
anh. Điều anh và đồng đội bán tín bán nghi những ngày qua đã xảy ra.
"Chúng quyết diệt mình đây" - ý nghĩ ấy ập đến, anh mím môi. Lân đọc
lại mảnh giấy lần nữa. Chỉ thị của huyện uỷ đã rất rõ ràng. Quay sang, anh Bạ
đang nhìn chăm chắm vào Lân, nửa như chờ đợi, nửa như mừng rỡ:
- Chỉ thị mới toanh, phải không chú mày? Anh em ta phải làm
gì bây giờ?
- Mình có việc rồi. Anh tập hợp anh em đi, chúng ta hội ý,
chuẩn bị ngay mới kịp. Mẹ cha chúng nó, chưa qua cái "Tầm thực", giờ
lại tới "Vết dầu loang". Lũ khốn kiếp sắp mò đến rồi đấy.
- "Loang" à? Loang đến đâu, chúng ông lau khô đến đấy,
để xem chúng mày loang cách nào - Anh Bạ nghiến răng, cứ như thầy tớ quân Pháp
đang đứng trước mặt…
- Không đánh nhanh được mình thì nó giở trò đánh lấn, định
lây lan cái thối tha giòi bọ của chúng sang mình. Gói gọn lại, mục tiêu của cái
"Vết dầu loang" này là nó tập trung chiếm dần vùng tự do của ta, mở rộng
địa bàn hoạt động của nó thôi. Anh đi gọi anh em đi. Mình phải tổ chức tuyên
truyền ngay sáng mai, tại chợ Cuối, để bà con biết mà chuẩn bị đối phó - Lân đứng
dậy, với cái khăn mặt vắt vai, cầm loa tay, bước ra ngõ cùng Bạ.
Sau nhiều cuộc hành quân càn quét dã man có tính thăm dò của
Pháp, huyện uỷ Gia Lộc được lưu ý, chuẩn bị tất cả chống địch càn rộng, khả
năng chúng sẽ chiếm đóng lâu dài nhất là các vị trí chiến lược của Gia Lộc. Mọi
điều kiện có thể đều được dành tất cho chống giặc chiếm đóng. Bộ phận thông tin
tuyên truyền chạy như con thoi. Vừa thoáng thấy bóng các anh ở làng Bung, chỉ một
loáng đã thấy tiếng loa tuyên truyền bên làng Giỗ. Nhân dân bắt đầu đóng gói đồ
đạc, chuẩn bị tản cư kháng chiến, thực hiện "vườn không nhà trống" tận
gốc. Những gì mang đi được thì mang, không mang được, dân tháo dỡ, chôn xuống đất.
"Tiên sư mày, cha con thằng Pháp, đồ của tao, tao cứ chôn xuống đây, khi
nào mày rũ xương, tao quay về sẽ lại có cái dùng. Còn giờ, tao nhất quyết không
để lại dù cuống rau thừa xem cha con nhà mày lấy gì sống mà đi ăn cướp?".
Lân đã phì cười khi nghe một cụ ông vừa dìm mớ chum, vại, bình, nậm, cột nhà xuống
góc ao, vừa hỉ hả nói với vợ con mà cũng là nói với chính mình. Thật là những
câu gan ruột.
Tờ mờ sáng. Lớp sương sữa còn phủ dầy mặt đất. Tiếng súng, tiếng
xe xích chạy từ phía Bắc ầm ì vọng lại. Phía trung tâm Gia Lộc, tất cả vẫn im ắng
như thường. Đứng trong căn nhà tuềnh toàng, Lân nhận rõ sự tĩnh lặng giữa khung
cảnh làng quê. Nó không khác vẻ tĩnh lặng trước cơn giông lớn. Cũng cái ngột ngạt
oi nồng, cũng những âm thanh ầm ì từ xa đưa lại. Có chăng, nét khác biệt chỉ là
trước cơn giông, khi bầu trời vần vũ những mây đen thì lúc này, bình minh lại
đang ló rạng. Trên đường chân trời phía đông, những tia dẻ quạt từ màu cam chuyển
dần sang màu hồng phấn, lách mình qua đám sương sữa, ngập ngừng rót xuống cánh
đồng. Vậy mà… Chỉ chút nữa thôi, bàn tay bẩn thỉu của bọn xâm lược Pháp sẽ xé
tan tất cả.
Tiếng xe xích ngày một gần. Đội du kích của làng sát cánh bên
cạnh bộ đội tỉnh, huyện. Họ đã sẵn sàng đập trả lại đội quân ăn cướp.
Bánh xe xích đã nghiến trên mặt đường ầm ầm. Ken két, hừng hực
rồ lên rồi thở hồng hộc. Âm thanh ấy dễ khiến người ta nghĩ tới thân hình phì nộn
của con quái vật đang trườn qua mảnh vườn mỡ màu. Tất cả những gì non mởn phía
dưới khi tấm thân ghê tởm của nó đi qua đều trở nên nhàu nát, tan tành.
Sau trận moocchê bắn phủ đầu dọn đường từ chiều hôm trước, khắp
đường làng, những hố đất mới bị đại bác vật lên, lớp đất màu trên mặt bắn tung
toé, chỉ còn mẻ đất gan gà bị cày lật sấp từ dưới, nằm trơ trên miệng hố. Nhiều
thân cây bị đạn tiện, ngọn cây gục xuống như người bị chặt đầu. Hai bên đường,
trong các mảnh vườn, chuối đổ ngổn ngang như vừa qua trận bão lớn. Thân chuối bị
đốn ngang, chỗ vết chém, nhựa ứa ra, thâm xỉn lại. Suốt từ chiều qua, dân các
làng quanh thị trấn Gia Lộc ùn ùn sơ tán xuống khu dưới. Moóc chê thổi tốc rạ
trên mái nhà, quăng bừa bãi xuống ao bèo. Tường nhà sụt lở nham nhở. Vài cánh cổng
khép hờ, chiếu lệ. Mặt đất im lìm. Một con chó gầy nhẳng, lạc chủ, lơ láo nhìn
quanh rồi ệp người lủi vào bụi duối dại, đuôi cúp chặt giữa hai chân sau.
Chiếc xe xích đi đầu như con bọ hung khổng lồ lừ lừ bò trên
đường mười bẩy tiến vào thị trấn. Tiểu liên dải từng băng. Súng trường nổ phát
một, đĩnh đạc. Chạm vào vành đai chiến đấu đầu tiên của bộ đội tỉnh, chiếc xe sững
lại. Sau vài giây nghiêng ngó nghe ngóng, từ cái họng đen ngòm của nó, lửa khạc
ra, đỏ như thép nung trong bễ lò rèn. Phía sau, bọn lính Pháp tiểu liên lăm
lăm, nhả từng băng dài vào những điểm chúng nghi vấn.
Bộ đội, dân quân của ta vẫn kiên trì bám trụ. Đạn cối của địch
tuôn như mưa. Vũ khí quân ta quá mỏng. Tiếng súng trường ta nổ dẫu có chắc nịch
cũng không át được súng cối, súng tiểu liên địch quét như vãi đạn. Không dễ gì
tiếp cận để đánh gần, ta không thể sử dụng mã tấu, mác búp đa chiến đấu với
chúng. Các cánh quân ta được lệnh rút lui. Trận này địch cũng chỉ càn thăm dò.
Bộ phận thông tin tuyên truyền được triệu tập chuẩn bị triển khai nhiệm vụ mới.
Quanh ngọn đèn dầu lạc, những gương mặt sạm lại sau bao ngày
bám trụ chiến đấu với giặc. Bạ đang thiu thiu ngủ, đầu gục trên hai đầu gối kê
lại. Tỳ đang ngửa cổ vê vê cái cằm đã mấy ngày không nhổ, râu đâm tua tủa. Chờ
anh Thoại, Thịnh với ba bốn anh em khác đến, ban thông tin tuyên truyền sẽ họp.
