Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Giai thoại về các tỷ phú Sài Gòn xưa 2

Giai thoại về các
tỷ phú Sài Gòn xưa 2

Bạch công tử - Tỷ phú đốt tiền
Ở bài trước, các bạn đã nghe kể chuyện công tử Bạc Liêu, hay còn gọi là Hắc công tử. Bài này mời các bạn nghe chuyện về nhân vật thứ hai trong bộ đôi mà người đời thường gọi chung là Hắc-Bạch công tử. Tên cúng cơm đầy đủ của Bạch cộng tử là Lê Công Phước, còn gọi là Phước George. Cha của Phước là Đốc sứ Lê Công Xuân, người gốc ở Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay), vốn làm giàu nhờ nhiều ruộng, nhiều của chìm của nổi trong các dịch vụ làm ăn mờ ám. Dòng dõi họ Lê vốn có nhiều công lao với người Pháp thời ấy, cho nên ngoài những ưu đãi trong công cuộc làm ăn, họ còn được chính quyền bảo hộ cho nhập Pháp tịch, bởi thế Lê Công Phước mới có tên là Phước George.
Ngay từ thuở thiếu thời, Phước George đã được gia đình gởi sang Pháp du học. Và cũng giống như Hắc công tử Bạc Liêu, anh chàng Phước sau một thời học ở Pháp, khi về nước chỉ vỏn vẹn có một cái bằng cấp... nhảy đầm! Thất thu về học vấn, nhưng lại bội thu về vốn liếng ăn chơi trác táng, thành tích "lẫy lừng" nhất của Phước George là mối tình giữa anh ta với cô công chúa của Sa hoàng Nicolas đệ nhị, lúc đó đang lưu vong ở Paris. Chàng Phước bằng tiền từ quê nhà gởi sang, qua trương mục ở ngân hàng, đã rút ra tiêu xài xả láng, quyến rũ được cô gái Nga vương giả thất sủng đang cần tiên.
Qua cuộc phiêu lưu tình ái đó, Phước George đã tiêu xài khá nhiều tiền của ông bố, đến nỗi Đốc phủ Xuân phải triệu hồi cậu ấm Phước về nước, vốn trắng trẻo đẹp trai, và cũng để phân biệt với một công tử đương thời, người ta đặt cho Phước biệt danh là Bạch công tử. Nếu so về tiền của thì có thể Bạch công tử có phần kém hơn Hắc công tử Bạc Liêu, song kể về ăn chơi thì chàng Bạch lại có phần trội hơn, có lẽ do bản tính hào hoa, do đã từng mê hoặc được cả công chúa Nga. Có nhiều giai thoại về những cuộc ăn chơi trác táng, đốt tiền như đốt rác của hai anh chàng này, mà tiêu biểu nhất là chuyện chàng này đốt giấy bạc cho chàng kia tìm của rơi. Chuyện như thế này: Một ngày kia, hai chàng Hắc-Bạch tham gia một bữa tiệc lớn, tại nhà riêng một người bạn chung. Trong buổi đó, lúc gầy sòng đánh bạc mua vui, Hắc công tử lỡ tay đánh rơi một tờ giấy "oảnh" (giấy bạc Vingtpiastres - 20 đồng). Trong lúc Hắc công tử còn đang quờ quạng mò tìm dưới gầm bàn, thì bất ngờ, Bạch công tử rút ngay tờ giấy "xăng" (cent - một trăm đồng), bật diêm đốt để soi cho chàng Hắc tìm tờ giấy 20 đồng! Đúng là một cách chơi khăm đầy ác ý, nhằm mục đích hạ nhục đối thủ của mình. Tất nhiên, Hắc công tử hận lắm, nhưng anh chàng biết nhẫn nhục chờ cơ hội. Và, cuộc trả thù nghe nói đã diễn ra sau đó chỉ vài tháng, khá ngông cuồng. Hôm ấy, đích thân Hắc công tử mời bạn bè từ quê nhà ở Bạc Liêu, để chiêu đãi một tiệc thật linh đình. Trong số khách đó, không thể thiếu Bạch công tử. Trong buổi tiệc, khi ăn đến món tả-pin-lù (bò nhúng dấm), Hắc công tử đã dùng cả một bao toàn giấy bạc bộ lư (giấy 100 đồng Đông Dương có in hình chiếc lư đồng) để dùng làm củi đốt lò! (thời đó vàng chỉ giá 50 đồng một lạng).
