Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Vùng mắt bão 1

Vùng mắt bão 1

CHƯƠNG I
"Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời
Mỗi số phận chứa một điều cao cả"
Đêm trở gió. Ngôi nhà tranh đã thấp càng như chùng xuống dưới những đợt gió quét liên hồi. Mái rạ đã oải mục rung lên bần bật. Tiếng cột kèo đòn tay xoắn vặn vào nhau, rít lên, oằn mình chống đỡ. Tiếng trẻ con giật mình khóc thét làm bà Thuận bừng tỉnh. Vừa sờ soạng luồn tay xuống lưng con bé xem lại mảnh lót, bà vừa cất tiếng vỗ về, giọng còn ngái ngủ:
- Ui chao! U thương, u thương...
Vừa ru, bàn tay bà vỗ nhè nhẹ. Một lúc, tiếng trẻ ọ ẹ rồi nín bặt. Vươn tay quấn lại mớ tóc dài vừa xòa xuống lưng, bà nhẹ nhàng quờ chân xuống đất, bưng ngọn đèn mỡ phập phù, lần lần soi sang chỗ hai đứa con lớn đang ôm nhau ngủ. Lạnh như cật nứa cắt da! Nhìn hai đứa con xo người vì lạnh, quắp chặt vào nhau, bà xuýt xoa. Kéo tấm chăn cũ đắp lại cho con, bà nén tiếng thở dài.
Trời thật chẳng thương người nghèo. Hết nắng hạn nứt đồng lại mưa thối đất thối cát. Vừa nắng ong ong như vãi trấu hôm trước, ngoắt cái trở mặt, làm cua cá chết sạch gió bấc tràn về như bào da cắt thịt. Đến lá rau ngọn cỏ cũng không sao ngoi lên được, cua cá hiếm hẳn. May mà mấy đứa con bà đều ngoan. Cuộc sống thiếu đủ thứ, lăn lóc cùng khoai sắn nhưng được cái khỏe mạnh, chẳng mấy khi đau ốm gì.
Chồng bà - ông Kiến - đi làm công nhân dưới Hải Phòng không mấy khi có mặt ở nhà. Nghiệp thợ làm thuê cho chủ Pháp, bát cơm đổi hai bát mồ hôi cũng chẳng dư dật. Lâu lâu ông đem về được vài đồng Đông Dương cho bà thêm thắt rau mắm nuôi con. Sau lần bị tai nạn lao động gẫy một bên chân, chẳng còn khoẻ khoắn, ông về quê hẳn. Vốn chữ Quốc ngữ, Pháp ngữ và cái bằng Sertifica hạng ưu ông có được lúc này thành cái cần câu cơm giúp bà nuôi đàn con dại.
Làn gió len qua dại liếp, lách vào khe cửa. Ngọn đèn mỡ chao đi chao lại, leo lét như ma trơi. Tiếng thở dài cố nén bật ra. Cuộc sống ngày một khó. Rồi ngày mai, ngày kia, ngày kìa nữa… Bà Thuận chưa biết sự thể sẽ xoay sở thế nào?
Cái làng Bung của bà vốn có tên chữ là Đức Phong trên đất xã Hội Xuyên. Mảnh đất nằm kẹp giữa đường 17A về Ninh Giang và 192 đi Hưng Yên. Ngôi làng thuần hậu ấy quần tụ rất nhiều dòng họ lớn trong đó có họ Nguyễn của chồng bà. Nghe đâu cách đây bốn - năm trăm năm, cái thời Lê - Mạc phân tranh đánh nhau mù trời ở Thanh Hóa, tổ tiên ông đã phải bỏ quê, tha hương đến nơi này, tới ông cũng đã được mười một, mười hai đời. Con cháu họ Nguyễn Trọng nhà bà chỉ biết, mảnh đất này đã có thời được mệnh danh là Cối Xuyên nhất xã lục thôn thuộc huyện Gia Phúc, phủ Lộ Hồng - cái mảnh đất đã được Cao Biền chép trong sách "Cao Vương địa lý cảo" là nghèo hèn rồi mới hiển vinh. Hiển vinh đâu bà chưa thấy nhưng nghèo hèn, khốn khó thì đã ngấm vào đường gân thớ thịt vợ chồng bà bởi bao tháng ngày vật lộn kiếm miếng cơm manh áo cho con. Lại còn nay sưu cao thuế nặng, mai phu đài tạp dịch. Phú quý hiển vinh có lẽ phải đến đời con đời cháu bà mới mở mày mở mặt được chăng?...
Lúc ấy, Lân còn nhỏ lắm. Người làng Đại Liêu quá quen với cảnh sáng ra ông giáo Kiến đi dạy học, bà Thuận đòn gánh kĩu kịt trên vai, ba người con (hai trai, một gái) của ông bà vô tư nô đùa cùng các anh chị em đằng mẹ. Lên bảy, lên tám, trẻ con nông thôn lăn lóc như sỏi, cuội. Chúng chẳng cần biết đến chính trị, đến đảng này, phe khác. Trò chơi quen thuộc vẫn là đánh khăng, đánh đáo, chơi chắt, chuyền... Lê la cùng đất cát... mê mải cùng bao trò trẻ con để chờ mẹ về chợ là mơ ước lớn nhất của đám trẻ con lúc ấy. Ngoài chạy nhảy, đùa nghịch, nỗi sợ lớn nhất và cũng thích thú nhất của Lân là những lúc được cha kèm dạy chữ Quốc ngữ. Lên chín tuổi, cậu theo cha mẹ về sống tại làng Bung trong ngôi nhà nhỏ giữa khuôn viên khoảng một sào Bắc bộ nhìn ra đình làng Đức Phong cổ kính.
Lân còn giữ mãi trong lòng hình ảnh người cha ngày ngày áo lương, khăn xếp, giầy láng đen đi dạy chữ Quốc ngữ ở hai thôn Đức Phong, Đại Liêu. Thời ấy, người như cha ông dạy chữ Quốc ngữ được coi là sớm của vùng. Gia cảnh ông giáo làng không lấy gì làm dư dật, may nhờ mẹ ông làm nông thêm buôn bán nhỏ lại dựa được vào gia đình bên ngoại nên cuộc sống dẫu có lúc còn giật gấu vá vai nhưng cũng tạm đủ ăn.
Năm 1938, bà Thuận sinh thêm cô con gái nhỏ. Nhà thành sáu miệng ăn. Mấy năm liền, trời hết hạn lại xoay ra lũ lụt. Vừa năm trước vỡ đê sông Hồng, năm sau lại vỡ đê sông Thái Bình. Cái khó, cái nghèo như có chân chạy cứ kéo nhau ập vào nhà ông bà giáo.
Tối ấy, chiêu ngụm chè tươi, ông giáo thở dài nhìn ra khu vườn bên ngoài. Bóng đêm kéo về, giăng màn trên những tán lá, làm cả khu vườn tối sẫm như nghiên mực tàu mới mài. Đặt cô con gái nhỏ xuống võng, bà giáo tất tả với đôi quang thừng, chuẩn bị sắp hàng cho buổi chợ sáng mai:
- Chợ búa dạo này có khá không u nó?
Trước giờ, quen lệ, việc gia đình, nội trợ trông cả vào tay bà, ông chỉ biết ngày ngày đi dạy học, được đồng nào về đưa cho bà nên câu ông hỏi hôm nay khiến bà thấp thỏm. Nhìn vào gương mặt có phần hốc hác của chồng, bà giáo giấu tiếng thở dài:
- Hàng họ hôm đắt, hôm ế... Cả làng đều khó riêng gì nhà mình. Mấy vụ vừa rồi, lũ lụt liên miên. Cày cấy thì chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa, lại thêm nay sưu, mai thuế... chắc thầy nó cũng chẳng lạ gì...
Là người kiệm lời, chẳng mấy lúc thể hiện tình cảm qua lời nói, chỉ nhìn dáng người mảnh mai với nước da xanh mái của người vợ tảo tần cùng bầy con thơ, ông giáo thấy lòng mình se lại. Chẳng thể ngồi nhìn vợ con nheo nhóc mãi, ông nung nấu kiếm cách mưu sinh. Ông ngửa cổ nhìn lên như đếm từng cái vỉ ruồi trên nóc ngôi nhà nhỏ, mặt đăm chiêu. Bóng ông hắt lên, gù xuống trên vách nhà.
- Thầy nó định mở lò ấp vịt thật à? - Xếp nốt món hàng vào đôi quang thừng, bà giáo nhìn chồng. Xưa nay, ông định làm gì, nào bà có bàn bạc, thêm nhời. Lề lối nhà bà mà cũng là lề lối chung của làng vẫn thế. Mãi chiều nay, nghe cô cháu dâu thì thầm, bà mới ngã người. Ngập ngừng, vòng vo mãi vẫn không thấy chồng nói gì, bà đành gặng ông.
- Bu nó nghe vợ Lữu to nhỏ hử? Không có nhẽ ngồi chờ chết. Tôi hỏi kỹ rồi. Đận này sẽ cùng bố Lữu mở lò ấp vịt con xem sao. Đồng đất quê mình rộng, lúa cấy cũng nhiều, lại có những khoảnh đồng quanh năm ngập úng... Thức ăn nhiều, nuôi vịt ít phải thả mồi, lãi xem ra cũng khá nên con giống cũng cần...
- Ầy, thì tôi cũng hỏi cho biết thế thôi. Thầy nó tính thế nào thì tính. Tôi phận đàn bà...
- Ờ, ờ... Ông giáo gật gù...
Nói là làm, dồn tất tần tật vốn liếng, ông cùng cậu cháu con anh trai mở lò ngay tại góc vườn. Lòng ông khấp khởi. Nếu xuôi chèo mát mái, thuận như ý, mẻ vịt này sẽ kiếm được. Biết đâu, chỉ cần một vài lứa là sẽ hết nợ nần.
Nhưng trời chẳng mấy khi chiều lòng người. Năm đầu tiên mở lò, đang yên đang lành, nắng dìu dịu, gió nhè nhẹ, trời bỗng trở chứng nóng như vắt mỡ trong người, có hôm lên tới bốn mươi, bốn mốt độ. Lò ấp vịt của hai chú cháu ông giáo tưởng lãi cầm chắc trong tay bỗng sạch bách. Trứng nở thành vịt chẳng thấy đâu, chỉ thấy vỏ trứng thâm đen lại, bốc mùi ung thối.
Mặc, lòng người vẫn kiên gan. Hỏng đợt này, ông giáo làm tiếp đợt khác. Mấy năm sau, có kinh nghiệm cộng với thời tiết thuận mùa, trứng ít bị hỏng hơn. Nhưng vận này chưa qua, hạn khác đã tới. Không nóng hỏng trứng thì dịch bệnh lại kéo về. Vịt chết như ngả rạ ngoài đồng. Nay mua giống về nuôi, mai chết, chẳng mấy ai còn mặn mà với nghề chăn vịt thả đồng. Người nuôi không có, vịt con ấp nở ra biết bán cho ai? Ba năm sau, vốn liếng của hai chú cháu hết sạch. Cái hy vọng có thêm nghề phụ giúp vợ nuôi con không thành, ông giáo còn gánh thêm gánh nợ ngập đầu, ngập cổ. Thương người cháu, ông đứng ra nhận hết phần nợ của cả hai chú cháu về mình. "Gánh cực mà chạy lên non. Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo", sản nghiệp ông bán sạch để trả nợ mà vẫn không hết. Các chủ nợ thúc ép thường xuyên. Nhìn đàn con như trứng gà trứng vịt sàn đầu đang tuổi ăn tuổi lớn nheo nhóc, ruột gan ông bà giáo thắt lại. Bữa ăn thường ngày của cả gia đình thường xuyên là cháo độn rau má, củ chuối. Có được thứ cháo loãng ấy cầm hơi cũng còn nhờ cả vào gánh hàng tảo tần trên đôi vai gầy của bà giáo nghèo quanh năm dầu dãi.
Mười hai tuổi, Lân bỏ học. Trong trí óc non ớt của mình, cậu muốn làm việc gì đó đỡ đần cha mẹ. Biết con trai lớn bỏ học, ông bà giáo bực lắm, nhưng cảnh nhà đang quẫn bách, lấy gì cho con theo đòi nghiên bút cho bằng. Mười hai tuổi, cậu bé Lân tự ép mình thành người lớn.
Bất chợt, ông Lân buông tiếng thở dài. Những năm tháng khốn khó tuổi ấu thơ cứ như chiếc bóng toạ đăng chao đi chao lại. Ông cũng không lý giải nổi, tại sao ngày ấy con người lại có thể gồng gánh được nhiều nỗi buồn đau, cơ cực đến thế. Và ông cũng không hiểu nổi tại sao ngày ấy lại có nhiều thứ hủ tục lạ đời ngớ ngẩn đến vậy. Không thể hiểu, không thể lý giải bởi những hủ tục ấy cứ len lỏi, cứ bám riết như thân tầm gửi trên cành bưởi, cành mít nhà ông, như mớ tơ hồng vấn vít trên rặng cúc tần ngoài ngõ, buộc vào mọi người, trong đó có ông. Lạ lùng hơn khi khổ đấy mà chẳng một ai than thở. Dường như khi tất cả đều khổ nên chẳng mấy ai còn nhận ra mình đang khổ đến thế nào. Bị hủ tục buộc vào, vậy mà không mấy ai phản kháng. Mọi người đều chấp nhận, đều coi những chuyện ấy là đương nhiên phải xảy ra. Chính điều đó khiến nhiều chuyện trong làng Bung khi ấy bỗng thành chuyện lạ nếu kể lại cho lớp trẻ bây giờ.
Một năm sau ngày bỏ học, khi ấy Lân mười ba tuổi, người đậm đạp như cây nấm nhỏ. Chưa đến cả tuổi "thập lục" để làm những việc nhớn như ông bà đã dạy. Một sáng, Lân đang loay hoay với con quay gỗ của mình ở chái nhà ngang, thầy cậu gọi. Buông con quay, cậu chạy nhoáng vào, tay quệt ngang má, ống quần lá toạ luật quật theo nhịp bước chân. Ông giáo đang ngồi trên chiếc chõng tre, bát nước nụ vối vàng lựng như mật ong, sóng sánh trước mặt. Gương mặt ông tư lự như đang tính đếm điều gì nung lắm.
Bỗng ông giáo ngẩng đầu, khoát tay vào buồng, bảo con trai:
- Vào lấy quần áo tử tế, mặc rồi đi với thầy!
- Thưa thầy, đi đâu ạ?
- Không hỏi nhiều, cứ đi rồi thầy bảo.
Ông giáo vận áo lương khăn xếp, đi giầy láng đen. Lân cũng xúng xính trong bộ áo the, khăn xếp của mình. Chưa biết cha sẽ đưa mình đi đâu nhưng lòng cậu vui lắm. Chí ít cũng được diện quần áo đẹp đi chơi.
Hai cha con vòng vo qua cánh đồng rộng nối giữa làng Bung và làng Nội. Mùi đất ngai ngái, hương cây cỏ ngòn ngọt, nồng nồng. Lân vừa dõi mắt theo đám châu chấu, cào cào, vừa lũn cũn bước thấp bước cao chạy theo cha. Những búi cỏ ba cạnh cao quá đầu người đôi chỗ xòa ngang con đường đồng như níu chân cậu lại. Thi thoảng một con gà đồng lạc bầy cất giọng gọi bạn, tiếng túc túc khắc khoải lan khắp khoảng đồng rộng mênh mông. Lân nghiêng đầu ngó vào. Mấy lá cỏ ba cạnh sắc lẹm, cứa một vết đỏ mờ ngang gò má bắt đầu rám nắng.
Ông giáo dắt con trai lòng vòng qua mấy con ngõ lát gạch nghiêng tới một ngôi nhà nhỏ, người vào ra tấp nập. Mùi hương trầm ngào ngạt, tiếng kèn đám ma vọng ra não nề. Chờ ở cổng vài khắc, trong nhà, một người đàn ông tất tả chạy ra, đặt dải khăn trắng vào tay ông giáo. Nhìn dải khăn tang trắng trên tay cha, Lân không hiểu gì. Chẳng phải bà con họ hàng vì chưa bao giờ cha đưa cậu tới chơi ở nhà này bất kể là dịp nào. Người làng lại càng không phải bởi người làng người nước khi chết đâu phải để tang nhau? Còn đang mải dõi mắt vào nhà ngóng chuyện, Lân thấy ông giáo vỗ vào vai mình:
- Con đội lên đầu đi.
Cậu ngơ ngác. Dợm môi định hỏi, lại gặp ánh nhìn nghiêm nghị của cha, cậu đành cúi mặt, im lặng thắt vành khăn trắng lên đầu. Ông giáo nắm tay con trai, dắt vào sân. Vào nhà, Lân mới biết, bà chủ nhà này vừa mất. Cô con gái lớn của bà đã được ông bà giáo dạm hỏi cho cậu. Tục lệ thôn quê, nếu nhà có tang, con cái muốn dựng vợ gả chồng phải chờ ba năm mãn tang mới được cưới xin. Vả lại lề thói khi ấy, trai gái về làm bạn với nhau từ thuở mười ba, mười bốn nên ông bà nhất tâm cho Lân sang chịu tang bà mẹ cô gái trước. Ba tháng sau, ông bà giáo cưới vợ cho con trai. Lân thành chồng của cô gái mười sáu tuổi.
Phải "làm chồng" khi mới mười ba tuổi, Lân chẳng thích thú gì. Thậm chí sự xuất hiện của cô gái lạ mà mọi người trong nhà gọi là "vợ" cậu kia chỉ mang đến cho Lân bao điều khó chịu. Làm gì cũng phải làm cùng "vợ"... Lân đâm bực mình nhưng sợ bố và cả thương mẹ nên cậu chẳng dám phản ứng chỉ ngấm ngầm chống đối. Ăn cơm cùng mâm, cậu không bao giờ chịu ngồi gần "vợ". Hết cơm trong bát, cậu lẳng lặng ra đơm lấy. Khổ nhất là lúc gà lên chuồng... Mọi người đi ngủ, Lân cứ quanh quẩn mãi, hết nghiêng thứ này lại ngó thứ nọ, cốt kiếm cớ đi nằm sau để lẻn vào ngủ với thằng em ruột. Được một thời gian, "vợ" cậu thấy không được chồng nhỏ quan tâm, lại đau ốm liên miên nên đã bỏ về nhà đẻ. Cuộc hôn nhân ép buộc của Lân khép lại. Lân lại trở về với cuộc sống của một cậu bé mười ba tuổi, với bao buồn vui, vất vả và cả ngây ngô, ngộ nghĩnh.