- Ghê thật. Đánh nhau với bọn nhà giàu tức như bò đá. Mình
thì tiết kiệm từng viên đạn một, nó thì chỉ cần thấy một cọng cỏ động đậy là
vãi hàng băng. Phải nghĩ cách khác mới choảng nhau với chúng lâu dài được. Đánh
kiểu này, nó nghiền mình ra cám như bỡn… Thoại vừa rũ rũ hai ống quần nâu sũng
nước, vừa bước vào, nói oang oang. Bạ giật mình, ngẩng lên, hai mắt đỏ sọng:
- Bố cu đi đâu mà giờ mới mò về? Chờ sốt cả ruột.
- Thì ông cũng ngáy như kéo gỗ còn gì… Tôi tranh thủ đảo qua
nhà xem mẹ con nhà hĩm còn để sót gì lại thì cất nốt đi. Mình phải thực hiện đường
lối trước đã chứ, không thì tuyên truyền vận động được ai, phải không Lân?
- Ngáy ngó gì đâu. Tranh thủ gà gật tí thôi. Mấy ngày rồi,
chúng đánh rát rạt, ngủ được cũng khó. Với bọn này á, mình cứ phải chơi cái kiểu
cò con, giết ngấm từng thằng một mới chắc, chứ dàn quân thế này, không được…
- Thôi, không tán nữa mấy bố… Ta bắt đầu nào… Lân đứng dậy -
Theo chỉ thị của huyện uỷ, bằng giá nào thằng Pháp nó cũng chiếm và đóng quân tại
Gia Lộc, vì có chiếm được Gia Lộc nó mới bảo vệ được căn cứ ở phía nam Hải
Dương và mở rộng xuống xung quanh. Lực lượng của ta quá mỏng, vũ khí thô sơ,
trên đã chỉ thị rút các đơn vị chiến đấu về khu căn cứ kháng chiến nhằm bảo
toàn lực lượng, thực hiện chủ trương trường kỳ kháng chiến của Đảng… Nghe Lân
triển khai chỉ thị của cấp trên, gương mặt của anh em ngồi quanh dãn ra. Đảng
chỉ thị đúng bụng họ quá. Chỉ có trường kỳ kháng chiến, đánh lâu dài mới thắng
được đội quân xâm lược này. Tiếng Lân vẫn điềm đạm:
- Công việc cụ thể của chúng ta như sau…
Hơn chục mái đầu chụm bên ngọn đèn. Bàn tay Lân xoay đều bản
kế hoạch đã vạch sẵn. Những ánh mắt nheo lại. Tập vết nhăn trên trán mọi người
co vào, dãn ra như quạt giấy xếp nếp. Rồi tất cả à lên, gật gù tán thưởng.
Không ai có ý kiến gì thêm. Gấp tờ giấy làm tư, Lân cả đội một lượt:
- Nếu mọi người không ý kiến gì thêm, các đồng chí lưu ý phần
việc của từng người, trong lúc thực hiện, nhất nhất phải có sự thống nhất trong
tập thể… Nếu địch chiếm và đóng quân tại đây, chúng ta phải xây dựng một kế hoạch
mới vừa để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vừa quấy rối địch, góp phần
làm nhụt ý chí của hàng ngũ binh lính địch…
- Ý kiến của đồng chí Lân rất hay - ông Tỳ đứng dậy - Nhất định
ta sẽ tương kế, tựu kế với địch. Nhưng còn ý kiến riêng này nữa… Bên làng Giỗ
có cô gái tên ở nhà là Chắt con. Dáng dong dỏng, da trắng, mặt tròn, hoạt động
rất hăng trong phụ nữ cứu quốc… Không biết liệu đồng chí Lân có cần anh em
chúng tôi tuyên truyền cho nữ đồng chí này về với trưởng ban thông tin hay
không đây?
Nghe ông Tỳ nói (Về mặt họ hàng Lân phải gọi ông Tỳ là cậu họ
gần), Lân bất ngờ. Chuyện anh có ý riêng với Chắt con không dè mọi người biết cả.
Mặt Lân đỏ dần lên. Dưới ánh đèn nhập nhoà, chẳng biết anh em có thấy hay chỉ
đoán già đoán non mà tất cả đều phá lên cười:
- Thôi, không đùa nữa, kẻo lại cháy áo người khác bây giờ. Xấu
hổ, đỏ đến tận chân tóc mai rồi. Diễn thuyết trước hàng trăm bà con dân làng
thì cứ trơn như cháo chảy, sao nói đến chuyện kỉa kìa kia lại ấp úng thế hả
Lân? Ông Tỳ vẫn chưa tha - Nếu không nói được, để chúng tao sang nói đỡ… Nhưng…
ối… ông Tỳ nghiêng người, né cái véo của Lân… Hì hì, con bé ấy được đấy, gia
đình rất cơ bản, lại hăng hái hoạt động với phong trào. Được cả nết lẫn người
như thế, hơi bị khó kiếm… Quả là tinh mắt… thôi, anh em mình rút, để trưởng ban
Lân còn lơ mơ tới … người trong mộng một tí…
Ngọn đèn bỗng nhảy nhót như đùa nghịch. Khuôn mặt Chắt con lại
trở về, rõ ràng như đang đứng trước Lân. Chưa ai nói với ai lời nào, mới chỉ
ánh mắt gặp ánh mắt trong những buổi diễn thuyết và hội họp đoàn thể. Không biết
cô ấy có hiểu cho lòng mình. Lân tự nói rồi thở dài. Chiến tranh, đạn bom mù trời,
không biết nếu nghĩ tới hạnh phúc riêng lúc này có phải là ích kỷ. Nhưng anh
tin, với người con gái đã dám gạt bỏ khó khăn gian khổ đi theo cách mạng như Chắt,
với những gì cô ấy đã lăn lộn, đóng góp cho phong trào, họ sẽ tìm thấy hạnh
phúc riêng trong cuộc kháng chiến chung. Nhất định hạnh phúc của họ sẽ đơm hoa
kết trái trong ngày vui chiến thắng. Ngày mai, Lân sẽ gặp được Chắt con. Anh
tin thế. Trong trái tim của chàng trai làng Bung lúc này, có con chim xanh đang
hát. Nó hát khúc tình ca về tình yêu lứa đôi, về quê hương đất nước, về niềm
tin tất thắng vào cuộc kháng chiến mà anh và bao người thân yêu đang hiến mình.
Ngoài thềm, ánh trăng suông lênh láng tãi xuống. Đêm yên
tĩnh, rộng thênh tưởng chừng vô tận. Nghe thấy cả tiếng hạt cỏ trồi mầm giữa lớp
đất vườn trong đêm khuya. Giá cuộc sống cứ bình yên thế này! Niềm ao ước từ đâu
bỗng vụt về.
Oàng, ùng, oàng… Tăng… Xình! Tiếng moocchê từ phía Hải Dương
bất ngờ vọng đến. Tiếng moocchê như bàn tay đồ tể xé toạc tấm màn nhung tĩnh lặng,
mát rượi của đêm. Tiếng moocchê phũ phàng của địch nhắc Lân về công việc cho một
ngày mới, về cuộc chiến đấu không cân sức của anh và đồng đội với kẻ thù.
Sau nhiều trận điên cuồng càn quét, tấn công thăm dò, trung
tuần tháng mười năm bốn bẩy, Pháp lập chi khu quân sự Phương Điếm. Đình làng
Phương Điếm uy nghi với những hàng cột lim loáng màu thời gian, những bức chạm
trổ tinh xảo bởi bàn tay người thợ xứ Đông tài hoa, chăm chỉ. Mái ngói mũi hài
đẫm màu rêu phong, thấp thô như chạm dấu ấn bao đời người nơi này. Vậy mà chỉ
trong buổi sáng, quân Pháp dùng xe ủi san phẳng. Nước mắt người Phương Điếm chảy
ngược vào trong. Nhiều đôi mắt trân trối nhìn hàng cột lim đổ gục, những xà
ngang, đòn tay, vì kèo ụp rầm rầm trên mặt đất. Xích xe nghiến tre gỗ, gạch
ngói vụn như xương gẫy. Người Phương Điếm nghiến răng, chất chứa thù hận. Nhất
định quân Pháp sẽ phải trả giá cho những gì chúng đang gây ra trên mảnh đất
này. Chúng dám động tới cả nơi tôn nghiêm của các bậc thánh thần, nhất định
chúng sẽ phải đền tội. Cháu con các ngài sẽ đòi chúng món nợ truyền kiếp ấy .