Cuộc rửa hận của Hắc công tử đã làm chấn động Nam Kỳ lục tỉnh thời ấy. Phước George thấm thía điều đó hơn ai hết, cho nên anh chàng quyết chí tạo thêm thanh thế, hầu lấn lướt địch thủ. Mục đích duy nhất của Phước là giành lại ảnh hưởng trong giới mỹ nhân đất Sài Gòn thời đó.
Bạch công tử tung "độc chiêu" bằng cách lập một đoàn hát lấy tên là Huỳnh Kỳ (thuở ấy dân chơi, dân hào phú rất mê đào hát, làm chủ một gánh hát lớn là một cách kinh doanh "thời thượng" vừa hốt bạc lại vừa lấy tiếng). Gánh hát của Bạch công tử được tổ chức khá quy mô, ba chiếc ghe chài vận chuyển đoàn đi lưu diễn đây đó, được thiết kế như những chiếc du thuyền, và đặc biệt hơn nữa là cách bố trí của chủ nhà: chiếc thứ nhất có hai tầng, chia nhiều phòng, trong, đó có phòng dành cho ông bầu Bạch công tử và các phòng để giải trí (đánh bạc, bida). Chiếc ghe thứ hai dành cho đào kép, có cả phòng tập tuồng. Còn chiếc ghe thứ ba chỉ dành chở... đội bóng đá của gánh hát Huỳnh Kỳ! Đội bóng quy tụ nhiều cầu thủ có tiếng, được trả lương cao, chỉ để đá bóng mỗi khi gánh hát đi lưu diễn. Vào thời ấy, đội bóng đá này đã gây thích thú cho khán giả nhiều nơi...
Mục đích ban đầu của Bạch công tử là dùng đoàn hát để kinh doanh, nhưng bởi máu ăn chơi tiêm nhiễm nặng, nên dần dần gánh Huỳnh Kỳ trở thành môi trường thuận lợi cho chàng công tử trắng này tiếp tục đốt tiền, ông Đốc phủ Xuân lúc đó đã già, những dịch vụ tài chính khác đã bắt đầu có biểu hiện đi xuống... Thêm vào đó, với cách vừa làm ăn vừa phá của như Bạch công tử, nên chẳng mấy chóc nhà họ Lê mang những món nợ không thể ngờ nổi.
Lúc ấy Bạch công tử lại đưa đoàn hát đi xuất ngoại, diễn cho Việt kiều ở Pháp xem. Họa vô đơn chí, thành công chẳng được bao nhiêu, nhưng khi trở về lại bị chìm tàu ở Địa Trung Hải, của cải đổ xuống biển, chỉ may mắn là người còn sống sót. Lúc trở lại Sài Gòn, hầu như Bạch công tử đã trắng tay. Về cuối đời, Bạch công tử sống cô độc, nghèo hơn cả những người trước đây vốn sống nhờ vào đồng tiền của ông ta...
Thế đây, kinh doanh và trác táng không bao giờ có mảnh đất chung.
Trương văn Bền và xà bông Cô Ba
Cách đây ngót một thế kỷ, người dân Sài Gòn cũng như trên cả nước, đều biết đến xà bông hiệu Cô Ba (loại xà bông thơm) hay xà bông 72 phần dầu (loại xà bông giặt). Thời đó chưa có các loại bột giặt, cho nên mọi người đều chỉ dùng các loại xà bông giặt dạng cục (còn gọi là xà bông đá) cho nên hễ nói đến xà bông, thì ai cũng nhớ đến thứ xà bông có ghi dòng chữ 72 phần dầu. Xà bông thơm thì hầu như chưa có các hiệu nước ngoài phong phú như sau này, do đó ai cũng biết loại xà bông hiệu Cô Ba. Tất cả những nhãn hiệu này đều cùng một xuất xứ, của một người chủ, đó là nhà kỹ nghệ Trương văn Bền, một kỹ nghệ gia Việt Nam có thể gọi là đã làm rạng danh uy tín nền công nghiệp nước ta. Thời ấy, nền kỹ nghệ nước nhà còn ở dạng phôi thai, vậy mà ông Trương văn Bền đã dám đứng ra thành lập một công ty chuyên sản xuất chất tẩy rửa đầu tiên ở Việt Nam, đặt tên là Công ty Trương Văn Bền Và Các Con. Xà bông được sản xuât từ dầu dừa, soude và một vài phụ gia khác, nhưng dầu dừa là chủ yếu, bởi vùng lục tỉnh (đồng bằng sông Cửu Long) có nhiều dừa, thừa sức cung cấp nguyên liệu cho việc nấu xà bông. Có lẽ ông Bền đã nghĩ đến điều đó trước khi dựng lên nhà máy sản xuất chất tẩy rửa.