Chẳng mảy may quan tâm tới chiến tranh thế giới thứ hai vừa nổ ra, chẳng cần biết thế giới phân chia thành mấy đại cục, mấy phe phái, không cần hỏi ngày hôm nay chiến tranh đang xảy ra, chẳng quan tâm xem Trân Châu cảng nằm ở phương trời nào, mối quan tâm duy nhất của cậu lúc này là làm sao mỗi ngày kiếm càng nhiều cua cá càng tốt, nhặt được càng nhiều rau má càng hay. Những điều ấy sẽ giúp cho gánh hàng đặt trên vai mẹ cậu mỗi sáng bớt đằm đi, tiếng thở của mẹ khi đòn gánh trên vai bớt gấp gáp, giúp cho ba người em kế cậu bát cháo bớt đi phần rau độn. Cả nhà gồng mình chống cái đói cái nghèo, cuối cùng cũng không thoát được cảnh chia ly. Cuối năm 1940 cái khó dồn đến chật nhà, ông bà giáo đành giao người con trai thứ hai, em trai của Lân là Ly cho người bà con trong làng làm thợ in trên Hà Nội. Nhìn người em trai mới chín tuổi, toòng teng chiếc tay nải bên đôi vai gầy gò theo người làng lên học làm thợ sắp chữ ở nhà máy in Đuốc Tuệ, nước mắt Lân trào ra. Cậu không hiểu nổi tại sao một đứa trẻ lên chín có thể rời nhà đi xa đến thế. Và cậu cũng chỉ lờ mờ nhận ra, mảnh đất Hà Nội xa xôi kia với cái làng Bung nhỏ nhoi của cậu chắc chẳng gần như từ nhà cậu sang phố Giỗ. Không biết anh em cậu đến bao giờ mới có ngày gặp lại. Chỉ đến năm 1944, phát xít Nhật ném bom dữ dội ở Gia Lâm - nơi nhà máy in Đuốc Tuệ đang làm nên ông giáo đã cho đón Ly trở về.
Rau má đào mãi cũng hết. Tôm cá trên đồng không thể có phép hoá thân nên ngày một ít đi. Cái khó, cái nghèo ngày càng thắt sợi thòng lọng chặt thêm vào cổ người nghèo. Làng Đại Phong thấm màu xám xịt, lạnh lẽo. Những sợi khói lam chiều ít thấy vẩn vơ trên nóc bếp mỗi nhà. Những người giầu có của ăn của để ngày một ít. Người ta kiếm sống bằng đủ nghề. Người chạy chợ, người làm hàng xay hàng sáo, người buôn chuyến, buôn bè mãi tận mạn ngược. Người nghèo càng nhiều, nhưng túi của những ông chủ giàu có lại ngày một căng với mánh cho vay nặng lãi. Cái khó ló cái khôn, nhiều người nhanh nhạy đã mở những cửa hàng phục vụ cho các ông chủ lắm tiền ham chơi.
Người Đức Phong ngỡ ngàng với cái nhà hát nhỏ ông Đình Tuynh vừa mở. Tiếng sênh, nhịp phách từ nhà hát vẳng ra thấp thoáng bởi bóng dáng thướt tha của những cô đào lý dẫu chẳng làm ấm lại không khí tiêu điều của một vùng quê cái nghèo đang đeo đẳng, nhưng với Lân, tiếng sênh, tiếng phách từ nhà hát kia đã giúp cậu có việc làm mới. Ông Tuynh vốn là chỗ họ hàng gần, về vai vế là anh cậu nên ông bà giáo đã cho Lân sang đó học việc. Bao công việc từ quét dọn, cơm nước, pha trà phục vụ khách đến nghe hát cậu đều làm cả. Những lúc nhà hát không có khách nghe, ông Tuynh lôi cậu em của mình ra dạy vài đường. Chiếc đàn đáy cần dài như cái cần câu rô ngọ ngoạy trong tay Lân. Nhưng có lẽ trong cái khổ, người ta thường tự rèn mình. Mấy ai nghĩ món đàn đáy với những ngón vê, chuốt, vuốt, tạo nên dòng thanh âm khi trầm lúc bổng hoà điệu cùng nhịp sênh, phách của những đào hát lại có thể thuần thục trong tay Lân. Thời gian sau, cậu thành kép chính của nhà hàng. Nhiều người đến nghe hát đã mến tiếng đàn mượt mà của anh kép trẻ tên Lân.
Sau những buổi lo giúp việc cho nhà hát, trở về nhà, những câu chuyện cha kể có sức hút Lân kỳ lạ. Mà cậu thấy cha dạo này rất lạ. Ông giáo vắng nhà nhiều hơn. Ánh mắt ông khi trở về nhà bớt vẻ u uất. Không còn ngồi bó gối trên phản buồn bã nhìn ra sân với ánh nhìn mông lung, vô vọng khiến anh em Lân khi ấy chỉ dám len lén vào nhà, ông giáo hồ hởi kể cho các con bao chuyện sau những chuyến vắng nhà. Những câu chuyện cha kể cho anh em Lân nghe dường như có thêm hương vị rất mới, rất lạ ùa theo. Đó là chuyện về cuộc đấu tranh của những người công nhân trong các nhà máy, hầm mỏ, của thợ thuyền trên các bến cảng, nhà ga, của những người buôn bán nhỏ tại các khu chợ suốt từ nông thôn tới thành thị...Song với trí óc non nớt của các cô, cậu bé mới lớn, rất nhiều điều anh em Lân không thể hiểu. Nghe chuyện ông giáo kể, quả thực Lân chưa thể cảm nhận hết những điều to tát, lớn lao được gửi gắm trong câu chuyện của cha. Thứ cậu cũng như các em cần nhất là thức ăn để cả nhà có thể sống. Lân chỉ ao ước, giá nhà mình có thật nhiều gạo để bố mẹ và anh em cậu được ăn một bữa cơm dặt thật no.
Cuộc sống ngày một khốn cùng. Kham khổ, lao lực cộng với sự sầu muộn bất đắc chí khiến Lân mất cha năm 1944, khi cậu vừa mười sáu tuổi. Ba tháng sau khi ông giáo qua đời, người em gái kế Lân cũng mất. Ba tháng, mất mát, tang thương liên tiếp dội xuống gia đình. Sự ra đi của cha, cái chết vì nghèo đói, bệnh tật của người em gái khiến cậu suy nghĩ rất nhiều. Bà giáo như đổ sụp. Ánh mắt bà thất thần cứ nhìn mãi vào khoảng không vô định như tìm lại hình bóng người chồng, người con đã rời bà ra đi.
Mười sáu tuổi, Lân thành trụ cột gia đình. Chính Lân đã phải tự tay cắt cánh cửa nhà mình đóng áo quan rồi ban đêm cùng người cậu ruột, gạt nước mắt, đốt đuốc mang em đi mai táng ở đống Mả Chằm.
Rồi cũng chẳng thể ngồi ngấm nỗi đau khổ mãi. Bà giáo lại dồn sức vượt lên. Đôi vai gầy của bà lại chất chồng. Bao vất vả toan lo cho gia đình và đàn con nheo nhóc tụ cả vào đôi vai ấy. Cho đến mãi sau này, Lân cũng không hiểu nổi, khi ấy, mẹ cậu lấy đâu ra sức lực để chèo chống con thuyền gia đình cậu vượt qua những thác ghềnh của cuộc sống. Không biết sức mạnh nào thổi vào thân hình mảnh dẻ của mẹ khối nghị lực phi thường. Thương mẹ, là con trai lớn trong nhà, Lân lao vào làm việc để phụ thêm cho mẹ. Cậu làm tất cả những việc cậu có thể làm, dẫu mồ hôi đổ ra đôi lúc nhiều hơn tiền công cậu nhận được.
Ngoài đồng, vụ mùa bắt đầu xuống giống. Những cây mạ mảnh dẻ theo tay người ấm gốc dần, bén rễ, vọt nõn tỏi. Người làng Bung nhìn cánh đồng, trong bụng thầm vui.
Trời nhiều khi không ác bằng con người, thậm chí những kẻ cùng máu đỏ, da vàng. Vụ mùa đã trôi được nửa đường. Lúa con gái đang thì xanh mơn mởn. Lúc này, trên chính trường Đông Dương, Phát xít Nhật bắt đầu lấn sân Pháp, bắt Pháp mở cửa biên giới rước Nhật vào Việt nam. Quân Nhật kéo vào Gia Lộc. Chúng đi thành hàng hai nghênh ngang trên con đường lớn. Nước da tái xám trên mặt chúng khiến người ta nghĩ nhiều đến đội quân thất trận, đói ăn, khát uống. Và dẫu chúng có cố làm ra vẻ oai phong, cũng không giấu đi được sự mệt mỏi của đội quân đang ngập trong thất bại. Quân Nhật tràn vào chợ Cuối, mua hàng nhưng không chịu trả tiền. Bọn giặc lùn ngang nhiên bày trò cướp giật vơ vét hàng hoá, vàng bạc, nhũng nhiễu bắt nhân dân nộp gạo thịt. Nhiều tên còn trắng trợn chiếm nhà của dân để ở. Để phục vụ cuộc chiến tranh phi nghĩa, chúng bắt dân ta nộp thóc tạ. Hạt thóc quý như hạt vàng dân vẫn phải dồn lại cho chúng nấu rượu cồn, chạy đầu máy xe lửa. Trong làng, chẳng mấy nhà còn đủ thóc ăn đến đầu vụ sau. Tất cả đều trông chờ vào vạt lúa mơn mởn đang thì con gái ngoài đồng.
Bọn Nhật ngông nghênh, khua gươm tít mù, chỉ ra cánh đồng trước mặt: "Nhổ lúa trồng đay". Một câu ngắn nhưng như quả bom tấn nổ ngang tai người làng Bung. Dân ngỡ ngàng. Các làng đều tìm cách lần lữa, trì hoãn cái lệnh tai ách ấy. Kẻ cáo bệnh, người lảng đi làm việc khác. Cả cánh đồng đang mơn mởn ngoài kia, ai có gan nhổ? Nhổ lúa khác nào hất đi bát cơm của cả nhà?
Đám giặc lùn thúc! Dân cứ ngoảnh mặt làm ngơ. Quân Nhật điên cuồng. Hai thằng lính Nhật, quần áo ka ki vàng, mũ trùm tai, gươm đeo quét đất nghênh ngang đi lại trong làng. Đôi mắt ti hí của chúng nhòm ngó khắp hang cùng ngõ hẻm. Vóc dáng lùn tịt cùng thứ ngôn ngữ xì xồ của chúng như tiếng chim cú báo tai ương cho người dân vô tội. Người làng Bung tái mặt. Bọn Nhật ốp lý trưởng của làng dồn dân ra đồng. Dân làng dồn lại. Không ai chịu bước xuống ruộng. Mồ hôi của cả làng đã ngấm xuống đất đai, làm nên sắc xanh của lúa trên những thửa ruộng bạt ngàn kia. Lúa vẫn xanh nhức mắt, vẫn dồn nhựa sống lên những phiến lá tơ mềm như trêu, như ghẹo. Bước chân người làng Bung chần chừ, rón rén trước ruộng lúa đang thì. Ruột gan người làng Bung thắt lại trước sắc xanh ngỡ ngàng của lúa thời con gái. Không một bàn chân nào nhúc nhích. Không một bàn tay nào vươn ra. Câm lặng. Chỉ có lúa là vẫn xanh đến cồn cào.
Hai thằng lính Nhật nghiến răng lại. Lưỡi kiếm sáng quắc của chúng tung khỏi vỏ, vung lên. Mặt chúng đỏ bầm màu máu. Chúng tuôn ra một tràng như đạn súng máy vọt khỏi nòng. Ông lý trưởng làng Bung run như chim dẻ cùi gặp bão, lập cập nhắc lại lời chúng với bà con. Lân không hiểu hai thằng Nhật lùn kia nói gì, chỉ thấy lý trưởng thông ngôn lại, đại khái: Nếu dân làng không chịu nhổ lúa trồng đay, chúng sẽ dùng kiếm mổ bụng moi gan, hoặc chúng sẽ mổ bụng ngựa, bụng trâu, bò, nhét người vào đó rồi khâu lại cho chết ngạt. Lời thông ngôn của lý trưởng, người làng Bung không lạ. Chuyện giặc Nhật ác ôn, man rợ, dân làng đã nghe rất nhiều. Và người dân làng Bung cũng không ngốc nghếch đến nỗi không tin quân Nhật dám làm việc đó.
Một người, hai người… Rồi ba người bước xuống. Lúa vẫn xanh cồn cào trước mặt. Những cánh tay đưa ra, miễn cưỡng, ngập ngừng như sợ thít phải chính cổ mình. Gốc lúa bật lên. Nước mắt người dân làng Bung rơi xuống. Nỗi đau đớn, cơ cực tủi hờn của người dân mất nước ngấm đến tận xương tuỷ. Mồ hôi, nước mắt, miếng cơm manh áo của mình mà chúng cướp trắng trước mắt. Niềm hận thù xăm vào gan ruột. Nó như quả bom tích điện chỉ chờ ngày phát nổ.
Cả cánh đồng làng vừa mỡ màng xanh thoáng chốc chỉ còn trơ lại một màu xám trắng. Xám lạnh lẽo của nước bùn, của chết chóc, đói rét. Những thân đay èo uột cắm vội cắm vàng thế vào bao thửa ruộng mơn mởn trước đó như mầm dịch của thần chết gieo rắc cho người làng.
Thóc vụ trước đã bị thu hết. Lúa ngoài đồng bị nhổ sạch để trồng đay. Không còn chút gì để có thể cầm hơi, nuôi sống con người. Người ta nháo nhác nhìn nhau. Ngơ ngác! Hãi hùng! Điều khủng khiếp nhất đã đến!
Tháng ba! Kỳ giáp hạt! Cái đói lan ra khắp làng. Người ta ăn rau, ăn củ chuối, rồi ăn cả cỏ. Bất cứ thứ gì có thể nhai, có thể nuốt được đều biến thành thức ăn. Cái gì lấy mãi rồi cũng hết.
Sáng nửa ngày. Đang loay hoay quảy gánh hàng cho mẹ ra chợ, Lân giật nảy người bởi tiếng thét chu tréo vang lên từ hai ngôi nhà rạ tồi tàn cuối xóm. Dừng chân, ghé mắt qua hàng rào, hai người đàn bà quần áo te tua đang lăn xả vào nhau. Tóc tai họ rũ rượi. Họ vừa túm tóc, vừa xa xả:
- Con mẹ mày. Có trả ngay bà cái củ chuối ấy không thì bảo?
- Mả mẹ mày. Cây chuối ấy mọc trên đất vườn nhà tao, làm sao mày nhất quyết bảo đó là của mày? Còn trả mày cái củ chuối ấy á? Còn lâu nhá! Con bà ăn đã ỉa ra rồi, mày biết chửa? Có đòi thì ra nhà gio mà đòi.
- Con mặt nạc đóm dày kia. Mày bảo cây chuối nào là của nhà mày? Không có bà trồng thì lấy cái đầu lâu xương sọ thằng cha mày để cây chuối ấy nó mọc lên à? Thế mà hở ra một cái mày đã khoét ngay củ chuối của bà… Bà thì xé xác mày ra…
- Chuối mọc trên đất nhà tao, tao đào… Mày giỏi thì móc họng tao đây.
- Mày không phải thách… người kia túm chặt tóc người này. Họ cùng lăn ra đất. Rồi dường như không gượng được nữa, cái đói làm cho họ kiệt sức. Họ buông nhau, nước mắt cùng lã chã rơi.
Lân quay người. Cái đói quay quắt khiến con người mất hết lý trí, mất hết cả những mối quan hệ tưởng như thâm cung của những người hàng xóm, láng giềng. Cái dáng lam lũ của mẹ Lân thấp thô phía trước. Mẹ không chứng kiến cảnh hai người đàn bà chửi nhau vì một cái củ chuối. Nếu chứng kiến, chắc mẹ sầu não lắm.
Từng đoàn người ăn xin từ Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Thanh Hoá... lũ lượt kéo nhau ra. "Đói ăn thì lên Bắc, chạy giặc thì vô Nam", người người truyền tụng nhau câu ấy. Đường 17 người nối người vật vờ, dật dờ như những bóng ma. Chợ Cuối thành nơi người đói tụ lại. Làng Bung cũng chẳng khá hơn. Thức ăn nuôi mình còn không có, lấy đâu để cho mọi người. Bà giáo vẫn tần tảo ra chợ Cuối bán hàng, lần hồi kiếm cái ăn cho cả nhà. Hy vọng sống được qua trận đói thành ước ao lớn nhất của cả làng Bung. Đâu cũng thấy người ta nhắc đến miếng ăn, đến sống, chết. "Đói rã họng". "Đói vàng mắt" là câu cửa miệng của mọi người.
Chợ Cuối mất hẳn cái dáng vẻ sầm uất mọi khi. Khắp nơi người đói vạ vật. Những người bán hàng ăn mỗi bên phải có một người cầm đòn gánh đứng canh. Từng đám người rách rưới, đói khát dồn cục bu lại trước cửa quán. Chỉ cần sơ hở, họ có thể ùa vào bất kỳ lúc nào để cướp được miếng ăn. Người ngồi trong hàng thấy miếng ăn tắc lại nơi cổ họng. Người ngồi ngoài hàng nước mắt ứa ra. Chính Lân cũng ngấm vô cùng cái đói của ngày giáp hạt. Không một hạt thóc nào còn sót lại. Hai chỉ vàng chẳng đổi nổi một bữa ăn mà vàng nhà cậu cũng không có. Nhà bốn miệng ăn, gánh hàng rong của mẹ chẳng thể gánh nổi mãi.
Một buổi tối, bà giáo gọi Lân vào:
- Cứ đà này, không biết mọi sự sẽ thế nào. Nhà mình bây giờ túng quá rồi, mình u chẳng lo nổi nữa. Thôi, đành phải cho em Ly con sang nhà cậu con bên Đại Liêu để cố qua nạn này rồi tính sau vậy.