San phẳng đình Phương Điếm, quân Pháp lập boong ke, đồn bốt.
Như đàn bọ hung lúc nhúc, hàng ngày chúng xua lính lôi gạch, đá, xi măng, sắt
thép đến vứt ngổn ngang. Hệ thống boong ke, hầm ngầm như con rết hiện dần trên
nền đình Phương Điếm - tên tục là làng Giỗ nên dân quanh vùng quen gọi bốt Giỗ.
Một loạt hầm ngầm hai nấc, tầng thứ nhất thiết kế bởi một boongke hình bát
giác, rộng vài chục mét vuông, chìm dưới lòng đất. Tầng thứ hai vẫn bố trí một
hình bát giác con, nhỏ hơn, các cạnh lệch với cạnh hình bát giác mẹ một góc khoảng
sáu mươi độ. Cái bát giác con này nhô cao, tám mặt đều có những ô cửa vuông
thông ra bên ngoài, vừa làm lỗ thông khí, vừa là nơi quan sát. Trên cùng, lính
Pháp đặt những ụ súng máy, đại bác các cỡ, có tầm bắn và khả năng sát thương
khác nhau. Chẳng biết những boong ke này được chúng xây kiểu gì, chỉ thấy vỏ
ngoài của bốt Phương Điếm như bộ da của con rắn khổng lồ chuyên nuốt người
trong các câu chuyện cổ. Nó sần sùi, nửa đen thô tháp, nửa xám xịt. Chính cái vẻ
sần sùi, thô ráp kinh khủng ấy luôn khiến người ta có cảm giác đầy len trong cổ
họng khi không may vô tình chạm bàn tay lên bộ da gớm ghiếc của hệ thống lô cốt
này. Bên ngoài lô cốt, chúng cho rào dầy bằng hàng rào, dây thép gai chống đột
nhập. Đây là nơi lính Pháp cố thủ, nơi sinh hoạt, tích trữ lương thực, vũ khí
phục vụ mọi hoạt động của chúng. Khoảnh đất rộng mấy nghìn mét vuông đất đình
làng được dựng một loạt lô cốt nối tiếp nhau. Chiếc thứ nhất nằm phía Tây khu đất,
án ngữ con đường 192 từ Hải Dương đi về các khu Thanh Miện, Hưng Yên. Phía Nam
nền đình cũ, Pháp dựng một boong ke nữa, chốt giữ đường mười bẩy đi Ninh Giang.
Nối hai boong ke chính này là hệ thống hào ngầm, như đoạn ruột non móc xích hai
phần của bộ máy tiêu hoá. Và cái dạ dầy với những ruột non, ruột già khốn kiếp
này của quân Pháp đã "nuốt" vào nó không biết cơ man nào sinh mạng, bất
biết họ là chiến sĩ cách mạng hay người dân vô tội.
Bốt Phương Điếm được dựng chỉ cách Hải Dương hơn chục cây số.
Nó không chỉ trở thành tiểu khu bảo vệ phía nam thị xã Hải Dương, mà còn là đầu
não chỉ huy các vị trí liên hiệp Pháp tại Tam Lâm, An Nghiệp, Quảng Bì. Lực lượng
địch đóng quân ở tiểu khu này thường xuyên có từ hai đại đội đến một tiểu đoàn,
được trang bị hoả lực mạnh. Mặc cho nó có là "pháo đài thép" hay thứ
gì đi nữa, thì trong mắt người dân làng Giỗ, Đức Phong, Đại Liêu và các làng
khác ở xung quanh, bốt Phương Điếm chẳng khác gì một cái ung nhọt. Mỗi ngày
nhìn thấy nó, người ta lại thấy khối u ấy ngày một phình to. Nhân dân quanh
vùng luôn cảm thấy nhức nhối, chỉ chờ dịp là họ vùng lên, cắt phăng cái ung nhọt
kinh hoàng ấy.
Bốt Giỗ như một con mẹ sề chềnh ềnh án ngữ, quanh nó, ở phía
nam, cạnh đường lớn vào thị trấn Gia Lộc, Pháp lập Camp lính ngụy. Camp này do
một đại đội lính canh giữ, như một con chó trung thành nằm gác cổng cho ông chủ
khó tính vừa để bảo vệ bốt chính, vừa làm nhiệm vụ quản lý hành chính giải quyết
những thắc mắc đối với người dân quanh vùng. Lập xong Camp lính ngụy, Pháp chọn
tên Mạc Đăng Dung làm đồn trưởng. Camp lính ngụy và những lô cốt nhỏ rải rác
trong các làng quanh bốt như một đàn ỉn con lúc nhúc nằm dọc bên đường mười bẩy
và đường một chín hai. Tất cả lũ ỉn con này bảo vệ cho bốt Giỗ mà quân Pháp gọi
một cách mỹ miều là "chi khu quân sự Phương Điếm".
Lúc này, vùng hậu phương của tỉnh còn rộng, trải dài suốt khu
Nam Gia Lộc, bắc Thanh Miện, Ninh Giang. Sau khi phân tích tình hình, ta quyết
định chỉ để lực lượng du kích ở lại đánh địch còn nhân dân Đức Phong, Đại Liêu,
Mỹ Long, Vĩnh Dụ, Tiên Nha… triệt để tản cư kháng chiến. Vốn là dân trong khu vực
có truyền thống buôn bán, giao thương, phải đi tản cư, họ vẫn chọn những vùng gần
chợ. Chợ Bóng, chợ Bùi Hòa, chợ Rồng là nơi có nhiều người làng Bung, làng Giỗ,
làng Cuối, làng Trắm... của Gia Lộc tản cư về. Bản tính hay lam hay làm, chạy
chợ kiếm sống khiến họ hòa nhập rất nhanh vào đời sống vùng mới đến. Trong thời
gian ngắn, nhiều người đã mở xưởng sản xuất hàng thủ công như rèn dao, búa, cuốc
thuổng, và buôn bán nhỏ. Cuộc sống ổn định dần.
Dựng xong chi khu quân sự Phương Điếm, quân Pháp rơi vào tình
thế khốn đốn. Chính sách "tiêu thổ kháng chiến" vườn không nhà trống
của ta đưa dân tản cư, khiến quân Pháp lâm vào cảnh lần chẳng ra miếng ăn.
Không cướp bóc được gì, hàng tiếp tế không có, chúng thúc đại đội lính ngụy bên
Camp đi càn. Quân ngụy hầu hết đều bị ép vào lính nên cũng chẳng mấy mặn mà với
việc cướp bóc của đồng bào.
Mặt trời lên gần con sào, đám lính ngụy xách súng bên tay, lệch
thệch bước. Tên đi đầu cầm một cây gậy như cây sào chăn vịt, thi thoảng chọc
vào bụi cây hoang, vẻ chán chường:
- Khốn nạn, dân thì tản cư mẹ nó hết, ruộng đất bỏ hoang, cỏ
mọc cao hơn cả đầu thế này thì có cứt chó gì mà càn với quét.
- Chúng nó xua đi thì cứ đi, đi chán lại về, đến đất cũng khô
khốc, nứt nẻ, có muốn cũng chẳng còn gì để cướp.
