Thứ Ba, 28 tháng 12, 2021

Con quỷ truyền kiếp 3

Con quỷ truyền kiếp 3

Chương 2. TỪ KẺ CHỊU CỰC HÌNH ĐẾN NHỮNG BÍM TÓC VÀNG

- Đây rồi cô xem lúc nãy với cô tôi làm thế nào thì bây giờ với ông Hammond tôi cũng làm như thế; cô cũng sẽ nghe thấy đúng những câu tôi đã hỏi cô.
Mắt Oliver vẫn không rời cái mặt đồng hồ bóng loáng.
Sau đó vài phút, Luna hỏi chàng:
- Ông thấy trong người thế nào?
- Tôi thấy hơi mệt.
- Mắt ông mỏi đó. Mí mắt cứ rung động hoài kìa! Ông cố chống mắt cũng không được kia đó!
Chàng bắt đầu chớp mắt rất mau,. Nàng khiến:
- Ông nhắm mắt vào, mà đã nhắm mắt là không thể mở mắt ra được nữa.
Mí mắt chàng liền buông xuống. Luna đưa tay khoa mấy điệu làm phép cho đến lúc chàng hoàn toàn chìm vào giấc thôi miên. Nàng bảo Swanhild:
- Ông anh cô là một con đồng tốt nhất đó.
Oliver theo các cử chỉ của nàng, mắt chàng lúc ấy đã mở và đờ đẫn như một người ngủ mơ hay như một người lòa. Swanhild nói vào một câu:
- Tôi cứ tưởng là lầm. Miss Hammond, cô nói chuyện với ông ấy xem.
Nhưng Swanhild hỏi mấy câu đều không đáp lại:
Luna cắt nghĩa:
- Ông ấy chìm trong một giấc thôi miên nặng lắm rồi đó, và hiện hoàn toàn ở trong tay tôi, chịu theo thế lực sai khiến của tôi.
Nàng mỉm cười thấy vẻ kinh ngạc của Swanhild:
- Lúc nãy, cô cũng y như thế.
Đến ngồi đối diện Oliver, nàng bảo:
- Ông Hammond! Tôi muốn biết những điều ông còn nhớ về lịch sử nước Anh.
Nàng hỏi chàng hết câu nọ đến câu kia, từ triều vua George V trở lên đến đời quyền phiệt Guelfes và đến nhà Stuarts. Có những câu thông thường, đến Swanhild với Goddard cũng có thể đáp được, nhưng lại có những câu xa xôi quá sức biết của hai người. Khi thì Oliver trả lời được trơn tru, giọng nói đều đều, khi thì phải ngẫm nghĩ đôi lúc. Lúc nhắc đến cái tên của Charles Đệ Nhứt, một ánh sáng chăm chú thoáng hiện trong mắt Oliver. Chàng nói ngay:
- Người bị trảm quyết.
Luna khen:
- Phải đó. Vậy ông có nhớ hoàng hậu Mary Tudor không?
- Mary… Mary Tudor ư?… A! Phải rồi, Mary ác phụ! Có, có lẽ tôi cũng… nhớ ra.
Bỗng chàng ngập ngừng, Luna khiến:
- Ông cứ nghĩ đến người đàn bà ấy đi! Và nghĩ đến cái triều đại của bà ấy, nghĩ trong ba phút.
Chàng cau trán lại, nhìn trân trân phía trước mặt rồi nói:
- Tôi nghĩ đến rồi.
Luna thình lình hỏi:
- Thế ông có nghĩ cả đến Derek Carver không?
Chàng khẽ giật mình rồi thẳng người lên, khẽ kêu lên một câu đáp:
- Derek Carver! Tôi biết cái tên Carver này rồi! Derek Carver!… Trời, sao mà kinh khủng thế! Tôi thấy thứ mùi… một thứ mùi kinh tởm… Derek Carver… Trời ơi! Cái tên này sao mà gợi ra những điều khủng khiếp thế!
Gương mặt chàng lộ rõ một sự lo sợ quá sức. Năm ngón ghì nắm lại ở cái bàn tay không bị thương, chàng run cầm cập khắp mình, trông chẳng khác gì một người đang mắc vào trong một giấc mộng kinh hoàng hay chịu một cực hình không thể tả được.
Hoảng hốt cũng gần như Oliver, Swanhild muốn đến gần anh xem, nhưng bà Yorke nắm giữ tay nàng ngồi lại. Luna thì mím miệng thành một đường nghiêm nghị, nét mặt giống như một khuôn mặt nạ trơ trơ. Nàng dằn từng tiếng:
- Hoàng hậu Mary… Derek Carver.
Oliver cất cao tiếng đáp:
- Tôi biết! Tôi biết rồi! Mà cái mùi kia, chính là cái mùi tôi với em tôi đã ngửi thấy khi đi qua Stréatham là chỗ họ đang chữa đường… Phải, phải: cái mùi hắc ín nấu lỏng… Không, mùi hắc ín đốt cháy… Với mùi khét ở những tội nhân thiêu sống! Trời! Ghê gớm quá!
Luna liền nhẹ tay vuốt trước trán, lẩm bẩm nói:
- Quả thực, tôi tưởng là… Mà tôi vừa ngủ dậy phải không? À, tôi nhớ ra rồi, miss Bartendale, tôi nhớ đã nhìn mãi đôi mắt của cô. Tôi thấy đôi mắt đó mông mênh lớn và tôi tưởng chừng bị lôi cuốn trong một luồng sáng chói lói. Thế rồi mọi sự đều biến đi.
Luna mở một cuốn sách lớn đến trang có một mảnh giấy đánh dấu trước: mảnh giấy chi chít lời ghi chú viết tay. Nàng quay ngoắt lai và reo lên:
- Thực là kỳ diệu! Bây giờ ta làm tiếp việc lúc nãy đi, ông Hammond.
Sau đó một lát, Oliver lại chịu giấc thôi miên nữa. Những dấu hiệu lo sợ lại hiện lên trong lúc chàng lẩm bẩm hoài:
- Mary Tudo… Carver…Nhựa đường bốc cháy…
Luna truyền lệnh:
- Thôi! Đừng nghĩ đến Mary nữa. Bây giờ thì đã triều Henry Tudor, Harry of Richmond. Hãy tưởng tượng đến người này; và đến một thanh gươm. Thế nào, sự liên tưởng kia khắc ông đến những điều gì?
- Tôi nhớ đến Magnus Pháp sư làm hiệu cờ ở trận Bosworth.
- Được lắm. Nghĩ đến cụ Pháp sư Magnus đi. Ông thấy những gì?
- Tôi thấy ngôi mộ của cụ này… Cái phòng bí mật này… bức chân dung này…
Chàng đã trở lại bình tĩnh và nói những lời ấy một cách rẽ ràng.
- Ông hãy cầm trí lại và lần lượt kể từng thứ một, theo cái thứ tự diễn ra cho ông thấy. Cái ngôi mộ kia khiến ông nghĩ đến cái phòng bí mật phải không?
- Không, bức chân dunbg mới làm tôi nghĩ đến. Bức tranh này dẫn đường cho tôi tưởng đến phòng Holbein và do phòng Holbein tôi tới phòng thí nghiệm, nó nhắc tôi nhớ đến những vật ta tìm thấy hôm qua, tức là cái bàn tay với thanh gươm cổ.
- Về chuyện cái bàn tay ông biết được những điều gì?
Chàng nghĩ một lát rồi mới nói:
- Không biết gì hết. Còn về thanh gươm thì, ồ này…
- Ông nhớ được những gì?
- Tôi không thể nói rõ được.
Luna liền mở ngăn kéo bàn giấy lấy ra chiếc lưỡi gươm đồng rồi đặt vào tay Oliver mà khiến:
- Ông nhìn thanh gươm này đi, nắn sờ nó cẩn thận đưa lên mũi mà ngửi rồi nói cho tôi biết nó gợi cho ông thấy những gì.
Chàng nhất nhất vâng lời. Một lát sau chàng nói:
- Tôi biết rồi. Tôi nhận thấy một mùi… một mùi ở đây…
Luna có vẻ ngac nhiên.
Oliver vẫn giữ vẻ mặt chăm chú nghe ngóng, hai cánh mũi mấp máy như người cố tìm biết tên hiệu một mùi hương nào. Đoạn chàng đứng lên, bước thẳng về phía bàn giấy. Chàng trỏ vào vào một cái bình trong đó cắm cái bó cỏ lá mà người phóng viên Thomas Curtiss đã tặng cho nàng.
Chàng trỏ vào cành lá thông, bảo nàng một giọng đắc ý:
- Đây rồi. Tôi tưởng đến một khu rừng… Còn thanh gươm thì… Có ba kỷ niệm liên lạc với nhau: những cây thông, thanh gươm và… Ồ! Đó là những vật giống nhau, dài mảnh và bóng loáng… phải! Bóng loáng.
Chàng bỗng ngẩn người ra, im bặt. Rồi bỗng lại reo lên một tiếng, chàng bước đến trước mặt Swanhild lúc đó nín hơi, lặng người đi vì hồi hộp.
- À đây, đây rồi! Những mớ tóc, mớ tóc hung vàng và tết bím, hai cái bím to chẳng kém gì cổ tay tôi đây này và hai đầu cùng tụm lại thành một búi! Và ở cạnh hai món tóc ấy tôi vẫn còn thấy… Ồ! Tôi nhớ ra rồi, tôi thấy có…
Chàng khoa tay lên không khí để tiếp theo câu nói dở dang.
Luna reo lên:
- Ông thấy một dấu chữ thập ngoặc, phải không?
Chàng lửng lơ đáp:
- Ngày xưa chúng tôi không gọi như thế.
- Gọi là Fyl fot, chứ gì?
- Phải: Fyl fot.
- Ông có thể đọc được những chữ khắc trên đốc gươm kia không?
- Không. Nhưng mà (chàng nói tiếp sau khi nhìn kỹ thanh gươm), bên những chữ khắc lại còn thứ khác nữa. Cô nhìn ở phía trái miếng đồng mà xem, ở dưới lớp hoen rỉ ấy.
Luna đến bên, đặt một tay lên trán chàng để giúp chàng thấy rõ cái cảnh tượng gợi lên. Trong mắt của Oliver chiếu ra một vẻ tuyệt vọng thê thảm.
Bà Yorke lặng lẽ bảo cháu:
- Thôi đi, Luna.
- Chính Luna lúc đó cũng đã quá nhọc mệt. Nàng liền truyền bảo:
- Ông lại ngồi xuống. Ông tỉnh dậy, quên hết đi và tỉnh dậy!
Nàng đưa đầu ngón tay lướt nhẹ trên mí mắt chàng. Oliver mở mắt ra, hết sức bình tĩnh. Chàng ân cần hỏi Luna:
- Miss Bartendale xem chừng mệt nhọc lắm thì phải.
- Vâng, có thế. Buổi thí nghiệm cũng khá lâu.
Bà Yorke giảng giải cho mọi người hiểu:
- Là vì trong những cuộc này, sự gắng sức của trí não làm nhược người cả đôi bên: nhà thôi miên cũng như người chịu thôi miên.
Swanhild hỏi Luna:
- Miss Bartendale, cô có biết rằng cả hai anh em chúng tôi đều ghét cay ghét đắng cái mùi hắc ín nấu, không nhỉ?
- Tôi không biết.
- Đấy là một tính gia truyền của nhà tôi.
Cái đó cố nhiên. Nếu vậy thì tôi đã tìm thấy duyên cớ tại sao lại có cớ sự sợ ghét cái mùi đó rồi, miss Hammond ạ. Nó có đã từ cái hồi tàn sát năm 1555 kia. Bây giờ, tôi đi xếp gọn lại những điều tôi đã ghi chép vừa rồi, còn cô trong lúc đó thì kể lại cho ông anh cô những câu ông ấy đã trả lời tôi. Xong rồi tôi sẽ đọc cho cô với ông Hammond biết thiên lịch sử gia đình nhà cô từ cổ chí kim, theo những tài liệu mà tôi đã lượm được.
Chương 3. LAI LỊCH TỔ TIÊN
Khi Swanhild kể xong các lời vấn đáp lúc nãy, Oliver nhắc lại:
- Bím tóc vàng!…
Chàng có vẻ ngạc nhiên một cách khó chịu,. Lunahỏi:
- Bây giờ ông đã tỉnh thức thì ông có nhớ điều gì về chuyện ấy chăng?
- Để tôi nghĩ xem đã… Có, có. Em Swan tôi ngày trước cũng tết bím như thế.
- Nhưng, những bím tóc ông nói đến lúc nãy có liên lạc với thanh gươm kia mà.
- Nếu vậy thì tôi không biết gì hết.
Luna:
- Trong giấc thôi miên thì ông lại biết được đó. Có những điều kích thích mạnh, vui thái quá hay buồn thái quá cũng vậy, lòng cảm khái bát ngát về tôn giáo hay sự kinh hãi dữ dội, những điều đó in vào trí não một dấu vết sâu dần nỗi những cảm xúc kia còn vang bóng mãi đến các đời con cháu sau này. Lệ thường, những kỷ niệm tổ truyền kia vẫn tiềm tàng trong dòng dõi và chỉ khi nào có một việc xảy ra giống cái việc đã gây nên chúng, đánh thức những kỷ niệm kia dậy thì chúng mới hiện lên.
Oliver kêu:
- Trời ơi! Thế ra cái tính ghê tởm mùi hắc ín đun nóng kia chính là…
- Phải, chính là một kỷ niệm không ngờ do sự kích thích của tổ tiên ông đó, của con trai cụ Warlock đó. Sự kích thích ấy là do lúc ông này trông giống thấy cái cảnh hành hình ở Lewes năm 1555. Ở ông, cái mùi kia tương tự một sự khó chịu của tâm hồn, mà vì cái cảm giác khó chịu ấy còn yếu nhẹ nên chưa thành một sự kinh tởm hay khiếp sợ. Nhưng chỉ nói đến một cái tên cũng đủ cho ký ức ông nhớ lại rành mạch trong giấc thôi miên.