Nhìn gương mặt đã se sắt của mẹ, lòng Lân như bị ai đó cầm con dao cùn nhay đi nhay lại. Ngoài trời vẫn tối như mâm bánh tro có thể sắn ra thành từng miếng. Biết làm gì giúp mẹ lúc này? Lân đành im lặng. Cậu lần ra chái nhà, lần tìm nắm lạt. Trong bóng tối nhờ nhờ, bàn tay mò mẫm buộc lại mấy nút cạp rổ vừa bung mà cổ Lân như có bàn tay ai chẹn lại. Dòng người đuổi theo một người đói quá cướp cám sáng nay ở chợ Cuối lại chen vào hiện hình trong đầu Lân. Tiếng hô: "Cướp, cướp…" khiến những người đang ngồi trong những túp lều chợ lụp sụp ngoảnh cổ quay hết cả ra ngoài. Một bóng người, nói đùng hơn là một túm giẻ rách đang cố sức cắm cổ chạy phiá trước. Đằng sau là một thân hình cũng không khá gì hơn kéo theo những cái bóng dật dờ khác. Vừa chạy, túm giẻ đằng trước vừa cố nhét nắm tay lên miệng. Những hạt cám vụn vương đầy khoé miệng. Dường như không nuốt nổi, túm giẻ dừng lại, vươn cổ ngắc ngắc mấy cái. Rồi đôi mắt chỉ còn toàn lòng trắng trợn lên, túm giẻ ấy đổ sụp xuống vừa lúc bóng người dật dờ phía sau đuổi kịp, hổn hển thở nhưng vẫn chồm lên:
- Đồ ăn cướp! Nhoáng một cái nó đã xô vào mẹt cám rồi… Mày, mày!
Vừa nói, vừa thở, cái thân hình còm nhom kia vừa đổ ập xuống túm giẻ nhàu nát, mà giẫm mà đạp. Dường như sức lực cũng chẳng còn mấy nả, rồi cũng từ từ xịu xuống. Đám đông chạy phía sau ùa theo. Người giơ chân, kẻ giơ tay… Rồi tiếng ai đó sầu não:
- Thôi, tha cho người ta. Đói ăn vụng, túng làm liều. Mấy hạt cám cũng tắc nghẹn lại rồi, có nuốt được đâu. Chả biết cầm cự được đến bao giờ…
Đám đông tản ra. Người vừa nói lôi túm giẻ, dựng dậy. Nhưng gương mặt xác xơ đã tím lại. Không biết túm giẻ ấy chết vì sợ quá hay chết vì sặc cám khô? Cũng lại một kiếp người
Mặc cái lạnh se se, tờ mờ sáng, Lân đã lọ mọ ngoài đồng. Con tôm, con tép, thậm chí cả con chuột đồng kiếm được lúc này đều quý. Nó là nguồn thức ăn cậu có thể góp vào cùng mẹ chèo chống cho cả nhà thoát khỏi những cơn đói quặn người.
Cái đói không chừa nhà ai. Những nhà hào lý trong làng cũng đã ngấm đói.
Chiều ấy, Lân loạng choạng từ ngoài đồng về. Bát cháo cám loãng húp từ sáng đã bay vèo đâu mất. Mắt bắt đầu hoa lên. Vừa thất thểu vào ngõ, Lân sững người. Bên thềm nhà cậu, một hình người tả tơi trong nhúm giẻ rách. Một bộ khung xương giơ ra, chẳng còn nhận được ra mặt người, chỉ thấy giọng nói thều thào, tiếng được, tiếng mất:
- Chết chiều nay rồi bà giáo ạ. Người chết nhiều lắm. Sáng nay, ngoài ngã tư Giỗ, có hai mẹ con nhà nọ, không biết người Thái Bình hay Nam Định... Giọng người kể ràn rụa nước mắt - Khốn khổ quá bà giáo ơi! Mẹ chết rồi mà đứa con có biết gì đâu, nó vẫn bò nhoai trên ngực mẹ mà nhay hai núm vú đã đen sì lại rồi ngằn ngặt khóc. Ai thấy cũng nhỏ nước mắt nhưng rồi cũng đành ngoảnh mặt đi. Mấy ai biết mình sẽ sống sót được đến bao giờ mà dám nhặt đứa bé mang về hả bà? Nhà cháu đây này, chẳng biết ngày nay, ngày mai, hay ngày kia sẽ chết...
- Nhà chị đừng dại miệng - Bà giáo an ủi người đàn bà nọ - Gắng xoay xoả cho qua cái nạn này. Lúa non cũng sắp có rồi. Nhà tôi cũng thế thôi, củ chuối ngoài vườn đào sạch như chùi. Ăn mãi của chuối nó cũng phù người lên mà cũng có còn để đào đâu. Sáng nay, đi tuốt mãi mới được vài bông lúa mới đông sữa về đây. Tôi phải rang khô, giã nhỏ rồi đấy, chị cầm lưng bát về nấu cháo loãng cầm hơi, mai ra đồng mà suốt lúa...Chẳng sàng sẩy được gì đâu, đành nấu cả vỏ trấu vậy.. Gắng mà qua đận này...
Người đàn bà nọ khóc. Tiếng khóc tức tưởi, ngậm ngùi. Dường như bao hờn tủi dồn góp lại đọng thành đắng cay, bật ra trong tiếng khóc của con người khốn khổ. Có lẽ nước mắt cũng chẳng còn để rỉ ra được nữa. Chỉ thấy tiếng ức ức nghẹn ứ trong cổ bà ta. Giọng nói nghèn nghẹn lẫn trong lời kể sụt sùi:
- Người chết nhiều lắm rồi bà ạ. Ngoài cổng chợ Cuối, rồi suốt con đường qua làng, chỗ nào cũng thấy có người chết đói. Quan huyện đã cho đào cái hố to tướng ở ngã tư chợ kia kìa. Họ thuê những người còn ngắc ngoải nhặt xác người chết cho xuống hố. Nhiều vô thiên lủng bà giáo ạ. Nhưng những người nhặt xác ấy cũng lại chết rồi. Họ được thuê nắm cơm để lôi người chết đói đi chôn, vội vàng cắn, nhai, trợn mắt nuốt, lại nghẹn mà chết. Rõ là không có ăn cũg chết, có mà nuốt cũng lại chết. Chẳng còn ai nhặt xác, mấy tay lính dõng đành phải làm việc ấy bà giáo ạ....
- Tôi đi chợ cũng có thấy. Chợ Cuối đông đầy những người chỉ còn da bọc xương. Giặc Nhật ác quá. Hết thu thóc tạ lại bắt nhổ lúa trồng đay, làm gì người chẳng chết. Cứ ngắc ngoải, dần mòn mà chết. Lúc đầu tập trung ở khu nhà Hội đồng hàng xã, sau dồn về khu chợ hàng Trâu, hàng Lợn. Khiếp quá, dọc đường từ làng Bung lên phố Giỗ, người chết đói la liệt hai bên đường đấy nhà chị ạ!
Có lẽ lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên, và không được phép quên cái nạn đói thảm khốc năm bốn nhăm ấy. Cái nạn đói khủng khiếp đã cướp đi hơn hai triệu sinh mạng con người. Cái nạn đói như một chứng tích chép lại tội ác của giặc Nhật và bè lũ phát xít. Nó găm sâu trong tâm can người Việt bởi sau trận chết đói ấy, người dân còn phải chết bởi nhiều hệ luỵ từ trận đói tháng ba kinh hoàng. Sau chết đói, lại là chết dịch. Dịch từ đâu ư? Từ chính những người đã chết đói, chết rét kia. Khi xác chết nhiều quá, không đủ áo quan, người ta bó chiếu. Rồi chiếu cũng chẳng còn để bó xác, người ta cứ thế bỏ xác lên xe bò, nhiều quá không xe xuể đành lấy dây thừng thòng lọng vào cổ kéo vứt xuống hố rồi lấp đất. Sơ sài, qua loa. Xác mới chồng lên xác cũ. Lớp đất lấp mỏng tang bên trên gặp mưa tháng ba, toạt ra. Xác chết trồi lên, trương phình, bốc mùi, gặp mưa rã rời. Dòi bọ từ các hố chôn lúc nhúc bò lan ra cả khu đất quanh hố chôn. Ruồi nhặng đậu đen kịt, bay à à như vãi trấu. Mùi hôi thối theo gió lan khắp các làng lân cận. Bệnh tả, thương hàn, phù thũng... lan nhanh như qua tay phù thuỷ. Bệnh thành dịch khi ngấm qua nguồn nước, qua nguồn thức ăn, qua cả những con rận còng ngo ngoe đám chân dài, cắm cái vòi của nó vào hút máu người bệnh rồi lẩn sang người lành gây nên dịch sốt hồi quy có thể vật đổ cả những con trâu mộng. Bao thân hình còm cõi vừa ngơ ngác ra khỏi nạn đói còn chưa hoàn hồn lại bị vùi dập bởi dịch bệnh. Người ta lại chết. Chết thảm khốc hơn. Có nhà chết không còn một ai. Có họ chết mất cả một chi. Không khí tang tóc trùm khắp làng. Người chết lúc đầu còn được tổ chức đưa đám theo phong tục. Sau chết nhiều quá, chẳng ai còn lo được cho ai, nhà nào đành tự lo liệu chôn cất người nhà ấy. Khói đống giấm ngoằn ngoèo bay lên từ khắp các ngõ xóm. Làn khói trắng xám nghi ngút ấy cũng không át được mùi tử khí lan trong làng.
Nạn đói tháng ba năm bốn nhăm đã khắc nỗi kinh hoàng vào tâm khảm của Lân. Cái chết của cha, em gái, nỗi khổ đau, vất vả của người mẹ nghèo cùng những gì cậu đã chứng kiến ngay trong cái làng Bung vốn hiền hoà, êm đềm nơi cậu sinh ra, vật lộn để tồn tại khiến Lân suy nghĩ rất nhiều. Và có lẽ đó cũng chính là lối nhỏ đầu tiên đưa cậu bước vào một trang đời mới - Trang đời của một thanh niên mười bảy tuổi.
CHƯƠNG II
Con đường làng lát đá xanh mát rượi bám vào gan bàn chân như bàn tay mềm, ráp, buồn buồn xoa theo từng nhịp bước. Những viên đá đã từng in dấu chân bao người trở nên láng bóng, trôi qua đôi chân của chàng thanh niên làng Bung vạm vỡ. Gió thu dìu dịu len vào cánh áo mỏng. Trời cao vút, không một gợn mây. Cái lễnh loãng, vô định của màn trời cuối hạ đầu thu sao càng dễ gợi thê lương đến lạ. Trong làng, ngoài đồng, cảnh hoang vắng, tàn tạ của vùng vừa thoát ra khỏi trận đói vẫn chưa ấm lại.
Chiếc nơm nhỏ vắt vẻo trên vai, Lân lững thững men theo con đường nhỏ, ra cánh đồng Vãng. Những chuyện liên tiếp xảy ra vài ngày gần đây quanh cái làng Bung nhỏ bé của anh, khiến Lân trăn trở rất nhiều. Anh chưa biết Việt Minh là gì, chưa biết ai tham gia vào đó nhưng việc họ bí mật ra những bản án đanh thép kết tội nhiều tên ác bá từng gây đau khổ với dân làng khiến Lân và bao người nghèo khổ như anh ở làng Bung khấp khởi trong lòng. Có lẽ, Việt Minh là tổ chức hội kín gì đó mà trước đây cha anh đã có lần nói tới. Chuyện mấy hôm trước, nghị Ngợi bị Việt Minh bí mật bắn chết tại phố Cuối lại hiện về trong đầu Lân. Bước chân anh chậm lại.
Đang lúi húi cuốc lại mảnh vườn, Lân nghe bà con í ới kháo nhau ngoài ngõ:
- Ra mà xem, ối giời, chết mà mắt vẫn mở trừng trừng...
- Ác lắm vào, chết là đáng kiếp...
Tiếng được tiếng mất, chẳng hiểu đầu cuối ra sao, Lân vứt cuốc chạy theo đoàn người đang cuồn cuộn đổ về phố Cuối. Lách đám đông, cố nhô đầu vào, Lân thấy nghị Ngợi nằm ngửa, đầu nghẹo về một bên, đôi mắt vẫn ti hí như hé nhìn. Trên ngực, vệt máu loang ra đã bắt đầu khô, ruồi nhặng vo ve lượn xung quanh. Không biết Việt Minh bí mật có mắt mũi thế nào mà tội hắn gây cho dân, họ biết cả. Trước khi bị bắn chết, Nghị Ngợi "được" Việt Minh tuyên án. Bằng chứng là mảnh giấy kể tội ác Nghị Ngợi đã gây ra, gài trên ngực áo ngay bên vệt máu long lổ chảy ra từ vết đạn cầy. Bà con chỉ trỏ, bàn tán xôn xao.
- Thần tình thật đấy. Không biết họ ra làm sao mà tường tận đường tơ, kẽ tóc thế chứ…
- Cứ phải thế, những thằng khác mới chờn… Không á, chúng còn tưởng chúng là ông giời, muốn làm gì thì làm sao…
Một vài ánh mắt len lén nhìn rồi cụp vội xuống. Tiếng một người đàn ông nói nhỏ nhưng rất hào sảng:
- "Bà con biết không, bên trời Tây kia, phát xít Đức đã đầu hàng quân đồng minh. Ở Đông Dương, bọn Nhật lùn cũng đang giẫy chết. Đội quan Quan Đông của chúng đã bị Liên Xô đánh cho tan tác. Trên đất Nhật, Mỹ đã ném xuống hai quả bom nguyên tử làm san phẳng hai thành phố lớn... Nhật Hoàng đã tuyên bố đầu hàng. Tội ác tày trời quân Nhật gây ra với dân ta đang bị trừng phạt... Bà con hãy chuẩn bị... Chúng ta phải đứng lên để cứu lấy mình...".
Gió vẫn rì rầm, mơn man. Câu nói của người đàn ông hôm ấy cứ văng vẳng bên tai... Bước thấp, bước cao, Lân không còn chú ý những vạt cỏ may ven đường đang chín dần, bắt đầu ngả màu xám bạc. Chúng ngả ngốn quấn vào chân anh như kéo lại.
Rạch đám cây cỏ trước mặt thành một khoảnh, ném nhúm cám rang đã trộn kỹ xuống khoảng nước trống, Lân ngồi bệt xuống bờ cỏ, chống nơm chờ. Anh hy vọng hôm nay sẽ kiếm được kha khá cá mang về cho mẹ. Cánh đồng Vãng vốn ngập úng quanh năm. Những loại cá đồng như rô, giếc, trê, chuối cũng còn sẵn. Đám bong bóng tăm cá tròn vo theo bọt nước sủi bắt đầu nổi lên. Đôi mắt Lân chăm chú vào vũng nước vừa thả thính. Bỗng bên tai anh nghe âm âm. Tiếng gì ầm ì xa lắm. Nửa như tiếng thì thùng của trống, nửa như tiếng sấm mưa nguồn. Thanh âm vẳng lại, ngày một rõ dần. Rõ ràng là tiếng trống, cả tiếng người. Bỏ mặc tăm cá, Lân quăng nơm, quăng giỏ, hối hả lội vào bờ.
Từ phía cầu Gỗ, đoàn người rồng rắn kéo ra. Cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ, cuốc, thuổng, gậy gộc. "Đả đảo phát xít Nhật"; "Ủng hộ mặt trận Việt Minh"; "Việt Nam độc lập muôn năm"... Tiếng hô, tiếng thét của đoàn người áo rách cùng những thứ vũ khí thô sơ họ đang lăm lăm trong tay có sức mạnh ghê gớm! Mây trên đầu như vỡ bung ra. Mặt trời bỗng lách mây, xoà những tia nắng thu vàng rực chiếu lấp loá xuống đoàn biểu tình. Những lá cờ được gió, bay phần phật. Đoàn biểu tình đi đến đâu, dân từ các làng hai bên đường ào theo, nhập thành dòng, đông như trẩy hội. Kệ quần đùi, áo cộc mong manh, Lân ùa theo dòng người.
Mãi sau này, anh mới biết mình đã tham gia đoàn quân khởi nghĩa kéo ra từ làng Dôi, do thầy giáo Tuệ dẫn đầu đi giành chính quyền tại huyện Gia Lộc. Khí thế tưng bừng của ngày khởi nghĩa khiến Lân quên đi tất cả, chỉ còn niềm vui khi tìm thấy con đường mới cho mình - con đường sẽ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho gia đình và bao người cùng khổ như Lân.
Đoàn biểu tình hừng hực tiến vào cổng huyện. Cả huyện đường vắng tanh. Huyện Kiểm đã bỏ trốn mất tăm. Loanh quanh trong sân chỉ còn mấy tên lính lệ, mắt dáo dác, run như dẻ cùi gặp bão. Vừa thấy đoàn người hùng dũng tiến vào, họ đã vội vàng giao vũ khí, đầu hàng.
Chính quyền về tay nhân dân! Tiếng cười, tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu vang trời. Nhiều người, cười mà nước mắt chảy. Họ khóc vì mừng vui, vì từ nay thực sự đổi đời, vì những khổ đau họ đã đè lên vai họ bao năm, nay lùi vào dĩ vãng... Và còn vô vàn lý do chính đáng khiến họ cười mà nước mắt vẫn tuôn.
Nắng tháng tám khiến gương mặt người thêm rạng rỡ. Cái nắng vàng lịm của da bưởi vào thu xua đi không khí hoang lạnh bao ngày. Cả huyện Gia Lộc mênh mông và cái Bung nhỏ bé, thân thuộc của Lân.
Sau buổi sáng nhập vào đoàn người biểu tình giành chính quyền ở huyện, Lân cuốn mình vào dòng chảy hừng hực của biển cách mạng. Trong đoàn biểu tình dự mít tinh mừng ngày Quốc khánh 2.9 tại vườn hoa Bảo Đại (trước cửa nhà Bưu điện tỉnh), mít tinh chào mừng ra mắt Uỷ ban hành chính lâm thời của tỉnh Hải Dương, mọi người đều thấy Lân hăng hái tham gia, hòa mình vào dòng thác cách mạng.
Chính quyền vừa thành công, giặc đói, giặc dốt hoành hành cùng quân cướp nước. Khó khăn vây bủa tứ bề. Thù trong giặc ngoài đe dọa. Vận mệnh dân tộc ngàn cân treo sợi tóc. Như bao người nhiệt tình, yêu nước khác, Lân tham gia vào Đoàn thanh niên cứu quốc, hoạt động trong Ban tuyên truyền xã bộ Việt Minh xã Hội Xuyên do đồng chí Văn Hồi làm chủ nhiệm xã bộ, thành lập tại đình làng Đức Phong đầu năm một chín bốn sáu. Gian khó đang chờ phía trước, nhưng Lân thấy rất vui.