Càng đi sâu vào làng, toán lính càng chán chường. Những ngôi
nhà vắng chủ, hai cánh cổng tre khép hờ hững, có nhà chỉ rấp tạm bằng bó rào
gai tre đực. Nền sân mọc đầy rêu xanh. Rồi rau dại, cỏ dại thi nhau bò vào, lan
kín những chỗ đất trống. Đàn chuột thấy vắng người, bò ra, rúc rích cắn đuôi
nhau vẫy râu giữa khoảng sân rộng. Một con chó lạc chủ gầy tong teo, thũng thẳng
chạy trên đường. Cái cổ dài nghêu thi thoảng ngoái lại phía sau, mắt đùn cục dử
to tướng. Tên lính đi đầu suỵt suỵt, giương súng. Thằng đi sau chắt lưỡi, xì một
tiếng:
- Con chó ghẻ, chả bõ dính răng…
Con chó dừng lại, ghếch chân tè vào gốc cây khô, lẩn vào ngôi
nhà bìm bìm đã trùm kín cả mái rạ ải.
Lúa mùa chớm vào vụ gặt. Những thửa ruộng người dân đã gieo cấy
trước khi Pháp về chiếm đóng Phương Điếm bắt đầu đỏ đuôi. Mồ hôi đổ xuống suốt
mấy tháng trời không lẽ để chim chuột phá sạch? Ý nghĩ ấy trở đi trở lại cùng
hình ảnh những người chết đói năm bốn lăm đêm đêm hiện về, ám ảnh Lân. Những hạt
thóc như hạt vàng nhảy nhót trong đầu anh. Lúa chín rã rời, rụng chạt mặt ruộng.
Không thể bỏ lúa. Nhất định phải giành lại mồ hôi, nước mắt của mình.
Ánh đèn bảo vệ quét ngang, quét dọc, soi lồ lộ từng ngọn cỏ.
Lân cùng mấy anh em trong Ban chia tốp, men ra những thửa ruộng cách bốt Giỗ
vài trăm mét. Ba anh em luồn mình, vừa bò, vừa trườn, ép người sát gốc lúa. Nếu
tối nay, mấy anh em và du kích luồn vào những thửa ruộng gần mà không bị quân
Pháp phát hiện, đêm mai, dân có thể thu hoạch ở những thửa ruộng ngoài xa. Đội
du kích của làng đã chuẩn bị kế hoạch bảo vệ cho dân tranh thủ gặt mùa. Ban
tuyên truyền của Lân cũng đã bắt đầu chiến dịch địch vận, tập trung vào camp
lính ngụy, vận động binh lính không bắn vào dân gặt lúa.
Gần nửa ngày đường đi bộ về Bùi Hòa, Lân đã tìm gặp được những
người làng Bung đang tản cư, vận động bà con trở về thu hoạch mùa. Nhiều tiếng
thở dài ngao ngán:
- Ruộng ngay cạnh bốt, cạnh Camp. Súng nổ ùng oàng suốt ngày.
Không biết liệu có giữ được mạng để mà ăn hạt gạo từ đám ruộng ấy không? Thôi,
cứ ở đây, lần hồi mà sống có khi còn giữ được xác…
Không phải chỉ có một người có ý ấy. Mấy bà, mấy cô đang bán
hàng trong chợ cũng lao xao:
- Thôi, bớt bát mát mặt… Giờ về gặt gặt cắt cắt… Nói vô phúc,
nó đoàng cho một phát thì chồng con bỏ cho ai? Vài hạt thóc liệu có sánh được mạng
người?
Lân nhẹ nhàng:
- Mình về gặt lúa của mình chứ có đánh đấm gì nó đâu. Nó cũng
đang cần lấy lòng dân, chắc không vô cớ bắn giết dân làng đâu. Với lại, mình
tranh thủ gặt đêm, chịu khó gặt mò vậy. Đã có đội du kích canh chừng, nếu cần sẽ
nổ súng hút chúng nó để bà con an toàn. Lúa chín vàng rục, rũ xuống rồi. Bà con
không thấy tiếc mồ hôi, công sức của mình hay sao?
- Thế về cả thì không làm ăn buôn bán gì ở đây nữa à? Lại bỏ
à?
- Chỉ người khoẻ về thôi. Người già, yếu, trẻ nhỏ ở lại. Gặt
xong, mình lại mang lúa về đây chứ để đấy để nuôi cha con quân ăn cướp hay sao?
Tiếng cười rộ lên một góc chợ. Thế là bà con đã thấu. Mà lòng
dân đã thấu thì chẳng việc gì không xong. Bằng cách thuyết phục nhẹ nhàng, vận
động người nhà mình trước, Lân cùng anh em trong Ban, đội du kích đã vận động
được bà con vững bụng trở về.
Dân đi tản cư bắt đầu lục tục quay về để thu hoạch lúa mùa. Họ
không đi thành đoàn, chỉ đi từng tốp lẻ như những người đi làm thuê trở về. Bà
giáo Thuận cũng hòa trong dòng người ấy. Đám ruộng nhà bà giáo vỡ được, cấy mấy
ống giống, nghe nói cũng đã chín. Lân đã hẹn, chiều xong việc sẽ về gặt giúp mẹ
mà giờ vẫn bặt vô âm tín.
Những con chim đuôi cá xập xòe đáp xuống các thửa ruộng. Dân
mải chống giặc rồi lại tản cư, không chăm bón cẩn thận, lúa mùa chẳng mấy chắc
hạt. Nhiều bông, hạt lép dầy hơn hạt mẩy, bắt lên tay nhẹ bỗng. Ối bông cờ hết,
trắng xốp, đứng lơ ngơ giữa ruộng như người mất trí trôn chân giữa lúc chợ
đông. Màu vàng vốn óng ả của lúa vào vụ gặt dường như nhạt hơn, nhưng vẫn đấy
những đợt sóng vàng nối nhau chạy tới chân trời. Đám cỏ ba cạnh sắc dài, màu
xám bạc, uốn quanh ruộng, vật vờ vọt lên cao hơn hẳn đám lúa vàng đang liu riu
ngả vào nhau.
Đêm sập xuống. Màn sương mỏng tang vừa chập chờn giữa thắt
lưng giời, làm dáng bên chùm nắng cuối ngày giờ đã quấn quanh làng như chiếc
khăn voan mỏng. Cămp Phương Điếm chìm dần trong bóng ngày nhập nhoạng. Chỉ còn
mấy lô cốt của bốt Giỗ đen trũi, vẫn lừng lững khắc chạm dáng hình nhem nhuốc
vào đêm. Thi thoảng, một phát pháo hiệu vọt lên, nhập nhòa như ma trơi treo lơ
lửng trên khoảnh trời đóng bốt.
Đoàn người vẫn lầm lũi đi. Họ vừa từ khu tản cư trở về. Đòn
sóc, liềm hái nằm chặt trong tay họ. Vài tiếng thì thào vọng ra:
- Gặt chỗ nào trước?
- Cứ gặt từ vành ngoài vào. Chỉ lo quân Pháp trong bốt thôi,
đám lính ngụy ở Camp mình đã binh vận rồi. Còn mấy thằng hung hăng tâng công với
quan thầy, ta đã có lời cảnh cáo. Khu ruộng này chắc chỉ gặt vài đêm là hết.
Các bà, các chị trong phụ nữ cứu quốc cũng chuẩn bị rồi, cùng lắm ta lại tổ chức
đấu tranh…
- Cứ để bà con gặt. Được đến đâu, đám thanh niên sẽ gánh ngay
đến đấy. Du kích cũng vừa gác, vừa gặt…
- Phải chuẩn bị mà choảng lại nó chứ? Không có vũ khí gì à?
- Có chứ. Súng trường, tiểu liên huy động hết. Lựu đạn cũng
có đây. Cứ gặt đi, đã cử hai người gác hai đầu đường rồi. Một bên căng, một đằng
bốt. Động là ta kéo quân sang phía kia đánh trả, hút súng chúng nó về bên ấy.
Các cậu ở bên này hướng dẫn bà con vừa tránh, vừa chạy. Anh Bạ ơi, anh Bạ đâu rồi…
- Giờ thì đã nghe rõ tiếng Lân - Anh về đằng này đi…
- Đây rồi - Tiếng Bạ từ góc ruộng phía trước mặt - Cậu cứ về
gặt giúp bà giáo đi. Tớ thấy u cậu cũng đang ra đồng đấy. Này, vụ sau, xem cô
Chắt thế nào, cưới đi chứ. Vừa có người chăm mình, vừa có người đỡ đần u. Tớ thấy
dạo này u cậu cũng yếu nhiều rồi.