Buổi đầu có nhiều người hoài nghi về sự thành công của công ty Trương văn Bền, bởi họ nghĩ rằng, với trình độ kỹ thuật học lóm, máy móc thô sơ, thì làm sao một người Việt Nam có thể cạnh tranh nổi với người Pháp hoặc người Hoa nhiều thế lực, nhiều tiền của? Ngay những thân nhân của ông Bền lúc ấy cũng khuyên ông không nên phiêu lưu vào ngành đó, họ sợ ông tiêu phí hết những đồng vốn ít ỏi lúc ban đầu. Nhưng mọi lời can ngăn hầu như không làm nao núng con người có đầu óc cấp tiến, thích tự lập và đương đầu với nền công nghệ mạnh gấp nhiều lần của ngoại bang lúc ấy. Ông Trương văn Bền đã từng sống ở Phnompenh (Campuchia), từng đi đây đó một số nơi ở ngoại quốc, nhìn thấy sự phát triển công nghiệp ở các nước, nên hơn ai hết, ông hiểu rằng, nếu quyết tâm thì không một trở lực nào có thể ngăn cản được con đường phát triển công nghệ. Ông Bền đã biết bắt đúng mạch, đánh đúng thị hiếu người tiêu dùng, bằng một mặt hàng mà không một đời sống văn minh nào không cần đến, đó là chất giặt, tẩy. Cho tới lúc ấy (các thập niên đầu thế kỷ 20), thị trường chất tẩy rửa hầu như mở ngõ cho các mặt hàng của nước ngoài, chủ yếu là Pháp, vừa ít vừa đắt, cung chưa đáp ứng được cầu.
Công ty "Trương Văn Bền Và Các Con" đã đáp ứng yêu cầu đó một cách đúng đắn. Chỉ một năm sau ngày ra đời, mặt hàng xà bông 72 phần dầu của ông Trương văn Bền đã gần như hạ gục các sản phẩm cùng loại của nước ngoài, do giá rẻ, hợp thị hiếu người tiêu dùng và chất lượng cao.
Ngay lúc thành lập cho đến mãi sau này (gần ngót một thế kỷ), trụ sở của công ty Trương văn Bền vẫn ở yên một chỗ tại đường Kim Biên (bên hông chợ Kim Biên ngày nay). Sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, cung cấp cho toàn quốc, có thời xuất đi toàn Đông Dương. Nơi nào xà bông Trương văn Bền cũng được hoan nghênh.
Thành công với mặt hàng xà bông đá (xà bông giặt) rồi, ông Trương văn Bền nghĩ tới bước thứ hai, mặt hàng cao cấp hơn - xà bông thơm. Và sản phẩm xà bông Cô Ba ra đời. Những người lớn tuổi vẫn còn nhớ ảnh bán thân của một cô gái Việt Nam (trang phục phụ nữ Nam Bộ) với áo dài, đầu chải rẽ ngôi, tóc búi, đeo kiềng vàng. Chân dung đó gọi là Cô Ba và mặc nhiên sản phẩm được gọi là xà bông Cô Ba, nhập tâm từ người bình dân cho tới giới thượng lưu. Lại một lần nữa, ông Trương văn Bền đã thành công lớn. Xà bông Cô Ba là sản phẩm duy nhất đã đương đầu ngang ngửa với nhãn hiệu xà bông Cadeau danh tiếng của Pháp.