Nằm giữa cánh đồng, trên địa phận quán Múc nên ngôi chùa nhỏ nhắn ấy có cái tên Nôm đáng yêu là chùa Múc. Ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng trong câu ca cổ "Sư ông chùa Quyến, sư bà chùa So, ông Tư Do chùa Múc" dân quanh vùng vẫn truyền tụng, khép mình giữa cánh đồng rộng mênh mông, xa dân, vây kín bởi những tán cây cổ thụ rậm um tùm càng tôn vẻ thâm u huyền bí nơi Phật ngự. Không mấy ai biết, cửa Phật cõi Thiền ấy lại chính là nơi ủ lửa, là chốn đi về của những người con cách mạng huyện Gia Lộc. Ngôi chùa nhỏ, những hàng cột lim lâu ngày lên nước bóng loáng đỡ những bức hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng. Những tấm bình phong, đầu xà, vỉ kèo chạm trổ tinh vi bởi những người thợ khéo tay. Trong vườn chùa, dưới tán cổ thụ, ngay trước cửa tam quan, sư cụ cho trồng mấy gốc đại. Vào mùa, hoa rụng trắng chiều, hương hoa quyện với lư trầm càng khiến không gian chùa nức nở. Những pho tượng Phật hiền từ, thâm nghiêm. Đêm buông, khu vườn đẫm sương, hương thuốc nam phảng phất càng khiến ngôi chùa dịu dàng lan toả cái tĩnh lặng của mình. Trong tiếng chuông vô định mỗi chiều điểm vào thinh không, tiếng mõ trầm tư khắc vào đêm tối, giọng tụng đều đều vọng ra sau mỗi cữ kinh sớm, kinh chiều. Khung cảnh ấy, mấy ai tin, chùa Múc nhỏ bé giữa đồng không mông quạnh kia lại chính là nơi đi về của những con người đang hiến thân cho sự nghiệp cách mạng. Và, sau dáng vẻ cam chịu, lầm lũi dưới màu áo nâu sồng, mấy ai thấu cho nỗi lòng sư cụ cùng chú tiểu đang ngày ngày giữ lửa. Mỗi sớm, mỗi chiều, những bóng người thoáng ẩn, thoáng hiện sau tán cây thâm u nơi cửa thiền là đốm lửa niềm tin và hy vọng của những người dân đói khổ, cơ hàn.
Trời chuyển về chiều. Những tia nắng cuối cùng của ngày khuất dần. Rặng tre trước mặt như tấm áo khoác khổng lồ ôm ấp, che chở cho làng. Lân và một số thành viên trong ban tuyên truyền xã bộ Việt Minh xã Hội Xuyên đang men theo con đường từ làng Bung sang làng Nội. Tối nay, Ban tuyên truyền xã bộ cùng đội tự vệ chiến đấu có cuộc họp quan trọng. Không biết vị lãnh đạo về dự cuộc họp lần này là ai, nhưng Lân thấy tâm trạng thật phấn chấn. Gần một năm tham gia hoạt động trong Ban tuyên truyền xã bộ Việt Minh và đội tự vệ chiến đấu, Lân khao khát được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Chiều nay, lúc cùng đội tự vệ tập quân sự, Lân và các đồng chí được liên lạc thông báo về dự họp.
Ánh đèn dầu lạc leo lét trong hậu cung chùa Múc khiến gương mặt những người dự họp chập chờn. Bóng người khi sáng khi tối, nhập nhòa trên vách lẫn trong tiếng nói chuyện rì rầm. Từ Tam Bảo, tiếng sư cụ tụng kinh vẫn đều đều vẳng ra. Thi thoảng một tiếng chuông điểm như âm cầm canh, lọt thỏm vào không trung. Ngoài tam quan, chú tiểu vẫn cặm cụi se chiếc chổi lúa, đôi mắt hướng ra khoảng không, nơi bóng tối đang sánh lại như bưng lấy mắt.
Tiếng kinh chìm dần. Sư cụ bước ra. Mùi bồ kết toả ra từ tấm áo nâu sồng sư cụ đang mặc phảng phất không gian. Góc vườn chùa có cây bồ kết già, tốt um tùm, vào mùa chi chít quả. Sư cụ vẫn sai tiểu đồng kèo về, sấy khô trên giàn bếp để giặt quần áo dần. Thoáng thấy bóng thầy, chú tiểu ngẩng lên. Chạm ánh mắt sư cụ, chú bước ra ngoài cổng chùa, nép bên cánh gỗ, nghiêng nghiêng nhìn tứ phía.
Một người đàn ông bước vào. Vóc dáng dong dỏngcủa ông khiến những người đang ngồi chờ họp à lên. Không cần giới thiệu, đều là người trong vùng cả, họ nhanh chóng nhận ra đồng chí Bùi Quang Thông - Bí thư liên xã. Đồng chí là người khá nổi tiếng bởi vốn là người đi nhiều biết rộng. Với những người đã tham gia vào tổ chức bí mật, cái tên Bùi Quang Thông mang lại cho họ niềm tin khá vững chắc. Ông là người cùng cha Lân tham gia tổ chức và phát triển phong trào Phật giáo yêu nước sớm nhất của tỉnh Hải Dương đặt trụ sở tại chùa Giỗ, thôn Phương Điếm (Về bề bậc ông là em con dì ruột của cha Lân), bàn chân ông đã từng đặt lên bậc tam cấp chùa Quán Sứ - Hà Nội, từng giữ vai thư ký báo Đuốc Tuệ của hội Phật giáo xứ Bắc kỳ. Những tiếng xì xầm bật ra:
- Bí thư chi bộ liên xã Hội Xuyên đấy!
Ông Thông cười. Nụ cười của người bí thư chi bộ Đảng đầu tiên liên xã Hội Xuyên lấp loá trong ánh đèn dầu lạc. Tháo chiếc tay nải đặt xuống mép bàn gỗ, đôi tay đan lại, tiếng ông nhỏ, trầm nhưng vang. Ông nói về tình hình thế giới, về những khó khăn trước mắt và lâu dài của cách mạng nước ta, về kết quả cuộc tổng tuyển cử trên cả nước, về các thành viên của Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, về việc tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân để chuẩn bị đối phó với âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa của Thực dân Pháp… Với công việc trước mắt của liên xã Hội Xuyên, cùng anh em xây dựng lịch tập quân sự của đội tự vệ chiến đấu, lên kế hoạch tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân, kế hoạch canh gác phòng gian, bảo mật... Riêng phần tập quân sự của đội tự vệ với các đội viên nòng cốt: Nguyễn Đình Lân, Bùi Quang Sào, Nguyễn Thị Tỉnh, Nguyễn Công Đà... do Nguyễn Đình Khai huấn luyện...
Đêm về khuya càng tĩnh mịch, giọng trầm ấm của ông lan trong không gian, quyện trong hương bồ kết, hoa đại ngoài vườn chùa bén vào. Lân cùng các đồng chí nghe chăm chú. Chặng đường gập ghềnh chông gai với bao công việc phía trước hiện dần. Chính đồng chí Bùi Quang Thông đã giới thiệu Lân đi học lớp cảm tình của Việt Minh bí mật. Nhất định Lân sẽ không phụ lòng tin của ông - người đồng chí, bậc cha chú đáng kính.
Tiếng mõ cầm canh điểm nhịp một. Đêm dần về sáng. Cuộc họp dừng. Mọi người lục tục ra về. Lân thấy lòng rưng rưng. Sương đêm rụng từ tán xoan xuống tàu chuối lộp độp. Không vui sao được khi tại cuộc họp đêm nay, Lân chính thức có tên trong danh sách đi học lớp Việt Minh bí mật của huyện cùng các đồng chí Nguyễn Công Tường, Bùi Quang Sào, Nguyễn Thị Tỉnh... Lớp học tổ chức tại chính ngôi chùa Múc này...
Lân chợt nhớ đến cha. Nếu cha còn sống, biết tin này, chắc ông giáo vui lắm. Hình ảnh khuôn mặt cha tươi rói khi kể cho các con nghe về cuộc đấu tranh của thợ thuyền, người buôn bán nhỏ... để đòi quyền sống những năm trước đó lại hiện về. Nhưng còn mẹ? Người phụ nữ tảo tần chỉ biết thương chồng, lo cho con, không biết mẹ có bằng lòng? Tham gia vào tổ chức Việt Minh bí mật đồng nghĩa chấp nhận đi vào con đường chông gai, lắm nhọc nhằn, nhiều thử thách, có thể hi sinh cả tính mạng, Lân sợ mẹ lo. Anh lại là con trai lớn trong nhà, cha mất sớm, bao hy vọng mẹ đặt cả vào Lân... Nói thế nào để mẹ bớt lo... Nói thế nào để hàng đêm, nếu nghe tiếng súng, tim mẹ không nghẹn lại?... Lân vẫn bước đều, bao lo toan cồn lên nhưng anh tin, với bản chất của bà giáo làng mực thước, yêu nước, mẹ sẽ hiểu, chấp nhận con đường anh đang dấn thân. Và chắc chắn mẹ sẽ là chỗ dựa vững vàng cho anh trên chặng đường đầy chông gai sắp tới cũng như trước đây đã từng là điểm tựa cho cha khi ông tham gia hội kín cùng những người bạn đồng chí hướng.
Đội tự vệ chiến đấu tập quân sự tại bãi đất trống sau đình. Ngôi đình làng cách đây vài trăm năm, cụ Đình Tân - tổ phái của Lân sau khi từ quan về ẩn cư đã cùng một số cụ trong làng lên tận Tuyên Quang mua hàng trăm cây gỗ lim to vòng mấy người ôm về dựng. Hàng cột gỗ sau bao năm lên nước nâu bóng soi gương như chứng tích một thời.
Ngoài Lân, Đà, Tỉnh còn có khoảng gần hai chục nam nữ thanh niên của các thôn Đại Liêu, Đức Phong... Họ chia thành các nhóm, tập chém mã tấu, ném lựu đạn, bắn súng, đánh giặc bằng gậy gộc, dao, kiếm, mác búp đa, xây dựng trận địa mai phục... Ngoài các bài yếu lĩnh cơ bản, họ tập thêm đội hình, đội ngũ, cách ngụy trang giữ bí mật khi chuẩn bị trận địa... Tiếng gậy va nhau lốp cốp. Mấy anh em tập đánh gần đang xáp lại, cánh tay vươn ra, thở hì hụi. Đám cỏ gà, cỏ chỉ bị chân người quần thảo ẹp xuống, nát ra, chuyển màu vàng úa. Thi thoảng, đám bụi mỏng tung lên khi bàn chân miết xuống nền sân, quẩn thành quầng trước khi tung lên cao, tan loãng vào khoảng không trước mặt.
Trên đầu, mây vẫn thảnh thơi bay.
Không khí thật hồ hởi. Tranh thủ lúc giải lao, Tưởng ngồi dạng chân, hí húi lau khẩu súng trường báng dài của Nhật đến bóng loáng. Tỉnh lệt xệt kéo khẩu mút cơtong đến bên cạnh, hích vai Tưởng, chỉ ra phía Lân. Nhìn ra chỗ Lân đang lúi húi ôn lại cách ngụy trang khi đào hầm bí mật, Tưởng toét miệng cười. Từ phía sau, Đà bước tới, áo cánh nâu vắt lệch một bên vai, vỗ bộp vào vai Lân, cười giòn tan:
- Xong chưa? Tuần sau đi học rồi. Thế là chú mày thành nòng cốt của Việt Minh bí mật!
- Vâng! Em đang cố đây. Không thầy đố mày làm nên. Mình phải học để biết chứ. Cứ tự mầy mò thế này, chẳng khác nào người đi trong đêm tối mà không có đèn.
- Cố đi chú mày. Chiều nay đi đánh dậm ở con ngòi làng Chằm Tó, tao nghe người ta nói nhiều về quân Pháp lắm. Nó chắc chẳng chịu yên đâu. Nó quay lại hất cẳng thằng Nhật rồi. Không chóng thì chầy nó cũng quay lại đây thôi. Mẹ cái thằng giặc Pháp, khi Nhật lùn đến thì co vòi mất hút, nay núp gấu váy quân đồng minh thì lại ra vẻ vênh vang. Bố khỉ cái thằng Anh cũng đểu, mang tiếng đồng minh đồng mố mà bẩn, rõ là bản chất của bè lũ đế quốc, thực dân. Anh em mình phải chuẩn bị để nện cho nó tối tăm mặt mũi vào...
- Em học khoảng dăm bảy ngày thôi anh ạ... Nào, tiếp tục... Lân kéo Đà chạy ra bãi đất trống cùng mọi người. Tiếng đội trưởng oang oang:
- Mọi người chú ý. Tới đây công việc ngập cổ. Đội mình phải tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình của bà con, vừa để thêm lực lượng nhưng chủ yếu là để bảo vệ vòng ngoài. Tối tối, phải tổ chức canh gác phòng gian bảo mật và chuẩn bị kháng chiến lâu dài đối phó với bọn Pháp khi chúng quay lại xâm lược nước ta.
- Báo cáo đội trưởng, phải chuẩn bị kháng chiến thế nào? Chẳng lẽ chỉ với mấy khẩu mútcơtong, vài khẩu súng trường, dăm ba quả lựu đạn cùng mã tấu, gậy gộc à?
- Ta sẽ từng bước chuẩn bị, vũ khí rồi sẽ có...
- Vũ khí có được bằng cách nào?
- Trước mắt mình tự tạo vũ khí, chiến đấu bằng những gì sẵn có trong tay. Sau đó sẽ kiếm vũ khí từ chính quân Nhật, quân Pháp chứ... Lấy súng giặc bắn vào đầu giặc cơ mà. Ngoài ra, cũng cần chuẩn bị về chính trị. Đấu tranh trên mặt trận chính trị quan trọng chả kém gì đánh đấm với chúng nó đâu... Mà các cậu không nghe rõ bí thư liên xã giảng à, không vũ khí gì thay thế được sức mạnh lòng dân, có dân ta có tất. Điều này rất cần tới những người trong Ban Tuyên truyền xã bộ đấy.
Lớp học cảm tình Đảng của huyện Gia Lộc do Việt Minh bí mật tổ chức tại chùa Múc. Đồng ruộng ba bề bốn bên mênh mang. Khu nhà giải vũ nằm khuất sau một tán cây lớn. Hàng cột lim kê chân bằng những phiến đá xanh tròn nhẵn, xung quanh được chạm khắc tinh xảo hình đài sen vững chãi. Chỉ thị của Đảng trong thời điểm hiện tại, đường lối, sách lược trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của dân tộc ta trong thời gian sắp tới… Tất cả được Lân và đồng đội anh háo hức đón nhận. Gương mặt người cán bộ giảng bài dẫu đã được giấu kín trong tấm khăn đen nhưng giọng nói ấm áp, truyền cảm vẫn gieo vào lòng Lân niềm tin tất thắng vào tương tai tươi sáng của cách mạng. Không một ai trong lớp học nói ra, nhưng mỗi người đều hiểu, công cuộc kháng chiến còn đầy chông gai và gian khổ. Qua những cuộc mít tinh, biểu tình của bà con buôn bán nhỏ tại chợ Cuối, những người nông dân khốn cùng trong các xã Gia Lộc hàng ngày diễn ra trên mảnh đất này cũng khiến các anh nhận ra. Không khí cách mạng hừng hực khắp nơi. Không chỉ có tự vệ chiến đấu, mà thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, cả các cụ phụ lão, các em thiếu nhi cũng hồ hởi tham gia công cuộc cách mạng này. Cả làng Bung nhỏ bé của Lân đã như lò lửa khổng lồ. Lò lửa ấy được hun đúc từ khổ đau của người dân khi đã thấm thía nỗi nhục của người dân mất nước. Lò lửa ấy là nỗi cơ cực từ những tháng ngày vật lộn qua cơn đói khủng khiếp tháng ba năm trước, là bao tủi hờn chất chứa khi chính tay mình phải nhổ bật gốc những khóm lúa mỡ màng đang thì con gái trước đôi mắt hả hê của đám lính Nhật, từ bao xót xa đau trước cái chết oan ức của bao người. Và cái lò lửa ấy đang chờ dịp ụp xuống đầu quân xâm lược khi chúng dám một lần nữa trở lại mảnh đất này.
Những thông tin chiến sự từ khắp nơi bay về càng làm sức mạnh và nỗi hờn căm của người dân nơi này như sức nóng ủ kỹ trong nắm rơm con cúi, chỉ cần hơi thổi khẽ đã bùng lửa. Khắp hang cùng ngõ hẻm, người dân dừng gánh hàng ngoài cổng chợ để nghe nội dung hiệp định sơ bộ mồng sáu tháng ba Hồ Chủ tịch đã ký nhằm hòa hoãn với thực dân Pháp. Người ta chống cuốc, ngừng giục trâu, bật lên tiếng chửi khi ai đó kể sự ngông cuồng của quân Pháp khi chúng nổ súng chiếm Lạng Sơn, ngang nhiên cướp bóc ngay trên đường phố Hà Nội. Đám đông tụ lại nghe tin chiến sự ở đầu làng, đầu phố Giỗ mỗi lúc một đông. Có người đang vác cày trên vai, nghe chuyện bọn Pháp gây hấn, ngang nhiên đánh giết dân lành tại phố hàng Bún đã nghiến răng quăng chiếc cày xuống đất. Nỗi căm hận bật thành tiếng tiếng chửi:
- Mẹ nó. Đánh chết cha nó đi chứ sao lại nhún để chúng hoành hành thế được. Hoà hoãn vừa ký, chửa ráo mực nó đã giở mặt như thế, không có nhẽ mình cứ nhịn mặc nó ngang dọc thế sao? Không việc gì phải nhũn nhặn, tử tế với lũ chó ấy, cứ choảng bỏ mẹ nó đi. Có cái gì choảng bằng cái ấy… Giờ nó lại còn đòi giải tán chính phủ, giải tán tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát thủ đô… Giao, giao cái con bòi ông đây này. Đánh chết cha nó đi.
- Phải đấy. Đánh! Đánh cho tới nơi tới chốn đi chứ. Đánh cho nó hết đường về nhận họ… Giết hết bảy đời cha ba đời ông cái giống ăn cướp ấy chứ hòa là hòa thế nào? Hòa hiệp với quân chó cùn cắn giậu ấy sao được… Nhất định là không!
Khổ cho cái cày chìa vôi. Đang đâu bị quăng xuống đường, láng đi một đằng, vai văng một nẻo. Đám người đang đứng ồ lên tán thưởng, đồng tình với người nông dân nọ. Những cánh tay vung lên. Giá lúc này, tên Pháp nào vô phúc có mặt ở đó, có lẽ sẽ không giữ được dẻ xương nào nguyên lành.
Mong ước của người dân làng Bung và người dân nước Việt được đáp lời. Đêm 19 -12-1946, tiếng kèn xung trận của người Việt Nam cất tiếng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch đã điểm. Người dân làng Bung, huyện Gia Lộc nói chung xung trận.