- Đang súng đạn mù giời thế này, anh lại còn trêu em được!
- Trêu gì mà trêu. Cưới vợ thì cưới liền tay. Chớ để lâu ngày
lắm kẻ dèm pha… Mà này, có khi cô ấy cũng đang gặt ở bên cánh đồng làng Giỗ kia
chưa biết chừng… Chiều nay, tớ thấy cô nàng nhấp nhô bên ấy đấy…
Đêm tối mù, không biết gương mặt vốn tinh nghịch của Bạ lúc ấy
thế nào, chỉ thấy tiếng cười khùng khục vang lên thật giòn. Bao mệt nhọc trong
người bỗng loãng đâu mất. Làn gió heo may bất chợt ùa về khiến dòng mồ hôi đang
bết chân tóc mai Lân khô như có bàn tay lau qua. Anh ngoảnh nhìn về đồng làng
Giỗ. Bên ấy, không biết Chắt có cảm thấy được ánh mắt khắc khoải mong ngóng của
anh. Tối qua, gặp ở cây cầu đá đầu làng, lúc chạm mắt nhau, Lân thoáng thấy má
Chắt ửng đỏ.
Tiếng liềm cắt lúa vang lên. Xoèn xoẹt. Xoèn xoẹt. Thanh âm của
mùa màng. Thanh âm báo hiệu sự no ấm. Mùi thơm ngọt thoát từ những thân lúa bị
cắt ngang, lan xa. Hương vị đặc trưng của mùa màng trong vụ gặt dồn về, ùa vào
khí quản Lân khiến anh ngây ngất. Ước gì, không có cái bốt Giỗ khốn kiếp lừng lững,
đen trũi như cái nhọt bọc tàn độc đang khảm vào bầu trời đêm kia. Khi ấy, tất cả
những người đang lom khom lầm lũi cắt lúa trong bóng đêm này sẽ vừa gặt vừa cười
vang trong ánh nắng thu vàng rực rỡ. Lúc ấy, màu vàng mỡ của nắng thu sẽ tan
trong sắc vàng lịm của lúa mùa. Và mắt Chắt chắc long lanh lắm…
Bà giáo vẫn cặm cụi cắt lúa bên con trai. Bàn tay cần mẫn của
con người vừa nâng đỡ, vừa nâng niu từng bông lúa chín. Thân lúa ngả xuống, gom
dần lại. Những gồi lúa vật lên bờ cao dần. Tiếng đòn sóc xiên ngang vào gồi lúa
loạt xoạt. Bước chân thậm thịch chạy lên đường. Không ai ngờ, cái làng như làng
hoang kia đang nảy mầm sự sống.
Một phát pháo hiệu bất ngờ từ bốt Giỗ vọt lên. Ánh sáng nhòe nhoẹt, trắng xanh của nó rọi xuống. Những dáng người đang lom khom bỗng thụp xuống.
Tiếng chửi bất ngờ văng ra:
- Mẹ cha chúng mày. Các ông gieo trồng, mồ hôi trên dồn mồ
hôi dưới mới được hạt thóc, vậy mà cứ phải gặt chui, gặt lủi như phường trộm cắp
thế này. Cứ bùng xòe đi, có ngày biết tay ông. Tiên sư cha chúng mày!
Bà nào đó gay gắt:
- Mấy bố du kích du kiếc thế nào chứ thế này là không xong rồi.
Giã cho lũ thối thây ấy một trận cho nó trắng mắt ra chứ.
- Nhỏ tiếng thôi. Ai chẳng muốn giã cho ra trò. Nhưng sức ta
chưa mạnh, chuẩn bị đã…
- Đúng rồi. Cái trước mắt bây giờ là đưa hết lúa ngoài đồng về
giấu đi. Thế đã là thắng đấy. Rồi ngày mai, ngày mốt mạnh dần, mình giã giò nó
cũng chưa muộn…
- Đã tẩn là tẩn cho nó không mở được mắt ra, không ngẩng được
đầu lên ấy chứ…
Từ phía bốt Giỗ, tiếng súng bất ngờ vang lên. Lân ngẩng nhìn.
Chân trời đằng đông, màu vàng cam ánh hồng bắt đầu lồ lộ. Ba phát súng hiệu từ
bốt Giỗ như lời chào tàn ác xòe ra các bốt xung quanh và quân ngụy bên Camp
Phương Điếm. Lộp bộp súng trả lời. Hai du kích gác đầu đường phất phất tín hiệu.
Lân kéo mẹ, vẫy tay sang xung quanh:
- Rút thôi. Đêm mai gặt tiếp, kẻo tí nữa chúng kéo ra tuần
thì nguy.
Lúa kĩu kịt trên vai theo chân đoàn người trở ra vùng tản cư.
Chưa một ai trong đoàn người lầm lũi gánh lúa kia tưởng tượng ra, có một ngày,
hạt thóc, bông lúa cũng phải tản cư. Một hạt thóc đổi ba bốn bát mồ hôi là thế.
Bước chân gấp gáp hơn. Họ tránh đi các con đường lớn. Men theo những bờ vùng, bờ
thửa dọc ngang chạy tiếp nối giữa các cánh đồng. Sương trắng tan dần. Bóng người
nhòa lại hiện. Vùng căn cứ trước mặt. Hạt thóc ngấm mồ hôi bao ngày đã về với
người làng.
Đám trẻ con bu lại quanh những gánh lúa. Chúng nghiêng ngó một
hồi rồi tản ra. Gương mặt buồn thiu. Không có muồm muỗm, chẳng có cà cuống giắt
lưng mẹ mỗi khi gặt về như bao mùa trước. Nhưng cũng chỉ một lát, tiếng kèn toe
toe bọn trẻ lọc từ những ống rơm rỗng đã vang xa. Thanh âm mùa màng dẫu không rộn
ràng như vô vàn vụ trước vẫn khiến lòng người náo nức. Người lớn xúm lại. Người
trục, người đập, người vò. Những bàn chân trần miết xuống từng gồi lúa lớn. Hạt
thóc rơi ra. Đám rơm nhàu dần. Đám trẻ tung những búi rơm lên cao. Rơm trùm lên
đầu, chui vào cổ, quấn vào người. Tiếng cười con trẻ loang ra. Dẫu không nhiều
cũng khiến một vùng nhỏ rộn lên chốc lát. Dù giữa thời chiến thì làng vẫn đang
được gọi là vào giữa vụ gặt. Bước đi trên đường làng, bàn chân Lân sục trong
cái màu vàng mềm mại, thơm ngát của rơm. Mong manh thế mà vẫn nằng nặng quấn
quýt bước chân, mang đến cho anh cảm giác thật dễ chịu. Lân yêu màu của rơm rạ.
Những thân rơm mỏng mảnh trên con đường làng tản cư đưa anh trở về thuở nhỏ, những
ngày được vô tư nhào lộn trong rơm khi mùa về và lòng anh chợt rung lên khi nhận
ra bóng mẹ đang lụi cụi phơi rơm để dành. Mỗi sợi rơm cứ nhắc nhở Lân sự cần
cù, tảo tần của những người dân quê, của bà, của mẹ anh. Nó nhắc anh về một thuở
vui buồn trong ký ức.
Thu hoạch xong vụ mùa, người dân quay trở lại vùng tản cư tiếp
tục buôn bán, tham gia kháng chiến. Người các làng Phương Điếm, Hội Xuyên, Đức
Phong, Đại Liêu, Tiên Nha, Vĩnh Dụ tập trung tản cư tại khu vực chợ Bùi Hòa,
Xuân Trì - Hoàng Hanh rất đông. Nơi này trở thành điểm giao thương, buôn bán
khá tấp nập.
Năm một chín bốn tám!