Không phải ngẫu nhiên mà ông Trương văn Bền chọn biểu tượng hình cô gái gọi là Cô Ba đó, cô gái đoạt danh hiệu hoa khôi của cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn vào thập niên 30. Cô vốn là con một ông thông phán người Sài Gòn, nghe nói có sắc đẹp thuần túy Việt Nam, đã vượt qua được hàng trăm cô gái khác đến từ nhiều nơi, để đăng quang tại vườn ông Thượng (Công viên Văn Hóa TP. Hồ Chí Minh ngày nay), sắc đẹp của cô đã làm cho những người Pháp phải trầm trồ. Họ ngỏ lời mời cô sang Pháp mặc đồ đầm (Âu phục) và dự thi hoa hậu thế giới. Nhưng cô hoa hậu từ chối, tuyên bố chỉ thích mặc quốc phục (áo dài) và chỉ muốn là hoa hậu của Sài Gòn mà thôi!
Ông Trương văn Bền cách đây hơn nửa thế kỷ đã chứng minh rằng, hàng nội địa không hề thua kém hàng ngoại!
Tja Ma Yeng - Nhà kinh tế trong bóng tối
Vào những năm 1920, khi ở vùng Chợ Lớn vang danh Quách Đàm thì trong bóng tối có một tên còn lẫy lừng hơn, đó là TJa Ma Yeng mà người Việt tại Sài Gòn thường gọi ông ta bằng cái tên cộng "chức danh" là Má Chín Dảnh, hơn là tục danh đầy đủ. "Má Chín" là chỉ những nhà doanh nghiệp giàu có. Ông ta thuộc bang hội Quảng Đông ở Chợ Lớn, nhưng thế lực thì coi như bao trùm hết các bang hội khác của người Hoa, mà chỉ chuyên về... làm kinh tế bằng nước bọt!
Tja Ma Yeng là con trai trưởng của một phú thương bị phá sản, từ Quảng Đông di cư sang Hồng Kông từ thế kỷ 19. Đúng ra họ Tja (Tạ) đã lưu lại mảnh đất có nhiều cơ hội làm giàu là Hồng Kông, nhưng chẳng hiểu sao, thân sinh ông lại dắt díu cả gia đình sang tận Sài Gòn để lập nghiệp. Ông bố của Tja Ma Yeng không buôn bán bất cứ thứ gì, chỉ tiêu xài nốt số tiền còn lại. Ba năm sau, đợi cho đứa con trai đầu là Tja Ma Yeng đủ tuổi trưởng thành, họ Tạ mới đề ra phương án làm ăn khá lạ lùng: làm kinh tế bằng nước bọt!
Ông huấn thị cho Tja Ma Yeng: "Trong thương trường, muốn thành công thì điều trước tiên là phải có bộ óc nhạy bén. Sự nhạy bén của bộ óc còn quý hơn là tài sản nữa. Con là người có điều đó".
Tja Ma Yeng rất giống tính cha: can đảm, mưu lược và thông minh. Chính những điều ấy đã giúp ông từ một cậu con trai một phú thương phá sản, đã trở thành một "Má Chín" chỉ trong vòng năm năm. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1908, khi đó tại Sài Gòn đang nổi lên một "đại ca Tư Mắt", là nhân vật trùm giới giang hồ, chuyên bảo kê sòng bạc và lãnh đạo nhóm "maphia", thế lực nghiêng trời, gây khiếp hãi cho giới doanh thương người Hoa.
Giới Hoa kiều là những người lúc nào cũng muốn được yên ổn làm ăn, nên rất cần một ai đó đứng ra che chở cho mình trước những tai họa như loại Tư Mắt. Và người đó, bỗng nhiên xuất hiện là Tja Ma Yeng!
Họ Tạ không là tay hảo hán giang hồ, cũng không có thế lực của chính quyền, vậy mà sự xuất hiện của ông ta đã làm cho Tư Mắt và đàn em phải chùn chân, nương nhẹ tay đối với giới doanh thương người Hoa Chợ Lớn. Lý do? Mãi sau đó người ta mới biết: bằng tài nghệ riêng của mình, Tja Ma Yeng đã ngầm thương lượng với Tư Mắt, đóng góp cho nhóm này một số tiền "hụi chết" khá hậu. Thế là các phú thương người Hoa được đặt ra ngoài vòng.