Mười ngày cuối tháng mười hai năm bốn sáu, trên đường 17, từng đoàn người không kể trẻ già, trai gái, đêm ngày tiêu thổ kháng chiến, chặn bước tiến của quân xâm lược. Tiếng cuốc, tiếng choòng bổ xuống mặt đường chát chúa. Hờn căm dồn xuống đôi tay, bổ từng nhát chắc nịch. Con đường lở loét dần. Những rãnh hào lắt léo chữ chi, cắt mặt đường thành nhiều hình thù quái dị. Nhiều ụ đất, con chạch dài hàng vài kilômét nằm chềnh ềnh, án ngữ. Đây đó, ở vài đoạn, dân còn lấy bùn ao trộn với rơm rạ đắp thành đống trên đường, ngăn xe địch. Từ đoàn người đang phá đường, ai đó hò mọt tiếng:
- Ai biết hò hò đi. Hò cho đỡ mệt mà làm chứ..
Chẳng phải đợi lâu, một giọng nữ cao vút cất lên:
"Nhà em con bế con bồng/ Em vẫn theo chồng đi phá đường quan/ Đường đi lắt léo chữ chi/ Hố ngang, hố dọc chữ i, chữ tờ".
Tức thì, giọng nam trầm tich nghịch tung trở lại:
"Cô kia đào đất một mình/ Cho anh đào với chung tình làm đôi/ Cô còn đào nữa hay thôi/ Cho anh đào với làm đôi vợ chồng".
Tiếng rúc rích to dần:
- Đối trả đi. Câu nào hóc một tí…
- "Em là con gái kẻ mơ/ Em đi đào đất tình cờ gặp anh/ Làm trai đừng vướng quang chành/ Anh đào, em đắp, ta giành đánh Tây"
- Con nào đối khá đấy. Đúng là gái làng mình. Tiếng trầm trồ khen ngợi lao xao. Không thấy đám nam lên giọng nữa. Cô nàng vừa đối chờ mãi không thấy bên nam đáp lời, cất giọng bâng quơ:
"Thằng Tây chớ cậy xác dài. Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày/ Thằng Tây chớ cậy béo quay/ Mày thức ba buổi là mày bở hơi/ Chúng tao thức bốn đêm rồi/ Ăn cháo ba bữa chạy mười chín cây/ Bây giờ tao gặp mày đây/ Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao".
Tiếng cười lại lan ra. Ai đó vóng vót:
- Bắt nó hàng làm quái gì. Tốn cơm nuôi ăn. Cứ là "bọp" một phát cho rảnh tay.
- Đúng đấy. Nhiều nơi đánh ác lắm rồi. Quân ta quấy nhiễu suốt ngày đêm. Lũ chúng nó sống được trên đất mình cũng toi mả cha thằng bá họ.
Chiến tranh ngày một lan rộng. Chính quyền cùng nhân dân ra sức củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Gia Lộc lúc này là nơi tiếp giáp và trực tiếp chịu sự uy hiếp của quân địch đã phát triển lực lượng tự vệ tới tận thôn, xã. Đội tự vệ làng Đức Phong hoạt động mạnh. Không chỉ luyện tập, công tác phá hoại cản địch tiến quân cũng được đội tự vệ thực hiện triệt để với sự giúp sức của dân.
Để dân hiểu và ủng hộ các chính sách của Đảng, Ban thông tin tuyên truyền xã bộ Việt Minh được thành lập. Quyết định này là sự nhìn nhận thấu đáo vai trò của công tác tuyên truyền, sức mạnh của mặt trận đấu tranh không tiếng súng. Để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao ấy, Ban thông tin tuyên truyền liên xã tập hợp những người phải có trình độ văn hoá nhất định, có khả năng vận động, thuyết phục. Lân được giao chịu trách nhiệm chính trong Ban thông tin tuyên truyền này. Sát cánh bên các đồng chí như Thịnh, Thoại, Bạ, Tỳ… cùng chiếc loa tay tự tạo, Lân đã đưa nhiều chủ trương, chính sách đến với người dân, giúp dân ổn định tư tưởng, giữ vững niềm tin theo Đảng.
CHƯƠNG III
Nắng quái chiều gắng gượng, len lỏi, trùm những vạt cuối cùng lên mái nhà tranh thấp thô dưới lùm cây. Đám cành tre khẳng khiu xơ xác, cuối thu đầu đông trút hết manh lá mỏng, giơ lên trời như họa sĩ già giơ tay vạch vài nét chán chường. Thực dân Pháp đã chiếm đóng Hải Dương. Sau thời gian ngắn củng cố lực lượng, chúng chuẩn bị đánh nống ra khu xung quanh. Huyện uỷ Gia Lộc nhận định tình hình và khẳng định, Gia Lộc không nằm ngoài mục tiêu chiếm đóng của quân Pháp. Làm thế nào để củng cố nhanh lực lượng, tích lũy vũ khí đủ sức đánh lại chúng. Nghị quyết của Huyện uỷ lập tức được triển khai tới đảng viên. Cả làng Bung như ngồi trên chảo lửa.
Đêm. Một đêm cuối tháng mười hai năm bốn sáu. Cuộc họp của đảng viên tại đình Đức Phong vẫn chưa kết thúc. Thi thoảng tiếng chó cắn ma từ rìa làng eo óc vọng vào. Ánh đèn vàng nhờ càng khiến những gương mặt cương nghị đanh lại. Nghị quyết của huyện uỷ chỉ đạo đã rất rõ ràng. Âm mưu của Pháp đã phần nào lộ rõ. Khuôn mặt đồng chí bí thư chi bộ cương nghị, giọng ông trầm ấm:
- Các đồng chí. Thời gian qua, tự vệ ta đã ép địch mạnh tại vùng ven thị xã. Mấy ngày gần đây, quân Pháp đã đánh nống trận đầu tiên xuống đường mười bẩy. Cuộc tấn công này vừa để thăm dò lực lượng vừa chặn sức ép của quân ta vào phía Nam thành phố Hải Dương. Sau trận đánh thăm dò hôm trước, ngay hôm sau một đại đội lính ngụy của Pháp đã giả làm người tản cư trà trộn vào dân, lợi dụng đường mười bẩy, thọc sâu xuống Thạch Khôi. Đại đội cảnh vệ chống càn ở Thạch Khôi chiến đấu căng, diệt tại chỗ mười tên. Nhưng do ta bị bất ngờ, chúng vào gần trận địa mình mới phát hiện ra nên quân ta chống trả rất khó khăn. Một đồng chí đại trưởng và mười hai chiến sĩ ta hy sinh. Tổn thất ấy không hề nhỏ. Hiện nay địch đã chiếm được Thạch Khôi. Đức Đại - Nghĩa Hưng ta nằm trên vị trí chiến lược này, nhất định chúng không bỏ qua. Ta cần chuẩn bị thật chu đáo, nện một đòn phủ đầu cho chúng choáng váng. Và, để tránh những tổn thất mà đại đội cảnh vệ ở Thạch Khôi đã vấp phải, ta cần chủ động lập vành đai chiến đấu. Nhất định phải giành thế chủ động ngay từ trận đầu.
Quay sang đội trưởng du kích, bí thư chi bộ nghiêng đầu:
- Vũ khí trong tay ta hiện thế nào?
- Báo cáo, cơ số súng đạn ta có quá ít. Ngoài mấy khẩu tiểu liên, có thêm hơn chục lựu đạn. Còn lại chỉ có mã tấu, mác búp đa tự tạo…
- Vũ khí ta có trong tay mỏng quá… Bí thư chi bộ trầm ngâm. Thế này thì ta khó có thể đánh vỗ mặt chúng được.
- Không đánh vỗ mặt thì ta chơi kiểu của ta. Cứ cò con tắc bọp… Nổ phát nào chắc phát ấy…Diệt dần…
- Đành thế, nhưng có lúc mình không thể tắc bọp được chứ. Nó đâu lúc nào cũng phơi thây cho mình tắc bọp đâu. Gì thì gì, ta vẫn phải sẵn sàng. Súng đạn ta ít… Ta có sức mạnh lòng dân. Đồng chí Lân - Ánh mắt bí thư hướng về phía Lân đang ngồi bên cửa - Là trưởng ban Thông tin tuyên truyền của xã, đồng chí cần có kế hoạch thật cụ thể, tuyên truyền cho dân rõ tình hình hiện nay. Chỉ khi nào tường tận mọi việc, bà con mới chủ động cùng các lực lượng chuẩn bị đánh Pháp. Công việc kíp lắm rồi, các đồng chí chuẩn bị, chủ động tác chiến.

Tiết đầu xuân, khi cơn mưa phùn ẩm ướt còn giăng mắc, dùng dằng như cô gái nán hội thì khắp mặt trận Bắc Bộ, thực dân Pháp đã hối hả triển khai kế hoạch đánh chiếm. Người dân dọc đường Năm, bên những sông lớn ngày càng gặp nhiều toán lính Âu - Phi qua lại. Chẳng mấy lúc, mảnh đất hiền hòa được mệnh danh là "phên dậu phía đông" kinh thành Thăng Long tràn ngập các sắc lính đánh thuê cho quân đội Pháp. Nước da đen cháy, bộ dạng nghều ngào, hàm răng trắng ởn của bầy lính là nỗi thấp thỏm, lo lắng kinh hoàng của người dân.
Tháng hai năm bốn bẩy, cậy có quân tăng viện, địch ráo riết phản công trên khắp mặt trận Bắc Bộ. Một trong những mục tiêu chính của chúng lúc này là kiểm soát các tuyến giao thông huyết mạch, nhất là tuyến Hà Nội - Hải Phòng và các tuyến vành đai. Khống chế được các tuyến đường, chúng sẽ thực hiện bằng được chiến dịch vận tải chiến lược trên bộ, tập trung đè bẹp sự kháng cự của quân ta.
Cũng thời gian này, quân Pháp từ thị xã Hải Dương tiến đánh bắc Gia Lộc. Tình hình ngày một nguy cấp. Tỉnh đội Hải Dương được thành lập nhằm củng cố và phát triển lực lượng vũ trang. Các huyện đội nhanh chóng ra đời. Tại thôn, xã, tự vệ chiến đấu chuyển thành đội du kích. Nam nữ công dân tuổi từ mười tám đến bốn mươi lăm được xét vào dân quân.
Hoạt động của ban Thông tin tuyên truyền bước vào giai đoạn mới. Mớ công việc cần làm ngay dồn lên lút cổ khiến Lân và các đồng chí trong ban không còn thời gian riêng cho mình. Tình hình chiến sự căng thẳng, vũ khí được trang bị quá mỏng, ta chủ yếu đánh địch bằng hình thức vũ trang tuyên truyền. Bao việc bầy ra trước mắt: Nào soạn lời tuyên truyền chế độ, chính sách mới của Tỉnh ủy, Huyện ủy; Kẻ vẽ khẩu hiệu; Nào chuẩn bị nội dung cho các cuộc mít tinh của bà con, rồi tham gia tiêu thổ kháng chiến… Tất cả nhằm tập trung chống lại âm mưu thâm hiểm của địch bởi khi chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh thất bại, địch trở mặt xúc tiến chiến tranh với thủ đoạn mới: "chia rẽ quốc gia", "chia rẽ dân tộc". Chúng lập "chính quyền bù nhìn tay sai phản động ở địa phương", điên cuồng đánh phá cơ sở kháng chiến, triệt để khai thác "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Đáp trả thủ đoạn đê hèn ấy của quân Pháp, ban Thông tin tập trung mọi phương tiện đưa đường lối "Chiến tranh nhân dân, phương châm đánh lâu dài, tự lực cánh sinh, vừa chiến đấu vừa bảo toàn, xây dựng lực lượng vũ trang nhất là dân quân du kích, chủ động chống càn, tập trung vào công tác địch vận, bảo vệ vùng tự do, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ lực lượng kháng chiến…" đến với nhân dân. Chỉ với những chiếc loa tay tự tạo, Lân cùng đồng đội đã lăn mình vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đang lụi cụi chuẩn bị nội dung thông tin cần tuyên truyền cho bà con trong buổi chiều, Lân giật mình khi bóng anh Bạ thoáng qua cây cầu đá ngoài con ngõ nhỏ. Vừa bước vào cổng, nhảy ba nhảy tới góc sân Lân đang ngồi, anh Bạ rút vội mảnh giấy nhỏ:
- Tớ sợ về muộn, không kịp cho chú mày làm bản tin chiều nay. Tin nóng nhất đây. Liên lạc vừa chuyển trong kia về đấy…
Lân dán mắt vào mảnh giấy. Những dòng chữ nhảy nhót trước mắt anh. Điều anh và đồng đội bán tín bán nghi những ngày qua đã xảy ra. "Chúng quyết diệt mình đây" - ý nghĩ ấy ập đến, anh mím môi. Lân đọc lại mảnh giấy lần nữa. Chỉ thị của huyện uỷ đã rất rõ ràng. Quay sang, anh Bạ đang nhìn chăm chắm vào Lân, nửa như chờ đợi, nửa như mừng rỡ:
- Chỉ thị mới toanh, phải không chú mày? Anh em ta phải làm gì bây giờ?
- Mình có việc rồi. Anh tập hợp anh em đi, chúng ta hội ý, chuẩn bị ngay mới kịp. Mẹ cha chúng nó, chưa qua cái "Tầm thực", giờ lại tới "Vết dầu loang". Lũ khốn kiếp sắp mò đến rồi đấy.
- "Loang" à? Loang đến đâu, chúng ông lau khô đến đấy, để xem chúng mày loang cách nào - Anh Bạ nghiến răng, cứ như thầy tớ quân Pháp đang đứng trước mặt…
- Không đánh nhanh được mình thì nó giở trò đánh lấn, định lây lan cái thối tha giòi bọ của chúng sang mình. Gói gọn lại, mục tiêu của cái "Vết dầu loang" này là nó tập trung chiếm dần vùng tự do của ta, mở rộng địa bàn hoạt động của nó thôi. Anh đi gọi anh em đi. Mình phải tổ chức tuyên truyền ngay sáng mai, tại chợ Cuối, để bà con biết mà chuẩn bị đối phó - Lân đứng dậy, với cái khăn mặt vắt vai, cầm loa tay, bước ra ngõ cùng Bạ.
Sau nhiều cuộc hành quân càn quét dã man có tính thăm dò của Pháp, huyện uỷ Gia Lộc được lưu ý, chuẩn bị tất cả chống địch càn rộng, khả năng chúng sẽ chiếm đóng lâu dài nhất là các vị trí chiến lược của Gia Lộc. Mọi điều kiện có thể đều được dành tất cho chống giặc chiếm đóng. Bộ phận thông tin tuyên truyền chạy như con thoi. Vừa thoáng thấy bóng các anh ở làng Bung, chỉ một loáng đã thấy tiếng loa tuyên truyền bên làng Giỗ. Nhân dân bắt đầu đóng gói đồ đạc, chuẩn bị tản cư kháng chiến, thực hiện "vườn không nhà trống" tận gốc. Những gì mang đi được thì mang, không mang được, dân tháo dỡ, chôn xuống đất. "Tiên sư mày, cha con thằng Pháp, đồ của tao, tao cứ chôn xuống đây, khi nào mày rũ xương, tao quay về sẽ lại có cái dùng. Còn giờ, tao nhất quyết không để lại dù cuống rau thừa xem cha con nhà mày lấy gì sống mà đi ăn cướp?". Lân đã phì cười khi nghe một cụ ông vừa dìm mớ chum, vại, bình, nậm, cột nhà xuống góc ao, vừa hỉ hả nói với vợ con mà cũng là nói với chính mình. Thật là những câu gan ruột.
Tờ mờ sáng. Lớp sương sữa còn phủ dầy mặt đất. Tiếng súng, tiếng xe xích chạy từ phía Bắc ầm ì vọng lại. Phía trung tâm Gia Lộc, tất cả vẫn im ắng như thường. Đứng trong căn nhà tuềnh toàng, Lân nhận rõ sự tĩnh lặng giữa khung cảnh làng quê. Nó không khác vẻ tĩnh lặng trước cơn giông lớn. Cũng cái ngột ngạt oi nồng, cũng những âm thanh ầm ì từ xa đưa lại. Có chăng, nét khác biệt chỉ là trước cơn giông, khi bầu trời vần vũ những mây đen thì lúc này, bình minh lại đang ló rạng. Trên đường chân trời phía đông, những tia dẻ quạt từ màu cam chuyển dần sang màu hồng phấn, lách mình qua đám sương sữa, ngập ngừng rót xuống cánh đồng. Vậy mà… Chỉ chút nữa thôi, bàn tay bẩn thỉu của bọn xâm lược Pháp sẽ xé tan tất cả.
Tiếng xe xích ngày một gần. Đội du kích của làng sát cánh bên cạnh bộ đội tỉnh, huyện. Họ đã sẵn sàng đập trả lại đội quân ăn cướp.
Bánh xe xích đã nghiến trên mặt đường ầm ầm. Ken két, hừng hực rồ lên rồi thở hồng hộc. Âm thanh ấy dễ khiến người ta nghĩ tới thân hình phì nộn của con quái vật đang trườn qua mảnh vườn mỡ màu. Tất cả những gì non mởn phía dưới khi tấm thân ghê tởm của nó đi qua đều trở nên nhàu nát, tan tành.
Sau trận moocchê bắn phủ đầu dọn đường từ chiều hôm trước, khắp đường làng, những hố đất mới bị đại bác vật lên, lớp đất màu trên mặt bắn tung toé, chỉ còn mẻ đất gan gà bị cày lật sấp từ dưới, nằm trơ trên miệng hố. Nhiều thân cây bị đạn tiện, ngọn cây gục xuống như người bị chặt đầu. Hai bên đường, trong các mảnh vườn, chuối đổ ngổn ngang như vừa qua trận bão lớn. Thân chuối bị đốn ngang, chỗ vết chém, nhựa ứa ra, thâm xỉn lại. Suốt từ chiều qua, dân các làng quanh thị trấn Gia Lộc ùn ùn sơ tán xuống khu dưới. Moóc chê thổi tốc rạ trên mái nhà, quăng bừa bãi xuống ao bèo. Tường nhà sụt lở nham nhở. Vài cánh cổng khép hờ, chiếu lệ. Mặt đất im lìm. Một con chó gầy nhẳng, lạc chủ, lơ láo nhìn quanh rồi ệp người lủi vào bụi duối dại, đuôi cúp chặt giữa hai chân sau.