Trăng tháng Tám, nhẹ nhàng tãi trên thảm lá dầy, lọt xuống nền
sân đất lỗ rỗ như tấm chăn hoa dẻ phơi thấp thoáng ngoài giậu cúc tần. Cuộc họp
huyện uỷ Gia Lộc sắp bắt đầu. Sau những tháng ngày bám đất, bám dân chống địch
đánh phá, khuôn mặt các đồng chí lãnh đạo sạm lại. Lưỡng quyền nhô ra, kéo gò
má hóp lại. Chỉ ánh nhìn vẫn tinh anh, sáng niềm tin vào tiền đồ cách mạng. Những
khó khăn trong ngày đầu kháng chiến hút sức các anh, các chị vào cuộc đấu tranh
không cân sức với kẻ thù. Giờ đây, trong tình hình mới, để nắm dân, huyện uỷ
Gia Lộc quyết định thành lập liên xã Nghĩa Hưng trong vùng kháng chiến tại vùng
căn cứ thuộc hai xã Đức Xương, Quang Minh. Từ vùng căn cứ này, phạm vi hoạt động
sẽ vươn tới các làng Bùi, Cụ Trì, Mơ Trì, Lang Ngoại và cả làng Triệu, Nuồi của
huyện Thanh Miện, nơi có nhiều dân Gia Lộc đang tản cư làm ăn, sinh sống. Suốt
cuộc họp, điểm mạnh, yếu trong cuộc chiến với địch được đưa ra phân tích tỉ mỉ.
Muốn thắng lợi, chỉ có dựa vào dân. Muốn dựa vào dân phải nắm được dân mình.
Quân tách khỏi dân như cá tách khỏi nước. Điều ấy, bất cứ chiến sĩ cộng sản nào
cũng hiểu và nằm lòng.
Đêm đã về khuya. Sắc vàng của ánh trăng chuyển dần sang màu
trắng nhạt. Cuộc họp kết thúc. Ngoài kia, tiếng dế vẫn i i gáy trong đám cỏ
hoang. Không nghe thấy tiếng gà, chỉ thấy súng bắn cầm canh của quân giặc như
xoáy vào tim mỗi người.
Thành lập liên xã Nghĩa Hưng, Huyện uỷ trông chờ rất nhiều
vào những đồng chí cốt cán sẽ bám trụ cùng nhân dân. Chỉ có cùng sống, cùng chết
với đồng bào mới có thể hiểu thấu nỗi lòng người dân đang vì công cuộc kháng
chiến của cách mạng mà phải rời bỏ nơi mình đã chôn nhau cắt rốn.
Tang tảng sáng! Mọi người lục tục đứng lên. Họ rút ra từng
người một, lẩn nhanh vào cái lễnh loãng của bóng tối đang nhường chỗ cho ánh
sáng. Liên xã Nghĩa Hưng đã thành lập. Đồng chí Nguyễn Công Tân làm Bí thư chi
bộ liên xã, đồng chí Phạm Quang Nùng làm Chủ tịch uỷ ban hành chính, đồng chí
Nguyễn Văn Uyển làm Phó Chủ tịch. Đồng chí Nguyễn Đình Lân làm Trưởng ban thông
tin tuyên truyền.
Dẫu vẫn bộn bề, người làng Bung, làng Giỗ hàng ngày vẫn hy vọng
sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG IV
Lớp tập huấn cho các trưởng ban thông tin tuyên truyền của
huyện Gia Lộc mở tại thôn Thị Đức xã Nhật Tân, trong khuôn viên rộng của ngôi
đình cổ. Lớp học giấu mình, trầm tư dưới một gốc đa già, rễ lòa xòa buông từng
chùm, phất phơ trong gió sớm. Tán đa xòe phủ, trùm hết cả khoảng sân rộng lát gạch
nâu non, đôi chỗ tróc lở càng khiến nền sân trở nên cổ kính.
Hơn hai chục học viên từ khắp các xã của huyện tập trung học
tập trong thời gian hai tháng. Những điểm cốt yếu nhất trong đường lối chính
sách của ta, phương pháp thông tin tuyên truyền hiệu quả nhất được các đồng chí
trong phòng thông tin tuyên truyền huyện phổ biến tới các học viên. Người ta gọi
lớp tập huấn này là lớp thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu. Người tham gia lớp
học này gọi nhau ngắn gọn là lớp Trần Huy Liệu.
Lớp Trần Huy Liệu sắp kết thúc. Hàng loạt câu hỏi hóc búa về
đường lối chính trị của ta trong giai đoạn hiện nay cùng nhiều tình huống cụ thể
khác về phương pháp tuyên truyền được các học viên đặt ra. Không khí trong lớp
nóng dần lên như ngọn lửa đang bén ngún vào đầu củi bắt đầu toả ánh. Một nữ đồng
chí đứng dậy phát biểu rất đanh thép:
- Tôi thấy, mình có thể dùng lý lẽ để tuyên truyền với bà
con. Nhưng nếu chỉ có lời nói suông thì sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được đồng
bào. Dân mình luôn găm sâu trong gan ruột: "Trăm nghe không bằng một thấy",
chỉ có bằng việc làm cụ thể dân mới tin và làm theo…
- Đúng rồi - Tiếng một người đế theo - Với dân mình thì cần
phải người nói làm trước, thì làng nước mới theo sau… Tất cả đều chỉ có thể nói
với dân bằng việc làm thôi.
Tiếng bàn tán, trao đổi ngày một sôi nổi. Ngoài vườn cây, gió
vẫn rì rào, vẫn hát chung bản hòa tấu với con người. Lân lắng tai, anh muốn thu
tất cả mọi ý kiến của anh em, đồng đội vào trái tim, khối óc mình. Rồi ngay
mai, ngày kia, những gì học được từ lớp học này sẽ theo anh trở về với quê
hương, nơi đồng đội, người thân của anh đang sống và chiến đấu.
Bao suy nghĩ đang như dòng chảy, ngọt ngào lượn giữa đôi bờ
hư thực tiếng trao đổi của đồng nghiệp, Lân giật bắn người khi mái đầu bum bê của
người phụ trách lớp học bất ngờ xuất hiện ngoài khuôn cửa, tay cầm một phong giấy
mỏng, phất phất ngang đầu, miệng tươi rói:
- Lân ơi! Có thư này. Thư này…
Tiếng xì xầm, chọc ghẹo vang lên:
- Thư ai đấy, Lân ơi. Thư tình hay thư gì?
- Ấp vào ngực nghe trái tim thổn thức đi…
- Thư của em nào thế? Giấy xanh hay giấy hồng? Hương thơm sực
nức lên thế này, chắc phải của cô nào đẹp gái lắm đấy?
- Đào hoa quá! Chưa gì đã có người nhớ nhung điên khùng đến
phải viết thư rồi…
Lân ngỡ ngàng. Ai gửi thư cho anh nhỉ? Nào anh có thư từ liên
lạc với ai đâu? Với lại, lớp tập huấn này chỉ có hai tháng, không lẽ ở nhà có
chuyện gì mà mẹ anh phải viết thư cho anh… Hay không lẽ ... Chắt viết thư cho
anh? Nếu vậy thì... Cả anh và Chắt, nào đã ai nói với ai lời yêu tiếng thương
nào. Nhưng nhìn vào mắt nhau thì cả hai đã hiểu. Đi sinh hoạt thanh niên, phụ nữ,
mặc cho nam thanh, nữ tú thường chia làm hai, ngồi đối diện bên dãy bàn, nhưng
thế nào Lân cũng tìm cách được ngồi bên Chắt. Bạn bè, đồng chí đều hiểu và cảm
thông. Cả chị Sự, Xoan, cả những người bạn của cô ấy đều có ý ghép đôi cho hai
người. Trong trái tim anh, hình ảnh cô ngập tràn rồi. Cô như hạt mưa mùa đầu lấp
dần vết khô nẻ trong trái tim của chàng thanh niên làng Bung tưởng chỉ biết hết
mình cho công việc. Tình yêu thật kỳ lạ. Nó không hề cất tiếng nhưng người ta đều
có thể hiểu, nhận biết và dành cho nhau những gì ngọt ngào nhất trong tâm hồn
mình. Lân cũng thế, và anh tin Chắt cũng hiểu lòng anh. Xa nhau gần hai tháng,
mấy lần Lân tranh thủ tạt về nhà nắm tình hình làng xóm, không gặp được cô,
nhưng anh biết Chắt vẫn dõi theo từng bước anh đi. Và lá thư kia... trời đất, nếu
đó là của Chắt. Rồi Lân lại tự lắc đầu. Người chắc chắn, đằm tính như Chắt
không bao giờ có chuyện cô gửi thư, chẳng bao giờ cô chịu mở lời trước với anh.