Nhưng tiền đâu Tja Ma Yeng thực hiện ý đồ táo bạo đó? Dĩ nhiên là không phải tiền túi của ông ta. Tất cả, là do sự đóng góp của toàn giới Hoa kiều. Tja Ma Yeng chỉ là người vận động, môi giới. Nhưng để làm được, lại phải cần một "bộ óc" có tầm cỡ. Người con trai của họ Tạ đã là người duy nhất làm được việc mà cả giới Hoa kiều không một ai có khả năng. Sau vụ đó, Tja Ma Yeng nghiễm nhiên trở thành một "quân sư" đầy uy tín của cộng đồng Hoa kiều trong mọi mặt, chứ không riêng gì những cuộc dàn xếp như vừa kể trên. Vào thập niên 20 của thế kỷ này, khi nền kinh tế của Việt Nam đã bắt đầu vươn ra thế giới bằng việc xuất nhập khẩu lương thực và hàng tiêu dùng như Đông dược thì nhất thiết phải có bàn tay của Tja Ma Yeng. Ông đóng vai trò là "nhà chiến lược" hoạch định tất cả những công cuộc giao thương với nước ngoài cho giới người Hoa lúc đó. Quách Đàm muốn xuất lúa gạo cho Singapore, Hồng Kông ư? Nếu không có sự tham mưu của Tja Ma Yeng thì không thể thành công. Tja Ma Yeng bằng tài riêng của mình, đã có sự liên hệ với các nhà doanh nghiệp châu Á. Ông ta nghiên cứu thị trường thế giới và khu vực, đánh hơi đường đi nước bước của thương trường hiện tại, tương lai, rồi đưa ra những quyết định tối hậu cho Hoa kiều Chợ Lớn. Do đó, các bang hội khác nhau đã không xem Tja Ma Yeng là người Quảng Đông, họ tôn vinh ông ta như là "lãnh chúa" của mình. Vào thời đó, chỉ cần một gật hay lắc đầu của Tja Ma Yeng thì giá cả thị trường có thể đổi thay, lên, xuống.
Chẳng mấy chốc Tja Ma Yeng giàu lên không thua gì Quách Đàm (chủ chợ Bình Tây, như đã viết trong một bài trước). Và đúng như phong cách một nhà chiến lược kinh tế, Tja Ma Yeng không bao giò chường mặt ra để thiên hạ nhận diện. Ông luôn hành động âm thầm, kinh doanh trong lặng lẽ... Nghe nói, có thời kỳ, tài sản, vốn liếng của ông ta lên tới mức bằng phân nửa sản nghiệp của người Hoa cộng lại!
Vào thập niên 30, thời kỳ kinh tế Việt Nam suy thoái, Tja Ma Yeng đã chuyển dần cuộc làm ăn và tài sản về Hồng Kông...
Tây làm giàu ở xứ ta
Trước cả người Hoa, các tay tư bản người Pháp đã từng đến và nghiên cứu cách làm giàu ở xứ ta, mà đặc biệt là Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ. Trước khi làm ăn thật, những tay đỏ đen từ Pháp sang đã tính tới cách làm "ăn chơi" qua hình thức cờ bạc.
Năm 1906, tên Jean Duelos và sau đó, năm 1912, có tên Monpezat đã "đầu tư" một số ngựa giống Ả Rập tới Hà Nội, mở các cuộc đua ngựa rồi bành trướng đến Sài Gòn. Cả hai lão này đã từng thống trị các trường đua ngựa ở ngoài Bắc, trong Nam, vét biết bao tiền của từ túi của dân bản xứ mê đỏ đen, nhưng đáng kể hơn hết là bốn bộ mặt doanh nhân thuộc hàng có máu mặt và rất đặc biệt vào những năm đầu thế kỷ 20.
Người thứ nhất là Mézin, có gốc nông dân ở miền Nam nước Pháp, nên khi sang Sài Gòn đã nhắm đến việc khai khẩn đất đai, lập đồn điền. Mézin không thích kinh doanh tại Sài Gòn, mặc dù nhà cửa, vợ con lão đều ở thành phố này. Người ta kể lại rằng, khi mới đặt chân lên đất Sài Gòn, Mézin là một người tay trắng, sống khá vất vả trong những ngày mò mẫm tìm cơ hội kinh doanh. Nhờ khéo léo, một phần nữa nhờ sự quen biết nhiều người Pháp trong ngành ngân hàng và các viên chức chánh quyền, nên Mézin đã có một kế hoạch táo bạo: khai phá vùng đất hoang vu thuộc tỉnh Cần Thơ để lập đồn điền. Vay được một số tiền kha khá, Mézin dựng lên một đồn điền mang tên "Domaine de l’Ouest" (Đồn điền miền Tây). Đất miền Tây Nam Bộ thời đó còn hoang hóa nhiều, đồng chua cỏ dại, rất khó khai thác, nếu không nói là dân bản xứ đã bó tay. Nhưng bằng tính toán đúng, bằng tiền vốn bỏ ra, cộng với sự giúp đỡ của chủ tỉnh Cần Thơ thời ấy, nên chỉ vài năm sau, đồn điền của Mézin đã khá bề thế. Nó trở thành một trong vài đồn điền trồng lúa lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Người thứ hai cũng làm giàu nhờ khai khẩn đất hoang, đó là Pháp kiều Gressier. Lão ta cũng là một nhà kinh doanh tay trắng lúc khởi nghiệp. Khi đã vay được vốn, Gressier nhắm vùng đất phèn mặn của xã Phú Lộc đã hiện ra nhiều kênh rạch chằng chịt để tháo mặn, xả phèn, giúp cho đồng lúa tốt tươi, năng suất tăng cao. Gressier thắng to liên tục nhiều chục vụ, trở thành một triệu phú nức tiếng, làm cho những Pháp kiều đồng hương với ông ta phải ganh tỵ.
Người Pháp thứ ba "lên ngôi" phú hộ tại Sài Gòn là Fernand Lafon. Ông này cũng không phải là nhà giàu khi bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Khi có người giới thiệu với ông ta khu đất trống nằm ở tứ giác Verdun (Cách Mạng Tháng 8 ngày nay) - Colombier (Hồ Xuân Hương) - La Grandière (Điện Biên Phủ) và cả khu vực trường nữ trung học áo tím sau này (Nguyễn thị Minh Khai ngày nay), Fernand Lafon đã không ngần ngại bỏ tiền ra mua ngay với giá chỉ 0đ50/m2. Thời đó toàn bộ khu ấy chưa có nhà cửa. Fernand Lafon đã phân ra nhiều lô, chủ yếu là đất để xây biệt thự, một phần xây thành nhà, một phần khác bán cho người khác xây dựng những ngôi biệt thự thuộc loại sang trọng nhất Sài Gòn. Chẳng mấy chốc ông ta giàu to. Được đà, ông ta mở rộng phạm vi kinh doanh địa ốc, chuyên xây dựng các biệt thự sang trọng để bán lại cho người Pháp hoặc các triệu phú mới nổi người bản địa.
Ngoài ba bộ mặt tiêu biểu nói trên, còn có một người nữa nên nhắc lại ở đây, cho đủ bộ tứ Pháp kiều, đó là Vidal. Ông ta vốn trước đó là sĩ quan hải quân Pháp, hưu non và bám rễ tại đất Sài Gòn để làm ăn như mọi người bình thường khác. Ông này hòa nhập với phong tục người địa phương rất nhanh: tập ăn trầu, mặc áo dài khăn đóng, học tiếng Việt và lấy vợ Việt. Ông này làm ăn lương thiện, có lúc được dân làng cử làm hương cả - một chức làng. Trước khi qua đời, Vidal đã yêu cầu được mai táng theo nghi lễ của một tín đồ Phật giáo, thay vì theo Thiên Chúa giáo như hầu hết những người Pháp khác.
Nhũng người Pháp kể trên đã để lại một bài học cho những người hoạt động doanh nghiệp: có chí thì sẽ làm giàu, bất cứ ở đâu, bất cứ trong hoàn cảnh nào. (Có tham khảo một số tài liệu của học giả Vương Hồng Sển). 
Thượng Hồng
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...