Chiếc xe xích đi đầu như con bọ hung khổng lồ lừ lừ bò trên đường mười bẩy tiến vào thị trấn. Tiểu liên dải từng băng. Súng trường nổ phát một, đĩnh đạc. Chạm vào vành đai chiến đấu đầu tiên của bộ đội tỉnh, chiếc xe sững lại. Sau vài giây nghiêng ngó nghe ngóng, từ cái họng đen ngòm của nó, lửa khạc ra, đỏ như thép nung trong bễ lò rèn. Phía sau, bọn lính Pháp tiểu liên lăm lăm, nhả từng băng dài vào những điểm chúng nghi vấn.
Bộ đội, dân quân của ta vẫn kiên trì bám trụ. Đạn cối của địch tuôn như mưa. Vũ khí quân ta quá mỏng. Tiếng súng trường ta nổ dẫu có chắc nịch cũng không át được súng cối, súng tiểu liên địch quét như vãi đạn. Không dễ gì tiếp cận để đánh gần, ta không thể sử dụng mã tấu, mác búp đa chiến đấu với chúng. Các cánh quân ta được lệnh rút lui. Trận này địch cũng chỉ càn thăm dò. Bộ phận thông tin tuyên truyền được triệu tập chuẩn bị triển khai nhiệm vụ mới.
Quanh ngọn đèn dầu lạc, những gương mặt sạm lại sau bao ngày bám trụ chiến đấu với giặc. Bạ đang thiu thiu ngủ, đầu gục trên hai đầu gối kê lại. Tỳ đang ngửa cổ vê vê cái cằm đã mấy ngày không nhổ, râu đâm tua tủa. Chờ anh Thoại, Thịnh với ba bốn anh em khác đến, ban thông tin tuyên truyền sẽ họp.
- Ghê thật. Đánh nhau với bọn nhà giàu tức như bò đá. Mình thì tiết kiệm từng viên đạn một, nó thì chỉ cần thấy một cọng cỏ động đậy là vãi hàng băng. Phải nghĩ cách khác mới choảng nhau với chúng lâu dài được. Đánh kiểu này, nó nghiền mình ra cám như bỡn… Thoại vừa rũ rũ hai ống quần nâu sũng nước, vừa bước vào, nói oang oang. Bạ giật mình, ngẩng lên, hai mắt đỏ sọng:
- Bố cu đi đâu mà giờ mới mò về? Chờ sốt cả ruột.
- Thì ông cũng ngáy như kéo gỗ còn gì… Tôi tranh thủ đảo qua nhà xem mẹ con nhà hĩm còn để sót gì lại thì cất nốt đi. Mình phải thực hiện đường lối trước đã chứ, không thì tuyên truyền vận động được ai, phải không Lân?
- Ngáy ngó gì đâu. Tranh thủ gà gật tí thôi. Mấy ngày rồi, chúng đánh rát rạt, ngủ được cũng khó. Với bọn này á, mình cứ phải chơi cái kiểu cò con, giết ngấm từng thằng một mới chắc, chứ dàn quân thế này, không được…
- Thôi, không tán nữa mấy bố… Ta bắt đầu nào… Lân đứng dậy - Theo chỉ thị của huyện uỷ, bằng giá nào thằng Pháp nó cũng chiếm và đóng quân tại Gia Lộc, vì có chiếm được Gia Lộc nó mới bảo vệ được căn cứ ở phía nam Hải Dương và mở rộng xuống xung quanh. Lực lượng của ta quá mỏng, vũ khí thô sơ, trên đã chỉ thị rút các đơn vị chiến đấu về khu căn cứ kháng chiến nhằm bảo toàn lực lượng, thực hiện chủ trương trường kỳ kháng chiến của Đảng… Nghe Lân triển khai chỉ thị của cấp trên, gương mặt của anh em ngồi quanh dãn ra. Đảng chỉ thị đúng bụng họ quá. Chỉ có trường kỳ kháng chiến, đánh lâu dài mới thắng được đội quân xâm lược này. Tiếng Lân vẫn điềm đạm:
- Công việc cụ thể của chúng ta như sau…
Hơn chục mái đầu chụm bên ngọn đèn. Bàn tay Lân xoay đều bản kế hoạch đã vạch sẵn. Những ánh mắt nheo lại. Tập vết nhăn trên trán mọi người co vào, dãn ra như quạt giấy xếp nếp. Rồi tất cả à lên, gật gù tán thưởng. Không ai có ý kiến gì thêm. Gấp tờ giấy làm tư, Lân cả đội một lượt:
- Nếu mọi người không ý kiến gì thêm, các đồng chí lưu ý phần việc của từng người, trong lúc thực hiện, nhất nhất phải có sự thống nhất trong tập thể… Nếu địch chiếm và đóng quân tại đây, chúng ta phải xây dựng một kế hoạch mới vừa để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vừa quấy rối địch, góp phần làm nhụt ý chí của hàng ngũ binh lính địch…
- Ý kiến của đồng chí Lân rất hay - ông Tỳ đứng dậy - Nhất định ta sẽ tương kế, tựu kế với địch. Nhưng còn ý kiến riêng này nữa… Bên làng Giỗ có cô gái tên ở nhà là Chắt con. Dáng dong dỏng, da trắng, mặt tròn, hoạt động rất hăng trong phụ nữ cứu quốc… Không biết liệu đồng chí Lân có cần anh em chúng tôi tuyên truyền cho nữ đồng chí này về với trưởng ban thông tin hay không đây?
Nghe ông Tỳ nói (Về mặt họ hàng Lân phải gọi ông Tỳ là cậu họ gần), Lân bất ngờ. Chuyện anh có ý riêng với Chắt con không dè mọi người biết cả. Mặt Lân đỏ dần lên. Dưới ánh đèn nhập nhoà, chẳng biết anh em có thấy hay chỉ đoán già đoán non mà tất cả đều phá lên cười:
- Thôi, không đùa nữa, kẻo lại cháy áo người khác bây giờ. Xấu hổ, đỏ đến tận chân tóc mai rồi. Diễn thuyết trước hàng trăm bà con dân làng thì cứ trơn như cháo chảy, sao nói đến chuyện kỉa kìa kia lại ấp úng thế hả Lân? Ông Tỳ vẫn chưa tha - Nếu không nói được, để chúng tao sang nói đỡ… Nhưng… ối… ông Tỳ nghiêng người, né cái véo của Lân… Hì hì, con bé ấy được đấy, gia đình rất cơ bản, lại hăng hái hoạt động với phong trào. Được cả nết lẫn người như thế, hơi bị khó kiếm… Quả là tinh mắt… thôi, anh em mình rút, để trưởng ban Lân còn lơ mơ tới … người trong mộng một tí…
Ngọn đèn bỗng nhảy nhót như đùa nghịch. Khuôn mặt Chắt con lại trở về, rõ ràng như đang đứng trước Lân. Chưa ai nói với ai lời nào, mới chỉ ánh mắt gặp ánh mắt trong những buổi diễn thuyết và hội họp đoàn thể. Không biết cô ấy có hiểu cho lòng mình. Lân tự nói rồi thở dài. Chiến tranh, đạn bom mù trời, không biết nếu nghĩ tới hạnh phúc riêng lúc này có phải là ích kỷ. Nhưng anh tin, với người con gái đã dám gạt bỏ khó khăn gian khổ đi theo cách mạng như Chắt, với những gì cô ấy đã lăn lộn, đóng góp cho phong trào, họ sẽ tìm thấy hạnh phúc riêng trong cuộc kháng chiến chung. Nhất định hạnh phúc của họ sẽ đơm hoa kết trái trong ngày vui chiến thắng. Ngày mai, Lân sẽ gặp được Chắt con. Anh tin thế. Trong trái tim của chàng trai làng Bung lúc này, có con chim xanh đang hát. Nó hát khúc tình ca về tình yêu lứa đôi, về quê hương đất nước, về niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến mà anh và bao người thân yêu đang hiến mình.
Ngoài thềm, ánh trăng suông lênh láng tãi xuống. Đêm yên tĩnh, rộng thênh tưởng chừng vô tận. Nghe thấy cả tiếng hạt cỏ trồi mầm giữa lớp đất vườn trong đêm khuya. Giá cuộc sống cứ bình yên thế này! Niềm ao ước từ đâu bỗng vụt về.
Oàng, ùng, oàng… Tăng… Xình! Tiếng moocchê từ phía Hải Dương bất ngờ vọng đến. Tiếng moocchê như bàn tay đồ tể xé toạc tấm màn nhung tĩnh lặng, mát rượi của đêm. Tiếng moocchê phũ phàng của địch nhắc Lân về công việc cho một ngày mới, về cuộc chiến đấu không cân sức của anh và đồng đội với kẻ thù.
Sau nhiều trận điên cuồng càn quét, tấn công thăm dò, trung tuần tháng mười năm bốn bẩy, Pháp lập chi khu quân sự Phương Điếm. Đình làng Phương Điếm uy nghi với những hàng cột lim loáng màu thời gian, những bức chạm trổ tinh xảo bởi bàn tay người thợ xứ Đông tài hoa, chăm chỉ. Mái ngói mũi hài đẫm màu rêu phong, thấp thô như chạm dấu ấn bao đời người nơi này. Vậy mà chỉ trong buổi sáng, quân Pháp dùng xe ủi san phẳng. Nước mắt người Phương Điếm chảy ngược vào trong. Nhiều đôi mắt trân trối nhìn hàng cột lim đổ gục, những xà ngang, đòn tay, vì kèo ụp rầm rầm trên mặt đất. Xích xe nghiến tre gỗ, gạch ngói vụn như xương gẫy. Người Phương Điếm nghiến răng, chất chứa thù hận. Nhất định quân Pháp sẽ phải trả giá cho những gì chúng đang gây ra trên mảnh đất này. Chúng dám động tới cả nơi tôn nghiêm của các bậc thánh thần, nhất định chúng sẽ phải đền tội. Cháu con các ngài sẽ đòi chúng món nợ truyền kiếp ấy .
San phẳng đình Phương Điếm, quân Pháp lập boong ke, đồn bốt. Như đàn bọ hung lúc nhúc, hàng ngày chúng xua lính lôi gạch, đá, xi măng, sắt thép đến vứt ngổn ngang. Hệ thống boong ke, hầm ngầm như con rết hiện dần trên nền đình Phương Điếm - tên tục là làng Giỗ nên dân quanh vùng quen gọi bốt Giỗ. Một loạt hầm ngầm hai nấc, tầng thứ nhất thiết kế bởi một boongke hình bát giác, rộng vài chục mét vuông, chìm dưới lòng đất. Tầng thứ hai vẫn bố trí một hình bát giác con, nhỏ hơn, các cạnh lệch với cạnh hình bát giác mẹ một góc khoảng sáu mươi độ. Cái bát giác con này nhô cao, tám mặt đều có những ô cửa vuông thông ra bên ngoài, vừa làm lỗ thông khí, vừa là nơi quan sát. Trên cùng, lính Pháp đặt những ụ súng máy, đại bác các cỡ, có tầm bắn và khả năng sát thương khác nhau. Chẳng biết những boong ke này được chúng xây kiểu gì, chỉ thấy vỏ ngoài của bốt Phương Điếm như bộ da của con rắn khổng lồ chuyên nuốt người trong các câu chuyện cổ. Nó sần sùi, nửa đen thô tháp, nửa xám xịt. Chính cái vẻ sần sùi, thô ráp kinh khủng ấy luôn khiến người ta có cảm giác đầy len trong cổ họng khi không may vô tình chạm bàn tay lên bộ da gớm ghiếc của hệ thống lô cốt này. Bên ngoài lô cốt, chúng cho rào dầy bằng hàng rào, dây thép gai chống đột nhập. Đây là nơi lính Pháp cố thủ, nơi sinh hoạt, tích trữ lương thực, vũ khí phục vụ mọi hoạt động của chúng. Khoảnh đất rộng mấy nghìn mét vuông đất đình làng được dựng một loạt lô cốt nối tiếp nhau. Chiếc thứ nhất nằm phía Tây khu đất, án ngữ con đường 192 từ Hải Dương đi về các khu Thanh Miện, Hưng Yên. Phía Nam nền đình cũ, Pháp dựng một boong ke nữa, chốt giữ đường mười bẩy đi Ninh Giang. Nối hai boong ke chính này là hệ thống hào ngầm, như đoạn ruột non móc xích hai phần của bộ máy tiêu hoá. Và cái dạ dầy với những ruột non, ruột già khốn kiếp này của quân Pháp đã "nuốt" vào nó không biết cơ man nào sinh mạng, bất biết họ là chiến sĩ cách mạng hay người dân vô tội.
Bốt Phương Điếm được dựng chỉ cách Hải Dương hơn chục cây số. Nó không chỉ trở thành tiểu khu bảo vệ phía nam thị xã Hải Dương, mà còn là đầu não chỉ huy các vị trí liên hiệp Pháp tại Tam Lâm, An Nghiệp, Quảng Bì. Lực lượng địch đóng quân ở tiểu khu này thường xuyên có từ hai đại đội đến một tiểu đoàn, được trang bị hoả lực mạnh. Mặc cho nó có là "pháo đài thép" hay thứ gì đi nữa, thì trong mắt người dân làng Giỗ, Đức Phong, Đại Liêu và các làng khác ở xung quanh, bốt Phương Điếm chẳng khác gì một cái ung nhọt. Mỗi ngày nhìn thấy nó, người ta lại thấy khối u ấy ngày một phình to. Nhân dân quanh vùng luôn cảm thấy nhức nhối, chỉ chờ dịp là họ vùng lên, cắt phăng cái ung nhọt kinh hoàng ấy.
Bốt Giỗ như một con mẹ sề chềnh ềnh án ngữ, quanh nó, ở phía nam, cạnh đường lớn vào thị trấn Gia Lộc, Pháp lập Camp lính ngụy. Camp này do một đại đội lính canh giữ, như một con chó trung thành nằm gác cổng cho ông chủ khó tính vừa để bảo vệ bốt chính, vừa làm nhiệm vụ quản lý hành chính giải quyết những thắc mắc đối với người dân quanh vùng. Lập xong Camp lính ngụy, Pháp chọn tên Mạc Đăng Dung làm đồn trưởng. Camp lính ngụy và những lô cốt nhỏ rải rác trong các làng quanh bốt như một đàn ỉn con lúc nhúc nằm dọc bên đường mười bẩy và đường một chín hai. Tất cả lũ ỉn con này bảo vệ cho bốt Giỗ mà quân Pháp gọi một cách mỹ miều là "chi khu quân sự Phương Điếm".
Lúc này, vùng hậu phương của tỉnh còn rộng, trải dài suốt khu Nam Gia Lộc, bắc Thanh Miện, Ninh Giang. Sau khi phân tích tình hình, ta quyết định chỉ để lực lượng du kích ở lại đánh địch còn nhân dân Đức Phong, Đại Liêu, Mỹ Long, Vĩnh Dụ, Tiên Nha… triệt để tản cư kháng chiến. Vốn là dân trong khu vực có truyền thống buôn bán, giao thương, phải đi tản cư, họ vẫn chọn những vùng gần chợ. Chợ Bóng, chợ Bùi Hòa, chợ Rồng là nơi có nhiều người làng Bung, làng Giỗ, làng Cuối, làng Trắm... của Gia Lộc tản cư về. Bản tính hay lam hay làm, chạy chợ kiếm sống khiến họ hòa nhập rất nhanh vào đời sống vùng mới đến. Trong thời gian ngắn, nhiều người đã mở xưởng sản xuất hàng thủ công như rèn dao, búa, cuốc thuổng, và buôn bán nhỏ. Cuộc sống ổn định dần.
Dựng xong chi khu quân sự Phương Điếm, quân Pháp rơi vào tình thế khốn đốn. Chính sách "tiêu thổ kháng chiến" vườn không nhà trống của ta đưa dân tản cư, khiến quân Pháp lâm vào cảnh lần chẳng ra miếng ăn. Không cướp bóc được gì, hàng tiếp tế không có, chúng thúc đại đội lính ngụy bên Camp đi càn. Quân ngụy hầu hết đều bị ép vào lính nên cũng chẳng mấy mặn mà với việc cướp bóc của đồng bào.
Mặt trời lên gần con sào, đám lính ngụy xách súng bên tay, lệch thệch bước. Tên đi đầu cầm một cây gậy như cây sào chăn vịt, thi thoảng chọc vào bụi cây hoang, vẻ chán chường:
- Khốn nạn, dân thì tản cư mẹ nó hết, ruộng đất bỏ hoang, cỏ mọc cao hơn cả đầu thế này thì có cứt chó gì mà càn với quét.
- Chúng nó xua đi thì cứ đi, đi chán lại về, đến đất cũng khô khốc, nứt nẻ, có muốn cũng chẳng còn gì để cướp.
Càng đi sâu vào làng, toán lính càng chán chường. Những ngôi nhà vắng chủ, hai cánh cổng tre khép hờ hững, có nhà chỉ rấp tạm bằng bó rào gai tre đực. Nền sân mọc đầy rêu xanh. Rồi rau dại, cỏ dại thi nhau bò vào, lan kín những chỗ đất trống. Đàn chuột thấy vắng người, bò ra, rúc rích cắn đuôi nhau vẫy râu giữa khoảng sân rộng. Một con chó lạc chủ gầy tong teo, thũng thẳng chạy trên đường. Cái cổ dài nghêu thi thoảng ngoái lại phía sau, mắt đùn cục dử to tướng. Tên lính đi đầu suỵt suỵt, giương súng. Thằng đi sau chắt lưỡi, xì một tiếng:
- Con chó ghẻ, chả bõ dính răng…
Con chó dừng lại, ghếch chân tè vào gốc cây khô, lẩn vào ngôi nhà bìm bìm đã trùm kín cả mái rạ ải.
Lúa mùa chớm vào vụ gặt. Những thửa ruộng người dân đã gieo cấy trước khi Pháp về chiếm đóng Phương Điếm bắt đầu đỏ đuôi. Mồ hôi đổ xuống suốt mấy tháng trời không lẽ để chim chuột phá sạch? Ý nghĩ ấy trở đi trở lại cùng hình ảnh những người chết đói năm bốn lăm đêm đêm hiện về, ám ảnh Lân. Những hạt thóc như hạt vàng nhảy nhót trong đầu anh. Lúa chín rã rời, rụng chạt mặt ruộng. Không thể bỏ lúa. Nhất định phải giành lại mồ hôi, nước mắt của mình.
Ánh đèn bảo vệ quét ngang, quét dọc, soi lồ lộ từng ngọn cỏ. Lân cùng mấy anh em trong Ban chia tốp, men ra những thửa ruộng cách bốt Giỗ vài trăm mét. Ba anh em luồn mình, vừa bò, vừa trườn, ép người sát gốc lúa. Nếu tối nay, mấy anh em và du kích luồn vào những thửa ruộng gần mà không bị quân Pháp phát hiện, đêm mai, dân có thể thu hoạch ở những thửa ruộng ngoài xa. Đội du kích của làng đã chuẩn bị kế hoạch bảo vệ cho dân tranh thủ gặt mùa. Ban tuyên truyền của Lân cũng đã bắt đầu chiến dịch địch vận, tập trung vào camp lính ngụy, vận động binh lính không bắn vào dân gặt lúa.
Gần nửa ngày đường đi bộ về Bùi Hòa, Lân đã tìm gặp được những người làng Bung đang tản cư, vận động bà con trở về thu hoạch mùa. Nhiều tiếng thở dài ngao ngán:
- Ruộng ngay cạnh bốt, cạnh Camp. Súng nổ ùng oàng suốt ngày. Không biết liệu có giữ được mạng để mà ăn hạt gạo từ đám ruộng ấy không? Thôi, cứ ở đây, lần hồi mà sống có khi còn giữ được xác…
Không phải chỉ có một người có ý ấy. Mấy bà, mấy cô đang bán hàng trong chợ cũng lao xao:
- Thôi, bớt bát mát mặt… Giờ về gặt gặt cắt cắt… Nói vô phúc, nó đoàng cho một phát thì chồng con bỏ cho ai? Vài hạt thóc liệu có sánh được mạng người?
Lân nhẹ nhàng:
- Mình về gặt lúa của mình chứ có đánh đấm gì nó đâu. Nó cũng đang cần lấy lòng dân, chắc không vô cớ bắn giết dân làng đâu. Với lại, mình tranh thủ gặt đêm, chịu khó gặt mò vậy. Đã có đội du kích canh chừng, nếu cần sẽ nổ súng hút chúng nó để bà con an toàn. Lúa chín vàng rục, rũ xuống rồi. Bà con không thấy tiếc mồ hôi, công sức của mình hay sao?
- Thế về cả thì không làm ăn buôn bán gì ở đây nữa à? Lại bỏ à?
- Chỉ người khoẻ về thôi. Người già, yếu, trẻ nhỏ ở lại. Gặt xong, mình lại mang lúa về đây chứ để đấy để nuôi cha con quân ăn cướp hay sao?
Tiếng cười rộ lên một góc chợ. Thế là bà con đã thấu. Mà lòng dân đã thấu thì chẳng việc gì không xong. Bằng cách thuyết phục nhẹ nhàng, vận động người nhà mình trước, Lân cùng anh em trong Ban, đội du kích đã vận động được bà con vững bụng trở về.
Dân đi tản cư bắt đầu lục tục quay về để thu hoạch lúa mùa. Họ không đi thành đoàn, chỉ đi từng tốp lẻ như những người đi làm thuê trở về. Bà giáo Thuận cũng hòa trong dòng người ấy. Đám ruộng nhà bà giáo vỡ được, cấy mấy ống giống, nghe nói cũng đã chín. Lân đã hẹn, chiều xong việc sẽ về gặt giúp mẹ mà giờ vẫn bặt vô âm tín.
Những con chim đuôi cá xập xòe đáp xuống các thửa ruộng. Dân mải chống giặc rồi lại tản cư, không chăm bón cẩn thận, lúa mùa chẳng mấy chắc hạt. Nhiều bông, hạt lép dầy hơn hạt mẩy, bắt lên tay nhẹ bỗng. Ối bông cờ hết, trắng xốp, đứng lơ ngơ giữa ruộng như người mất trí trôn chân giữa lúc chợ đông. Màu vàng vốn óng ả của lúa vào vụ gặt dường như nhạt hơn, nhưng vẫn đấy những đợt sóng vàng nối nhau chạy tới chân trời. Đám cỏ ba cạnh sắc dài, màu xám bạc, uốn quanh ruộng, vật vờ vọt lên cao hơn hẳn đám lúa vàng đang liu riu ngả vào nhau.
Đêm sập xuống. Màn sương mỏng tang vừa chập chờn giữa thắt lưng giời, làm dáng bên chùm nắng cuối ngày giờ đã quấn quanh làng như chiếc khăn voan mỏng. Cămp Phương Điếm chìm dần trong bóng ngày nhập nhoạng. Chỉ còn mấy lô cốt của bốt Giỗ đen trũi, vẫn lừng lững khắc chạm dáng hình nhem nhuốc vào đêm. Thi thoảng, một phát pháo hiệu vọt lên, nhập nhòa như ma trơi treo lơ lửng trên khoảnh trời đóng bốt.
Đoàn người vẫn lầm lũi đi. Họ vừa từ khu tản cư trở về. Đòn sóc, liềm hái nằm chặt trong tay họ. Vài tiếng thì thào vọng ra:
- Gặt chỗ nào trước?
- Cứ gặt từ vành ngoài vào. Chỉ lo quân Pháp trong bốt thôi, đám lính ngụy ở Camp mình đã binh vận rồi. Còn mấy thằng hung hăng tâng công với quan thầy, ta đã có lời cảnh cáo. Khu ruộng này chắc chỉ gặt vài đêm là hết. Các bà, các chị trong phụ nữ cứu quốc cũng chuẩn bị rồi, cùng lắm ta lại tổ chức đấu tranh…
- Cứ để bà con gặt. Được đến đâu, đám thanh niên sẽ gánh ngay đến đấy. Du kích cũng vừa gác, vừa gặt…
- Phải chuẩn bị mà choảng lại nó chứ? Không có vũ khí gì à?
- Có chứ. Súng trường, tiểu liên huy động hết. Lựu đạn cũng có đây. Cứ gặt đi, đã cử hai người gác hai đầu đường rồi. Một bên căng, một đằng bốt. Động là ta kéo quân sang phía kia đánh trả, hút súng chúng nó về bên ấy. Các cậu ở bên này hướng dẫn bà con vừa tránh, vừa chạy. Anh Bạ ơi, anh Bạ đâu rồi… - Giờ thì đã nghe rõ tiếng Lân - Anh về đằng này đi…
- Đây rồi - Tiếng Bạ từ góc ruộng phía trước mặt - Cậu cứ về gặt giúp bà giáo đi. Tớ thấy u cậu cũng đang ra đồng đấy. Này, vụ sau, xem cô Chắt thế nào, cưới đi chứ. Vừa có người chăm mình, vừa có người đỡ đần u. Tớ thấy dạo này u cậu cũng yếu nhiều rồi.
- Đang súng đạn mù giời thế này, anh lại còn trêu em được!
- Trêu gì mà trêu. Cưới vợ thì cưới liền tay. Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha… Mà này, có khi cô ấy cũng đang gặt ở bên cánh đồng làng Giỗ kia chưa biết chừng… Chiều nay, tớ thấy cô nàng nhấp nhô bên ấy đấy…
Đêm tối mù, không biết gương mặt vốn tinh nghịch của Bạ lúc ấy thế nào, chỉ thấy tiếng cười khùng khục vang lên thật giòn. Bao mệt nhọc trong người bỗng loãng đâu mất. Làn gió heo may bất chợt ùa về khiến dòng mồ hôi đang bết chân tóc mai Lân khô như có bàn tay lau qua. Anh ngoảnh nhìn về đồng làng Giỗ. Bên ấy, không biết Chắt có cảm thấy được ánh mắt khắc khoải mong ngóng của anh. Tối qua, gặp ở cây cầu đá đầu làng, lúc chạm mắt nhau, Lân thoáng thấy má Chắt ửng đỏ.
Tiếng liềm cắt lúa vang lên. Xoèn xoẹt. Xoèn xoẹt. Thanh âm của mùa màng. Thanh âm báo hiệu sự no ấm. Mùi thơm ngọt thoát từ những thân lúa bị cắt ngang, lan xa. Hương vị đặc trưng của mùa màng trong vụ gặt dồn về, ùa vào khí quản Lân khiến anh ngây ngất. Ước gì, không có cái bốt Giỗ khốn kiếp lừng lững, đen trũi như cái nhọt bọc tàn độc đang khảm vào bầu trời đêm kia. Khi ấy, tất cả những người đang lom khom lầm lũi cắt lúa trong bóng đêm này sẽ vừa gặt vừa cười vang trong ánh nắng thu vàng rực rỡ. Lúc ấy, màu vàng mỡ của nắng thu sẽ tan trong sắc vàng lịm của lúa mùa. Và mắt Chắt chắc long lanh lắm…
Bà giáo vẫn cặm cụi cắt lúa bên con trai. Bàn tay cần mẫn của con người vừa nâng đỡ, vừa nâng niu từng bông lúa chín. Thân lúa ngả xuống, gom dần lại. Những gồi lúa vật lên bờ cao dần. Tiếng đòn sóc xiên ngang vào gồi lúa loạt xoạt. Bước chân thậm thịch chạy lên đường. Không ai ngờ, cái làng như làng hoang kia đang nảy mầm sự sống.
Một phát pháo hiệu bất ngờ từ bốt Giỗ vọt lên. Ánh sáng nhòe nhoẹt, trắng xanh của nó rọi xuống. Những dáng người đang lom khom bỗng thụp xuống. Tiếng chửi bất ngờ văng ra:
- Mẹ cha chúng mày. Các ông gieo trồng, mồ hôi trên dồn mồ hôi dưới mới được hạt thóc, vậy mà cứ phải gặt chui, gặt lủi như phường trộm cắp thế này. Cứ bùng xòe đi, có ngày biết tay ông. Tiên sư cha chúng mày!
Bà nào đó gay gắt:
- Mấy bố du kích du kiếc thế nào chứ thế này là không xong rồi. Giã cho lũ thối thây ấy một trận cho nó trắng mắt ra chứ.
- Nhỏ tiếng thôi. Ai chẳng muốn giã cho ra trò. Nhưng sức ta chưa mạnh, chuẩn bị đã…
- Đúng rồi. Cái trước mắt bây giờ là đưa hết lúa ngoài đồng về giấu đi. Thế đã là thắng đấy. Rồi ngày mai, ngày mốt mạnh dần, mình giã giò nó cũng chưa muộn…
- Đã tẩn là tẩn cho nó không mở được mắt ra, không ngẩng được đầu lên ấy chứ…
Từ phía bốt Giỗ, tiếng súng bất ngờ vang lên. Lân ngẩng nhìn. Chân trời đằng đông, màu vàng cam ánh hồng bắt đầu lồ lộ. Ba phát súng hiệu từ bốt Giỗ như lời chào tàn ác xòe ra các bốt xung quanh và quân ngụy bên Camp Phương Điếm. Lộp bộp súng trả lời. Hai du kích gác đầu đường phất phất tín hiệu. Lân kéo mẹ, vẫy tay sang xung quanh:
- Rút thôi. Đêm mai gặt tiếp, kẻo tí nữa chúng kéo ra tuần thì nguy.
Lúa kĩu kịt trên vai theo chân đoàn người trở ra vùng tản cư. Chưa một ai trong đoàn người lầm lũi gánh lúa kia tưởng tượng ra, có một ngày, hạt thóc, bông lúa cũng phải tản cư. Một hạt thóc đổi ba bốn bát mồ hôi là thế. Bước chân gấp gáp hơn. Họ tránh đi các con đường lớn. Men theo những bờ vùng, bờ thửa dọc ngang chạy tiếp nối giữa các cánh đồng. Sương trắng tan dần. Bóng người nhòa lại hiện. Vùng căn cứ trước mặt. Hạt thóc ngấm mồ hôi bao ngày đã về với người làng.
Đám trẻ con bu lại quanh những gánh lúa. Chúng nghiêng ngó một hồi rồi tản ra. Gương mặt buồn thiu. Không có muồm muỗm, chẳng có cà cuống giắt lưng mẹ mỗi khi gặt về như bao mùa trước. Nhưng cũng chỉ một lát, tiếng kèn toe toe bọn trẻ lọc từ những ống rơm rỗng đã vang xa. Thanh âm mùa màng dẫu không rộn ràng như vô vàn vụ trước vẫn khiến lòng người náo nức. Người lớn xúm lại. Người trục, người đập, người vò. Những bàn chân trần miết xuống từng gồi lúa lớn. Hạt thóc rơi ra. Đám rơm nhàu dần. Đám trẻ tung những búi rơm lên cao. Rơm trùm lên đầu, chui vào cổ, quấn vào người. Tiếng cười con trẻ loang ra. Dẫu không nhiều cũng khiến một vùng nhỏ rộn lên chốc lát. Dù giữa thời chiến thì làng vẫn đang được gọi là vào giữa vụ gặt. Bước đi trên đường làng, bàn chân Lân sục trong cái màu vàng mềm mại, thơm ngát của rơm. Mong manh thế mà vẫn nằng nặng quấn quýt bước chân, mang đến cho anh cảm giác thật dễ chịu. Lân yêu màu của rơm rạ. Những thân rơm mỏng mảnh trên con đường làng tản cư đưa anh trở về thuở nhỏ, những ngày được vô tư nhào lộn trong rơm khi mùa về và lòng anh chợt rung lên khi nhận ra bóng mẹ đang lụi cụi phơi rơm để dành. Mỗi sợi rơm cứ nhắc nhở Lân sự cần cù, tảo tần của những người dân quê, của bà, của mẹ anh. Nó nhắc anh về một thuở vui buồn trong ký ức.
Thu hoạch xong vụ mùa, người dân quay trở lại vùng tản cư tiếp tục buôn bán, tham gia kháng chiến. Người các làng Phương Điếm, Hội Xuyên, Đức Phong, Đại Liêu, Tiên Nha, Vĩnh Dụ tập trung tản cư tại khu vực chợ Bùi Hòa, Xuân Trì - Hoàng Hanh rất đông. Nơi này trở thành điểm giao thương, buôn bán khá tấp nập.
Năm một chín bốn tám!
Trăng tháng Tám, nhẹ nhàng tãi trên thảm lá dầy, lọt xuống nền sân đất lỗ rỗ như tấm chăn hoa dẻ phơi thấp thoáng ngoài giậu cúc tần. Cuộc họp huyện uỷ Gia Lộc sắp bắt đầu. Sau những tháng ngày bám đất, bám dân chống địch đánh phá, khuôn mặt các đồng chí lãnh đạo sạm lại. Lưỡng quyền nhô ra, kéo gò má hóp lại. Chỉ ánh nhìn vẫn tinh anh, sáng niềm tin vào tiền đồ cách mạng. Những khó khăn trong ngày đầu kháng chiến hút sức các anh, các chị vào cuộc đấu tranh không cân sức với kẻ thù. Giờ đây, trong tình hình mới, để nắm dân, huyện uỷ Gia Lộc quyết định thành lập liên xã Nghĩa Hưng trong vùng kháng chiến tại vùng căn cứ thuộc hai xã Đức Xương, Quang Minh. Từ vùng căn cứ này, phạm vi hoạt động sẽ vươn tới các làng Bùi, Cụ Trì, Mơ Trì, Lang Ngoại và cả làng Triệu, Nuồi của huyện Thanh Miện, nơi có nhiều dân Gia Lộc đang tản cư làm ăn, sinh sống. Suốt cuộc họp, điểm mạnh, yếu trong cuộc chiến với địch được đưa ra phân tích tỉ mỉ. Muốn thắng lợi, chỉ có dựa vào dân. Muốn dựa vào dân phải nắm được dân mình. Quân tách khỏi dân như cá tách khỏi nước. Điều ấy, bất cứ chiến sĩ cộng sản nào cũng hiểu và nằm lòng.
Đêm đã về khuya. Sắc vàng của ánh trăng chuyển dần sang màu trắng nhạt. Cuộc họp kết thúc. Ngoài kia, tiếng dế vẫn i i gáy trong đám cỏ hoang. Không nghe thấy tiếng gà, chỉ thấy súng bắn cầm canh của quân giặc như xoáy vào tim mỗi người.
Thành lập liên xã Nghĩa Hưng, Huyện uỷ trông chờ rất nhiều vào những đồng chí cốt cán sẽ bám trụ cùng nhân dân. Chỉ có cùng sống, cùng chết với đồng bào mới có thể hiểu thấu nỗi lòng người dân đang vì công cuộc kháng chiến của cách mạng mà phải rời bỏ nơi mình đã chôn nhau cắt rốn.
Tang tảng sáng! Mọi người lục tục đứng lên. Họ rút ra từng người một, lẩn nhanh vào cái lễnh loãng của bóng tối đang nhường chỗ cho ánh sáng. Liên xã Nghĩa Hưng đã thành lập. Đồng chí Nguyễn Công Tân làm Bí thư chi bộ liên xã, đồng chí Phạm Quang Nùng làm Chủ tịch uỷ ban hành chính, đồng chí Nguyễn Văn Uyển làm Phó Chủ tịch. Đồng chí Nguyễn Đình Lân làm Trưởng ban thông tin tuyên truyền.
Dẫu vẫn bộn bề, người làng Bung, làng Giỗ hàng ngày vẫn hy vọng sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG IV
Lớp tập huấn cho các trưởng ban thông tin tuyên truyền của huyện Gia Lộc mở tại thôn Thị Đức xã Nhật Tân, trong khuôn viên rộng của ngôi đình cổ. Lớp học giấu mình, trầm tư dưới một gốc đa già, rễ lòa xòa buông từng chùm, phất phơ trong gió sớm. Tán đa xòe phủ, trùm hết cả khoảng sân rộng lát gạch nâu non, đôi chỗ tróc lở càng khiến nền sân trở nên cổ kính.
Hơn hai chục học viên từ khắp các xã của huyện tập trung học tập trong thời gian hai tháng. Những điểm cốt yếu nhất trong đường lối chính sách của ta, phương pháp thông tin tuyên truyền hiệu quả nhất được các đồng chí trong phòng thông tin tuyên truyền huyện phổ biến tới các học viên. Người ta gọi lớp tập huấn này là lớp thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu. Người tham gia lớp học này gọi nhau ngắn gọn là lớp Trần Huy Liệu.
Lớp Trần Huy Liệu sắp kết thúc. Hàng loạt câu hỏi hóc búa về đường lối chính trị của ta trong giai đoạn hiện nay cùng nhiều tình huống cụ thể khác về phương pháp tuyên truyền được các học viên đặt ra. Không khí trong lớp nóng dần lên như ngọn lửa đang bén ngún vào đầu củi bắt đầu toả ánh. Một nữ đồng chí đứng dậy phát biểu rất đanh thép:
- Tôi thấy, mình có thể dùng lý lẽ để tuyên truyền với bà con. Nhưng nếu chỉ có lời nói suông thì sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được đồng bào. Dân mình luôn găm sâu trong gan ruột: "Trăm nghe không bằng một thấy", chỉ có bằng việc làm cụ thể dân mới tin và làm theo…
- Đúng rồi - Tiếng một người đế theo - Với dân mình thì cần phải người nói làm trước, thì làng nước mới theo sau… Tất cả đều chỉ có thể nói với dân bằng việc làm thôi.