Tình trong như đã. Cả anh và cô đều hiểu, đều chung tay nối sợi tơ hồng nhưng
chẳng ai lên tiếng.
Những đôi mắt tinh nghịch vẫn không thôi tò mò nhìn Lân. Những
ánh nhìn như hỏi? Nào đã biết thư ai mà trả lời. Hàng loạt câu hỏi loang loáng
chạy trong đầu khiến Lân luống cuống mãi mới bước được ra ngoài cửa lớp. Cầm
phong thư trên tay, nét chữ lạ càng khiến anh bối rối. Bất chợt, anh nhớ ra, từ
ngày tập trung theo lớp tập huấn, Lân chỉ duy nhất viết thư cho người anh họ và
cũng là người đồng chí trong đội tự vệ chiến đấu. Đợi cũng đã lâu không thấy
thư trả lời. Thời gian theo học lớp tập huấn sắp hết. Tay Lân run run. Lớp giấy
gấp mép phong bì chầm chậm rơi xuống. Một tờ giấy gấp tư, nét chữ rắn rỏi hiện
dần:
"Đồng chí Nguyễn Đình Lân thân mến!
Các đồng chí trong lớp học thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu
thân mến. Tôi thật bất ngờ nhận được lá thư từ Hải Dương gửi tới, khi bóc ra mới
biết lá thư của ông Nguyễn Đình Tài ở xã Nghĩa Hưng - Gia Lộc- Hải Dương gửi
cho đồng chí Nguyễn Đình Lân ở lớp học Trần Huy Liệu. Do có sự nhầm lẫn của
giao thông liên lạc mà gửi tới tôi.
Tôi thật vui mừng và cảm động biết được rằng, lớp học thông
tin tuyên truyền đã ấy tên tôi mà đặt tên cho lớp học này.
Các đồng chí thân mến, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta còn trường kỳ và gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi. Chúng ta, những
người làm công tác thông tin tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, của
cách mạng. Là những chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận văn hoá tư tưởng, các đồng
chí hãy học tập tốt, trau dồi và nâng cao lý luận cách mạng, phương pháp công
tác chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền vận động quần chúng và những nghiệp
vụ chuyên môn khác. Sao cho sau lớp học này tất cả chúng ta sẽ trở thành những
cán bộ cốt cán trên mặt trận thông tin tuyên truyền. Chúng ta hẹn sẽ gặp nhau
khi cuộc kháng chiến thắng lợi.
Chúc các đồng chí sức khỏe.
Chúc lớp học thông tin tuyên truyền thành công tốt đẹp!
Ngày 12 tháng 2 năm 1949
Trần Huy Liệu - Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
Lân choáng váng, xúc động. Anh cầm lá thư mà hai tay run bắn.
Anh em đang tham gia lớp học lặng người. Không ngờ, một lớp học tập huấn trong
thời gian ngắn của địa phương vùng sâu, vùng xa mà Bộ trưởng cũng dành thời
gian quan tâm đến. Lá thư của Bộ trưởng Trần Huy Liệu chính là bài học cho anh
em đang tham gia lớp học về sự sâu sát, thái độ quan tâm, hết lòng vì việc công
dù đó là việc nhỏ nhất của cách mạng. Cả lớp học lặng đi. Rồi tiếng vỗ tay rào
rào nổi lên.
Đám chào mào, liếu điếu đang cãi nhau ỏm tỏi trên ngọn đa
nghe tiếng động, giật mình bay vút lên làm những quả đa chín rời cành, lộp bộp
rụng xuống sân đình.
° ° °
Nhân dân Nghĩa Hưng tản cư khắp một vùng rộng lớn trong khu
căn cứ kháng chiến thuộc nam Gia Lộc, bắc Ninh Giang, đông Thanh Miện. Người
dân mải làm ăn, buôn bán, ít có dịp tập trung. Đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng lại liên tục đổi mới để phù hợp với tình hình cuộc kháng chiến. Vừa phải
lo làm ăn kiếm sống, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao thực sự trở thành
khó khăn lớn nhất đối với anh em trong ban thông tin tuyên truyền.
Anh Thoại đặt đôi sọt xuống nền sân đất, nhăn nhó:
- Dân tản mát hết cả, không sao tập trung được. Vừa lại có chủ
trương chính sách mới về tản cư kháng chiến, mình phải thông tin cho bà con nắm
mà làm theo. Giờ cậu tính thế nào, Lân?
- Còn tính thế nào nữa. Dân mình chuyên buôn bán. Chợ nào
quanh vùng này cũng có người của Nghĩa Hưng làm ăn. Anh em mình cứ tổ chức
tuyên truyền ngay trong chợ, chả riêng gì bà con Nghĩa Hưng mà các nơi khác đều
biết cả, càng tốt...
- Nhưng tổ chức thế nào? Khó là khó ở chỗ ấy chứ...
- Thì mình tổ chức diễn thuyết tại chợ, Vừa kết hợp tuyên
truyền các chủ trương, chính sách, vừa động viên bà con khắc phục khó khăn, ổn
định cuộc sống, ủng hộ cách mạng... Anh cứ gọi anh em lại đây, mình bàn cách
làm. Chỉ cần một cái bục cao vượt lên một chút... Tuyên truyền thì đã có loa
tay. Trước khi tuyên truyền, mình tổ chức gọi loa, bà con sẽ tập trung tới
thôi...
- Cũng cần hợp cánh với mấy bố du kích nữa chứ? Để anh em người
ta gác sách cho, đề phòng bọn Việt gian trà trộn vào... Nguy hiểm chứ bỡn!
- Ai chả biết thế. Nguy hiểm cũng phải làm. Tôi sẽ chịu trách
nhiệm nói trước bà con. Mình ngại nguy hiểm thì còn cách nào để đưa thông tin đến
với bà con nữa đâu. Mai chợ Bóng họp. Ngày kia hăm hai là chính phiên chợ Bùi.
Khu này đông bà con mình sinh sống. Ta làm luôn. Với lại, các tổ chức thanh
niên, phụ nữ, phụ lão của bà con mình trong khu căn cứ kháng chiến cũng vẫn giữ
hoạt động đều. Mình liên lạc với họ, cùng tổ chức, chắc việc sẽ chạy thôi...
- Được rồi. Để tôi đi gọi anh em - Anh Thoại quảy quả bước
ra. Đôi quang sọt nhẹ bẫng tung tẩy theo nhịp chân anh, khuất dần xuống bến đò.
Lân trở vào. Anh nhìn gánh củ nâu đang xếp trong góc nhà. Nhất
định hăm hai này, anh và đồng đội phải tổ chức tuyên truyền thành công trong
phiên chợ Bùi. Có thế, bà con mới thấy cách mạng vẫn ở ngay bên cạnh, họ thêm vững
tin vào đường lối kháng chiến của Đảng.
Chợ Bùi cũng như bao chợ quê khác, tên làng chính là tên chợ.
Nằm ngay giữa làng, cách mấy bến đò dọc sông Cửu An không bao xa, cũng cây đa đứng
sừng sững ở góc chợ, phía trên là vô vàn dải mây thấp dần xuống như treo trên
cành, cũng mấy chiếc lều tranh nho nhỏ, mái rạ xám xịt, năm tháng, thời gian,
mưa chan, nắng gội, bao đời nay chợ Bùi vẫn thế, vẫn nguyên lành trong ký ức
bao người. Nhưng chợ phiên trong thời giặc giã vội vã, hối hả hơn. Người ta
không thấy cái thú nhẫn nha chơi chợ của những người thảnh thơi, nhàn tản dạo hết
hàng rau, sang hàng thịt, qua hàng gà vịt, tôm cá. Không còn thấy cái tươi mởn,
non bỡn của rau, cái tươi rói của đám cá như vừa vớt lên khỏi mặt nước đang giẫy
đành đạch, cái búng càng tanh tách của tôm tép cong mình luyện võ bật qua cạp rổ.