Swanhild hỏi:
- Các sự đó có liên lạc gì đến con quái vật không?
- Điều đó tôi chưa biết được. Cuộc thí nghiệm thứ nhất đã cho tôi biết rằng tôi không đi sai đường. Hôm qua, tôi đã dự tính các kế hoạch để theo, sau khi đã biết chắc chắn rằng ông Oliver với cô chưa bao giờ tra cứu để biết lai lịch dòng dõi từ năm 1650 trở về trước: trong đoạn gia phả từ khoảng ấy có ghi chép một vài chi tiết về những người chính trưởng trong dòng họ, nhất là về con trai cụ Warlock; tức là Godfrey, là người đã bỏ công giáo để theo đạo thệ phản cuối triều hoàng hậu Mary Tudor, sau hồi người bạn thân của ông cụ là Derek Carver chịu cực hình. Sáng hôm nay tôi đã nhờ một vị mục sư lượm lặt các điều về chuyện Carver biên lại cho tôi và vừa rồi tôi mới đọc đến. Tôi nhận thấy rằng ký ức của ông không sai chút nào.
- Sao cô không đọc những điều biên chép kia từ trước.
- Là vì tôi muốn tránh sự truyền giao tư tưởng. Đây, những điều đại lược tôi nhờ biên lại đây: “Derek Carver, người Flaman theo đạo mới trốn sang Anh. Ngụ ở Brigton và mở quán rượu Sư Tử Đen ở phố Bliack Lion. Bị kết tội phản đạo năm 1555 và hành hình ở Lerves, trước cửa nhà hàng Ngôi Sao. Y bị chết thiêu cùng với tập Kinh Thánh thệ phản, trên một giàn củi chất và trong một cái thùng gỗ hắc ín”.
Oliver và Swanhild cùng kêu lên một tiếng kinh tởm. Luna đặt mảnh giấy vừa đọc trên bàn. Nàng trầm tiếng nói:
- Tôi chỉ cần biết bằng ấy điều là đủ.
Swanhild đưa người về phía trước, đôi mắt lóng lánh một tia lửa khác thường. Nàng hỏi Luna:
- Chắc cô có thể khêu gợi trong ký ức nặng di truyền của anh Oliver để đánh thức dậy những điều mà tổ tiên nhà tôi đã từng biết về chuyện con quái vật chứ?
Luna đáp:
- Tôi chắc may ra cũng được. Ông anh cô là nơi tàng trữ những kỷ niệm về cụ Warlock nhà này.
Oliver cũng ngả người về phía Luna, vẻ mặt đăm đăm chăm chú. Chàng nói:
- Tôi hiểu rồi. Còn anh Goddard, anh nghĩ sao?
Goddard:
- Tôi không bao giờ ngờ vực cái tài của miss Bartendale. Duy chỉ có những cử chỉ bí mật của miss Bartendale làm tôi cứ phải nghĩ ngợi.
- Tôi phải biết chắc chắn những lời chỉ dẫn của ông Hammond có là chân thực lắm mới được. Bây giờ ta lấy thanh gươm và những bím tóc làm căn cứ mà dò tìm xem những việc xảy ra cho cụ Pháp sư là những việc gì. Khi đã biết những điều đó, ta sẽ dò tìm xa hơn lên.
Oliver reo:
- Lần giở được trong trí não người như lần từng trang trong cuốn sách thì thực là kỳ diệu! Thế thì, nếu cụ Warlock đã trông thấy con quái vật, tất nhiên trí não cụ cũng bị kích thích mạnh, cũng mang dấu vết sâu chẳng kém gì trí não Godfrey bị kích thích vì cái chết thảm độc của Carver.
Luna lắc đầu:
- Không. Không giản dị đến thế đâu. Thấy con quái vật được có vài ba ngày thì ông cụ Pháp sư đã chết, mà con cái ông cụ đã có từ lâu rồi. Vậy mà sự kích thích chỉ có thể di lại cho con cháu sau này khi cha mẹ chưa có con đã bị kích thích.
- À, ra thế. Nếu vậy ra cô lại dò tìm lấy một người dòng họ Hammond nào đã trông thấy con quái vật trước khi người ấy có con, phải không?
- Vâng. Mà tìm như thế sẽ mất nhiều thì giờ lắm, vì mỗi lần thôi miên không được lâu quá một giờ. Như vậy, trong khoảng dăm ba ngày, ngày nào ta cũng phải có một lần thí nghiệm mới được.
Oliver đáp ngay:
- Xin sẵn lòng theo ý cô.
Swanhild hỏi:
- Còn tôi, tôi có giúp cô được việc gì không?
- Tôi tiếc rằng, không giúp được gì hết.
Oliver:
- Lạ nhỉ. Tôi cứ tưởng rằng người đàn bà là người dễ cảm xúc hơn cả, tất dễ nhận những dấu vết xúc cảm hơn mới phải chứ?
Luna:
- Không phải đâu! Người đàn bà là người dễ nóng nẩy rối loạn hơn, có thế thôi. Vả lại, những ký ức di truyền cũng như đặc tính của dòng dõi, truyền lại một cách oái oăm lắm:: không cứ định lệ nào; thường thường thì ở mỗi thế hệ chỉ lưu lại và chỉ phát triển ở riêng một người nào trong họ đó thôi. Miss Hammond cũng có thể giúp đỡ tôi một việc là lục tìm trong các nhà kho, hầm chứa, các hòm rương, các ngăn kéo để thu nhặt những giấy má cổ tìm thấy trong các nơi đó. Cái bản cảo cô đưa tôi xem hôm qua có nói rằng nhà bác học và chiêm tinh học Nicholas Culpeper năm 1651 đã có điều tra về con quái vật. Culpeper chắc cũng có viết tường tận về công cuộc đó, bây giờ mà tìm ra được bản ấy thì hay cho tôi vô chừng!
Swanhild mừng rỡ nói:
- Vâng, tôi về nhà xin tức khắc đi tìm ngay.
- Thế là mỗi người chúng ta đều đã có một việc. Đến mai, tôi sẽ đi Dannow để theo cuộc điều tra của các nhà chuyên trách, ông Hammond ạ. (Oliver rất vui lòng). Còn bây giờ ta nghỉ ngơi thôi. Gần hai giờ rồi, ta hút một điếu thuốc lá và xoay nói chuyện khác để đợi bữa cơm thì vừa. Không nên làm việc quá sức.
Chương 4. CON BÒ VÀNG ĐẾN SUSSEX
Sự chú ý của công chúng đối với những việc bí mật ở Dannow thực là sôi nổi. Tuy nhà viết báo Curtiss đã tìm cách giữ độc quyền những tin tức đã đăng, nhưng các nhà báo khác thấy câu chuyện kia rất quan trọng và có nhiều việc ly kì lắm, họ bỏ qua không đành. Phần lớn những nhà báo đo đi lục lại các ngăn tủ, lấy lên những cảo cũ về chuyện ma quái để đăng lên những chỗ tốt nhất trên tờ báo mình. Những người chưa thành thạo trong nghề thì đi tra cứu trong một thư viện nào gần nhất về khoa tà thuật, về chuyện viên quái, rồi vội vàng viết thành bài báo dưới ký: Một nhà thần học trứ danh hoặc Một nhà linh hồn học xuất sắc.
Báo Daily Post bỏ xa các bạn đồng nghiệp vì đăng trên trang nhất bài tường thuật các thảm kịch từ trước đến bây giờ.
Các phóng viên, bọn người bán đồ cổ, cùng những người tích trữ những kỷ vật đua nhau đổ vào miền Dannow. Những cây nào đã có người bị nạn nằm dưới gốc là họ đến nậy hết từng mảnh vỏ. Trong làng, người ta gặp thấy những nhà trinh thám công không và những người dở hơi đến đó để tìm những kỷ vật dị kỳ và quái gở.
Anh em nhà Hammond bị bọn người tò mò xông vào tận trong vườn quấy rối. Oliver đã tiếp được của nhiều tuần báo mười bốn bức thứ xin những bài chàng viết về truyền tục của gia đình chàng. New York đánh sang một bức điện, trong đó người ta tặng chàng một số tiền kinh ngạc mà chỉ đổi lấy một bức ảnh chụp gian phòng bí mật.
Swanhild và Oliver hôm đó ra tận ga Hassocks đón Luna. Nàng vừa tới nơi, hai anh em đã kể chuyện cho nàng nghe biết mọi việc. Thừa lúc Oliver nói chuyện với viên sếp ga. Swanhild ghé tai Luna nói nhỏ mấy tiếng:
Chàng thấy thế bảo em gái:
- Swan nói gì, anh cũng đoán được rồi kìa. Em bảo miss Bartendale rằng anh vẫn khỏe khoắn, vui vẻ chứ gì? Thế em không giấu cả cái việc suốt đêm qua em ngủ trước cửa phòng anh để canh anh chứ?
Chàng nói dứt câu ấy với nụ cười khoan dung. Luna hỏi:
- Nhà chuyên trách mở cuộc thẩm vấn ở đâu, ông Hammond nhỉ?
Chàng đáp:
- Ở lữ điếm The Hammond’s Armorial ở dưới Lower Dannow (Dannow hạ thôn). Thì ra tôi quên khuấy ngay mất cái việc đã bắt cô đến đây hôm nay.
Rồi chàng sầm mặt xuống. Luna trách:
- Ông này mới hay chứ! Thôi đi ông! Đừng có nghĩ lẩn thẩn đến những chuyện nản lòng. Ông chỉ nên nghĩ đến điều giúp đỡ tôi là hơn. Oliver.
- Tôi hối hận rằng có thể vui cười được đến thế. Tội nghiệp cho cô Kate! Với anh Warren mới đáng ngại làm sao!
Quang cảnh Dannow hôm đó cũng khá giống một ngày triển lãm xe đạp và xe hơi. Oliver cho xem qua những đường tắt để tránh hai hàng máy ảnh đứng chực sẵn và làm thất vọng ba nhà quay phim.
Các nhà chuyên trách muốn thu xếp cuộc thẩm vấn có một vẻ trịnh trọng. Có tin đồn ra rằng nhà chuyên môn dò mạch suối trứ danh, miss Bartendale, sẽ tuyên bố nhiều sự lạ. Nhưng trong lúc dự cuộc xét hỏi, Luna buông mạng che mặt để tránh sự quan sát của những con mắt tò mò. Nàng ngồi cạnh Warren (vị hôn phu của cô Kate). Nét mặt anh chàng này giữ nguyên một vẻ lầm lì từ lúc bắt đầu cho đến khi họ dẫn anh em nhà Ades vào tra vấn.
Hội đồng thẩm án(1) ([Gồm những nhà luật pháp và một số người kén trong các giai cấp trong một tỉnh hoặc một khu]) vừa mới khám xét tử thi người bị nạn và trong phòng chứa đựng một bầu không khí nặng nề. Không người nào đả động đến sự kỳ quái phi thường để phân giải những thảm trạng xảy ra. Duy chỉ ông Coroner(2) ([Người chuyên thẩm xét một vụ án mạng]), trong mấy lời khai mạc, là hết lời căn dặn xin hội đồng bỏ ngoài tâm trí những lời đồn đại không có nghĩa lý gì.
Mấy vị bác sĩ, hội đồng hỏi đến trước nhất, thì khai rằng cái chết của kẻ bị nạn gây nên do những thương tích nặng. Người thiếu nữ đáng thương kia (cô Kate) không một lúc nào có thể tỉnh táo để thuật lại những việc xảy ra. Trong cơn mê sảng, cô ta thường luôn miệng nói rằng một vật lù lù “to bằng cái nhà” xông đến hại cô ta. Xem các vết thương, người ta không thể nào đoán được hung phạm thuộc về giống loại nào. Ông đốc-tơ Newton thoạt tiên nghĩ là con chó của Oliver, nhưng khi mổ khám thì ông chỉ thấy trong dạ dày con vật một ít bánh bích qui mới ăn được ít lâu trước lúc chết.
Những lời mô tả các vết thương gây nên tìm thấy trên người bị nạn. Oliver thì kể lại những điều chàng nhớ được, cố ý nhắc đến một sự có mặt của một vật kỳ bí mà chàng cảm thấy trong bóng đêm. Trả lời câu chất vấn của một ông chủ trại to béo, chàng quả quyết khai rằng con chó Holder đối với người thiếu nữ vẫn quấn quýt, quý mến, và có lẽ đã báo hiệu cho biết lúc kẻ hung phạm tiến lại gần. Chàng nói tiếp:
- Nhưng về điều này, trí nhớ tôi vẫn còn mơ hồ lắm.
Will Clapode là người đầu tiên báo tin dữ về Dannow, tả rõ cho mọi người biết cái tiếng rú kỳ dị hắn nghe thấy ban đêm. Rồi đến lượt anh em nhà Ades. Đối với những người muốn tìm trong thực tế những lẽ giải quyết cái thảm kịch kia thì bọn tên Ades tức là những chứng tá quan trọng. Warren thì hai mắt không rời hai tên ấy, để hết sự chăm chú cay nghiệt mà nghe từng câu từng tiếng của chúng khai ra trước hội đồng. Tội nghiệp anh chàng, mặt chỉ còn da dính với xương; hai mắt trân trân nhìn. Khiến cho anh em nhà kia đâm ra bối rối.
Chúng vốn là những tên cục cằn, thô kệch, vụng dại và chậm chạp, không khéo nói dối một chút nào. Chúng ngây ngô bịa đặt ra được một chuyện vu vơ để giấu giếm cái tội đi mắc bẫy săn trong rừng cấm, rồi bị hỏi vặn, chúng vướng phải những đường lối chằng chịt toàn những câu đáp mâu thuẫn; đến nỗi ông Coroner bắt chúng phải có bảo đảm mới được tại ngoại. Chúng đã gây nhưng cảm tưởng rất tai hại của mọi người đối với mình.
Hỏi xong anh em nhà Ades, hội đồng hoãn cuộc thẩm vấn đến tuần lễ sau.
Swanhild và Oliver cùng với cô khách ở lại nhà hàng đợi cho mọi người lần lượt ra về hết. Luna đứng bên cửa sổ lẳng lặng dò xét bọn nhà Ades đi qua. Nàng đưa mắt nhìn theo cho tới khi chúng đi khỏi. Oliver hỏi nàng:
- Cô không cho chúng là thủ phạm chứ?
- Không. Nhưng nhà chuyên trách và công chúng ở đây lại không nghĩ như tôi, mà tôi lúc này thì không thể minh oan cho chúng được vội. Tôi có nói ra những việc kỳ bí cũng chẳng lợi được ai, mà những công việc sắp định làm của tôi lại sẽ bị sụp đổ mất. Bởi vậy tôi hãy cứ im tiếng đã, trừ khi bọn nhà Ades bị kết án hẳn hoi…
Rồi mím môi lại, nàng không chịu nói gì thêm. Anh em nhà Hammond biết rằng có hỏi thêm nữa cũng vô ích.
Lúc đó, từng lũ người đi ùa vào xem trong rừng Beacon, yên tâm, vì có đông người và ánh sáng bạch nhật. Luna sực nhớ ra, hỏi Oliver:
- Ông Hammond, ông có kể cho tôi nghe một câu chuyện về cái Gò Sét Thunder’s Barrow thì phải?
Oliver nhìn Goddard, có ý nhường lời. Goddard đáp:
- À! Đó chỉ là một chuyện cổ tích mơ hồ không dính dáng gì với con quái vật hết. Người ta tin rằng con Bò Vàng của Aaron(3) ([Aaron, một nhân vật tối cổ trong Cựu ước thư]) chôn dưới gò.
Luna:
- Ồ! Con Bò Vàng lại ở miền Sussex!
Oliver:
- Sao lại không? Người ta không thể tưởng xiết được những thứ người ta có thể đào thấy dưới đất miền này đâu!
Goddard lại nói:
- Có nhiều người dám nói chắc chắn rằng Con Bò Vàng chôn ở sông Tundle ở mạn trên đường đua ngựa Godwoord, nhưng cái gò ở đây có lẽ đúng chỗ hơn.
Swanhild:
- Tôi không ngờ anh Goddard biết rộng đến thế đấy!
- Tôi lớn hơn cô những bảy tuổi kia, cô còn nhỏ tuổi quá nên chưa biết rõ Dannow ta về cổ thời. Ngày nay, thiên hạ chỉ nói đến những chuyện tai tiếng đăng trên các báo hay những cuộc đấu bóng tròn thôi. Nhưng hồi tôi còn bé, tôi đã từng ngồi hằng giờ mê mải nghe các ông già bà cả kể về chuyện chôn của với những chuyện ma quái bị xiềng xích một nơi.
Luna chợt như người tỉnh dậy ở một hồi mơ tưởng trầm ngâm. Nàng hỏi:
- Nếu cái tượng vàng đó mà chôn dưới Gò Sét thực, thì sao không có ai tìm cách chiếm lấy?
Goddard khẽ cười:
- Là vì “Con Người Nghèo Khổ” không để ai lấy được. Con Người Nghèo Khổ là tên người ta dùng để gọi ma quỷ ở Sussex này đấy, miss Bartendale ạ. Nhưng tôi chắc những chuyện truyền khẩu này không giúp cô được ích gì.
- Có lẽ. Tuy vậy, cái chuyện Bò Vàng cũng lạ đó. Con Bò Vàng của Aaron mà lại chôn ở Sussex!… Câu chuyện mới kỳ dị làm sao! À này, đến mai ta lại có một cuộc thôi miên nữa đó.
Chương 5. KHƠI ĐÀO GÒ SÉT
Việc bí mật ở Dannow vẫn làm sôi nổi dư luận.
Kẻ bị nạn, sau cuộc thẩm xét, đã được chôn cất và trên các báo đều đăng những bức ảnh chụp lúc tang lễ cử hành. Vào khoảng cuối tuần ấy, sự chú ý của mọi người lên đến độ cùng của sự nhiệt liệt: kể từ hồi lâu lắm đến nay, nhà thờ Dannow mới phải đóng cửa lần này là một. Vì ngôi mộ của cụ Warlockbị những người cướp nhặt kỷ vật làm hư hại, mà dưới đấy thì bừa bãi những mẫu thuốc lá, những mẩu diêm cháy dở, những mảnh giấy xé và các thứ vụn vặt khác làm chứng rằng bao nhiêu khách tò mò đã qua chốn này.
Về phần Swanhild, môi ngày nàng phải qua hai lần hồi hộp dữ là buổi sáng, từ lúc nàng ngủ dậy tới cái phút nàng trông thấy mặt anh, rồi đến lượt dự cuộc thôi miên nàng phấp phỏng sợ những điều báo thốt lên miệng Oliver do những câu Luna hỏi.
Nhưng tinh thần Oliver vẫn vững mạnh. Mà sáng nào lúc anh em gặp nhau, chàng vẫn không hề có gì khác lạ, và vẫn có một câu nói: “Này cô em, bao giờ tôi nhớ được các điều đã quên tôi sẽ bảo cho cô em biết, nhưng không phải hôm nay đâu!” Chỉ khi nào nghĩ đến cô Kate và lúc ra khỏi nhà bà Yorke và miss Bartendale là chàng rầu rầu mặt xuống. Ngoài ra, những giờ khác dùng để lục lọi khắp lâu đài Dannow để mong tìm thấy những giấy má quan hệ.
Trong phiên thôi miên ngày Thứ Năm, Luna khiến Oliver tập trung tư tưởng dồn cả vào thanh gươm cổ. Nàng có ý mong chàng nhớ được những chữ khắc trên cái mảnh vàng đã long mất, nàng đưa các bức ảnh chụp nhiều câu cổ tự cho chàng đọc, nhưng không ích gì.
Ngày Thư Sáu, Luna thiết lập cuộc thí nghiệm trong căn phòng bí mật. Nàng dần dà dẫn Oliver trở lại thời cụ Warlock và đưa cho chàng cái Bàn Tay Danh Vọng và thanh gươm. Hốt nhiên chàng nói đến cái miếng đồng đã long mất, chỉ rõ nó dài được bao nhiêu phân và lại biết được rằng nó cắt theo hình một chiếc lá. Luna không bàn thêm lời nào, nhưng đôi mắt nàng long lanh, lộ ra sự chăm chú ráo riết: Swanhild ngầm hiểu sau cái bề ngoài thản nhiên kia vẫn ẩn một ý chí mạnh tới bực nào. Người thiếu nữ đặt hết lòng tin cậy ở Luna: người thiếu nữ này đã tạo nên được chung quanh nàng một không khí vững lòng của công việc và của đời sinh hoạt yên lành. Vắng mặt Luna, nàng lại để tâm nhận thức sự khủng khiếp đè nặng xuống Dannow với những con cháu cuối cùng trong dòng họ.
Oliver lại không thế. Chàng được hưởng những giờ êm ái nhất trong đời mình. Mọi người gần gũi chàng đều tránh không đả động đến Kate, người thiếu nữ thiệt mạng, vả chăng để cả tâm trí vào tình yêu mới nhóm, không còn thì giờ đâu mà ân hận về việc kia. Còn về phần Goddard thì bao giờ chàng cũng vẫn giữ gìn, ngờ vực. Sự bình yên nhất thời kia, chàng xem ra không phải là điềm tốt: đó chẳng qua chỉ là như hồi lặng gió trước cơn phong ba thôi.
Ngày Thứ Bảy, từ sáng sớm Swanhild với Oliver đã đến Chelsea. Thấy Swanhild có vẻ sốt sắng nóng nảy. Luna hỏi:
- Việc gì thế, cô?
Swanhild liền lấy một chiếc phong bì hai mảnh giấy dầy, năm, tháng làm cho cũ nát và ố vàng. Nàng nói:
- Chúng tôi đã tìm được mấy mảnh này trong tập tường thuật của Culpeper đây.
Miss Bartenbdale cố dò dẫm mãi mới đọc nổi được những hàng chữ nhòa mất đến nửa phần:
“… rằng nhà Hammond là dòng giống những thần trùng hút máu, và nếu một người trong dòng họ ấy chết sớm thì linh hồn không lên trời cũng không xuống địa ngục, nhưng cứ sống mãi trong mồ một cách phi thường…”
Nàng nói tiếp:
- Mảnh giấy này quan trọng lắm đó, miss Hammond ạ.
Mảnh giấy thứ hai chỉ có một hàng chữ:
“Người bạn quý mến ngài, Nicholas Culpepar”.
- Cô tìm thấy giấy này ở đâu vậy?
- Trong lần đệm nhồi ở một cái ghế bành cũ. Mép giấy thòi ra ngoài một lỗ thủng.
Oliver cũng nói:
- Chúng tôi thấy ba cái ghế bành với một cái ghế dài, lần trong đó có nhét đầy những giấy má cũ như thế. Nhưng uổng quá! Mấy cái ghế lại xếp dưới một chỗ mái nhà bị nứt, thành thử một phần giấy má kia chỉ còn là một mớ nát bét. Lần chọn lọc đầu tiên, Goddard với được cái tên ký của Culpeper. Sau anh em tôi mới tìm thấy mảnh thứ hai.
Swanhild nói:
- Chúng tôi định sau phiên thôi miên sẽ tức khắc về nhà tìm nữa.
Nhưng Oliver ngắt lời:
- Không, có về thì Swan về một mình thôi. Vì tôi, tôi còn những công việc khác.
- Sao, những công việc khác?
- Phải lạ. Chắc cô Swan của tôi cũng chẳng lạ gì những lần thôi miên kia rất mệt nhọc cho những người hành sự chính yếu. Tôi tưởng được nửa ngày nghỉ ngơi giải trí hẳn là có ích cho miss Bartendale cũng như cho tôi. Bởi thế, tôi đã giữ trước hai chỗ xem buổi biểu diễn Chu-Chin-Chow buổi chiền nay rồi, (chàng ngoảnh lại nói với Luna) vì cô vẫn ưa xem loại đó. Tôi biết trước rằng có mời bà Yorke cũng chẳng đi vì bà còn phải đến chỗ hòa nhạc.
Luna giở sổ thời giờ hằng ngày ra coi. Bà Yorke thì lạnh nhạt đáp:
- Vâng, tôi nhớ ra rằng hôm qua ông đã hỏi thử tôi trước xem rồi tôi có được rảnh không…
Chàng dịu mắt nhìn bà ta và mỉm cười một nụ cười đon đả. Bà Yorke cố giữ nét mặt nhìn cô cháu gái và thấy nàng cúi đầu hoài. Swanhild thì có vẻ bực dọc:
- Thế nào? Anh đã lấy vé giữ chỗ đặt trước rồi ư?
- Phải, anh gọi điện thoại giữ trước rồi. Này Swan ạ, em thử nghĩ lại xem mới được chứ. Chẳng lẽ em cứ coi sóc anh được suốt đời hay sao! Đành rằng, em làm thế để giữ gìn cho anh, nhưng chán rồi anh cũng phải lấy làm khó chịu chớ. Vả lại đã có miss Bartendale đi với anh thì còn lo gì, rồi đến chiều miss Bartendale sẽ đưa anh ra ga Victoria để về chuyến xe lửa sáu giờ rưỡi kia mà. (Chàng nói thêm). Ấy là còn phải xem miss Bartendale có nhận lời mời không đã.
Luna nói:
- Xin vui lòng.
Bà Yorke có vẻ ngạc nhiên và không bằng lòng. Còn Swanhild thì không nói gì hết. Nàng đã quen thấy bọn đàn ông trong gia đình nàng làm gì cũng theo ý muốn của họ.
Buổi thôi miên ấy kết thúc nhanh chóng. Oliver nói lại lần nữa hình thế đồng rơi mất và cho biết thêm rằng những cổ tự xếp thành một hàng cong queo.
Swanhild trở về Dannow có một mình.
Chiều tối, sau khi tan buổi hát, Luna thấy một bức thư của Dublin đợi nàng ở nhà.
Bà Yorke hỏi:
- Sao cháu lại nhận lời đi với ông Hammond thế?
- Cháu không muốn tỏ ra xa tránh ông ta.
- Cháu xa tránh mới phải. Cái người trẻ tuổi ấy tuy bề ngoài cương quyết, nhưng thực ra là hạng người làm thêm bi đát những chuyện thông thường.
- Cháu biết rồi. Ông ta rất lấy làm buồn cho cái chết của cô Kate; cái chết ấy vẫn ám ảnh mãi phần tiềm thức của ông ta đó.
Trong thoáng giây lát, nàng tưởng lại bao nhiêu việc ban chiều: chiếc xe hơi đưa hai người qua khắp thành phố mịt mù, đôi mắt anh chàng sáng lên trong khi nói những câu gần như cảm tạ con quái vật đã khiến hai người gần nhau, rồi vẻ mặt buồn tối vì lòng thương hại của chàng, vì sự kinh tởm và vì hối hận nữa. Chàng luôn luôn nhắc lại:
- Ồ! Giá không có cô Kate trong việc này…
Bà Yorke không nương nhẹ, bảo Luna:
- Rồi thế nào một ngày kia cháu cũng phải cho ông ta biết sự thực mới được.
- Cháu sẽ nói ngay khi nào thấy những buổi thôi miên không cho cháu biết thêm điều gì nữa.
- Mà, dễ thường cô tưởng tôi không biết ý anh chàng vẫn ưa tránh mọi người để trò chuyện với cô đấy hẳn? Cô tưởng miss Hammond không có mắt hay sao? Cô nghĩ đến người anh thế nào thì cũng phải nghĩ đến cô em như thế chứ!
Luna:
- Thế này này! Các báo hôm nay đã tìm được một vụ án mạng ghê gớm để đăng, nhờ thế ta khỏi bị quấy rầy được trong ít bữa. Cháu muốn nhân cơ hội ấy làm nốt công việc tra cứu ngay từ ngày mai, là ngày chủ nhật.
- Luna!
- Cháu sẽ đánh điện cho khách hàng của cháu đừng đến London nữa và tìm sẵn một bọn thợ đào đất để giúp việc ngày thứ Hai. Là vì cháu định tâm đào tìm cái GÒ Thunder Barrow và lại muốn có mặt ở đó để xem từ lúc đào mảng thứ nhất. Cô cùng đi với cháu nhé. Mấy người kia thường vẫn nài cháu mời cho được cô cùng đến Dannow. (Thấy bà Yorke ngạc nhiên, nàng vội tiếp). Không! Không phải là một ý định bất thình lình đâu. Nhà bác học ở Dulbin cháu nhờ xem đã dò được nghĩa những lời cổ tự: cháu tin chắc rằng dưới cái Gò Sét thế nào cũng có gửi một manh mối quan trọng lạ lùng, kia.
Chương 6. ĐẤT THÁNH NGHĨA TRANG
Sáng thứ Hai, bà Yorke, Luna và con chó Roska đi chuyến xe lửa thứ nhất tới ga Hassocks. Oliver với Swanhild đã ở đó đón hai người. Bà Yorke hỏi:
- Cháu tôi báo tin cho ông với miss Hammond biết trước rồi chứ? Luna tính ra công việc tìm đào cũng phải mất ít ra cả một ngày: cô cháu tôi cứ sợ làm phiền cho anh em ông.
Oliver quả quyết nói:
- Nếu tìm xét cẩn thận thì hết ngày cũng chưa xong được. Goddard thì đang xem tiếp những giấy má cổ ở nhà. (Chàng lại nói với Luna). Cái ý định đào Gò Sét thực bất ngờ, miss Bartendale nhỉ.
Nàng đáp:
- Là vì tôi muốn thừa dịp tốt chứ có gì đâu.
Trong mấy ngày vừa qua, tuyết đã rơi lác đác, rồi đến hồi mứa đá, sau cùng thì đổ thành trận to. Sáng hôm đó tiết trời lại êm và hơi ẩm. Một màn sương mù mỏng nhẹ trùm phủ dưới lòng thung lũng và lướt bay bên cạnh chiếc xe hơi, xé tơi qua các cành cây trụi lá và điểm thêm vẻ đẹp huyền bí cho con đường về.
Sanhild cầm lái, Oliver ngồi đằng sau với bà Yorke, chốc chốc lại đưa mình về phía trước để góp chuyện, vì Luna ngồi ngay cạnh em gái chàng. Bà Yorke thì thản nhiên: bà chú ý đến lời bàn bạc của mấy người kia chỉ là giữ lễ độ.
Miss Bartendale hỏi:
- Ông có tìm được thêm đoạn nào trong tập thư của Culpeper không?
- Có. Nhưng những đoạn ấy gần bị hư hỏng vì nhiều lần thí nghiệm hóa học. Goddard đem cả về nhà để tìm cách cố dò xem. Anh ấy tài lắm kia.
- Ở đây bọn tò mò có đến nhiều không?
Oliver:
- Hừm! Ngày hôm qua là ngày đáng ghét lạ! Họ tổ chức thành một đoàn từ Brigton đến, nhà chúng tôi bị những người ồn ào nhất xông vào. Cũng may, hôm nay xấu trời, ta không bị quấy rối nữa.
Luna đáp:
- Càng hay. Người ngoài họ sẽ làm bận cho công việc của ta. Ta thử tìm xem những vật cụ Warlock chôn dưới Thunder’s Barrow có những gì. (Nàng đưa mắt dò ý mọi người trong lúc nói). Theo tục Đan Mạch, vị tổ tiên nhà ông, tức là người con trai cụ Magnus Hammond, táng trong Gò kia cùng với phần lớn những đồ vật mà cụ không muốn rời bỏ. Bảy thế kỷ về sau, một người con trai nối dõi nhà cụ là Magnus Pháp sư rắp tâm muốn lấy lại những bảo vật đó. Cụ Pháp sư này bèn chế luyện Bàn Tay Danh Vọng rồi khai mộ tổ nhà mình lên và chiếm lấy những của xem ra có đôi chút giá trị. Tôi mong rằng cụ Pháp sư để sót lại trong đó cái vật quý nhất đối với tôi bây giờ, nghĩa là cái mảnh đồng khắc bản cổ tự thứ hai.
Oliver hỏi:
- Cô vịn vào những chứng cớ nào mà đoán những điều đó?
- Thoạt tiên tôi nhận thấy rằng Gò Thunder với Bàn tay có liên lạc với nhau từ hôm mà ông Goddard kể cho ta nghe câu chuyện con Bò Vàng với thằng quỷ canh giữ nó. Cụ Pháp sư là một thầy luyện thuốc trường sinh và tìm vàng bằng những lời thần chú: ông cụ chắc có thể dùng Bàn Tay kia trấn áp để làm tê liệt được thằng quỷ giữ của trong mồ.
Oliver:
- Cô đoán có lý lắm.
Swanhild:
- Tôi thì cứ vẫn tưởng Gò Thunder là thứ mộ phần thượng cổ dành riêng cho những vị Thầy Cả và có vị thần của họ là Con Người Quái dị coi giữ.
- Khoa học khảo cổ hễ không giải thích được điều gì thì lại đem gán cho các Thầy Cả ngày xưa. Nhưng ở đây, tên vị thần ta thấy rõ lắm. Thunder là biến thể của tiếng Thor. Vị tổ tiên nhà ông thời xưa là người chưa theo đạo Thiên Chúa, cụ thờ kính thần Thor, và Con Người quái dị là hình tượng của vị thần này, chính cụ Magnus Hammond.
- Hai bím tóc ấy, phải không?
- Phải đó. Ông tưởng đến một người đàn bà, chính những người Vikings (Bắc Hải khấu) ngày xưa để tóc dài và tết thành bím, còn cái dấu fylfot (chữ thập ngoặc) kia là biểu hiện của thần Thor.
Oliver chỉ kêu một tiếng:
- Trời!
Nhưng Swanhild còn vặn:
- Tôi vẫn chưa thấy liên lạc gì với tổ tiên nhà chúng tôi.
- Chậc! (Lời trách móc của Oliver). Thì em cứ để cho miss Bartendale nói nốt có được không?
Luna:
- Đây, tôi xin nói đến câu dịch nghĩa mà ông bác học ở Dulbin đã dò được ở những chữ cổ tự khắc vào dọc thanh gươm, câu ấy tôi mới nhận được hôm qua: “Tên ta là Helin Biter(1) ([Thanh gươm tự xưng]). Chủ nhân của ta là con trai Magnus Fairlocks”. Những chữ sau vì mòn quá không thể nào đọc được. Tôi mong rằng những chữ khắc trên mảnh đồng chôn dưới mộ đọc được rõ hơn.
Oliver lộ ra hết lòng khen phục Luna, Swanhild lại hỏi:
- Nhưng cô có tin chắc rằng những chữ kia có giá trị và quan trọng thực không?
- Tôi tin chắc thế, vì đến đời ông anh cô đây mà vẫn nhớ đến kia mà!
Bấy giờ xe hơi đang nhằm nẻo Thuder’s Barrow mà tiến. Trên đồi cao, gió thổi mạnh, cảnh vật quang đãng; nhưng bên dưới thì mù mịt, người ta không trông rõ thung lũng với những nguồn suối con. Những vệt đá vôi nổi lên khắp chỗ. Hình Người Khổng lồ trong sương, nhờ sự biến hóa dị kỳ của ánh sáng, trông khác nào một bóng ma nhuốm hồng.
Họ gặp Goddard từ phía làng xóm ra đón họ. Chàng bước lên xe và bảo mọi người:
- Tôi tìm mãi chỉ một bọn ít quá. Hornblower đem cả bản lịch của hắn đến cùng với cái đồng hồ của Đức mà con hắn bắt được hồi rút binh. Bọn họ đi từ lúc chưa sáng để làm cho sớm xong việc, vì không người nào muốn qua rừng sau lúc trời tối.
Luna hỏi:
- Ông Covert, ông kiếm được bao nhiêu người?
- Được bốn người. Hornblower là một; cái anh chàng báng bổ thần thánh nhất làng, là hai; người làm vườn mới ở cho chúng tôi, là ba, hắn ta trước đã là hướng đạo sinh; và một người thợ cuốc còn trẻ tuổi mới ra khỏi nhà trừng giới, anh chàng này thì từ thần đến quỷ chẳng còn biết sợ ai. Tôi hứa trả công thực hậu để dụ họ. Ngoài ra, ta lại còn anh Wareen, vị hôn phu của cô Kate; anh nầu chẳng cần gì hết, muốn bảo sao cũng ừ.
Oliver hỏi:
- Việc ta nhờ họ làm họ có biết là việc gì không?
- Có, tôi đã bảo cho họ biết cả. Cũng may, bốn người đều khỏe cả. Sức lực tôi đây cũng khá, còn Swanhild cũng quen với công việc cuốc vườn. Thế là được sáu tay cuốc xẻng. Bây giờ Swanhild định liệu thế nào xin bảo chúng tôi.
Trong khi Swanhild cẩn thận cầm lái xe chạy qua miền thung lũng, Luna giảng giài lại một lần nữa cho Goddard nghe. Chàng nói:
- Có một vài chỗ tôi thấy còn lờ mờ lắm. Nếu cụ Magnus Pháp sư có ý tìm vàng thì sao cụ chỉ giấu có thanh gươm thôi? Còn việc này nữa: công việc khai cái Gò Sét không ăn khớp với những lời di ngôn cuối cùng của ông cụ về chuyện căn phòng bí mật, mà cũng không là một lẽ để ông cụ phải xin ân xá tội bằng những lời tạc trên tấm bia mộ. Tôi chắc những thầy dòng ngày xưa không cho việc xâm phạm lăng mộ là một tội ác không thể chuộc được.
Luna đáp:
- Những điều ông bẻ đó, chính tôi cũng chưa kịp phân giải ra sao. Duy có điều chắc chắn bây giờ là, may lại đến lượt tôi xâm phạm vào ngôi mộ đó. Ồ! Tôi biết, ông Goddard ạ, tôi biết ý ông nghĩ rồi kia: phải có giấy phép hẳn hoi mới được khai mộ, chứ gì?
Goddard gật đầu, Oliver cương quyết nói:
- Đây là tổ ấm của tôi, trong địa hạt của tôi, mà ma quái cũng là của tôi, không ai nói vào đâu được.
Ít khi chàng dùng cái giọng nghiêm khắc đến thế.
Đến đầu con đường nhỏ, mọi người xuống xe đi bộ về phía Gò Sét. Giữa màu cảnh vật xám mờ, hai mái tóc của Luna và Swanhild in lên một điểm sáng.
Luna lấy một cuộc dây gai buộc một đầu vào một gốc thông, căng thẳng và vạch chung quanh cây đó một vòng tròn đường bán kính dài chừng trăm thước; vây lấy bốn cái cây nhỏ và chỗ trung tâm điểm của mặt Gò.
Lúc đó bọn thợ của Goddard tìm cũng vừa tới.
Hornblower đặt chiếc đồng gồ quả quít với bản lịch chỉ dẫn(1) ([Khí cụ của người Âu châu dùng để dò tìm một vài vật dưới đất]) lên một tảng đá rồi cả bọn khởi công đào khoảng đất ở trong cái vòng đã vạch. Đến trưa họ đã đào bật được mấy gốc cây con.
Trong lúc bọn thợ nghỉ tay ăn uống thì Swanhild với Goddard lấy cuôc xẻng đào tiếp theo. Luna, bà Yorke và Oliver về dùng bữa trưa ở lâu đài Dannow. Lúc trở lại Gò, họ đem cho đôi bạn mấy món đồ ăn lạnh.
Bây giờ khoảng ba giờ chiều, Hornblower đang đào ở chỗ mấy cây thông lúc trước, đứng thẳng người lên để hất một xẻng đất ra một bên. Hắn bảo Oliver:
- Đất chỗ này lạ lắm, ông ạ.
Thì ra lớp phấn chỗ ấy bị vỡ và bên trên phủ một lượt dầy thứ đất thịt đen thẫm và tốt mầu. Warren xem kỹ một lát rồi quả quyết nói rằng khắp miền này không có chỗ nào đất được tốt như thế. Anh ta nói thêm:
- Mà đây không phải một chỗ tụ đất thiên nhiên. Thứ đất này lấy ở một khu vườn nào đến hẳn thôi.
Đứng trên mép hố, Oliver ngẫm nghĩ hoài. Rồi chàng thấp tiếng nói:
- Đây là đất mùn đây.
Chàng đưa tay sờ bên thái dương, dưới đám tóc gọt là chỗ vết thương còn hơi hơi rõ.
- Hình như tôi nhận ra được kia… Không biết tôi đã trông thấy thứ đất này ở đâu rồi nhỉ… À, phải rồi: ở một buổi hạ huyệt! Phải, thứ đất này là đất nghĩa địa đây. Nhưng thứ đất thánh ấy, giống quái quỷ quái nào đã mang được đến thế?
Chương 7. CON BÒ VÀNG VÀ CON LONG XÀ
Tất cả bọn thợ đều rụt rè, không dám làm nốt, trừ có một mình Warren. Anh ta hích khuỷu tay rẽ Hornblower sang một bên rồi đào nữa. Không mấy chốc lớp đá phần hiện ra dưới lượt đất thịt phủ nông. Bây giờ những người kia lại bắt tay vào việc.
Oliver xem chừng bị kích thích dữ. Luna thì không rời mắt xem xét chàng. Nàng bảo:
- Ông Hammond ạ, ở mãi đây thì ta đến bị cảm nhiễm lạnh mất. Tôi muốn đi thăm miền Beacon hơn, và tiện thể xem cái hình Người Khổng lồ.
Vừa để tâm nghĩ ngợi, Oliver vừa dẫn hai cô cháu bà Yorke lên chỗ rồi dốc, trụi hết cây cối rằng, trên đó chân trái Người Khổng lồ gác lên. Bỗng nhiên chàng hỏi Luna:
- Lúc nãy tại sao tôi lại nói đến đất nghĩa địa nhỉ? Tôi không hiểu tại sao đấy. Dễ thường tôi hóa điên cũng nên.
- Đâu nào! Ông vẫn bình thường đấy chứ. Có lẽ mấy hôm nay tôi gợi cái ký ức tổ truyền của ông nhiều quá nên bỗng nhiên một kỷ niệm lại hiện đến trí ông đó thôi.
- Thế ai đem chỗ đất kia đến đó?
- Đối với những người nhập môn thần học thì đất thiêng là một của có phép từ trà. Cụ Pháp sư có lẽ vẫn chuyên tâm tìm tòi những thứ khác hơn là vàng kia!… Trong cái Gò kia hẳn còn giấu một sự bí mật thảm khốc nào đó.
Ba người lẳng lặng bước lên tận đỉnh đồi, một nơi kỳ thú vì còn những dấu vết cổ La Mã với ao ước nhỏ và dải cây viền bọc bao quanh. Họ tiến lên một chỗ phẳng rộng chừng năm mươi bộ: đó là khoảng đầu Người Khổng lồ. Đứng đó trông ra, phong cảnh thực kỳ diệu! Ngay dưới chân họ, ngay phía dưới ụ đất, nóc nhà làng xóm lẫn với vầng lá cây. Đằng xa, từng đoàn mây lóng lánh màu bạc trôi dưới bầu trời xanh rộng mênh mông. Một con đường vắt vẻo như một dải băng trắng chạy dần vào bóng tối đang xuống chiều.
Luna lặng ngắm bức phong cảnh ngoạn mục một vẻ não lòng đó mãi.
Oliver thì nhìn xa về phía khu rừng. Gò Thunder đặt mình trong một vòng cung những cây ủ dột. Chàng có thể trông thấy được những huyệt mà bọn thợ đã đào được và cái điểm sáng chiếc áo nịt trên mình Swanhild. Chàng ngoảnh đi, không muốn nhìn thấy cảnh quen thuộc kia nữa. Chàng liền gặp đôi mắt Luna, đôi mắt chói lòa, thăm thẳm mênh mông như cõi vô cùng bát ngát.
Lòng chàng bị đè nén. Chàng cất tiếng nói:
- Tôi đã từng sống những giây phút này rồi! Cũng dưới bầu trời này, cũng thành đá biển kia, cũng mô Gò trên có bao nhiêu thợ đất… Nhưng bọn thợ xưa kia xây đắp chứ không phá ra như bây giờ.
Luna đáp:
- Ký ức tổ truyền đấy!
- Muốn gọi là tên gì cũng được! Nhưng tôi biết rằng cách đây lâu lắm rồi, tôi đã ở đây, ở đây cũng như bây giờ, bên cạnh một người đàn bà có mớ tóc vàng ánh.
Ngượng vì những lời bồng bột hăng hái quá, chàng bỗng dịu giọng xuống khi nói câu sau cùng. Rồi, lại trân trân nhìn Luna, chàng lai say xưa nói tiếp:
- Ở đây là của tôi hết, cho đến khu rừng của miền ấp này! Địa hạt này dựng nên cho người hưởng hạnh phúc, tổ tiên tôi đã là cho nhân từ trên một ngàn năm trời này! Các cụ đã chiến đấu vì nó: đã vì nó mà hy sinh tính mệnh; cả đến cụ Pháp sư cũng vậy, cụ đã dự hồi vào chiến tranh Lưỡng Hồng. Cha tôi với anh tôi cũng đã hiến mình cho đất nước, đến chính tôi cũng đã là chiến sĩ rồi! Thế thì dù đời tôi có bị cái bóng ghê gớm của bọn quái vật kia phủ lên, tôi cũng vẫn có quyền được vui sống!
Chàng thốt những lời ấy ra với một vẻ sợ sệt dị kỳ, đôi mắt màu xanh xám của chàng lóe lên những ánh lửa đỏ.
Bấy giờ bà Yorke mới cất tiếng nói. Bà ôn tồn bảo chàng:
- Mọi người chúng ta, ai cũng có quyền được sung sướng hết, hay cũng được sung sướng theo cái độ mà oan trái tổ tiên ta, tội lỗi của chúng ta, những trường hợp hoàn cảnh và các người quanh ta vẫn để cho ta hưởng.
- Người quanh ta ư?… (Chàng kêu thé lên). Thế ra bà nghĩ đến cô Kate phải không?
- Trời ơi! Không đâu, ông ạ! Luna đã bảo ông rằng về chuyện ấy ông chẳng có gì phải ân hận tự trách kia mà!
Chàng lẩm bẩm:
- Nếu tôi mà không chống cự thì…
Bỗng nghi ngờ, chàng ngưng bặt. Rồi lại nói:
- Miss Bartendale! Có phải cô đã bảo con quái vật kia có lẽ là sự quả báo của một tội tổ tiên đó chăng, có phải đó là di tích của một quá khứ đã chết?
Luna buồn rầu đáp:
- Không còn gì sinh tồn linh hoạt bằng sự chết cả. Tôi tưởng tượng thế giới nhân loại ra một địa cầu vô cùng to lớn, mà ở khắp mặt có một ngàn năm trăm triệu người sống đang sinh hoạt bên trên; còn ở dưới là đoàn lũ âm u huyền bí của hằng hà sa số người chết. Bọn ấy nay chỉ còn là tro bụi nhưng họ vẫn ấp ghì cả những người sống mà họ đã sinh đẻ ra trên đời, họ bao bọc lấy để mà din dủi cho phải đi theo đến đường chính hay đến đường tà. Phải đó! Tôi như trông thấy được họ, trông thấy cả mộ thế giới bên kia, những ngưởi mà tâm hồn, mà tư tưởng với lời nói việc làm đều còn trường cửu truyền dõi lại ở chúng ta là bọn người sống.
Nàng chợt rùng mình lên. Oliver hỏi:
- Thế ra ta chỉ là những phản ảnh của tổ tiên ta thôi sao?
- Không phải thế đâu, ông Hammond ạ. Cái bản lĩnh riêng, tức là thứ ánh sáng mà Trời phú riêng cho mọi người chúng ta kia, khiến cho ta có thể chống cưỡng lại được sự di truyền mà vượt hẳn lên. Nếu tôi không cầm chắc được rằng Thunder’s Barrow giấu chìa khóa, cái bí quyết một thế lực ma quái ám ảnh các con cháu nối dõi cụ Magnus., thì tôi đã chẳng khai bới gò Thunder làm gì.
Oliver đáp một cách vô tâm:
- Cái đó cố nhiên.
Rồi bỗng nhiên chàng nói:
- Miss Bartendale ạ, cô cho rằng cụ thủy tổ nhà Hammond, cái người Đan Mạch tên là Magnus ấy, cô cho rằng đã tàn sát cả gia đình người vợ là Edith, phải không. Nếu cô tưởng thế thì tôi dám chắc cô đã lầm đó.
- Vậy ư? Tôi thì tôi không thể tưởng tượng được rằng một tay hải khấu lại xin cưới một người đàn bà hồng mau mà không biết hại phụ huynh của người ấy trước.
- Sao vậy? Người đàn ông kia vì tình yêu mà có thể quý mến họ hàng người đàn bà được chứ?
- Tôi càng không thể tưởng rằng một tay ngược Bắc Âu lại bỏ cuộc đời tung hoành của mình để được lòng một người đàn bà.
Thế mà hai bên tâm đầu ý hợp được đấy. Mà cũng chỉ trong dăm bảy ngày là đủ cho họ hiểu nhau, chỉ từ ngày thứ hai tuần trước đến thứ hai tuần sau thôi. Tôi biết chắc như thế đó.
Màu da trắng xanh của Luna bỗng thành ửng đỏ Oliver vội vàng nhìn đi. Chàng nói tiếp:
- Tôi ăn nói như đứa trẻ nhỏ vậy, cô nhỉ. Tôi không biết đối với tôi cô nghĩ thế nào… Tôi thì trong mấy ngày gần đây, sao mà tôi sung sướng thế! Cứ được như thế mãi chẳng đẹp đẽ quá sao? Tôi biết tình thế ác nghiệt của đời, cũng như cụ Magnus đã hiểu hết tình đời một bữa cụ trầm ngâm ở đây trước vị thần của giống Đan Mạch. Hẳn cô cho tôi là người điên rồ nhỉ, phải không miss Bartendale?
Luna ngập ngừng một lát rồi mới cố tĩnh sẵng tiếng đáp:
- Ông Hammond ạ, ông vừa mới đau dậy. Tính tình ông dễ bị xúc động mà tôi lại gợi những ký ức của tổ tiên ông trong tâm trí, làm ông bị kích động thêm…
Giữa lúc đó, ba người trông thấy Swanhild vừa leo ra khỏi cái hố. Swanhild lớn tiếng gọi:
- Xuống đây mau lên! Chúng tôi tìm thấy con Bò Vàng rồi!
Luna ngạc nhiên hỏi:
- Thế nào? Tìm thấy con Bò Vàng?
Bọn đàn ông đang đừng quây lại trên mép hố sâu và rộng. Goddard hì hục cố lấy lên khỏi đáy một vật nặng, lớn bằng một người và trông chẳng ra hình thù gì. Toàn thể đều một màu, lác đác có mấy điểm vàng ở những chỗ bị cạo sứt.
Warren nậy ra một miếng, xát mạnh lên áo để làm rơi ra lượt đất bám ngoài. Cái miếng ấy to và dầy bằng cái nắp hộp đựng mũ. Có những đinh rỉ xanh dóng ở hai đầu.
Hốt nhiên, không ai bảo ai mà cả bọn thợ cùng lặng người nhìn thấy chân trời đỏ hồng lửa mặt trời lặn. Rồi Hornblower tách ra khỏi bọn để tra bản lịch và xem những dấu chỉ trên chiếc đồng hồ của hắn ta.
Warren bàn:
- Có lẽ đây là một tượng thần chăng?
Goddard:
- Gỗ thông bọc vàng đây mà, bọc vàng lá đồng lại bằng những đinh đồng.
Oliver nhảy xuống huyệt xem và nói ngay:
- Không phải Bò Vàng mà tượng thần cũng không phải nốt.
Rồi ngửng nhìn lên qua lớp cây thông cái thân hình vừng núi Beacon nổi đen trên nền trời bầm tím, chàng thấp tiếng nói tiếp:
- Vậy thì là cái gì được? Gỗ thông vẫn riêng dùng để tạc tượng thần kia mà? Với lại… À mà! Gỗ có phủ sơn và thép vàng, đây! Một vật vươn lên… Phải rồi! (Chàng bát ngát mê man, reo lớn tiếng). Một hình mũi hải thuyền! (1) ([Thuyền bể cổ thời Âu châu thường có những hình người hoặc một vài giống thú tạc ở đằng mũi]) phải, một hình tượng ở đầu một chiếc chiến thuyền cổ. Ta đang đứng phía trên sân tàu một chiếc tàu buồm của tổ tiên ta đó, em Swanhild ạ! Chỉ một đôi thước đất nữa là đến nơi rồi. Em có nhớ ra không. Anh thì anh nhớ: chính trên con tàu này cụ Magnus đã ngược sông Adur đó. Rồi về sau, khi ông cụ mất, người ta đã táng ông cụ cùng với cả chiếc tàu. Chỗ thành tàu phía trước kia kìa. Còn chỗ này… (chàng đạo mạo trỏ xuống hai bên pho tượng nằm dưới đất) chính cụ Magnus ở chỗ này, ở phía dưới sân tàu của cụ đó. Cái miếng đồng màu xanh và hình lá chính ở dưới chân cụ.
Luna cũng cất tiếng nói:
- Một chiếc tàu lấy làm quan tài, với một hình tượng mũi tàu! Ồ! Sao tôi không nghĩ tới điều đó nhỉ?
Trong lúc Oliver mãi nói, Hornblower đi mặc áo cùng với các thợ đất; bấy giờ hắn trở vào và bảo:
- Thưa ông Hammond, nửa giờ nữa mặt trời đã lặn. Chúng tôi xin về đây.
Vẻ ngây ngô lo sợ hiện rõ trên từng nét mặt mỗi người trong bọn họ. Nói đến thế nào với họ cũng không ích gì.
Luna hỏi:
- Thế này thì làm thế nào mà đào xong được? Mà không xong ngay bây giờ thì một nửa phóng viên nhà báo ở London nghe tin đồn, thế nào sáng mai cũng kéo cả đến đây.
Oliver:
- Ba người mà cùng làm thì một giờ có thể xong được.
Swanhild lại cầm thuổng và bảo:
- Nếu vậy thì anh về nhà đi, em cùng với anh Goddard đào nốt cũng được.
Oliver:
- Không. Tôi ở lại kia. Chưa đến đêm tối thì tôi chưa có gì phải lo sợ, miss Bartendale bảo thế đấy.
Luna nói thêm:
- Mà dẫu ban đêm nữa, khi có tôi đó thì ông cũng chẳng phải lo sợ gì. Tôi đã có cách báo trước cho ông tránh.
Goddard lấy làm lạ hỏi:
- Thế sao cô không bảo cho chúng tôi biết cách ấy với?
Nàng phân giải:
- Là vì có những phép phải luyện tập quen tay dùng đến mới không nguy hiểm.
Bà Yorke bảo chung mọi người:
- Tôi cuốc đất một lúc cũng chẳng sao. Tôi muốn có mặt đây trong lúc quan trọng hơn là về nghỉ. Nhưng muốn đào tìm đến nơi đến chốn hẳn phải có thêm những khí cụ nữa.
Miss Bartendale và Oliver liền quyết định cùng về lâu đài Dannow tìm những đồ chưa có. Oliver xin hứa lúc qua rừng sẽ theo con đường không có cây lá um tùm.
Chương 8. TRONG CĂN PHÒNG BÍ MẬT… ĐÊM NAY
Lúc hai người ở Dannow trở lại cạnh khu rừng thì trời chưa tối hẳn. Dẫy thành đá biển sừng sững xa trông thấy rõ một cách dị thường dưới một mầu trời bất định, phơn phớt vàng úa ở phía sau Thunder’s Barrow. Một khuôn trắng rụt rè ló ra trên phía làng xóm, một vài cửa sổ kính ở đó phản chiếu một thứ sáng mầu đồng. Sương mù đã tan hết, để lại một không khí rét khan.
Không có gió thổi hoài từ bờ bể về đây, thứ gió luồng mạnh làm uốn mình cây cối, thì sự im lặng thực hoàn toàn. Oliver với Luna đương bước trên một lối quang bóng lá bỗng nghe thấy tiếng kêu thé lên.
Oliver bảo:
- Tiếng thỏ đấy. Lại có một thằng khốn nạn đặt bẫy trong rừng rồi!
Đôi mắt chàng long lanh một tia lửa giận. Luna nói:
- Gần đây thôi! Roska! Vào với tao!
Oliver nắm cổ tay nàng giữ lại.
- Tôi không việc gì đâu, ông đừng sợ.
Nàng vừa nói thế thì một tiếng kêu tội nghiệp nữa đưa ra. Chàng lớn tiếng bảo Luna lại:
- Cô đừng vào!
Nhưng nàng không đáp, cứ chạy lên, con Roska theo liền gót. Chàng vừa lưỡng lự vừa bước trên nệm lá khô và trông thấy nàng thấp thoáng đằng xa tìm lục các bụi cây theo tiếng kêu của con vật. Chàng cất tiếng gọi, nhưng gió thổi át đi.
Không khí được mùi nhựa thông, trong đầu óc chàng thanh niên, một sự hình như đang quay cuồng, khiến chàng sôi nổi hẳn, và trái tim bị vấp động. Một luồng nhiệt độ chạy tràn lan khắp thân thể to lớn của chàng. Chàng thấy hớn hở trong người, rành rẽ một cách huyền dịu chàng cảm biết tất cả các bộ bắp thịt hòa đối với mình, chàng nhận thấy rằng chân mình dầy xéo trên lớp dải lá thông, chàng tưởng thấy được nguồn máu chạy trong gân mạch. Hơn nữa, chàng hưởng một cảm giác say xưa là đã từng sống những khoảnh khắc như thế. Tất cả mọi cái chàng đều quen thuộc hết, những cây thông kia, thứ bóng rừng mập mờ âm tối ấy, và cả chính chàng đây nữa, chàng khác nào một vị thần tiên trai trẻ đang rượt theo một người thiếu phụ chạy trốn trước mặt mình. Chàng đã quên hẳn con quái vật với cuộc săn đuổi bấy giờ. Lòng sợ hãi không còn, lòng thương hại cũng mất và nếu không nghĩ một chút thì đến tên chàng chàng cũng không biết gọi là gì. Lúc này chàng chỉ còn là một chàng trai được mặc sức tự do, oai vệ giữa khoảng rừng âm u trong đó lang thang một người đàn bà có mớ tóc vàng ánh. Phải, bao nhiêu sự đó đã từng diễn ra thuở trước, mà cái giây phút bấy giờ thu gồm tất cả hạnh phúc của trần gian, một hạnh phúc thêm quý giá hoàn toàn vì chàng chưa tới chỗ tột cùng, tới cái điểm chỉ cách chàng có một bươc tiến.
Một bóng đen thoáng qua gần chàng. Chàng tiến đến với Luna lúc đó lom khom quý ở đầu một ngõ toàn thông đứng. Roska thì ngồi cạnh cô chủ như một bóng ma tối đen.
Luna giơ cho chàng xem một cái bẫy trống không. Nàng bảo:
Tôi nghiệp, nhưng con vật chỉ bị gẫy què có một chân. Đối với con vật bị què, sự sống cũng vẫn còn đáng quý.
Mắt nàng gặp mắt Oliver. Nàng liền đứng lên. Chàng không cử động chút nào, sợ phá huỷ mất cái cảm giác tuyệt dịu mà chàng được hưởng. Trong giây lâu, đôi bên cứ nhìn nhau như thế mãi. Sau cùng Luna cố tình ngoảnh đi và liệng cái bẫy ra xa. Thế là phút thần tiên biến mất.
Bỗng nhiên, Oliver lẩm bẩm:
- Rừng thông đây?… Trời rét và có sao… (chàng thét lên) chạy đi! Trốn đi! Con quái vật đến đấy!
Chàng cảm thấy một tử khí, cùng với một sự ghê tởm lấn tới tâm hồn; hình như có một vật gì hư ảo quay vòng quanh chàng, một hình bóng không chạm thấy được và có một sức đè ám nặng nề, một sự đau xót quá đỗi mà lại vừa không động đến được giác quan phàm trần của chàng. Không có định tâm, bất ngờ chàng hét lên một tiếng, vang bên tai chàng như một tiếng hầm hè cáu giận cất lên ở miệng kẻ kia:
- Hây sa…a a!…
Chàng nâng bổng Luna lên trong cánh tay còn mạnh của chàng, ngoắt quay mình rồi nhằm đường cắm cổ chạy. Con chó êm lặng theo sau.
Bây giờ Luna lấy trong túi ra ngọn đèn bấm nàng đem theo sẵn để soi dưới huyệt lúc trước, dọi ánh sáng vào các vừng và xuống mặt đất rồi sau cùng chĩa lên mặt Oliver.
- Chẳng có chi ở đây hết. (Nàng bình tĩnh nói)
Câu nói ấy làm tan hẳn cái ma lực kinh khủng vừa rồi. Oliver chỉ còn thấy quanh mình những cây cối lù đen trên cánh tay mình ôm chặt một người đàn bà, với trước mặt mình, con chó đang chạy. Tuy vậy, lúc ra khỏi rừng chàng mới thực yên tâm. Chàng nói bằng một vẻ đắc thắng dữ dội với Luna:
- Tôi thoát khỏi tay nó rồi!
Nàng đáp gọn một câu:
- Tôi bắt nó phải chịu phép đó.
Chàng cãi:
- Chính tôi, tôi đã thắng được nó đấy. Trời đã cho tôi đủ sức đánh bại nó để cứu cô đấy.
Luna lo ngại, khẽ kêu lên:
- Không, tôi mới thực đã có phép khuất phục được nó kia.
Chàng đắc ý phá lên cười, rồi đành nhận:
- Thế thì cứ bảo là cả hai người cùng đánh nó thua vậy.
Bỗng Luna bảo:
- Ông để tôi đứng xuống đất thôi.
Thì ra cả hai đều không nghĩ đến cái dáng điệu kỳ dị của mình. Đối với Oliver, trong khi cái phần minh mẫn của chàng cãi vả với Luna, thì cái phần thấy rất tự nhiên việc ôm sát lấy nàng ở trước cảnh trời cao rộng. Chùm sao – những điểm sáng nhỏ dịu, hình bóng của những ngôi sao lấp lánh ngàn năm về trước, là hồi chàng đã từng ôm một người đàn bà trong tay và từng hưởng vị hạnh phúc say sưa tới đau đớn. mà những quả cây thủy tùng kia ở ngay gần đó, phải chăng là cặp môi đỏ thắm của Luna, hay là cái miệng của nàng chỉ là hình nhắc lại những quỷ thủy tùng chín đỏ trên cây ngàn năm thuở trước?
Câu nói lúc nãy của người thiếu phụ đánh thức Oliver tỉnh các giấc mơ màng vừa mờ ảo vừa rõ rệt: vang bóng phai lợt của một thời trong đó tổ tiên chàng đã tự mình chiếm đoạt lấy người bạn trăm năm.
Chàng đặt Luna xuống đất, không có lấy một lời xin lỗi hay phân trần nào. Một sự cảm động kì dị còn vương trong trí chàng. Rồi những hình ảnh của tâm tưởng biến đi dần dần, chàng trở lại sáng suốt.
Luna hỏi:
- Này ông kêu lên câu gì vậy?
- Tôi cũng chẳng biết nữa, tôi cứ tự nhiên kêu lên thôi. Hay là tôi chợt nhớ lại được câu thần chú có thể xua đuổi con quái vật, nhỉ?
- Không phải. Tôi đã nhận ra tiếng kêu ấy, mà tôi lại biết cả nghĩa tiếng ấy rồi. Nếu ta tìm thấy được câu cổ tự nào trên miếng đồng thứ hai thì… nào ta đi, đi ông.
Hai người lại thẳng đường trước mà đi. Oliver mỉm cười. Cái thời kỳ giao thiệp của nhà chủ đối với bà thầy nay đã mãn rồi: bây giờ đôi bên cư xử với nhau đã được như ý chàng mong ước. Chàng chẳng cần phải nói, Luna cũng không còn là gì cái tình quyến luyến mà nàng gây ra trong lòng chàng: nàng đã đọc thấy tình cảm đó ở đôi mắt người trai trẻ. Chàng ngẩn nhìn khu rừng âm tối và lại mỉm cười. Chàng sung sướng vì đã gặp con quái vật và đã thắng được nó. Nó là giống gì mặc dầu, con quái vật kia cũng không hại được nàng, mà đến chàng nó cũng không làm gì được khi mà hai người cứ ở gần nhau.
Luna dò hết những ý nghĩ kia trên mặt chàng. Trong giây lát nàng đã toan đem cả sự thực nói ngay cho chàng biết để đánh đổ những mộng tưởng hão huyền kia đi và để cắt nhẹ cho lòng nàng cái ách nặng nề vẫn đè nén. Nàng nên chống cự với sự chiều hướng của lòng mình đối với chàng ngay từ lúc chưa quá mới phải. Nhưng nói hết với chàng những điều mà nàng biết tức là tự tay phá hủy mất bao đường dây che chở mà tài năng và thông minh của nàng đã chằng mắc ở quanh bản mệnh Oliver Hammond.
Nàng sẵng tiếng nói:
- Con quái vật không thể làm gì tôi nổi đâu. Nhưng ông phải nhớ rằng ông đã hứa tránh mặt nó.
Chàng cãi:
- Không có cô ở gần thì không có xông pha liều lĩnh bao giờ. Này, miss Bartendale ạ, tôi thấy một cảm tưởng ngộ nghĩnh lạ: tôi thấy hình như tôi vừa là tôi lại vừa là những người sống những đời trên tôi. Điều đó tuy có hại cho sức khỏe của tôi đôi chút thực, nhưng thực là một chứng bệnh dễ chịu.
Luna bị dầy vò bởi cuộc chiến đấu trong thâm tâm, nàng gượng gạo đáp:
- Khi nào ông biết rõ sự thực thì ông không còn có một chút bệnh nào gì nữa hết.
Hai người đã đi hết con đường. Swanhild chạy lên đón họ. Nàng reo to:
- Chúng tôi đã đào tới mặt sàn tàu rồi đấy!
Cạnh mép huyệt, Warren đang ngồi nghỉ trên một đống vừa đá vừa các thứ gỗ đất, gỗ, xúc ở dưới mồ lên. Goddard gõ cái xẻng ở tay xuống một khoảng mặt gỗ đen sạm và nói:
- Mục nát lắm rồi! Vôi đổ dưới này làm ruỗng mất cả. Bây giờ chừng phải nậy bật mặt gỗ lên, phải không?
Trước khi quyết định hẳn, Luna rờn rợn khắp người. Lập những giả thuyết trong suy luận là một chuyện, mà khai quật một người chết, dù là bao thế kỷ trước, lại là một chuyện khác. Warren muốn xuống nhưng Oliver ngăn lại. Chàng đoán biết những ý nghĩ trong trí miss Bartendale.
Nghiêm giọng, chàng nói:
- Không việc gì phải động đến giấc ngủ của cụ Magnus. Cứ để tôi xuống xem.
Chàng nhảy xuống mặt sân tàu rồi xem xét một hồi rất kỹ lưỡng, chàng bảo:
- Mũ đội đầu ông cụ ở ngay chỗ anh đứng đó, Goddard ạ. Hai mớ tóc tết bím thì ở phía dưới chỗ tôi, còn mảnh đồng mà ta cần tìm thì ở dưới chân ông cụ, vậy chắc hẳn ở vào khoảng này đây. Cứ chỗ này mà đào, nhưng phải cẩn thận đấy!
Nửa giờ sau – lúc ấy mặt trăng chưa lên hẳn - Warren với Goddard theo lời Oliver chỉ, lấy lên được một chiếc giầy da đã nát, một cái mớ tóc vàng cài ở lỗ khuy. Chiếc giầy như một lớp mỏng bụi vàng trước kia đã là một khẩu xương của ông cụ; họ đem lại vùi xuống chỗ cũ. Tìm nữa, họ lấy được ba mảnh đồng, đem ghép lại thì thành cái miếng đồng mà Luna đã đặt bao hy vọng lên.
Không khí khô ráo trong đó giữ được khỏi hoen ố, nhưng mấy mảnh đồng đã bị vôi ăn mòn. Oliver và Luna dùng bao tay bằng da chùi nhẵn cái mảnh lớn nhất nhưng sự hư hỏng không sao vớt lại được nữa: những chữ cổ tự đã bị xóa hết mọi nét rồi.
Trong lúc Goddard với Warren tạm đậy cửa mộ lại để hôm sau bưng nốt, thì Luna với anh em Oliver xem xét mấy mảnh đồng. Một lúc lâu, Swanhild khẽ rùng mình và hỏi:
- Thế nào?
Luna lưỡng lự rồi đáp:
- Không được việc gì nữa rồi.
Oliver:
- Không còn cách nào nữa sao?
- Không. Về mặt này thế là hết nước, xin đành chịu. Nhưng tôi sẽ dùng cách khác vậy, sẽ dùng một cách tôi rất ghét dùng.
Giọng nàng được một vẻ buồn chán kỳ dị.
Nàng bực dọc ngoắt đi và trở ra chỗ xe hơi với Swanhild. Cảnh đồng núi đẫm trong màu sương lam mờ. Trên khu rừng đầy âm khí. Con Người Quái gở hình như phá lên một trận cười mênh mông.
Swanhild lấy chăn khoác cho Luna và đánh bạo hỏi một câu mà nàng rất nóng biết:
- Miss Bartendale ạ, cái cách mà cô nói lúc nãy là cách nào vậy?
Luna:
- Tôi muốn bắt con quái vật phải xuất đầu lộ diện đêm nay trong căn phòng bí mật, rồi tôi sẽ nói nguyên do nó ở đâu mà ra.
- Cô có phép làm được thế kia ư?
Câu hỏi của nàng khẽ thốt lên và mắt nàng sợ sệt đưa về phía rừng, tưởng đâu con quái vật sẵn sàng đáp lại được. Luna nói:
- Phải, tôi có phép làm được, mà cô cũng sẽ được xem.
- Thế tôi sẽ trông thấy con quái vật sao?
- Nhưng nó không làm gì hại đến cô được đâu, vì tôi trị được nó. Cô không chết vì gặp nó đâu, song từ lúc đó trở đi thì cuộc đời của cô không còn giống như từ trước đến nay nữa. Muốn cứu thoát anh cô, cô cần phải biết rõ sự thực. Vậy cô có sợ không?
- Sợ, nhưng tôi cũng cứ đến. Vả lại, sau điều chúng tôi đã thấy trong hồi chiến tranh thì…
- Chưa có điều ghê gớm nào làm nhẹ bớt được cái điều mà tôi sẽ cho cô biết đâu. Mà cô đừng có nói gì qua với hai ông kia đó, việc này chỉ ta biết với nhau thôi.
Swanhild hứa sẽ giữ miệng. Xét cho cùng thì trông thấy con quái vật cũng không ghê gớm quá đến thế, khi đã biết trước giờ nào sẽ thấy, và thấy ở chỗ nào!
Nàng thấp tiếng nhắc lại:
- Trong phòng bí mật, đêm nay…
Hốt nhiên Luna khẽ nhắc im: phía sau hai người, Goddard đã tiến đến. Chàng kiếu bữa cơm tối mà anh em Oliver mời, và xin thẳng về nhà.
Cái việc xông xáo ngôi mộ vừa rồi đã khiến mấy người giá lạnh, cho cả Luna xem chừng cũng phải sờn lòng. Vả lại chàng còn nóng muốn được cặm cụi ngay trong việc xem xét những giấy má cũ. Không ai kịp hỏi han đến công việc của chàng, vậy mà chàng đã dò đọc được ba đoạn trên đó có tên Warlock và nhiều điều có thể dẫn lối cho công cuộc điều tra chung. Trên bản giấy má đó, một người được mục kích việc xưa đã thuật lại những sự rủi ro của cụ Warlock trong khi cụ đào tìm trong ngôi mộ. Goddard muốn chép hết tập cảo rồi mới nói cho mọi người biết, nhưng vì cả ngày làm việc giữa trời chàng đã nhọc mệt quá, chàng đành thôi.
Tuy thế, tin chắc rằng dù chưa đầy đủ những điều tìm ra kia cũng làm nhẹ bớt được việc cho Luna, chàng mới nhất định để chậm hơn, sẽ đưa ngay cho Luna biết: chàng liền lại đi lên lầu Dannow. Thực ra, trong thâm tâm chàng cũng có áy náy muốn được gặp Swanhild, mà ban nãy, lúc bước lên xe, chàng bắt gặp thấy có cử chỉ khác lạ.
Goddard theo lối tắt qua rừng rồi dọc theo bờ hào phía tây khu ấp. Lầu Dannow cũng theo phần nhiều nhà cửa miền Sussex, ngoảnh mặt ra phía Bắc: thành thử chàng phải đi quanh một vòng. Những vừng cây lá lẫn sắc với vòm trời trong một màu xám mờ không phân biệt được. Duy chỉ có cái hình kỳ quái ngàn năm là sừng sững nổi lên trên đỉnh đồi.
Đi tới chỗ cầu hào, Goddard đứng dừng lại kinh ngạc; chàng thấy trong phòng bí mật có ánh sáng! Thế là ngay lúc ấy cử chỉ Swanhild thì thầm với Luna lúc trước lại hiện đến trí chàng. Chàng thấy rõ được ý nghĩa câu nói của nàng: “trong phòng bí mật, đêm nay…”.
Câu ấy quay lên trong đầu óc chàng trong khi chàng lại đưa chân bước. Thiếu chút nữa, vì đãng trí chàng bị ngã xuống đám nước tù váng dưới hào; chàng víu chặt lấy một cành thông mà chàng vừa kịp nắm được. Trên đầu chàng, cách chừng hơn một chục thước Anh, là cái lỗ cửa sổ căn phòng kín. Một luồng sáng kỳ dị mờ mờ xanh một màu bí mật, tự đó soi ra. Nếu trong ấy có người thì tại sao họ để trống, không đóng cánh gỗ lại?
Một nỗi lo sợ không suy nghĩ làm sôi nổi cuống quýt lòng anh chàng nặng tình. Sau bức tường này có những chuyện gì đây? Chàng cũng chẳng nghĩ đâu đến lối tọc mạch không lịch sự của mình nữa: nếu có những điều thảm khốc đang sắp xảy ra thì chỉ có một mình chàng là có thể ngăn được thôi. Vậy thì, mặc thây cả lễ độ! Chàng đi vắt áo phủ ngoài lên thành cầu rồi trở lại dưới cửa sổ. Chàng bám lấy những cây leo, có những thân già to như dây chão và trèo lên dọc tường, chàng luồn lách trong cành lá như một con rắn, mặc cho gió thổi từng cơn lay lắc mạnh. Trèo tới gần cửa sổ, chàng níu lấy những song sắt và đứng vững chân lên chỗ đường gạch xây nhô trên mặt tường.
Từ chỗ nấp đó, chàng chỉ thấy được lần song sắt bên trong. Những tiếng nói – tiếng của Luna – đưa tới tai chàng. Chàng đã từng nhận thấy cái mãnh lực huyền bí của giọng nói kia. Đêm nay giọng nói đưa lên, sắc nhọn, nhẹ nhàng, âm thầm hoặc đanh thép. Bỗng nhiên ánh sáng vụt tắt.
- Ngươi đang ở trong rừng thông đây. Sao long lanh. Trời giá rét. Có sao sáng, có gió lạnh, có mùi thông… Ngươi không thể qua những nét vạch dưới đất. Bên ngoài nét vạch ấy có một nhân mạng làm vật hy sinh cho ngươi. Ta có quyền lực để chiêu hồn ngươi về đây hỡi Hammond muôn kiếp! Giữa rừng thông, trong giá rét dươi ánh sao sáng, ta truyền cho ngươi hiện về, hỡi linh hồn thoát thể! Nhân danh quý thần Ases, nhân danh Odin cha cả muôn loài, nhân danh Vingi Thor, nhân danh Asa Lok, hỡi Hammond linh hồn thoát thể! Hãy mặc lấy lốt cũ mà hiện về!
Thứ văn chầu siêu phàm và buồn buồn một điệu kia ngừng lại. Trong những giây phút im lặng ấy, gió vù vù thổi mạnh bên tai Goddard. Rồi, thốt nhiên, át cả tiếng bão táp, một tiếng rú kinh khủng vang lên làm rựng tóc gáy người thanh niên. Tiếng rú quái gở tiếp nối thành một tràng tiếng, the thé lại gầm gừ, lại vang chìm rồi nổ ròn, khi như hơi thú, khi như giọng người, vừa ngạo nghễ vừa chán chường, vừa reo mừng vừa cay đắng. Bao nhiêu căm hờn, bao nhiêu dậm dật, tất cả bao nhiêu dục vọng bỉ ổi của một linh hồn hư hỏng vì tà khúc đều thốt ra trong tiếng rú phi thường kia.
Goddard hiểu ngay: chàng vừa nghe thấy tiếng con quái vật. Nó rống đến ba lượt. Rồi một tiếng khác nức nở đưa lên. Đó là tiếng Swanhild, nàng kêu van:
- Luna! Trời ơi!…
Những tiếng gầm rống lại nổi lên. Swanhild giọng chua xót lại cất tiếng:
- Luna, Luna! Tôi không còn sức nào chịu được như thế nữa đâu!
Ánh sáng lại bật lên, tức khắc tiếng gầm im bặt.
Kinh dị hết sức, Goddard vẫn bám mãi ở lưng chừng đám cây leo. Cánh cửa gỗ bên trong đã đóng lại rồi và Luna hẳn lại tiếp theo việc thí nghiệm nguy hiểm. Thế ra cái gương cụ Warlock không để nàng thấy điều tai hại nào ư? Mà Swanhild lại ở trong kia, đang ở ngay trên mép bờ hoảng hốt – Xưa nay Swanhild dù ở trong cảnh rủi ro oan khổ nào nhất, có hề kêu khóc hay khiếp nhược như thế bao giờ đâu!
Cái tai nạn nàng đang mắc phải kia đem trả lại chí quả quyết và lòng can đảm cho chàng: chàng phải mau mau giằng kéo nàng ra khỏi căn phòng kín mới được! Chàng không thể vào đó do đường lối trong nhà vì Swanhild vẫn quen khóa cửa lại, trừ cánh cửa văn phòng. Còn những lượt song kia thì không thể lay chuyển được. Trông thấy những gợn nhỏ dưới mặt nước hào đen ngòm. Goddard chợt nghĩ đến cái căn hầm có bể trữ nước. Chàng đã từng đùa nghịch trong lầu nhiều lần với Reggie và Oliver, nên biết được các đường ngang lối ngách. Chàng nhớ ra rằng các hào đều ăn thông với bể trữ bên trong do một mạch nước hẹp vừa đủ cho một người mảnh dẻ để lách qua.
Thực là vất vả! Ngay giữa ban ngày mà trước kia ba cậu con trai phải dắt đỡ nhau mới cố mà qua được bước ấy. Nhưng cái ý tưởng đi cấp cứu Swanhild thêm sức cho anh chàng. Hai lần Goddard hụt tay. Phải lặn đến lượt thứ ba chàng mới nắm được một chỗ sù sì trong kẽ đá. Sức nước chảy mạnh đến nỗi ấn đầu chàng vào giữa vai mà buồng phổi thì hình như muốn vỡ. Mặc dầu, chàng vẫn cứ lách trong cái mạch nhỏ hẹp mà tiến dần. Bỗng sức đè nán bớt đi. Gắng một hơi cuối cùng nữa để cưỡng với cái sức hút nó miết chàng vào trong thành bể, thế là chàng nhô được lên khỏi mặt nước.
Trông chung quanh im ắng và tối mò, một vệt sáng xẻ mặt trần hầm và cho Goddard biết chàng đã đoán không sai: cửa phòng bí mật còn mở. Nhảy hai bước, chàng đã đến cái đường ngạch trước cửa phòng.
Chàng đứng lặng một hồi, trống ngực đập mạnh. Lát nữa chàng sẽ khám phá những điều gì đây? Cái im lặng như chết kia khiến chàng không lo sợ; chàng tiến bước và mạnh bạo vào phòng.
Chương 9. BAO NHIÊU CHUYỆN, CHỈ Ở TRONG MỘT TIẾNG THÔI
Swanhild ngồi có một mình. Thoại nhìn, chàng đã tưởng nàng chết mất rồi. Sự phân tách khác thường của ý thức do khi gặp những xúc động mạnh gây nên, khiến chàng lấy làm lạ sao mình bình tĩnh được đến thế.
Cái bàn của cụ Pháp sư đã kéo dẹp vào một góc ở phía dưới chân thang. Ngọn đèn soi rõ ba bề bốn bên trong căn phòng và nhất là chỗ Swanhild đang chống khuỷu tay lên bàn, mặt úp vùi trong hai cánh tay khoanh lại. Bụi rác cùng những tảng đá đều đầy dồn về rẻo chân tường và trên khảong mặt đất dọn quang một hình vạch phấn vẽ thành một ngôi sao năm cạnh gọi là hình ngũ giác. Ở giữa nằm một chiếc ghế dựa đổ. Chung quanh đặt cái Bàn Tay Danh Vọng, thanh gươm gẫy và những mảnh nậyt ra ở cái tượng mũi tàu.
Trong một giây đồng hồ, Goddard ghi hận được đủ bằng thứ ấy. Bậc thang kêu cọt kẹt dưới bước nặng nhọc của chàng. Swanhild ngẩng đầu lên rồi đứng dậy. Thong thả, chàng bước lại gần nàng. Người thiếu nữ cất tiếng nói:
- Anh Goddard! Em biết mà! Em chắc thế nào anh cũng đến, giữa cái lúc… Ồ! Mà!… (Giọng nàng nghe thiểu não quá) mà sao anh không đến từ trước đây mười phút?
Nàng ấp hai bàn tay che lấy m,ặt: sự lkhuây lkhỏa chàng đem tới chốc lát lúc mới vào, nay đã biến rồi, nhường chỗ lại cho lòng kinh tởm. Goddard nắm lấy cổ tay Swanhild:
- Thôi, ta ra đi! Tôi biết lúc nãy con quái vật ở trong này, có cả miss Bartendale nữa.
- Phải rồi. Nó huiện về đấy, Goddard ạ. Nhưng anh làm thế nào vào được đây thế? Mà sao quần áo anh ướt thế này?
- Tôi lội qua hào. Nhưng các chuey65n vừa rồi là thế nào?
Nàng dần dần đã định được vị trí:
- Em vừa trông thấy con quái vật. Em khiếp sợ quá, nhưng có miss Bartendale đó thì không lo nguy hiểm gì, hay là không nguy đến thân thể.
- Là vì lúc đó nó ở trong hình ngũ giác phải không?
Chàng cũng đã giữ lại bình tĩnh. Bao nhiêu điều chàng nghe biết về cái hình vẽ linh nghiệm trở đến trí nhớ chàng: không một giống ma quái nào vượt qua được những nét vẽ.
Swanhild lo ngại hỏi chàng:
- Thế anh đã biết được những điều gì rồi?
- Tôi mới biết những cái đã nghe thấy lúc cánh cửa sổ chưa đóng lại. Sau lúc ấy thì tôi tìm cách vào đây với Swanhild.
Nàng âu yếm nhìn chàng:
- Thế ư? Anh Goddard!
Rồi bỗng gương mặt sầm buồn, nàng nhắc lại:
- Sớm mười phút trước thì… Anh không nghe thấy gì khác nữa chứ?
- Không. Nhưng còn Swanhild thì Swanhild thấy những gì?
- Tôi không thể nói cho anh biết được.
Nàng không giữ được bình tĩnh nữa và sụt sùi khóc:
- Khổ quá đi thôi! Trời kia cho Oliver được sống làm gì, để phải đi đến bước ấy? Thà trời cứ để cho anh ấy chết vinh hiển ở mặt trận có hơn không!
- Đừng! Swan! Em nói thế nhưng em đâu lại nghĩ thế!
- Em nghĩ như thế đấy, thế có khổ không! Bây giờ thì em biết cụ Pháp sư và ông em tại sao lại quyên sinh sau khi…
- Swanhild!
Chàng hấp tấp chạy sang phía bàn bên kia, giữ người thiếu nữ trong tay mình, sợ nàng đến mất trí. Nàng vội nói ngay, vừa tránh xa chàng, đôi mắt long ra vì kinh hoảng:
- Không! Anh Goddard, anh đừng sợ gì hết. Phần em, thì lại không thế được nữa. Luna đã báo trước cho em biết, nhưng em phải thấy rõ sự thực em mới tin. Đến bây giờ thì thôi, không còn sự gì giữ em ở đời này nữa.
- Còn chứ. Bổn phận của cô. Cô còn phải trông nom cho một người, người ấy cũng sẽ phải biết sự thực.
Để cả tâm trí áy áy về Swanhild, Goddard đã quên mất người thiếu phụ. Trong thân áo chùng rộng màu xám buông những nếp trang nghiêm, nàng khoan thai tiến lại trông chẳng khác một đạo sĩ của những lễ giáo cổ đã mất đi.
Chàng càu nhàu nói một giọng thiếu phần nhã nhặn:
- Ấy thế mà chính tôi, tôi đã xui người ta mời bà đến đây!
Luna mỉm cười lạnh ngắt, đáp lại:
- Rồi một ngày kia ông sẽ hiểu rằng vì thế mà ông đã làm ơn cho họ đến chừng nào.
- Thì Swanhild vừa phải một phen nguy hiểm ghê gớm đấy thôi!
- Chẳng có nguy hiểm nào hết! Tôi chỉ tìm cách khôn khéo cẩn thận hết sức bảo cho cô ấy biết những điều cần phải biết đó thôi.
- Thế thì cô cũng bảo cho tôi biết với, có được không?
- Không, bây giờ thì không thể được. Nhưng sao ông lại có thể cho rằng tôi lấy làm vui trong những việc kia, mới được chứ?
Câu nói ấy của nàng đầy chua chát và mỉa mai. Swanhild quàng lấy hai vai mảnh dẻ của Luna và trách chàng:
- Goddrad, anh đừng nên làm phiền lòng Luna mới phải. Luna còn đau khổ hơn tôi nữa kia.
Luna gỡ vai rồi đi qua cái hình ngũ giác, lượm lấy cái Bàn Tay Danh Vọng và hỏi Goddard theo giọng tự nhiên lúc bình thường:
- Sao ông lai vào được đây thế, ông Covert?
Swanhild nói hộ chàng:
- Anh ấy nghe thấy tiếng tôi kêu lên, rồi lội qua hào mà đến. Ồ, giá anh ấy đến sớm được mười phút…
Luna gật đầu:
- Thì cố nhiên là hay hơn.
Nàng gói cái bàn tay vào cái túi vải rồi bỏ nó vào phiến đá rỗng lòng. Goddard chăm chú nhìn theo các cử chỉ của nàng. Bỗng chàng nói:
- Miss Bartendale ạ, lần đầu tiên cô vào trong phòng này, mới gần động chạm đến cái bàn tay kia cô cũng đã rùng mình kinh tởm. Thế mà bây giờ chính tay cô lại cầm lấy nó mà vẫn không thấy gì, cũng nên nhận rằng điều đó lạ lùng thật.
Nàng đỏ mặt đến tận chân tóc, rồi mới đáp:
- Đó là một bí quyết nữa của tôi. Ông cho là lần trước tôi giả vờ cảm động như thế, chứ gì?
Sewanhild cũng phải gắt lên:
- Goddard! Anh mà còn ngờ vực Luna nữa thì tôi không nhìn mặt anh(1) ([nguyên văn “tôi sẽ thù anh đó”]) nữa đó.
Luna:
- Ông Covert ạ, rồi sau này ông sẽ hiểu tại sao tôi có những thái độ đó. Phải vậy chăng, Swanhild?
- Tôi cũng bảo anh ấy như thế rồi. Chị mà chưa thành công hay chưa thất bại hoàn toàn, thì chỉ có mình tôi là được biết việc phải giữ kín. Anh Goddard ạ, dù anh thấy thế nào mặc lòng, anh cũng nên tin rằng không ai gặp phải một sự gì rủi ro hết, như thế anh có chịu không?
Chàng do dự đáp:
- Để anh thử hỏi ý kiến Oliver xem đã.
Nhưng Luan cực lực can:
- Không! Không vì một cớ gì được hỏi. Ông ấy không được biết một tý gì hết, đến lúc tiện nói sẽ hay.
Swanhild căn dặn thêm:
- Nếu anh mà ngỏ cho Oliver bất cứ một điều nào thì anh sẽ phải ân hận suốt đời đó. Chỉ trong vài ba hôm nữa là cùng, chúng tôi sẽ cho cả hai biết sự thực.
Goddard vẫn chưa chịu hẳn:
- Đành rằng các cô không muốn bảo gì Oliver để khỏi làm rối trí anh ấy, ừ thì cũng được. Nhưng tại sao lại giấu giếm cả tôi? Swanhild cũng thừa biết rằng hơi một chút gì lo sợ về phần em là cũng làm cho tôi phát điên lên được kia mà.
Luna lại nói:
- Chúng tôi không thể nói cho ông biết gì hết. Nhưng từ nay chúng tôi không bao giờ lại vào căn phòng này, không bao giờ lại phụ con quái vật lên mà không có ông với cả ông Hammond nữa. Chúng tôi không tìm lấy cái nguy hiểm đâu, ông nên tin cho như vậy, mà hôm nay, chúng tôi chỉ làm những điều không dừng được đó thôi.
Goddard vẫn một mực; chàng khẽ nói:
- Cô thực bí mật lạ lùng!
- Tôi cần phải như vậy đó. Bao nhiêu việc xảy ra kia chỉ phân giải trong một câu mà thôi, có lẽ chỉ trong một tiếng nhỏ.
Bất giác nàng đưa một thoáng mắt nhìn lên những chữ khắc trên phiến đá. Goddard bắt chợt được, vội hỏi ngay:
- Có phải là một tiếng cổ ngữ Anh không?
Nàng mỉm cười, bí mật:
- Có lẽ…
Chàng hỏi nữa:
- Tự tôi liệu có tìm ra tiếng ấy được không?
Câu ấy làm Swanhild kêu lên một tiếng ngạc nhiên. Nhưng Luna cũng không rời đôi mắt thấu suốt nhìn chàng. Nàng hạ giọng đáp:
- Tùy ông đấy, ông tìm, tôi cũng không thể giữ ông nổi.
- Nhưng cô chắc tôi có phần nào tìm ra được không?
- Điều đó thì tôi ngờ lắm. Tuy thế, bao nhiêu luận đề của bài tính đố ông đã biết đủ rồi đó. Vậy bây giờ ông hứa sẽ không nói gì với ông Hammond rồi chứ?
Chàng đăm đăm nhìn Luna, không ngờ vực gì những ý định của nàng, nhưng lại e rằng cái câu nói “bao nhiêu việc chỉ khám phá trong một tiếng” kia là một mưu mẹo đánh lừa chàng. Thế mà lúc đưa mắt nhìn mặt phiến đá khắc chữ quả là một cử chỉ thực, không tự ngăn kịp, và thực kỳ dị ở một người thường vẫn thản nhiên được như nàng.
- Anh Goddard, chết nỗi, chúng tôi quên rằng anh bị ướt đẫm cả thế kia kìa!
- Không hề gì hết!
Chàng sẵng tiếng đáp lại, bực mình vì thấy những việc vừa quan trọng như thế mà nàng lại để tâm đên cái điều nhỏ nhặt này. Nhưng chàng lại hối hận ngay và nói:
- Các cô đừng giận tôi nhé.
Luna hỏi:
- Thế nào ông Covert? Ông có ưng thuận nghe theo chúng tôi không, thì ông nói dứt lời cho chúng tôi biết đi.
Swanhild cũng nói:
- Anh Goddard của em ạ, không ai việc gì đâu mà sợ, không việc gì đến ai hết, chỉ trừ có Oliver thôi, trừ có anh Oliver đáng thương và hiền lành của ta thôi. Chỉ có anh ấy mới bị con quái vật hãm hại, mà nếu miss Bartendale không thành công được thì…
Nàng nói không thành tiếng nữa.
Luna lạnh lùng hỏi:
- Thế ta đã đồng ý với nhau rồi chứ?
- Vâng, cái đó cố nhiên rồi.
Chàng yên trí rằng tai nạn đã tránh khỏi được lúc nãy và tự cho rằng mình biết được nhiều điều hơn, chứ không như miss Bartendale tưởng.
Trên lối đi chung giữa lầu, Swanhild đứng lại bảo chàng:
- Anh vào với Oliver đi! Oliver ở trong gian Holbein, đang nói chuyện với bà Yorke đấy. Rồi anh thay quần áo đi.
- Không, tôi không muốn gặp ai lúc này hết. Tôi ra lối cửa sau rồi về nhà đây.
Đối với chàng, bây giờ, mọi sự đều có vẻ huyền hồ khó tin cả. Nhưng những tiếng rú của con quái vật lại vẫn vẳng bên tai chàng. Chàng ôn tồn bảo Swanhild:
- Anh chắc ở lời hứa của em đấy, Swanhild ạ. Thôi, anh không muốn để quá lỡ bị cảm, thêm một mối lo nữa cho em.
Nàng hỏi:
- À quên, lúc nãy anh định lên lại đây để làm gì thế?
Chàng không muốn dài lời, chỉ đáp:
- Anh định đem một phần những điều dò xét được đến. Em mệt lắm rồi em ạ.
Luna:
- Cô ấy đã biết mình hết sức ngay từ lúc ông vào rồi kia! Thôi, ông Covert, xin ông về đi! Tôi van ông đó.
Chính nàng xem ra cũng đã suy nhược. Goddard không dùng dằng thêm nữa, chàng ra về ngay. Swanhild theo chàng ra tới sân. Nàng tha thiết nói:
- Anh nên vững tâm tin Luna và em. Rồi Luna phân giải cho anh nghe, anh sẽ hiểu hết. Nhưng em không muốn để anh về mà không… không…
- Không nghe anh nói rằng anh vẫn vững tâm tin em chứ gì? Thì anh tin em lắm, em ạ.
- Bây giờ thì anh về mau mau lên!
Nàng trở vào rồi chàng đi về phía cầu hào lấy chiếc áo choàng còn để đó. Những ý nghĩ trong đầu chàng không được rõ rệt. Chàng chỉ biết chắc được rằng Swanhild không việc gì nữa và chìa khóa sự bí mật thì ở trong một tiếng khắc trên phiến đá kia.
Jessie D. Kerruish
Dịch giả: Thế Lữ
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...