Tiếng bàn tán, trao đổi ngày một sôi nổi. Ngoài vườn cây, gió vẫn rì rào, vẫn hát chung bản hòa tấu với con người. Lân lắng tai, anh muốn thu tất cả mọi ý kiến của anh em, đồng đội vào trái tim, khối óc mình. Rồi ngay mai, ngày kia, những gì học được từ lớp học này sẽ theo anh trở về với quê hương, nơi đồng đội, người thân của anh đang sống và chiến đấu.
Bao suy nghĩ đang như dòng chảy, ngọt ngào lượn giữa đôi bờ hư thực tiếng trao đổi của đồng nghiệp, Lân giật bắn người khi mái đầu bum bê của người phụ trách lớp học bất ngờ xuất hiện ngoài khuôn cửa, tay cầm một phong giấy mỏng, phất phất ngang đầu, miệng tươi rói:
- Lân ơi! Có thư này. Thư này…
Tiếng xì xầm, chọc ghẹo vang lên:
- Thư ai đấy, Lân ơi. Thư tình hay thư gì?
- Ấp vào ngực nghe trái tim thổn thức đi…
- Thư của em nào thế? Giấy xanh hay giấy hồng? Hương thơm sực nức lên thế này, chắc phải của cô nào đẹp gái lắm đấy?
- Đào hoa quá! Chưa gì đã có người nhớ nhung điên khùng đến phải viết thư rồi…
Lân ngỡ ngàng. Ai gửi thư cho anh nhỉ? Nào anh có thư từ liên lạc với ai đâu? Với lại, lớp tập huấn này chỉ có hai tháng, không lẽ ở nhà có chuyện gì mà mẹ anh phải viết thư cho anh… Hay không lẽ ... Chắt viết thư cho anh? Nếu vậy thì... Cả anh và Chắt, nào đã ai nói với ai lời yêu tiếng thương nào. Nhưng nhìn vào mắt nhau thì cả hai đã hiểu. Đi sinh hoạt thanh niên, phụ nữ, mặc cho nam thanh, nữ tú thường chia làm hai, ngồi đối diện bên dãy bàn, nhưng thế nào Lân cũng tìm cách được ngồi bên Chắt. Bạn bè, đồng chí đều hiểu và cảm thông. Cả chị Sự, Xoan, cả những người bạn của cô ấy đều có ý ghép đôi cho hai người. Trong trái tim anh, hình ảnh cô ngập tràn rồi. Cô như hạt mưa mùa đầu lấp dần vết khô nẻ trong trái tim của chàng thanh niên làng Bung tưởng chỉ biết hết mình cho công việc. Tình yêu thật kỳ lạ. Nó không hề cất tiếng nhưng người ta đều có thể hiểu, nhận biết và dành cho nhau những gì ngọt ngào nhất trong tâm hồn mình. Lân cũng thế, và anh tin Chắt cũng hiểu lòng anh. Xa nhau gần hai tháng, mấy lần Lân tranh thủ tạt về nhà nắm tình hình làng xóm, không gặp được cô, nhưng anh biết Chắt vẫn dõi theo từng bước anh đi. Và lá thư kia... trời đất, nếu đó là của Chắt. Rồi Lân lại tự lắc đầu. Người chắc chắn, đằm tính như Chắt không bao giờ có chuyện cô gửi thư, chẳng bao giờ cô chịu mở lời trước với anh. Tình trong như đã. Cả anh và cô đều hiểu, đều chung tay nối sợi tơ hồng nhưng chẳng ai lên tiếng.
Những đôi mắt tinh nghịch vẫn không thôi tò mò nhìn Lân. Những ánh nhìn như hỏi? Nào đã biết thư ai mà trả lời. Hàng loạt câu hỏi loang loáng chạy trong đầu khiến Lân luống cuống mãi mới bước được ra ngoài cửa lớp. Cầm phong thư trên tay, nét chữ lạ càng khiến anh bối rối. Bất chợt, anh nhớ ra, từ ngày tập trung theo lớp tập huấn, Lân chỉ duy nhất viết thư cho người anh họ và cũng là người đồng chí trong đội tự vệ chiến đấu. Đợi cũng đã lâu không thấy thư trả lời. Thời gian theo học lớp tập huấn sắp hết. Tay Lân run run. Lớp giấy gấp mép phong bì chầm chậm rơi xuống. Một tờ giấy gấp tư, nét chữ rắn rỏi hiện dần:
"Đồng chí Nguyễn Đình Lân thân mến!
Các đồng chí trong lớp học thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu thân mến. Tôi thật bất ngờ nhận được lá thư từ Hải Dương gửi tới, khi bóc ra mới biết lá thư của ông Nguyễn Đình Tài ở xã Nghĩa Hưng - Gia Lộc- Hải Dương gửi cho đồng chí Nguyễn Đình Lân ở lớp học Trần Huy Liệu. Do có sự nhầm lẫn của giao thông liên lạc mà gửi tới tôi.
Tôi thật vui mừng và cảm động biết được rằng, lớp học thông tin tuyên truyền đã ấy tên tôi mà đặt tên cho lớp học này.
Các đồng chí thân mến, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta còn trường kỳ và gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi. Chúng ta, những người làm công tác thông tin tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, của cách mạng. Là những chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận văn hoá tư tưởng, các đồng chí hãy học tập tốt, trau dồi và nâng cao lý luận cách mạng, phương pháp công tác chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền vận động quần chúng và những nghiệp vụ chuyên môn khác. Sao cho sau lớp học này tất cả chúng ta sẽ trở thành những cán bộ cốt cán trên mặt trận thông tin tuyên truyền. Chúng ta hẹn sẽ gặp nhau khi cuộc kháng chiến thắng lợi.
Chúc các đồng chí sức khỏe.
Chúc lớp học thông tin tuyên truyền thành công tốt đẹp!
Ngày 12 tháng 2 năm 1949
Trần Huy Liệu - Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Lân choáng váng, xúc động. Anh cầm lá thư mà hai tay run bắn. Anh em đang tham gia lớp học lặng người. Không ngờ, một lớp học tập huấn trong thời gian ngắn của địa phương vùng sâu, vùng xa mà Bộ trưởng cũng dành thời gian quan tâm đến. Lá thư của Bộ trưởng Trần Huy Liệu chính là bài học cho anh em đang tham gia lớp học về sự sâu sát, thái độ quan tâm, hết lòng vì việc công dù đó là việc nhỏ nhất của cách mạng. Cả lớp học lặng đi. Rồi tiếng vỗ tay rào rào nổi lên.
Đám chào mào, liếu điếu đang cãi nhau ỏm tỏi trên ngọn đa nghe tiếng động, giật mình bay vút lên làm những quả đa chín rời cành, lộp bộp rụng xuống sân đình.
° ° °
Nhân dân Nghĩa Hưng tản cư khắp một vùng rộng lớn trong khu căn cứ kháng chiến thuộc nam Gia Lộc, bắc Ninh Giang, đông Thanh Miện. Người dân mải làm ăn, buôn bán, ít có dịp tập trung. Đường lối, chủ trương chính sách của Đảng lại liên tục đổi mới để phù hợp với tình hình cuộc kháng chiến. Vừa phải lo làm ăn kiếm sống, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao thực sự trở thành khó khăn lớn nhất đối với anh em trong ban thông tin tuyên truyền.
Anh Thoại đặt đôi sọt xuống nền sân đất, nhăn nhó:
- Dân tản mát hết cả, không sao tập trung được. Vừa lại có chủ trương chính sách mới về tản cư kháng chiến, mình phải thông tin cho bà con nắm mà làm theo. Giờ cậu tính thế nào, Lân?
- Còn tính thế nào nữa. Dân mình chuyên buôn bán. Chợ nào quanh vùng này cũng có người của Nghĩa Hưng làm ăn. Anh em mình cứ tổ chức tuyên truyền ngay trong chợ, chả riêng gì bà con Nghĩa Hưng mà các nơi khác đều biết cả, càng tốt...
- Nhưng tổ chức thế nào? Khó là khó ở chỗ ấy chứ...
- Thì mình tổ chức diễn thuyết tại chợ, Vừa kết hợp tuyên truyền các chủ trương, chính sách, vừa động viên bà con khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống, ủng hộ cách mạng... Anh cứ gọi anh em lại đây, mình bàn cách làm. Chỉ cần một cái bục cao vượt lên một chút... Tuyên truyền thì đã có loa tay. Trước khi tuyên truyền, mình tổ chức gọi loa, bà con sẽ tập trung tới thôi...
- Cũng cần hợp cánh với mấy bố du kích nữa chứ? Để anh em người ta gác sách cho, đề phòng bọn Việt gian trà trộn vào... Nguy hiểm chứ bỡn!
- Ai chả biết thế. Nguy hiểm cũng phải làm. Tôi sẽ chịu trách nhiệm nói trước bà con. Mình ngại nguy hiểm thì còn cách nào để đưa thông tin đến với bà con nữa đâu. Mai chợ Bóng họp. Ngày kia hăm hai là chính phiên chợ Bùi. Khu này đông bà con mình sinh sống. Ta làm luôn. Với lại, các tổ chức thanh niên, phụ nữ, phụ lão của bà con mình trong khu căn cứ kháng chiến cũng vẫn giữ hoạt động đều. Mình liên lạc với họ, cùng tổ chức, chắc việc sẽ chạy thôi...
- Được rồi. Để tôi đi gọi anh em - Anh Thoại quảy quả bước ra. Đôi quang sọt nhẹ bẫng tung tẩy theo nhịp chân anh, khuất dần xuống bến đò.
Lân trở vào. Anh nhìn gánh củ nâu đang xếp trong góc nhà. Nhất định hăm hai này, anh và đồng đội phải tổ chức tuyên truyền thành công trong phiên chợ Bùi. Có thế, bà con mới thấy cách mạng vẫn ở ngay bên cạnh, họ thêm vững tin vào đường lối kháng chiến của Đảng.
Chợ Bùi cũng như bao chợ quê khác, tên làng chính là tên chợ. Nằm ngay giữa làng, cách mấy bến đò dọc sông Cửu An không bao xa, cũng cây đa đứng sừng sững ở góc chợ, phía trên là vô vàn dải mây thấp dần xuống như treo trên cành, cũng mấy chiếc lều tranh nho nhỏ, mái rạ xám xịt, năm tháng, thời gian, mưa chan, nắng gội, bao đời nay chợ Bùi vẫn thế, vẫn nguyên lành trong ký ức bao người. Nhưng chợ phiên trong thời giặc giã vội vã, hối hả hơn. Người ta không thấy cái thú nhẫn nha chơi chợ của những người thảnh thơi, nhàn tản dạo hết hàng rau, sang hàng thịt, qua hàng gà vịt, tôm cá. Không còn thấy cái tươi mởn, non bỡn của rau, cái tươi rói của đám cá như vừa vớt lên khỏi mặt nước đang giẫy đành đạch, cái búng càng tanh tách của tôm tép cong mình luyện võ bật qua cạp rổ. Chợ thời giặc giã chỉ thấy đôi ba mẻ tép riu xanh bóng lẫn lá rong xanh, vài mẹt khoai củ gầy nhẵng như con nhà đói giữa ngày giáp hạt, dăm gánh rau thân sắt lại, màu ánh vàng bởi trồng trên vạt đất cằn. Nhiều bà vội vàng sà vào hàng xáo, ghé thúng đong vội mấy ống cám, vài ba bơ gạo hay tạt sang hàng muối đong lấy mấy ống ngang, gói chặt trong túm lá chuối khô, ém vào bên thúng như sợ chỉ vô ý một chút nó sẽ biến mất. Những chiếc khăn mỏ quạ nhàu nhĩ, những tấm áo bà ba bạc phếch… Chợ thời giặc giã, người ta chỉ chú tâm đến thức hàng thật cần cho cuộc sống vốn quá hiếm niềm vui lại dư khốn khó. Hình như ai đến chợ cũng tất bật, vội vàng rời chợ sớm khiến chợ tan nhanh hơn. Mặt trời mới lên hơn một con sào, người đi chợ đã tản mát gần hết. Chỉ còn trơ lại trên nền đất ẩm rau úa, lá ủng và rơm rác.
Chắt con ngồi giữa những cày, cuốc, thừng rợ. Cách mấy dãy hàng, Lân ngồi bên hai sọt củ nâu. Họ đã nhìn thấy nhau. Mắt đã chạm mắt. Chưa thể nói gì lúc này. Chắt nghiêng đầu. Cái nón đã tung mấy lá, chao vành, che khuất một bên má. Lân thẫn thờ nhìn theo.
- Bác ơi! Cày bừa, thừng rợ này! Bên hàng cày bừa, giọng nói như mật mía của Chắt cứ hút hồn Lân. Anh hàng ngồi bên cạnh hích vào thắt lưng:
- Không bán hàng đi, cứ đần mặt ra thế? Người ta hỏi mua nâu kia kìa…
- Ô, chết. Bà mua đi… Lân cuống quýt… Anh hàng lắc đầu cười, nụ cười thật vu vơ.
Chỉ còn mấy lưỡi cày với hai cái bừa là hết hàng. Cày bừa do thầy Chắt làm, lật đất rất vừa sá, bừa lại chắc tay, bán rất chạy. Bà cụ ngồi bên nhìn cô bán hàng, cứ hấp háy đôi mắt kèm nhèm, tặc lưỡi:
- Cái con này, bán hàng duyên thật. Hàng nó bán cứ tung tung như tôm tươi mà hàng mình dí dị thế này… Đúng là, ăn hàng con gái…
- Bà ơi! Chắt cười tươi rói - Rồi con bán hộ bà…
- Gớm, bán đi rồi còn về với u mày. Giặc giã thế này, già như tao, được đến đâu, hay đến đấy - Bà cụ thủng thẳng, tay vê vê mồi thuốc lào sát đi sát lại vào hàm răng đen nhánh như hạt na. Cốt trầu vương ra hai bên, rịn theo đường rãnh cày hằn sâu theo khóe miệng. Cụ đưa tay vuốt nhẹ viền môi, cúi xuống nhổ cốt trầu, ngẩng mặt nhìn trời thật xa xăm.
Chắt con nhìn sang dãy hàng nâu. Không thấy bóng Lân đâu nữa. Cô chợt thấy bồi hồi. Người đâu đến lạ, rõ gan. Biết mười mươi lòng nhau rồi mà nhất định không chịu nói một tiếng. Chỉ nhân lúc đi họp, thế nào cũng tìm cách ngồi bằng được bên cạnh. Chắt con biết thừa Lân hướng về cô nhưng cô vờ như không. Không biết giờ lại chạy đâu mất? Cô đang định hỏi anh mấy việc của làng. Đã mấy ngày rồi, cô chưa về được bên làng.
Đang loay hoay nhìn ngược nhìn xuôi, Chắt con bỗng thấy tiếng loa ngoài cổng chợ:
- A lô. A lô. Mời bà con nghe bản tin đặc biệt của ban thông tin, tuyên truyền liên xã Nghĩa Hưng.
Tim Chắt con thúc dồn, tưởng như không thể giữ nó trong lồng ngực. Tiếng Lân!
Chiều qua, khi sắp xuống đò, vừa thấy Chắt, chị Sự, chị Xoan đã hớn hở:
- Con quỷ, mày cứ thoắt ẩn, thoắt hiện thế, bố ai tìm được? Thế đã gặp nhau chưa?
- Gặp ai hả chị?
- Gớm, khéo chối. Gặp Lân chứ còn ai vào đây? Hay lại chúng em không có chuyện gì… Nói thật nhé, trai thời loạn, được như chú ấy không mấy đâu. Không nhanh tay, đứa khác nó nẫng mất lại… "chổng mông mà gào".
Cái nhà chị Xoan khéo đáo để. Đã vậy, chị Sự còn ngân nga: "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e"… Chắt cười, cố giấu đôi má ửng đỏ vào vành khăn.
- Thôi, tha cho nó. Đi không có lại muộn, bà cà tẩm - Chị Xoan kéo tay Sự - Chúng nó đã chả gặp nhau từ tám hoánh rồi chứ còn đợi bà phải giục. Mà này - Chị quay sang Chắt con - Thu xếp rồi đảo về, tranh thủ họp phụ nữ nhá. Việc vón lại rồi đấy… Cô phải phấn đấu hăng vào để kịp người ta chứ. Chú ấy được kết nạp Đảng rồi. Không nhanh, người ta bỏ lại sau lưng thì chạy nhọc.
Miệng nói, chân chị thoăn thoắt xuống đò. Con đò dịch mũi, xoay ngang. Thoáng chốc, chỉ còn thấy eo lưng của cô lái nhấp nhô xoay lại bên này và nhịp chèo khoát nước róc rách dưới mạn thuyền. Dòng sông lại mải miết trôi, chở theo mình nó ước vọng của bao người đang tất tả ngược xuôi suốt đôi bờ.
Chắt con nghiêng vành nón che chiếc tay nải cũ. Những vệt kẻ trên chiếc khăn quàng thơm mùi vải cứ lấp lánh, chấp chới, nhảy nhót trong mắt cô. Lần sau gặp lại, nhất định Chắt sẽ đưa chiếc khăn này cho Lân. Cô phải cậy cục mãi mới mua lại được của một chị hàng đũi. Lân hay đi lo việc ban đêm, có chiếc khăn, anh sẽ ấm thêm một chút. Biết đâu, nó lại chẳng như vòng tay ôm ấp của một người.
Nghĩ đến đây, má Chắt đỏ lựng lên. Cô xấu hổ. Biết là không ai biết chuyện, nhưng Chắt vẫn ngại ngùng. Chiều qua nghe chị Sự, chị Xoan nói chuyện, Chắt rất vui. Lân đã thành đảng viên rồi. Anh đã được kết nạp đảng. Không vui sao được khi thấy người thương của mình tiến bộ. Chắt biết, cô phải phấn đấu rất nhiều. Cô sẽ phấn đấu để xứng đáng với anh, để khi anh báo cáo xin phép, tổ chức sẽ chẳng phải đắn đo, cân nhắc bởi lúc đó cô cũng đã là đảng viên. 
Nguyễn Đình Vinh - Thương Huyền
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...