Chợ thời giặc giã chỉ thấy đôi ba mẻ tép riu xanh bóng lẫn lá rong xanh, vài mẹt
khoai củ gầy nhẵng như con nhà đói giữa ngày giáp hạt, dăm gánh rau thân sắt lại,
màu ánh vàng bởi trồng trên vạt đất cằn. Nhiều bà vội vàng sà vào hàng xáo, ghé
thúng đong vội mấy ống cám, vài ba bơ gạo hay tạt sang hàng muối đong lấy mấy ống
ngang, gói chặt trong túm lá chuối khô, ém vào bên thúng như sợ chỉ vô ý một
chút nó sẽ biến mất. Những chiếc khăn mỏ quạ nhàu nhĩ, những tấm áo bà ba bạc
phếch… Chợ thời giặc giã, người ta chỉ chú tâm đến thức hàng thật cần cho cuộc
sống vốn quá hiếm niềm vui lại dư khốn khó. Hình như ai đến chợ cũng tất bật, vội
vàng rời chợ sớm khiến chợ tan nhanh hơn. Mặt trời mới lên hơn một con sào, người
đi chợ đã tản mát gần hết. Chỉ còn trơ lại trên nền đất ẩm rau úa, lá ủng và
rơm rác.
Chắt con ngồi giữa những cày, cuốc, thừng rợ. Cách mấy dãy
hàng, Lân ngồi bên hai sọt củ nâu. Họ đã nhìn thấy nhau. Mắt đã chạm mắt. Chưa
thể nói gì lúc này. Chắt nghiêng đầu. Cái nón đã tung mấy lá, chao vành, che
khuất một bên má. Lân thẫn thờ nhìn theo.
- Bác ơi! Cày bừa, thừng rợ này! Bên hàng cày bừa, giọng nói
như mật mía của Chắt cứ hút hồn Lân. Anh hàng ngồi bên cạnh hích vào thắt lưng:
- Không bán hàng đi, cứ đần mặt ra thế? Người ta hỏi mua nâu
kia kìa…
- Ô, chết. Bà mua đi… Lân cuống quýt… Anh hàng lắc đầu cười,
nụ cười thật vu vơ.
Chỉ còn mấy lưỡi cày với hai cái bừa là hết hàng. Cày bừa do
thầy Chắt làm, lật đất rất vừa sá, bừa lại chắc tay, bán rất chạy. Bà cụ ngồi
bên nhìn cô bán hàng, cứ hấp háy đôi mắt kèm nhèm, tặc lưỡi:
- Cái con này, bán hàng duyên thật. Hàng nó bán cứ tung tung
như tôm tươi mà hàng mình dí dị thế này… Đúng là, ăn hàng con gái…
- Bà ơi! Chắt cười tươi rói - Rồi con bán hộ bà…
- Gớm, bán đi rồi còn về với u mày. Giặc giã thế này, già như
tao, được đến đâu, hay đến đấy - Bà cụ thủng thẳng, tay vê vê mồi thuốc lào sát
đi sát lại vào hàm răng đen nhánh như hạt na. Cốt trầu vương ra hai bên, rịn
theo đường rãnh cày hằn sâu theo khóe miệng. Cụ đưa tay vuốt nhẹ viền môi, cúi
xuống nhổ cốt trầu, ngẩng mặt nhìn trời thật xa xăm.
Chắt con nhìn sang dãy hàng nâu. Không thấy bóng Lân đâu nữa.
Cô chợt thấy bồi hồi. Người đâu đến lạ, rõ gan. Biết mười mươi lòng nhau rồi mà
nhất định không chịu nói một tiếng. Chỉ nhân lúc đi họp, thế nào cũng tìm cách
ngồi bằng được bên cạnh. Chắt con biết thừa Lân hướng về cô nhưng cô vờ như
không. Không biết giờ lại chạy đâu mất? Cô đang định hỏi anh mấy việc của làng.
Đã mấy ngày rồi, cô chưa về được bên làng.
Đang loay hoay nhìn ngược nhìn xuôi, Chắt con bỗng thấy tiếng
loa ngoài cổng chợ:
- A lô. A lô. Mời bà con nghe bản tin đặc biệt của ban thông
tin, tuyên truyền liên xã Nghĩa Hưng.
Tim Chắt con thúc dồn, tưởng như không thể giữ nó trong lồng
ngực. Tiếng Lân!
Chiều qua, khi sắp xuống đò, vừa thấy Chắt, chị Sự, chị Xoan
đã hớn hở:
- Con quỷ, mày cứ thoắt ẩn, thoắt hiện thế, bố ai tìm được?
Thế đã gặp nhau chưa?
- Gặp ai hả chị?
- Gớm, khéo chối. Gặp Lân chứ còn ai vào đây? Hay lại chúng
em không có chuyện gì… Nói thật nhé, trai thời loạn, được như chú ấy không mấy
đâu. Không nhanh tay, đứa khác nó nẫng mất lại… "chổng mông mà gào".
Cái nhà chị Xoan khéo đáo để. Đã vậy, chị Sự còn ngân nga:
"Tình trong như đã, mặt ngoài còn e"… Chắt cười, cố giấu đôi má ửng đỏ
vào vành khăn.
- Thôi, tha cho nó. Đi không có lại muộn, bà cà tẩm - Chị
Xoan kéo tay Sự - Chúng nó đã chả gặp nhau từ tám hoánh rồi chứ còn đợi bà phải
giục. Mà này - Chị quay sang Chắt con - Thu xếp rồi đảo về, tranh thủ họp phụ nữ
nhá. Việc vón lại rồi đấy… Cô phải phấn đấu hăng vào để kịp người ta chứ. Chú ấy
được kết nạp Đảng rồi. Không nhanh, người ta bỏ lại sau lưng thì chạy nhọc.
Miệng nói, chân chị thoăn thoắt xuống đò. Con đò dịch mũi,
xoay ngang. Thoáng chốc, chỉ còn thấy eo lưng của cô lái nhấp nhô xoay lại bên
này và nhịp chèo khoát nước róc rách dưới mạn thuyền. Dòng sông lại mải miết
trôi, chở theo mình nó ước vọng của bao người đang tất tả ngược xuôi suốt đôi bờ.
Chắt con nghiêng vành nón che chiếc tay nải cũ. Những vệt kẻ
trên chiếc khăn quàng thơm mùi vải cứ lấp lánh, chấp chới, nhảy nhót trong mắt
cô. Lần sau gặp lại, nhất định Chắt sẽ đưa chiếc khăn này cho Lân. Cô phải cậy
cục mãi mới mua lại được của một chị hàng đũi. Lân hay đi lo việc ban đêm, có
chiếc khăn, anh sẽ ấm thêm một chút. Biết đâu, nó lại chẳng như vòng tay ôm ấp
của một người.
Nghĩ đến đây, má Chắt đỏ lựng lên. Cô xấu hổ. Biết là không
ai biết chuyện, nhưng Chắt vẫn ngại ngùng. Chiều qua nghe chị Sự, chị Xoan nói
chuyện, Chắt rất vui. Lân đã thành đảng viên rồi. Anh đã được kết nạp đảng.
Không vui sao được khi thấy người thương của mình tiến bộ. Chắt biết, cô phải
phấn đấu rất nhiều. Cô sẽ phấn đấu để xứng đáng với anh, để khi anh báo cáo xin
phép, tổ chức sẽ chẳng phải đắn đo, cân nhắc bởi lúc đó cô cũng đã là đảng
viên.
Nguyễn Đình Vinh - Thương Huyền
Nguyễn Đình Vinh - Thương Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét