Bầy sư tử lãng mạn 1
Truyện này được viết để tặng một thế hệ
tuổi trẻ Việt Nam trưởng thành sau 30-4-1975
DUYÊN ANH
… Vẫn còn nguyên băng đạn
Nằm ngang lưng quê hương
Đất đau niềm nắng hạn
Trời sầu nỗi mù sương
Bầy sư tử lãng mạn
Thắp lửa tim nhận đường
DUYÊN ANH
THƯ VÀO TRUYỆN
Em Hoàng Sơn Trường,
Anh không biết em còn sống dưới hầm đá biệt giam ở trại Đầm
Đùn hay đã chết rồi. Nếu em còn sống, em đang đếm từng ngày trong bóng tối lạnh
lẽo. Nếu em đã chết, xác em chôn dưới vùng đất của quê hương, chẳng ai rõ. Chắc
chắn trên nấm mồ hiu quạnh của em, thiếu cái mộ bia mơ ước như em thường nói với
anh, hồi chúng mình nằm chung xà lim số 7 hôi hám của C1 đề lao Gia Định. Em mơ
ước gì nhỉ? Em muốn mộ bia của em khắc Búa Liềm và Còng Mỹ. Và em giải thích rằng,
vì Còng Mỹ và Búa Liềm mà em chiến đấu và em hy sinh tuổi trẻ của em. Mơ ước của
em thật lạ lùng. Nó cũng lạ lùng như sự dấn thân lãng mạn và cô đơn của em, của
bạn bè em, của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tuyệt vời.
Em nhớ chứ, Trường thân mến, hôm đầu gặp gỡ, anh thử em bằng
câu hỏi ngờ vực và bằng sự phán xét kẻ cả về mục đích em theo đuổi, em đã trả lời
anh: «Em kính mến anh lắm. Nhưng con đường em đi em tin là chính đạo và lý tưởng.
Mong anh đừng bàn tán rắc rối». Anh phục em từ đó. Chúng ta thân nhau. Trong
tù, dĩ nhiên. Em kể anh nghe cái động lực xui em chiến đấu và sự trở về đời sống
thảnh thơi, im lặng của em. Thế thôi. Là đã hừng hực mặt trời tuổi trẻ. Là đã vằng
vặc mặt trăng tuổi trẻ. Ở tù không hứa hẹn gần nhau lâu, anh bị chuyển xà lim,
chuyển dài dài, chuyển phờ phạc. Anh phiêu lưu khắp cõi đề lao. Cuối cùng, anh
gặp Ngô Tỵ tại xà lim số 3 C1. Ngô Tỵ nói về em: «Em không hề biết mặt thằng
Trường khi em gia nhập tổ chức của nó. Em vẫn tưởng nó phải lớn tuổi, to con, đầy
vẻ bí mật. Nằm khu A, buổi sáng, đi đổ rác, em gặp tráng sĩ chùa An Lạc, em hỏi
tráng sĩ chứ «đảng trưởng» đâu, tráng sĩ kéo một thằng lùn tì, đeo kính cận
ra cửa xà lim khoe em. Em bèn hỡi ơi, «đảng trưởng» của mình nhóc hơn mình».
Anh hỏi Ngô Tỵ: «Bây giờ em còn phục nó không?» Ngô Tỵ cười: «Nó hay thật,
anh ạ!» Em đã quyến rũ bao nhiêu bạn bè, em đã quyến rũ anh. Em tuyệt diệu.
Anh gặp thêm Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vương, Nguyễn Khánh
Long, Đặng Cơ Bản, Đặng Hữu Trí… Rồi lang thang sang khám Chí Hòa, anh gặp vô số
những khuôn mặt yêu nước khiến anh lợm giọng. Và anh buồn bã là không còn được
sống với các em. Những khuôn mặt yêu nước: những anh già nua thèm danh vọng trải
dài đời mình qua các chế độ chưa nắm nổi một địa vị bình thường, những anh thèm
thuồng quyền bính đến ngớ ngẩn tội nghiệp đã tụ tập nhau mưu đồ phục hồi dĩ
vãng tanh ươn. Họ lập chính phủ, phong cho nhau làm tổng thống, thủ tướng, tổng
trưởng. Một xà lim của anh có đến… ba nội các. Và ba vị thủ tướng hết chửi nhau
vì quan điểm chính trị lại chửi nhau vì cơm chia không đồng đều, vì chỗ ngủ thiếu
ni tấc! Anh gặp những ông quận trưởng vẽ vời chức tước tỉnh trưởng ngày mai.
Anh gặp những ông chánh án, dự thẩm vẽ vời món tiền lương «ráp pen» ngày mai.
Anh gặp những ông tá vẽ vời sao tướng ngày mai. Anh gặp những ông trung sĩ đang
là sư đoàn trưởng hôm nay. Anh gặp những ông tư sản mại bản mơ ước tiếp thu tài
sản cũ… Tất cả đều nhận mình chống cộng sản vì tổ quốc và dân tộc… Họ ưa kể lể
công lao nằm tù của họ. Nằm tù, với họ, là cái gì thiêng liêng, cái gì đầy đủ đặc
quyền đặc lợi khi cộng sản tan rã. Nằm tù, với họ, là sự ngưỡng mộ của toàn
dân, mặc dù họ vì vạ miệng, vì sau mèm nói láo, vì ham danh vọng nhào vô, vì tự
ý dẫn xác đi trình diện xin ở tù. Các em khác hẳn họ. Các em khiêm tốn. Các em
im lặng. Chiến đấu im lặng. Sa cơ thất thế im lặng. Đau khổ im lặng. Và thành
công càng im lặng hơn. Mà các em đã làm gì có quyền bính? Mà các em đã hưởng thụ
được gì từ quyền bính của dĩ vãng? Anh chợt nhớ một câu văn bất hủ của nhà văn
Ngọc Giao trên trang đàu tiểu thuyết Nhà quê: «Con ốc nhỏ trối giạt trên bãi
cát, bé nhỏ thế thôi, câm nín thế thôi, thế mà trong lòng nó chứa đựng cả sóng
gió của đại trùng dương đấy, bạn ạ!» Em, các em, chính các em là những con ốc nhỏ
cô đơn và vĩ đại đang trôi giạt trong lòng dân tộc. Ý nghĩa chiến đấu của em, của
các em, anh thấy nó từa tựa tư tưởng của một nhân vật của nhà văn Erich Maria
Remarque trong «The night in Lisbon»: khi thế giới còn những bọn dã man tàn
bạo và mình còn khả năng chống lại chúng mà không dám chống thì đó là tội ác.
Nhân vật này cho giấy thông hành người khác, ông ta khước từ trốn sang Mỹ, ông
ta ở lại Âu Châu, gia nhập lính lê dương để chiến đấu diệt phát xít. Các em
cũng khước từ tất cả để chiến đấu chống cộng sản vì, dân tộc chúng ta, dân tộc
Ba Lan, Tiệp Khắc… đang đầy ngập bọn dã man tàn bạo, đang bị trùm kín bóng tối
của chủ nghĩa cộng sản đốn mạt. Một bông hồng nào cho em, Trường thân mến. Anh
chỉ mới mừng tuổi em hộp diêm, mùng một Tết 1976 owr đề lao Gia Định. Và em rất
thông minh, nói nhỏ: «Vâng, em sẽ mãi mãi giữ lửa»!
Em thừa hiểu, tù nhân như anh em mình, cộng sản chẳng dại gì
mà nhốt một chỗ lâu ngày. Họ phân tán dần dần. Sớm gần, chiều xa. Tháng 5 năm
1977, em chuyển trại, các em chuyển trại. Tháng 12 năm 1977 anh sang Chí Hòa.
Tháng 11 năm 1978, anh bị đầy vào rừng già Sa Ác. Tháng 2 năm 1980, anh về Hàm
Tân. Đầu năm 1981, tù nhân ở trại Nam Hà B được điều về miền Nam. Khoảng 500
người nhập trại Hàm Tân, Z30D. Anh gặp vài anh bạn cũ. Có Vũ Xuân Thông, trung
tá, chỉ huy phó lữ đoàn Biệt Cách Dù 801, tài tử cao ráo, bô trai trong phim
Người tình không chân dung. Bạn anh kể cho anh nghe một cuộc vùng dậy ở Nam Hà
B do nhóm 28 « ông nhóc » dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương đã thổi lửa vào
tâm hồn mấy ngàn sĩ quan từ lâu đã cam đành. Lương Việt Cương, anh nhớ lắm chứ,
mắt ốc nhồi, giáo sư toán lý hóa, còn trẻ, hồi làm sinh viên ở Đà Lạt đã chan
chứa nhiệt tình, hồi ở đề lao Gia Định đã từ cachot này qua cachot khác. Anh
nôn nao quá, vội hỏi : « Nhóm 28 ông nhóc có Hoàng Sơn Trường, Đinh Vượng, Ngô
Tỵ, Nguyễn Khánh Long »? Có, có, có… Họ trả lời anh. Vậy là em đã bị lưu đày ra
tận miền Bắc. Những địa danh nào đã in dấu chân em?
Cuối năm 1981, anh được tha. Amnesty International đã can thiệp
cho anh tận tình bằng một sự trao đổi không lỗ vốn cho cộng sản. Tháng 3 năm
1983, anh vượt biên. Thuyền anh ghé Mã Lai. Ở đảo Pulau Bidong anh gặp Trần Dân
Chủ và Nguyễn văn Nhiệm. Hai người này, cựu trại viên Nam Hà B, kể thêm những
chi tiết hào hùng của 28 tên phản động vĩ đại. Anh liền nghĩ tới một truyện dài
mang tựa đề thú vị Bầy sư tử lãng mạn.
Tháng 10 năm 1983, anh đến Paris. Anh tìm đọc cuốn “Goulag
vietnamien” xem anh tù nhân bất đắc dĩ này viết gì về đề lao Gia Định. Cha chả,
một cái xó xỉnh đề lao Gia Định thì thấm thía gì với nền tù đày của cộng sản việt
nam. Vậy mà người ta dám phóng lên thành thứ goulag khiến độc giả ngoại quốc cứ
tưởng đó là đỉnh chót vót của thống khổ ngục tù. Tác giả nằm tù đâu có bao lâu.
Ông ta chưa có kịp ghẻ mà. Phi ghẻ bất thành tù… đề lao. Ông ta viết tàm bậy,
tàm bạ. Chỉ riêng hai chi tiết anh sắp kể đã đủ liệng cuốn “Goulag vietnamien”
của ông ta vào thùng rác vỉa hè. Ông ta bảo cụ Cao văn Diên (phòng 7C1 mình đó,
em nhớ chứ?) không phải là phản động và cụ chết ở đề lao. Láo toét, cụ là phản
động nặng, bị đầy lên trại Gia Trung, Pleiku và cụ chết bệnh ở Pleiku. Ông ta bảo
anh đã chết rồi! Ông ta bảo ông ta lấy được khối chữ ký tù nhân tư tưởng… Trước
khi ông ta được tha để leo máy bay sang Pháp, ông ta nằm trong phòng như gà kỹ
nghệ, ai mở khóa cho ông ta lang thang khắp trại lấy chữ ký, ai dám ký, ai cho
phép ông ta xử dụng giấy bút? Thế mà ông ta nổi tiếng, ông ta dùng cái dĩ vãng
tù đầy ân huệ của ông ta để nhảy vào công cuộc… giải thoát dân tộc! Những thứ
như ông ta không thiếu gì ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc… Anh chạnh nghĩ tới em đang nằm dưới
trại Đầm Đùn, và anh bất bình. Luôn luôn, chúng ta thừa thãi bọn tiêu bạc giả.
Và bọn tiêu bạc giả cậy mình vô liêm sỉ, dùng bạc giả của chúng khỏa lấp dư luận,
bôi bẩn những người công chính. Còn em, còn bạn em, ai biết đến cuộc chiến đấu
cô đơn của em?
Anh hiểu em. Anh hiểu em nhiều lắm. Em đi chiến đấu hôm nay
như năm xửa năm xưa em xé vở gấp tàu bay đẹp phóng lên trời, gấp tàu thủy xinh
thả trôi giòng nước. Em phơi phới. Em chuyền nhảy. Em làm đẹp cuộc đời và không
cần cuộc đời biết đến, không bắt cuộc đời nghĩ đến. Có nhiều cuộc đời nhỏ trong
một cuộc đời lớn. Cuộc đời lớn không biết đến em vì thật sự không biết hay chưa
biết. Nhưng cuộc đời nhỏ, vốn dĩ nó nhỏ, bản chất nó hẹp hòi, nó biết đến em mà
nó cứ giả vờ không thèm biết. Nó sợ hãi biết đến em, sợ hãi nói về em với cùng
khắp cuộc đời. Nó lo ngại em nổi tiếng hơn nó, em trở thành thần tượng, em trở
thành đại thụ còn nó chỉ là cỏ hèn. Nó ghen với em. Và nó tìm cách hãm hại em,
cô lập em, bôi bẩn em. Nó không dám chiến đấu bằng con số không thật tròn trong
hình vuông thật đẹp đâu. Nó phải bấu víu lấy cái tước vị quá khứ phù ảo và chua
ôi làm lý tưởng. Những đứa ghẻ lở, hắc lào rất sợ tắm sông trần truồng. Những đứa
vô tài bất tướng lại thích khoa trương, càng ghét những tài năng vàng mười. Vậy
thì giữa cuộc đời nhỏ đầy rác rưởi và em đã có một phân cách. Nó chiến đấu để
phục hồi dĩ vãng quyền bính cũ. Em chiến đấu để khai phóng tương lai. Nó ngoảnh
lại. Em nhìn lên. Nó chiến đấu cho nó. Em chiến đấu cho mọi người. Em trực diện
với nghịch cảnh. Nó nằm chiêm bao nỗi khổ. Em chiến đấu bằng nhiệt tình và lòng
tự phụ của tuổi trẻ việt nam. Nó chiến đấu bằng tiền quyên góp phè phỡn. Em
không cần nó biết đến em là em xứng đáng, em được quyền kiêu ngạo.
Trong truyện dài Sỏi đá ngậm ngùi anh đã viết rằng nỗi thống
khổ là văn phạm của đời sống, sự cô đơn là ánh sáng soi rõ đất trời. Em, các
em, chiến đấu trong thống khổ và cô đơn, trong im lặng và thầm kín. Các em đang
làm tác phẩm lớn cho đời sống, đang cố gắng để lại những dấu ấn vàng son trên
sinh đạo mà các em đã một lần vượt qua. Anh, các anh, những nhà văn, nhà thơ,
những nghệ sĩ sáng tạo cũng mang nỗi thống khổ và cô đơn như các em. Các anh
đã, đang và còn làm tác phẩm cho đời sống. Phải nói một cách khẳng định rằng,
chỉ có nghệ sĩ sáng tạo mới biết làm đẹp đời sống, chỉ có nhà văn, nhà thơ mới
đủ tài năng và thẩm quyền làm đẹp đời sống của những ai làm đẹp đời sống. Chúng
ta đau khổ, chúng ta cô đơn, chúng ta im lặng chịu đựng. Bởi vì chúng ta làm việc
để làm việc, chúng ta không làm việc để phô trương. Hình như chúng ta vẫn chưa
yên thân. Chúng ta vẫn bị cái thứ cuộc đời nhỏ rình rập nghi ngờ. Thứ cuộc đời
nhỏ gồm một lũ thích ngồi trong xó tối giả giọng chó sủa gây khó chịu cho người
đi ngoài ánh sáng. Thứ cuộc đời gồm một lũ chẳng thích làm gì mà chỉ sợ người
khác làm hơn mình. Cái thứ ấy, trong Thuyền nhân, anh viết: “Bao giờ biết nổi
giận? Bao giờ trời gầm thét? Bấy giờ, vòng tròn bao la sẽ là cõi mịt mù và con
thuyền vượt biên ngoi ngóp trong cái cõi mịt mù khốn cùng đó. Và con người lại
càng hiểu giá trị làm người của mình không bằng tấm mảng mục. Con người sẽ sợ
hãi, sợ chết. Con người sẽ khóc lóc, than van. Con người sẽ biến mất những ích
kỷ hèn mọn, những ghen tuông đê tiện, những phán xét ngu muội. Con người, bấy
giờ, bỗng thèm sống và tự hứa với chính mình, nếu sống sót sẽ cố sống ra vẻ một
con người. Những kẻ thích thị phi người khác, thích nghị luận những lầm lỗi mơ
hồ của người khác, thích phán xét người khác bằng những điều đồn đại, vu khống,
thích nằm chiêm bao nỗi khổ, chằng khi nào được vinh dự chìm đắm giữa mù khơi,
ngoi ngóp trong nỗi sợ. Những kẻ ấy, những kẻ giả hình ấy, chỉ cần một phút
chênh vênh trên đường chết, năm phút nhức nhối tinh thần, mười phút quặn đau thể
xác là gục xuống cúi lạy cái quyền uy có thể ban phát cho chúng kiếp sống cỏ dại.
Chúng sẽ khả ố, bỉ ổi gấp triệu triêu lỗi lầm của những người bị chúng phán xét
oan ức. Bất hạnh cho bọn giả hình, Thượng Đế đã không bố thí cho chúng một miếng
ân sủng nhỏ về nỗi cô đơn và niềm thống khổ. Do đó, một đời tẻ nhạt chúng đeo
đuổi, chúng chỉ loay hoay trong cái vòng tròn nhỏ bé đánh đai bởi những ý nghĩ
bẩn thỉu của kèn cựa, tranh giành, vu khống, chụp mũ, nói xấu, bôi bẩn và nhục
mạ người vắng mặt. Chúng ngu dốt, không biết định nghĩa hai tiếng cao thượng.
Chúng hèn nhát, không dám đối mặt người công chính. Chúng lầm lũi như bọ hung.
Chúng chẳng thể hiểu thế nào là tồn tại, là sự phục sinh của nỗi chết. Việc làm
của người công chính, ý nghĩa tốt đẹp của người công chính để lại cho đời sống
sẽ phục sinh cái chết của người công chính. Tác phẩm để đời của nhà văn, nhà
thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… phục sinh cái chết của họ và cho phép họ tồn tại vĩnh cửu.
Bọ hung không để lại cho đời sống cái gì. Chúng chỉ để lại vết tích ô nhục
trong gia phả của chúng cho con cháu chúng tưởng niệm xót xa. Người công chính
đã được tuyên dương xứng đáng trong Thánh Kinh. Chúa đã dành cho họ phần thưởng
trên Thiên Đàng. Dưới cõi thế, họ vẫn can đảm sống, vẫn làm đẹp đời mình, đời
người khác. Vì, họ biết, đời sống chỉ có một số bọ hung, một số Lý Thông gian
ác. Còn rất đông Thạch Sanh và công chúa cổ tích”.
Trường, em hiểu tại sao Lý Thông cứ muốn Thạch Sanh nằm mãi
dưới hang không? À, Thạch Sanh lên đời thì Lý Thông xuống lỗ. Thạch Sanh có cây
đàn muôn điệu. Lý Thông chỉ có cái đàn miệng với bài duy nhất “Người đi đường
và con chó”. Vậy nó không biết đến em, nó rình rập em, nó nghi ngờ em vì nó sợ
nó là lãnh tụ giả mà em là lãnh tụ thật. Nó muốn độc tôn. Nó muốn chỉ có nó quốc
ngoại. Nó không muốn có ai quốc nội. Anh viết về các em, anh nhận các em là
lãnh tụ cao quý, anh minh, vĩ đại của anh, nó sẽ chán lắm, cái cuộc đời nhỏ ấy
mà, nó sẽ hăm he anh, nó sẽ lập tòa án (!) xử anh, nó sẽ ghi tên vào sổ đen! Ồ,
chấp chi. Anh già rồi. Năm mươi tuổi rồi. Mệt rồi. Thừa thãi danh tiếng rồi.
Anh không cần ai khen anh, cũng chẳng sợ ai chửi anh. Với đất nước, anh đã có
50 tác phẩm văn chương và hơn 200 số báo Tuổi Ngọc. Với đất nước, bọn đi đường
và con chó không có gì. Không có gì cả. Với cong sản, anh đã đi vào “văn học sử”
của họ bằng những pho sách “Những tên biệt kích trong mặt trận tư tưởng, văn
hòa miền Nam”, “Văn nghệ Sài gòn dưới thời Mỹ Ngụy”, “Vụ án hồ Con Rùa”… vân
vân và hàng trăm bài viết đào cha bới ông anh ở báo Hà nội, báo Sài gòn; hàng
trăm bài nói nguyền rủa anh trên vô tuyến truyền thanh, truyền hình; hàng trăm
buổi học tập mạt sát anh ở đại học, trung học, tiểu học, ở quận, phường, xã, ấp.
Anh sừng sững cả trên “Xã luận” của báo Nhan Dân. Đến nay anh vẫn là đối tượng,
vẫn còn là bia hứng tên thù cộng sản. Với cộng sản, bọn đi đường và con chó
không đáng được đề cập, dù nửa chữ, nửa lời! Cuộc đời lớn còn rất đông Thạch
Sanh và công chúa cổ tích. Riêng anh, còn độc giả của anh. Độc giả trong nước
thương anh hơn xưa. Độc giả Hà nội say mê tiểu thuyết của anh như độc giả Sài
gòn. Người ta lén lút đọc anh, chuyền tay nhau đọc anh. Độc giả ngoài nước mong
đợi tiểu thuyết mới của anh, tuổi trẻ việt nam ở Âu châu còn thèm nghe điệu kèn
harmonica của Chương còm, thèm xem tài bắn súng cao su của Dzũng Đakao, thèm
hoan hô đường bóng của Bồn lừa… Anh có thể kết luận: bọn đi đường và con chó chỉ
đủ khả năng giết chó mà không thể hãm hại được chúng ta. Vì, không có khí giới
nào giết nổi tài năng đích thực và những tâm hồn ngọc. Và anh vẫn còn nơi nương
tựa vững chắc. Là cuộc đời lớn bao la, rộng mở, công bình, hào sảng.
Anh sẽ tiêu pha không tiếc gì chữ nghĩa vàng son để bọc lấy
những tấm lòng thơm ngát của các em, của những người tuổi trẻ việt nam chiến đấu
trong thống khổ và cô đơn. Bầy sư tử lãng mạn ở quê nhà, hãy yên tâm sống và
yên tâm chết. Lịch sử sẽ thay đổi. Phải thay đổi. Đó là chân lý. Và chân lý ấy
phóng lên bầu trời quê hương ngút ngàn thù hận bằng cung cách sống, chết dưới hầm
đá trại Đầm Đùn. Sống làm thăng hoa yêu thương, rực rỡ tình người. Chết làm phục
sinh tự do, dân chủ và nở rộ hoa nhân ái trên còng tư bản, trong ngục vô sản.
Cung cách sống chết khai sinh một kỷ nguyên mới của những người tiểu tư sản
lãng mạn, hào sảng và ước mơ…
Thế nhé, em yêu dấu!
1
Một buổi sáng không giống những buổi sáng khác, ở trại Nam Hà
B. Tù nhân đã xếp hàng đông đủ, từng đội, từng đội. Họ ngồi im lặng giữa sân tập
họp, chờ đợi tiếng kẻng, chờ đợi điệu kèn xuất quân, chờ đợi hồi chuông cáo
phó: thời gian cơ hồ ngừng lại. Và không gian giăng mắc sương mù. Tiếng kẻng có
là cái gì đâu! Thoạt đầu, âm điệu oan nghiệt của nó mở lối cho con người đi vào
thù hận. Rồi đến răn đe, dọa nạt, nhắc nhở con người hình phạt của thù hận. Con
người, vốn khinh thường tiếng kẻng khi chưa gặp nó, chưa nghe nó trên sầu đạo hệ
lụy, đã choáng váng, lợm giọng, buồn ói bởi âm điệu chát chúa, hụt hẫng của nó.
Tiếng kẻng tù. Nó gợi tưởng muôn vàn bất hạnh, tăm tối và thê lương trong
thương xót của những người xa xăm, bên ngoài hàng rào kẽm gai tập trung, bên
ngoài tường cao cổng kín nhà tù. Nó gợi tưởng muôn vàn cay đắng, rã rượi và vô
đơn trong nhớ nhung của những người đêm đem trở giấc lưu đầy gửi hồn mình về
gia đình êm ấm. Rồi nó cũng biến thành cái gì tẻ nhạt, đều đều như củ khoai lót
lòng bữa sáng, bát sắn lưng dạ bữa chiều, như chân lý của chủ nghĩa, như hạnh
phúc của nhân loại, như niềm trắc ẩn của thế giới, như giọt nước mắt của cá sấu,
như tất cả nhỏ mọn tanh ươn của đời sống thường hằng. Hơn mọi tiếng kẻng tù từ
khai thiên lập địa, tiếng kẻng tù của thời đại chúng ta, tiếng kẻng tù cộng sản,
tiếng kẻng tù của hòa bình hòa giải dân tộc còn được phổ thêm thứ âm điệu ma
quái làm mê hoặc loài người, làm ngờ vực tù nhân với tù nhân, làm sáng danh cai
ngục. Khi những tên đồ tể thọc dao vào cổ tù nhân, nó cười ngất hả hê nhìn máu
chảy và nó bảo nó giáo dục tù nhân tư tưởng. Thì loài người bảo cõi tập trung
khổ sai lao động của đồ tể là trai học tập cải tạo! Khi những tên đồ tể ném cho
tù nhân những trang giấy, khích lệ phê bình và tự phê bình để tiến bộ, ban cho
tù nhân này chút ân huệ và bắt phải nhận, đồng thời, trừng phạt nhiều tù nhân
khác để tạo dựng ngộ nhận, chia rẽ. Thì tù nhân quên mất thủ đoạn của đồ tể,
xúm lại gấu ó nhau, hành hạ nhau, nói xấu nhau. Và đồ tể hãnh diện buông lời đạo
đức: các anh không thương nhau, còn ai thương các anh! Tiếng kẻng tù, ở trong
đó hết.
Tại sao hôm nay, những người đã mòn vẹt thể xác, đã tê cứng
tâm hồn vì tiếng kẻng tù sau nhiều năm cam đành, lại chờ đợi nó? Người ngoài cuộc,
và ngay cả người việt nam không bị tù đày, thường phán xét tù nhân việt nam bằng
những đôi mắt cận thị. Đã không có một thỏa hiệp, một quy chế nào cho cải tạo
viên. Ở các nước xã hội chủ nghĩa không có nhà tù! Sĩ quan của chúng ta không
được đối xử như tù binh. Bởi vì, họ không hề bị bắt ở chiến trường. Họ bị đẩy
vào chiến tranh để làm lợi cho Mỹ và làm giầu cho bọn tướng lãnh ngu xuẩn, bọn
tư sản mại bản tham lam, bọn thư lại tham nhũng. Cộng sản thôn tính miền Nam, họ
phải giã từ vũ khí sau khi bọn tướng lãnh, bọn đại tá sừng sỏ đã đào ngũ chạy
trốn. Và họ bị dồn vào con đường cụt của anh hùng thất thế. Ngó trước. Tiếng
súng đã ngưng. Ngó sau. Tiếng súng đã ngưng. Ngó phải. Tiếng súng đã ngưng. Ngó
trái. Tiếng súng đã ngưng. Bốn bề hiu hắt vắng lặng. Mà khí thế ban đầu của kẻ
thù hừng hực. Nhân gian lơ láo. Đồng minh dọa dẫm biển máu, biển máu, biển máu!
Người đi cải tạo tuyệt vọng. Ngày về, ở miền Nam, đã xa. Ngày về ở miền Bắc còn
xa hơn. Với nghệ thuật đầy đọa thể xác và thu nhỏ cái dạ dầy lại, kẻ thù đã biến
họ thành những người mệt mỏi thường xuyên, sợ hãi lao động, sợ hãi tù đày và chỉ
thèm ăn, thèm ngủ. Báo chí ngoại quốc hèn nhát không dám đòi “cải thiện chế độ
lao tù” và mù lòa không biết những biệt giam hôm nay rùng rợn nghìn lần chuồng
cọp Côn Sơn. Đừng thiển cận so sánh cải tạo viên với tù binh cộng sản. Ngày
xưa, họ bị chúng ta bắt, họ được hưởng quy chế tù binh xác định rõ rệt quyền lợi
và bổn phận trong những thỏa hiệp quốc tế. Họ dám yêu sách, dám chống đối vì
chúng ta nhân đạo, vì họ tin tưởng đồng chí của họ đang chiến đấu, vì họ có hậu
thuẫn của báo chí Mỹ và chính phủ Mỹ! Chúng ta không có gì. Không có gì cả.
Ngoài những tin đồn tự an ủi mình và lừa dối người khác. Ngoài ngọn cờ Nhân Quyền
tung bay trong một ngày nắng hiếm hoi của mùa đong ảm đạm. Ngoài Hội Ân Xá Quốc
Tế chỉ đủ khả năng cứu giúp những tù nhân tư tưởng, trí thức, nhà văn, nhà thơ,
nhà báo. Cho nên, cải tạo viên cam đành và đau lòng chờ đợi sự khoan hồng của kẻ
thù! Và, sáng nay, họ chờ đợi tiếng kẻng báo giờ lao động, chớ đợi một cái gì sắp
xảy ra mà họ được loan báo từ đêm qua.
Kẻng tù đã khua vang. Một hồi ba tiếng. Mỗi tiếng kẻng là mỗi
tiếng đập mạnh của từng trái tim lâu ngày chưa được đập mạnh, hồi hộp, mơ ước.
Cửa điếm gác sát cổng trại đã mở. Người công an trực trại đang dở từng trang sổ
công tác. Vệ binh, súng AK đeo vai xếp hàng ngoài cổng. Quản giáo, súng lục đứng
bên trong chờ dẫn đội ra hiện trường lao động. Tù nhân im lặng. Tuyệt đối im lặng.
Hàng nghìn con mắt hướng về chỗ ngồi của đội mới gồm hai mươi lăm người tuổi
trè vừa được điều từ Sài gòn ra đây. Họ bị kết tội chống phá cách mạng, bị xếp
vào thành phần không thể cải tạo ngắn hạn. Có nghĩa là họ bị cải tạo trường kỳ.
Năm người lớn nhất: trên ba mươi. Những người khác: chưa quá hai mươi lăm. Họ
không tỏ ra vẻ sợ hãi, lo lắng. Cũng không tỏ ra kiêu căng, bất cần. Họ mỉm cười
với những người nhìn họ.
Công an trực trại bắt đầu làm việc:
- Đội 7!
Đội trưởng đội 7 ngồi nguyên tại chỗ. Anh không đứng lên, bỏ
mũ, báo cáo quân số lao động như sáng hôm qua. Công an trực trại hô lần nữa:
- Đội 7, báo cáo quân số lao động. Điếc hả?
Đội 7 bất động. Cán bộ trực trại lờ đi, tiếp tục làm việc.
- Đội 2!
Đội 2 không nhúc nhích. Cán bộ trực trại nổi giận:
- Hôm nay các anh chống đối lao động hả?
Người đội trưởng mới nhất đứng lên. Tù nhân hướng hết về phía
anh ta. Cao quá thước rưỡi, trán cao, mắt ốc nhồi, nước da xám đen, người đội
trưởng mới đứng nghiêm, giọng nói dõng dạc và lễ độ:
- Báo cáo cán bộ không có ai chống đối lao động cả. Chúng tôi
sẽ hồ hởi phấn khởi đi lao động ngay, sau khi cán bộ giải quyết xong vấn đề
giam nhốt ba anh em của chúng tôi dưới hầm biệt giam mà không có quyết định.
Chính sách của nhà nước luôn luôn sáng tỏ, chúng tôi yêu cầu cán bộ làm sáng tỏ
chính sách.
Cán bộ trực trại ra khỏi điếm gác. Y đứng ngay ở thềm lát gạch,
mặt vênh váo:
- Thi hành mệnh lệnh trước, khiếu nại sau.
Người đội trưởng vẫn đứng nghiêm:
- Làm sáng tỏ chính sách của nhà nước là vấn đề quan trọng.
Cán bộ trực trại xỉa xói:
- Anh học nội quy chưa?
Người đội trưởng đáp:
- Rồi.
Và anh ta đọc:
- Điều thứ ba mươi sáu: trại viên được phép nêu thắc mắc lên
ban giám thị. Nếu ban giám thị không giải quyết ổn thỏa, thắc mắc sẽ chuyển lên
lãnh đạo cấp trên.
- Làm gì có điều ấy, bố láo!
- Có. Ở nội quy đề lao Gia Định
- Nội quy trại này không có.
- Nhưng trại nào cũng thê, kỷ luật trại viên phải đọc Quyết định.
Không đọc Quyết định của ban giám thị là cán bộ trả thù riêng tư, sai chính
sách khoan hồng của đảng và nhà nước.
Cán bộ trực trại quét mắt khắp sân trại. Y hằm hè:
- Các anh nhất định chống lao động hả? Chống đối lao động là
vi phạm nội quy. Nội quy là pháp chế của nhà nước. Chông nội quy là chống nhà
nước.
Người đội trưởng nói:
- Cán bộ đừng nâng cao quan điểm, đừng chụp mũ bừa bãi. Tôi
thành thật cho cán bộ biết, chúng tôi đã nằm tù nhiều nơi rồi, nơi này là cùng
đường, là chỗ chết của chúng tôi.
Anh quay nhìn các đàn anh sĩ quan:
- Sống tự do ở cái chế độ cộng sản là điều sỉ nhục thì chết ở
nhà tù là một niềm hãnh diện. Tôi tuyên bố chống đối chế độ, một mình tôi đòi hỏi
được xử bắn ngay.
Hai mươi bốn người tuổi trẻ của đội mới nhất loạt đứng lên:
- Bắn luôn cả chúng tôi!
Một người cảm khái:
- Sống đã là chết hèn thì chết là sống hùng!
Tự nhiên, tù nhân vụt dậy như biển đang phẳng lặng cuồn cuộn
sóng lớn trong giông bão. Cán bộ trực trại và bọn quản giáo bỏ chạy ra ngoài cổng.
Ổ khóa bóp lại. Vệ binh bên ngoài lên đạn AK. Những họng súng chĩa vào. Ba phát
đạn bắn chỉ thiên báo động. Mặt trời le lói chút nắng sớm. Sương mù dần tan
loãng. Thiếu một lá cờ. Nếu có lá cờ treo lên. Thì đã chiếm hoàn toàn tự do, dù
tự do một phút, một giờ, một ngày. Hai mươi lăm người tuổi trẻ thành thần tượng
của hàng ngàn tù nhân. Tuổi trẻ đã bắn thẳng vào kẻ thù những phát đạn tuyệt diệu
của nhiệt tình và lòng tự phụ. Những phát đạn ấy cũng đã làm sống lại hào khí
cũ những cuộc đời cam đành. Người ta vỗ tay. Người ta reo vui. Người ta hỏi han
nhau. Người ta chia sẻ tâm sự. Rồi người ta trở về đội ngũ, hết sức trật tự, hết
sức im lặng như chuẩn bị cuộc chiến mới. Chúng ta chưa thua. Chúng ta không hề
thua. Chúng ta vừa khởi sự cuộc chiến của chúng ta, cuộc chiến của những trái
tim trong thống khổ và cô đơn, hào hùng và lãng mạn.
Người đội trưởng mới khoanh tay trước ngực, giữa đám đông:
- Xin cám ơn các anh!
Những lời đồng nhất:
- Các anh phải cám ơn các chú. Các chú đã giúp các anh ngẩng
mặt lên.
Người đội trưởng mới khẽ lắc đầu:
- Các anh quá khen.
Hai mươi tám người, hai mươi tám vì sao mới mọc trên bầu trời
việt nam, từ Phú Khánh miền Trung mới bị đầy ra Nam Hà miền Bắc sau những năm
quằn quại ở sở Công An, đề lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa, Kontum, Lao Bảo… Họ
đi với hồ sơ cá nhân của họ trong tay những kẻ còng họ dẫn độ lưu đày. Họ tới
Nam Hà, ở riêng một nhà thuộc trại B, bị cô lập hoàn toàn. Tù nhân mới nhập trại
đều bị cô lập. Vừa ăn xong một bữa cơm tù Đầm Đùn, ba người trong bọn họ bị
công an chấp pháp xích chân lại, nhốt dưới hầm đá biệt giam tối tăm, lạnh lẽo.
Để dằn mặt cả bọn bất trị, những con ngựa chứng trong xã hội chủ nghĩa, những
con cua chỉ thích bò ngang mà không thèm tiến nhanh tiến thăng theo chế độ. Họ
bàn tán, hoạch định đường lối giải thoát bạn của họ. Ngày thứ sáu, họ được ra khỏi
nhà. Họ đã phân tán mỏng tới gặp các đội trưởng cũ và các tù nhân sĩ quan. Họ
chỉ xin tù nhân khước từ lao động buổi sáng hôm sau và ngồi im để tự do hành động,
tự họ chịu hết trách nhiệm. Nhiều ý kiến tiêu cực và tích cực được nêu ra. Cuối
cùng, nhờ sự quả cảm của tuổi trẻ, họ đã lay động nổi cái bóng tối cam đành phủ
kín lên thân phận tù nhân vô vọng, họ đã thắp lên một ngọn lửa tim soi sáng cuộc
chiến đấu mới, họ đã tạo niềm hy vọng ở bên kia biên giới tuyệt vọng.
Một tù nhân hét lớn:
- Các chú không cô đơn. Có anh trong các chú.
Nhiều người khác hô vang:
- Có anh. Có tất cả. Chúng ta là một. Sống, chết chỉ nên có một
định nghĩa.
Sân tù ồn ào, sôi nổi. Trật tự là cái gì? Im lặng là cái gì?
Hãy để đất lệch. Hãy làm trời nghiêng. Hãy biển động… Chúng ta lấy khí thế. Nào
hát đi! Cờ bay, cờ bay huy hoàng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua
bằng máu… Nhạc chính huấn rền vang một vùng trời miền Bắc. Ai về Đồng Tháp, hỏi
thăm cây cỏ lá hoa. Quân cọng tàn phá… Mấy năm rồi mới được hát, mới dám hát. Nhạc
của ta hay quá. Hát vỡ tung lồng phổi đi nào, anh em! Giặc cọng từ Bắc vô Nam,
bàn tay nhúng máu anh em… Hãy hôm nay của lịch sử trang mới. Không ngày mai của
vọng về di tản thụ hưởng, của những thằng tướng hèn bán rượu bệ rạc, của những
thằng tá đào ngũ đội lốt thi sĩ nham nhở tặng hoa cho gái đẹp dự thi. Hãy đau
khổ để khôn lớn. Không sung sướng để ngu muội. Hãy định nghĩa sự sống bằng cách
chết. Hỡi kẻ thù, chúng tao là sĩ quan quân lực việt nam cọng hòa, chúng tao là
lính chiến, chúng tao có tổ quốc và chúng tao yêu tổ quốc của chúng tao, chúng
tao có phẩm cách và danh dự làm người, chúng tao không biết đầu hàng, chúng tao
vẫn chiến đấu. Bây giờ chúng tao thực sự biết chiến đấu. Không cần Mỹ phản
phúc, không vì huy chương, không vì lon lá, không vì ai cả. Mà chính vì dân tộc,
tổ quốc và hạnh phúc của con cháu chúng tao.
Người đội trưởng của đội hai tám vì sao vỗ tay:
- Xin các anh im lặng, tuyệt đối im lặng.
Tiếng hỏi:
- Tại sao phải im lặng nhỉ?
Người đội trưởng đáp:
- Vì cộng sản chỉ sợ im lặng. Nó không thể đo nổi niềm im lặng
của biển cả. Nó không thể biết chúng ta sẽ còn làm gì. Để nó biết tức là biểu lộ
thái độ, tức là giương nanh vuốt. Nó sẽ dẹp tan chúng ta. Chưa đến lúc giương
nanh vuốt. Có một thời lên tiếng và một thời im lặng như có một thời chiến
tranh và một thời hòa bình, một thời thù hận và một thời thương yêu, một thời
đau khổ và một thời hạnh phúc, một thời tù ngục và vĩnh cửu tự do… Sức mạnh
không cần tiêu pha một lượt, các anh phải nuôi dưỡng sức mạnh cho mai này. Việc
nhỏ mọn hôm nay, xin phép các anh để chúng em gánh vác.
Vậy thì tất cả lại im lặng. Người đội trưởng mắt ốc nhồi mỉm
cười sung sướng. Bên ngoài cổng và chung quanh trại, vệ binh súng gắn lưỡi lê
canh phòng cuộc nổi dậy của tù binh. Người ta khuân ra cả đại liên bố trí ở con
đường duy nhất dẫn ra ngoài thị trấn. Trong khi, loa phóng thanh của trại ra rả
giọng người cán bộ giáo dục: “Yêu cầu toàn thể trại viên tôn trọng nội quy. Các
trại viên phải nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, phải tích cực lao động và tỏ rõ
thiện chí cải tạo thì mới tiến bộ để sớm hưởng sự khoan hồng của đảng, nhà nước
và nhân dân trở về xum họp gia đình.” Mặc kệ máy phóng thanh nhai sự khoan hồng
như trâu bò nhai cỏ, như chó đói gặm xương khô, tù nhân ngồi im lặng. Mỗi người
có một suy nghĩ. Nắng đã lên cao và sương mù tan biến.
2
Sự việc chưa có gì thay đổi. Kẻ thù nghĩ rằng họ còn nhiều
thì giờ. Tù nhân nghĩ rằng nên kéo dài cuộc chơi, càng lâu càng tốt. Những họng
súng bên ngoài vẫn chĩa vào. Đạn đã sẵn sàng. Chỉ chờ lệnh bắn. Bên trong, tù
nhân giữ một thái độ hết sức đứng đắn. Họ ngồi theo đội ngũ. Tù nhân yêu sách.
Tù nhân đòi hỏi làm sáng tỏ chính sách nhân đạo của nhà nước. Tù nhân không nổi
loạn. Không nổi loạn thì không có lý do đàn áp. Đàn anh chịu đàn em lắm. Bọn trẻ
đã khôn lớn. Ngày xưa chúng nó xuống đường bạo động gây khó chịu cho mình gian
khổ nơi chiến trường. Bây giờ chúng nó trầm tĩnh, chúng nó tự nhận chúng nó là
biển cả có niềm im lặng ghê gớm và khôn cùng. Đàn anh chiêm ngưỡng đàn em. Rồi
nhiều câu hỏi được đặt ra: tại sao chúng nó chống phá chế độ, tại sao chúng nó
dám mưu đồ chuyện nước cnon bằng trái tim của chúng nó, chúng nó dấn thân làm
gì, cho cái gì nhỉ? Và đàn anh ngậm ngùi thương xót thân phận mình. Cái lý tưởng
chiến đấu của mình trước đây chỉ là thứ lý tưởng chắp vá bởi gấm vóc mục nát.
Nó bị trao đi đổi lại qua hết tay anh lãnh tụ này đến tay anh lãnh tụ khác. Và
anh lãnh tụ nào cũng là tay sai của quyền lực ngoại quốc núp sau những nhân
danh tham vọng, phản phúc. Đàn anh trôi theo cái giòng lý tưởng buồn tênh đó. Rốt
cuộc, đàn anh đã biến thành Trần Cung chịu vết chém ngang lưng của Tào Tháo.
Đàn em hôm nay hoàn toàn khác. Đàn em sáng tạo ra lý tưởng, sáng tạo ra chìa
khóa để tự tay mở cửa giải thoát dân tộc. Với dĩ vãng trăng sao vằng vặc, với
hiện tại mặt trời rực rỡ, đàn em đi chiến đấu không vẩn sợi khói đen mặc cảm thụ
hưởng phè phỡn, dựa dẫm ngoại bang, đào ngũ chạy trốn. Do đó, sự dấn thân đã là
một tuyên ngôn tuyệt vời, một cương lĩnh ngời rạng mà kẻ thù được quyền căm phẫn
nhưng không dám coi thường. Người tuổi trẻ hôm nay đã ngẩng mặt lên nói với thế
giới rằng, chúng tôi chưa bao giờ là phỉ, chưa bao giờ là ngụy. Phỉ quyền hà nội
và ngụy quyền sài gòn đã làm tan nát quê hương yêu dấu của chúng tôi, đã bắn
nát hạnh phúc của dân tộc tôi bằng bom đạn Nga sô, Trung quốc, Tiệp khắc, Hoa kỳ;
đã đầy đọa đồng bào tôi bằng thuốc khai quang và trại tập trung khổ sai lao động.
Thế giới đã chọn nước Việt Nam làm sân chơi chiến tranh, làm diễn đàn chống đối
chiến tranh, làm con mòng tội nghiệp của lương lính Đại Hàn thô bạo, của rắn rết
Thái lan, của kangourou Úc đại lợi, của cu ly Phi luật tân… Rồi thế giới ngoảnh
mặt phủi tay, ngoảnh mặt với luôn cả thuyền nhân việt nam chơi vơi trên mặt biển!
Cái thế giới mù lòa, câm điếc lương tri, cần tỉnh táo một phút thôi, để suy
nghĩ về những người tuổi trẻ việt nam hôm nay đang chiến đấu cho tự do, dân chủ,
hạnh phúc và thương yêu của dân tộc họ không cần súng đạn tư bản, không cần hỏa
tiễn vô sản. Họ mơ ước xa hơn, rằng, nỗi thống khổ và niềm cô đơn của họ trải
dài trên sầu đạo quê hương của họ. Và rồi, từ sầu đạo đó như sầu đạo Thích Ca,
Jesus đã qua, một nền văn minh nhân bản sẽ nở rộ hoa thơm ngát thắm nghĩa tình
người thay thế cho văn minh tư bản, văn minh vô sản đã bất lực trong mưu cầu hạnh
phúc nhân loại.
Mặt trời đã cao bằng đỉnh đầu. Nắng gay gắt dành cho một ngày
gay gắt. Tù nhân bị cúp bữa cơm trưa. Đội cấp dưỡng được chỉ thị ngưng bếp núc.
Anh em ra ngồi giữa sân nắng tỏ tình chiến đấu. Nón mũ đội hết lên đầu. Nước đã
có sẵn trong lon guigoz của mỗi tù nhân. Thuốc lào. Điếu cày. Lửa. Những hơi
rít đẫy đà. Nước điếu reo vui. Khói nhả bay. Thoải mái. Loa phóng thanh không
ngớt nhắc nhở tù nhân tôn trọng nội quy. Rồi im tiếng. Nó cần ăn. Nó đói. Tù
nhân chẳng thiết ăn. Tù nhân no nê niềm vui. Đến hai giờ, nó lại phóng thanh.
Nó yêu cầu tù nhân cử đại diện lên gặp ban giám thị. Tù nhân bàn tán.
Đội trưởng mắt ốc nhồi hỏi:
- Các anh nghĩ sao?
Một đội trưởng cũ hỏi lại:
- Chú nghĩ sao?
- Nếu các anh cho phép, xin để chúng em đối phó.
- Các chú đối phó đi.
- Vậy chúng ta không gặp ai, không có đại diện gì cả.
Đội trưởng mắt ốc nhồi trình bày:
- Có đại diện là có tổ chức. Có tổ chức là có âm mưu từ lâu.
Họ sẽ đàn áp chúng ta thẳng cánh. Chúng ta coi vụ này… đột xuất. Dẫu bị đàn áp,
chúng em lãnh hết. Nếu cử đại diện lên gặp họ, họ sẽ nhốt luôn. Chúng em chịu
hoàn toàn trách nhiệm vụ này.
Ba giờ, cán bộ giáo dục tới sát cổng trại:
- Tôi cần gặp đại diện của các anh.
Đội trưởng mắt ốc nhồi ra gần cổng:
- Thưa cán bộ, không có ai là đại diện của ai cả. Tù nhân
không có tổ chức, không có lãnh đạo.
- Các anh muốn gì?
- Muốn làm sáng tỏ chính sách đối với tù nhân của đảng và nhà
nước.
- Ai làm sáng tỏ, các anh à?
- Ban giám thị.
- Vậy các anh phải gặp ban giám thị để thảo luận.
- Tôi mong mỏi gặp ban giám thị ở sân trại này.
- Ban giám thị không thèm tới đây!
- Thế thì tôi không thèm lên.
- Anh chống đối, hả?
- Dĩ nhiên, không chống đối sao bị tù?
- Anh không sợ kỷ luật à?
- Chết không sợ, sợ gì kỷ luật.
- Anh muốn chết sẽ được chết.
Hai mươi bốn người tuổi trẻ xông tới cổng, phanh ngực ra, nhất
loạt:
- Có giỏi bắn đi! Chúng tôi đang thèm chết. Chúng tôi chết
cho hàng triệu tuổi trẻ miền Nam vùng dậy.
Tù nhân cũ reo hò, vỗ tay và buông những lời thách thức ngạo
nghễ. Cán bộ giáo dục hoảng sợ, bỏ chạy. Bốn giờ, xe tăng ngoài thị trấn bò
vào. Trại xây dựng từ thời nô lệ. Thực dân nó bắt nhốt những nhà ái quốc ở đây.
Nó hiểm độc tạo ra một nhà tù trên một cái đầm lầy, rộng. Tù nhân khó lòng vượt
trại. Một độc đạo nhỏ từ trại dẫn ra lộ lớn. Dọc độc đạo này là những đồn canh
nghiêm mật. Cộng sản cướp quyền thống trị, họ tuyên bố phá tan cùm xích, lao
tù, nhưng Đầm Đùn vẫn là Đầm Đùn như Sơn La, Côn Lôn, Phú Quốc, Lao Bảo, Lào
Kay…, vẫn là ngục tù dữ dội giam nhốt người yêu nước. Điểm khác biệt là, hôm
nay, chế độ ngục tù đốn mạt hơn và thực dân cai ngục là cách mạng cai ngục! Không
ai nao núng vì xe tăng xuất hiện. Tù nhân cũ đứng cả lên:
- Chúng ta, tất cả chúng ta, không riêng lẻ nữa!
Đội trưởng mắt ốc nhồi – bây giờ là lãnh đạo – xin mọi người
ngồi xuống và giữ trật tự. Anh ta nói:
- Sự im lặng chế ngự mọi đàn áp. Đây mới là trận đầu. Mong
các anh nghe em như các anh đã cho phép em toàn quyền đối phó.
Tất cả lại yên lặng. Xe tăng đậu trước cổng trại, quay mũi
súng vào. Tù nhân không nói, không hát, không hút thuốc, uống nước. Vũ khí của
đàn áp của kẻ thù bỗng trở nên lố lăng, hài hước. Loa phóng thanh kêu gọi đội cấp
dưỡng về bếp nấu cơm. Tù nhân nói không cần ăn. Đội cấp dưỡng ngồi ì. Năm giờ,
loa phóng thanh yêu cầu tù nhân về nhà nghỉ ngơi, ban giám thị sẽ cứu xét trường
hợp ba người bị kỷ luật biệt giam. Tù nhân không nhúc nhích. Bạo lực bắt đầu sợ
hãi sự bất bạo động. Vũ khí tư tưởng luôn luôn ghê gớm. Súng đạn không thể bắn
chết tư tưởng. Nhưng tư tưởng đã dẹp tan súng đạn. Ngục tù không thể hủy hoại
được tư tưởng. Nhưng tư tưởng đã cảm hóa cai ngục. Chúng ta thù hận chủ nghĩa,
thù hận móng vuốt của chủ nghĩa, thù hận giáo điều của chủ nghĩa xúi dục con
người ghét bỏ nhau, xa cách nhau, chém giết nhau. Chúng ta không thù hận con
người. Chúng ta, bằng tư tưởng nhân bản khai phóng, cố gắng đánh thức lương tri
của con người bị che lấp bởi bóng tối của chủ nghĩa phi nhân, chúng ta mời gọi
gần gũi, cảm thông và yêu mến. Chúng ta đã như thế. Chúng ta mãi mãi như thế.
Chúng ta không thích kiếm hạnh phúc cho loài người trên những xác chết.
Sáu giờ, giám thị xuất hiện. Ông ta đeo quân hàm và phù hiệu
công an. Sau lưng giám thị là một tiểu đội vệ binh kè kè súng tiểu liên. Cổng mở
khóa, đẩy rộng lối. Tù nhân ngồi theo đội ngũ nghiêm chỉnh.
Giám thị nói, giọng thân thiện:
- Có chuyện gì thế, các anh?
Con chó sói khi không rút ruột nổi con mồi, nó ngọt lời ve
vãn:
- Tôi hoàn toàn không biết. Chẳng ai báo cáo với tôi cả.
Giám thị khiển trách cán bộ trực trại:
- Tại sao đồng chí không giải quyết, cũng không báo cáo?
Cán bộ trực trại ấp úng:
- Báo cáo đồng chí…
Giám thị khiển trách:
- Làm việc sai nguyên tắc. Đồng chí phải tự kiểm để rút kinh
nghiệm.
Các kịch sĩ cộng sản nhỏ chơi hài kịch. Giám thị xoa tay.
- Chuyện gì nào, tôi giải quyết tại chỗ.
Đội trưởng mắt ốc nhồi đứng dậy, nghiêm trang:
- Thưa ông giám thị, chuyện rất nhỏ. Ba người anh em của
chúng tôi bị xích chân tống dưới hầm đá biệt giam mà không hề có Quyết Định thi
hành kỷ luật. Chúng tôi thắc mắc và chúng tôi đòi làm sáng tổ chính sách sáng
suốt, khoan hồng của nhà nước. Cán bộ trực trại nâng quan điểm lên thành một cuộc
nổi loạn chống đối.
Giám thị ngó đội trưởng chằm chằm:
- Anh ở nhóm 28 người vừa từ miền Nam ra?
Đội trưởng đáp:
- Phải.
- Anh lãnh đạo cả nhóm?
- Không. Tôi lãnh đạo tôi.
- Anh đã lường nổi hậu quả của hành động của anh chưa?
- Rồi.
- Như thế nào?
- Phơi xác trên hàng rào kẽm gai về tội… trốn trại!
Sân trại im lặng đến nỗi nghe rõ từng bước chân của chiều về.
Giám thị cười:
- Anh bi quan quá. Chế độ của ta không hủy diệt con người.
Đội trưởng cười theo:
- Vâng, chế độ ta chỉ quản lý con người thôi.
- Thôi, sẽ làm việc với anh sau. Bây giờ các anh muốn gì?
- Làm sáng tỏ vụ bắt nhốt ba người tù.
- Tôi sẽ ra lệnh tha ngay ba người đó. Các anh cũng sẽ phải về
ngay nhà, chuẩn bị cơm nước, đi ngủ và sáng mai lao động.
Giám thị mỉa mai:
- Trò chơi xuống đường, tuyệt thực, đêm không ngủ của các anh
lạc hậu rồi. Nó không thích hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, càng không thích hợp
ở trại cải tạo. Các anh hãy tự hỏi các anh đi: các anh là ai, ở đâu, đang làm
gì? Sự khoan hồng chỉ dành cho người tiến bộ, không dành cho bọn ngoan cố. Nuôi
các anh rẻ mạt, chúng tôi nuôi các anh suốt đời được! Đừng tưởng chúng tôi sợ
hãi các anh mà không dám bẽ gãy âm mưu của các anh. Chỉ có một lối mở cho ngày
về của các anh thôi: lao động cải tạo tốt, gột rửa sạch tư tưởng xấu xa cũ để
tiến bộ. Thế đấy…
Đội trưởng lãnh đạo cắt ngang lời giám thị:
- Đừng tưởng chúng tôi sợ chết. Đừng hòng gột rửa tư tưởng của
chúng tôi. Thể xác sẽ tan rã nhưng tư tương tốt đẹp sẽ tồn tại, sẽ đẩy chủ
nghĩa cộng sản xuống huyệt sâu của thời đại.
Giám thị gật gù:
- Anh sẽ có nhiều cơ hội sợ chết!
Rồi ban lệnh:
- Dẫn ba anh ở biệt giam ra đây!
Cán bộ trực trại nhận lệnh bằng tiếng rõ cộc lốc. Lát sau, ba
người trong nhóm hai mươi tám người được dẫn ra trước đám đông. Giám thị tuyên
bố:
- Tôi tha ba người rồi, yêu cầu các anh xếp hàng về nhà!
Tù nhân đứng dậy hết, từng đội, lần lượt về nhà. Họ cho rằng
đã vừa thắng cộng sản trận đầu. Ý chí được đánh thức. Tinh thần bất khuất sống
lại. Một ngày thật đẹp của những người tù biệt xứ. Bắt đầu từ nay là hết cam
đành, là khởi sự cuộc chiến đấu mới. Họ xôn xao về hai mươi tám tên phản động
tuổi trẻ và họ phong cho hai mươi tám tên phản động một danh xưng mỹ miều: Bầy
sư tử lãng mạn.
Trong khi, tù nhân hân hoan niềm vui chiến thắng thì, ở văn
phòng giám thị, một ủy viên trung ương đảng cộng sản, chức sắc cao cấp của bộ nội
vụ đang nhả khói thuốc suy tư. Ông ta ở hà nội vào đây lúc xế trưa. Ông ủy viên
đem chỉ thị cấm đàn áp tù nhân của trung ương tới và ra lệnh thả tù nhân bị kỷ
luật, xoa dịu không khí chống đối, có thể, sẽ biến thành nổi loạn bạo động giây
chuyền. Như thế, bọn bá quyền Trung quốc, bọn đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc
tế sẽ lợi dụng để bôi nhọ chế độ trên báo chí, truyền thanh và diễn đàn Liên Hiệp
Quốc.
Ông ủy viên dập điếu thuốc:
- Đồng chí giám thị đánh giá cuộc chống đối này ra sao?
Giám thị khúm núm:
- Kính thưa đồng chí ủy viên, mấy thằng nhãi ranh ấy sẽ không
thể làm gì nữa.
Ủy viên lắc đầu:
- Đồng chí mắc bệnh chủ quan rồi. Do đó, đồng chí đã dằn mặt
chúng quá sớm, tạo cho chúng cơ hội phê bình chính sách. Những đứa dám tìm kẽ hở
của chính sách là những đứa nguy hiểm. Hai mươi tám thằng vừa đến là hai mươi
tám trường hợp quan trọng. Chính chúng nó mới là kẻ thù của ý thức hệ. Chúng nó
đã khiến ta phải nghiên cứu tâm lý tuổi trẻ miền Nam. Hai mươi tám thằng đó đã
lãnh đạo hàng ngàn thằng sĩ quan ngụy cấp tá.
Ông ủy viên rít qua kẽ răng:
- Tôi cần nghiên cứu hồ sơ của chúng nó.
Giám thị gọi cán bộ hồ sơ. Mười phút sau, cán bộ hồ sơ mang đến
một chồng. Lý lịch của Bầy sư tử lãng mạn, từng cậu, trong cái bìa đỏ chói. Ông
ủy viên bật đèn, mang kính, ngồi nghiên cứu thân thế, sự nghiệp, huyết thống của
sư tử. Mỗi cuộc đời của mỗi người tuổi trẻ việt nam hôm nay được soi chiếu kỹ
lưỡng bằng kính hiển vi của chủ nghĩa cộng sản quang vinh và tội nghiệp…
3
Cachot này ghê gớm nhất. Nếu ví nhà tù là khách sạn và nỗi khổ
là sao thì Chí Hòa, khách sạn mười tám sao. Khu FG cực kỳ sang trọng đánh giá bằng
kỷ luật thẳng thừng và sự tối tăm phát sợ. Và biệt giam tầng cao nhất FG, những
phòng đặc biệt dành cho những khách tù đặc biệt. Trần Thế Tưởng, 32 tuổi; sinh
quán Quảng Trị; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú Làng Báo Chí, quận Thủ Đức, Sài
gòn; nghề nghiệp lính ngụy biệt phái nhật báo Tiếng Nói; đơn vị gốc Pháo binh;
can tội tổ chức chống phá cách mạng; nhiệm vụ ấn loát truyền đơn, báo chí; bị bắt
ngày 5 tháng 11 năm 1975, đang ngồi bó gối ở góc cachot khu FG Chí Hòa.
Trần Thế Tưởng, người tù duy nhất đã nằm hết cachot của sở
công an, của đề lao Gia Định. Một năm có 365 ngày thì Tưởng ở cachot đủ 300
ngày. Chàng coi thường cachot đề lao. Khi người ta đưa chàng ra phòng tập thể,
chàng kiếm chuyện vi phạm kỷ luật để được đi biệt giam. Dáng dấp to con, giọng
nói trọ trẹ mà ham nói nhanh, nói nhiều, Tưởng ưa tranh luận và ưa gây lộn.
Tính tình thẳng thắn, nóng nẩy. Nổi danh ở đề lao Gia Định vì dám chỉ tay thẳng
mặt tên cai ngục C2 sỉ nhục : « Anh và chế độ của anh dã man, vô nhân đạo ».
Cai ngục báo cáo với chúa ngục Hai Phận. Chúa ngục gọi Tưởng lên làm việc 1
- Anh dám bôi bác chế độ hả?
- Đúng.
- Tại sao?
- Vì lâu quá tôi không được gặp vợ con tôi.
- Sẽ cho anh gặp.
- Bao giờ?
- Mai.
Hai Phận giữ lời hứa. Hắn dẫn Trần Thế Tưởng ra hàng rào đề
lao. Vợ con Tưởng bên ngoài, Tưởng bên trong. Sau mười lăm phút gặp gỡ Hai Phận
đưa Tưởng vào, mời Tưởng uống nước trà, hút thuốc Vàm Cỏ.
- Chế độ còn dã man không?
- Còn.
- Tại sao?
- Vì đứng ở hàng rào dã man, vô nhân đạo hơn là không gặp.
- Sẽ cho anh gặp lại.
- Bao giờ?
- Cuối tuần.
Cuối tuần, can phạm Trần Thế Tưởng gặp vợ trong phòng thăm
đàng hoàng. Chuyện trò kéo dài nửa tiếng.
- Chế độ còn dã man không?
- Còn.
- Tại sao?
- Vì nói chuyện có nửa tiếng chưa nói hết chuyện.
- Sẽ cho anh gặp vợ con nữa.
Lần thứ ba, Tưởng tha hồ tâm sự với vợ con. Trọn nửa ngày,
Hai Phận không ngồi ám. Hắn cũng chẳng khám quà nuôi Tưởng đem vô phòng. Anh em
bảo Tưởng khùng, Tưởng liều và Hai Phận thì bốc đồng. Từ đó, Hai Phận chiếu cố
Tưởng tận tình. Trước ngày nuôi, hắn đưa dao cạo cho Tưởng cạo râu. Sáng sớm
ngày nuôi, hắn đưa bánh mì cho tưởng ăn, sợ ra khiêng quà tù vất vả, mau đói. Hắn
tặng Tưởng hai bộ quần áo tù và, thỉnh thoảng, bồi dưỡng trứng gà tươi. Hắn còn
thi ân lao động ngoài phòng cho Tưởng. Sáng sáng, đích thân hắn mở cửa mời Tưởng
lên y tế bào chế thuốc dân tộc. Chiều chiều, đích thân hắn ôm vai đưa Tưởng về.
Tưởng gây gỗ đánh ai, Hai Phận xử hòa. Người khác sẽ bị kỷ luật. Tưởng được ưu
đãi quá khiến anh em ngờ vực, sợ hãi rồi rỉ tai nói xấu. Thần tượng hôm qua sụp
đổ. Hôm nay là thằng antenne hèn mọn, đê tiện. Cọng sản lại chơi quốc gia một
cú ngoạn mục. Mày nổi tiếng, mày thuyết phục, mày kết hợp được, mày dám chống đối,
tao không hành hạ mày, hành hạ mày để mày trở thành anh hùng, thành đại bàng à!
Không, tao nuông chiều mày, tao mượn tay những đứa sùng bái mày hạ bệ mày, ghê
tởm mày, hết tin mày, con ạ!
Không chịu nổi sự ngộ nhận của “chiến hữu” ngu xuẩn và để
thanh minh tâm hồn trong sạch của mình, một buổi sáng, khi Hai Phận vừa mở cửa
phòng, Trần Thế Tưởng phóng trái đấm đắng cay vào mặt Hai Phận. Chúa ngục lảo đảo,
bị xô bắn sang cửa biệt giam đối diện. Tưởng nghiến răng, nói với anh em:
- Hãy cố mà sống lâu. Kẻ nào sống, kẻ ấy sẽ biết. Đoạn cuối của
đời tôi sẽ có một kết luận đúng nhất.
Phản ứng của Hai Phận bình thường. Buổi trưa, Trần Thế Tưởng
dọn hành lý rời phòng. Chúa ngục tuyên bố nhà nước khoan hồng thả Tưởng về.
Nhưng Tưởng bị đưa qua Chí Hòa và bị nhốt ở cachot khu FG. Chàng đang ngồi bó gối
suy nghĩ về cái thủ đoạn khốn kiếp của cọng sản. Cọng sản gian manh và giỏi lắm.
Cọng sản không phải là những anh nhóc bộ đội nói ngọng và những cậu công an khu
vực mê gái sài gòn đâu. Cọng sản có chủ nghĩa. Và chủ nghĩa của nó tua tủa móng
vuốt. Và chúng ta mãi mãi hôn mê trong hờn giận, ghen tuông, ngờ vực và bêu xấu
lẫn nhau.
Tưởng đưa tay rờ mép. Máu vẫn còn ri rỉ. Chàng bị lũ công an
quản giáo FG trói lại đánh đập tàn bạo. Chúng giáng những nắm đấm tình
nghĩa, những cú đá khoan hồng , những cái đạp nhân đạo 2 vào mặt chàng, vào bụng chàng, vào ngực
chàng. Chúng quần thảo cho đến khi chàng nằm bất động, mắt nhắm lại và máu miệng
ứa ra 3. Chưa tha, chúng dựng đứng chàng dậy, bồi tiếp
những trái cách mạng vĩ đại. Rồi chúng khiêng chàng, liệng vào
cachot, chẳng cần quan tâm chàng sống hay chết. Tưởng tỉnh dần, tỉnh dần. Chàng
không hiểu mình đã thiếp đi bao lâu. Chàng tỉnh nhờ bóng tối âm u, nhờ mùi hôi
khai tỏa ra từ cái xô phân tiểu lâu ngày chưa đổ, nhờ sự ẩm ướt của phòng biệt
giam. Thế là chàng chưa chết. Để có dịp so sánh cachot FG Chí Hòa với cachot đề
lao Gia Định.
Dựa lưng vào tường, thả dài chân cho thoải mái, chàng cảm thấy
thèm một hơi thuốc lá hơn là môt ly nước dẫu cổ họng chàng khô cháy. Tưởng mơ ước
một vũng nước, một vũng nước của thời niên thiếu. Được nhảy xuống, đầm mình,
ngoi lên, da thịt lại tươi ngon, nỗi đau sẽ tan biến và ý chí sẽ gang thép. Tự
nhiên, Tưởng muốn truy nã cái thân phận của chàng từ dĩ vãng đến hiện tại.
Chàng muốn làm một bản tự khai tâm cảm cho chính chàng…
Quê hương chàng, quê hương “đất cày lên sỏi đá”. Con nhà
nghèo, thật nghèo. Bố chàng xưa, học hành vớ vẩn, đi lính gác quận đường. Năm
chàng lên sáu, bố bệnh hoạn trở về làng. Cậu bé không được đi học và thường
xuyên đói rách. Tội nghiệp cậu, bố cậu đến một ngôi chùa, ký thác cậu cho sư cụ
trụ trì để cậu ăn cơm thừa cửa Phật. Cậu bé có pháp danh Thích Tâm Ổn. Đầu gọt
nhẵn, mặc áo cà sa, đi chân không, chú tiểu Tâm Ổn theo thầy đi khuyến giáo đây
đó. Chú thích nhất đám ma. Vì đám ma thì có đàn chay, gõ mõ cả đêm và ăn uống
thỏa thuê. Ăn căng bụng là ước mơ của chú tiểu Tâm Ổn. Chú nảy sinh ý nghĩ độc
ác, mong mỗi ngày một người chết. Để chú khỏi lo đói. Sự nghiệp đi tu không kéo
dài hết đời chú Thích Tâm Ổn. Năm chú lên mười, bố chú ra tỉnh, gặp sếp cũ nay
là tỉnh trưởng. Nhờ ông tỉnh trưởng giúp đỡ, chú Tâm Ổn cởi áo cà sa, vô tuốt
Vũng Tàu học trường Thiếu Sinh Quân. Một chân trời mới mở ra cho cậu Trần Thế
Tưởng. Chăm chỉ, ngoan ngoãn, chịu khó nhờ các anh lớp lớn kèm thêm, cậu theo kịp
bạn học cùng lứa tuổi với số chữ nghĩa học ở nhà và học thầy chùa. Mười tám tuổi,
cậu tình nguyện vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Vì là tình nguyện, tốt nghiệp, sĩ
quan Trần Thế Tưởng phục vụ ở binh chủng biệt kích. Hai năm sau, cậu mang lon
thiếu úy, chỉ huy một toán quân chuyên nhảy lên đầu cọng sản ở rừng già heo
hút. Thiếu úy Tưởng gan dạ, lập nhiều chiến công nhưng không có huy chương. Biệt
kích không được phép phô trương, chiến công của họ nhường cho các binh chủng bạn.
Tưởng có nhiều kỷ niệm buồn bã về nhảy toán. Những buổi chiều mưa hiu hắt ngồi
chờ trực thăng bốc đến địa điểm nào đó mà mình chẳng hề biết trước. Những đồng
đội bị thương nặng không thể mang theo, không thể để sống chờ chết, phải kết
thúc họ bằng chính dao găm biệt kích. Nước mắt đã nhỏ nhiều trên những xác chết
đòi đoạn ấy.
Khi chiến tranh chỉ còn là trò chơi giết nhau vô tích sự, người
biệt kích chán nản. Chàng uống rượu. Chàng mê gái. Chàng đốt ngày tháng sầu muộn
viển vông: người biệt kích bỗng hối hận mình đã không có căn tu. Rồi chàng si
mê cô ca sĩ. Chàng đào ngũ vì nàng. Nàng không yêu chàng. Chàng biến thành gã
lang thang, về Sài gòn đêm đêm kéo màn cho gánh cải lương hát đình bệ rạc. Cuối
cùng, quê hương là nơi chốn êm đềm nhất. Nhưng mà đói rách, chàng đành dùng căn
cước của anh họ, đăng lính pháo binh Sư đoàn I. Vì ngang bướng, vì không tôn trọng
mệnh lệnh, binh nhì Trần Thế Tưởng đã không kéo chướng ngại vật cho thiếu tá chỉ
huy trưởng đơn vị lái xe vào trong cơn say mèm. Vị thiếu tá ban lệnh rồi vị thiếu
tá dẫm chân lên lệnh. Và đòi bắn binh nhì Tưởng. Binh nhì Tưởng bị đầy đi làm
“đề lô” trên một ngọn núi hết tháng này sang tháng khác. May mắn, sếp cũ bị
thuyên chuyển, sếp mới thay thế, chú ý trường hợp của Tưởng. Ông ta gọi Tưởng về,
Tưởng trình bày hoàn cảnh của mình: sếp yêu mến người sĩ quan biệt kích cũ,
dành cho Tưởng nhiều ân huệ, Tưởng quanh quẩn ở đơn vị.
Quảng Trị sục sôi lửa đạn. Bọn phóng viên nhiếp ảnh ngoại quốc
không dám lao vào chiến trường. Họ đưa máy cho Tưởng, thuê Tưởng chụp, mỗi cuốn
mười ngàn đồng. Sếp của Tưởng không chịu. Rẻ quá. Ông sắm máy ảnh cho Tưởng. Tưởng
bỗng nhiên thành phóng viên nhiếp ảnh chiến trường, bán phim cho các hãng thông
tấn ngoại quốc và báo chí việt nam. Rồi Tưởng được nhận làm phái viên của nhật
báo Tiếng Nói, được đổi vào Sài gòn, được biệt phái về ngành báo chí. Tiếng tăm
chàng nổi dậy. Tiền bạc chàng nhiều. Chàng cưới vợ và trở về làng cũ xây cho bố
mẹ một căn nhà khang trang. Còn trẻ, thiếu thủ đoạn nghề nghiệp, chàng say máu
sự nghiệp, làm tất cả những gì mà đàn anh ở tòa báo sai bảo. Và chàng đã dính
líu vào vụ bắn chết một ông chủ báo đối nghịch với Tiếng Nói tại đầu đường Bùi
Chu. Cuộc đời không dừng lại ở đó, nhà báo Trần Thế Tưởng vẫn hung hăng tiến
lên. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì sự nghiệp báo chí của chàng chấm dứt.
Cơn hốt hoảng qua mau, phái viên Trần Thế Tưởng sắm cái xe ba
bánh chở đồ mướn. Nghề chở xe ba bánh thiếu hấp dẫn, Tưởng bán xe ba bánh mua
xe xích lô. Chàng thả dài khắp đường phố Sài gòn, giải sầu bằng đạp xe và chỉ cần
đủ một gói Lucky. Trần Thế Tưởng đã gặp Vương Huy Dũng trong dịp này. Dũng, dưới
ba mươi tuổi, chưa vợ con, sĩ quan báo chí quân đoàn 4, khước từ trình diện học
tập cải tạo. Họ tìm đường vào chiến khu.
- Mày bắt liên lạc gì với tụi bạn biệt kích cũ chưa?
- Chưa. Tao thả dài các phố, quán cà phê nào cũng ghé mà chẳng
gặp thằng nào.
- Bọn nó về rừng cả rồi.
- Mình phải tìm đường. Tao để địa chỉ liên lạc ở quán chị em
Quỳnh Như, Hoàng Nga.
- Vợ mày ra sao?
- Sắp đập bầu.
- Mày vất vợ mày lại à?
- Không, tao đi làm cuộc đời cho các con tao. Cuộc đời chúng
mình hỏng rồi. Mình tiêu pha đời mình láo lếu qua. Tao thương cuộc đời thơ ấu
khốn nạn của tao. Con tao sẽ khốn nạn như tao ngày xưa. Tao ngỡ đã có thể quên
mình mà gầy dựng hạnh phúc cho con mình. Bây giờ thì hỏng. Thì phải làm lại.
Thì phải chiến đấu. Chiến đấu vì cái gần gũi trước nhất.
- Đúng. Bây giờ mới đích thực là chiến đấu. Tao muốn được chiến
đấu như một hiệp sĩ một mình một ngựa. Tao chán làm guốc cho lãnh tụ rồi, tao
phải làm mũ đội lên đầu tao. Tuổi trẻ của tao còn nguyên vẹn tao cần đi từ đầu.
Từ đầu đường mới đến tương lai. Tao ghê tởm cái cũ. Cái cũ vất bỏ.
Mỗi đêm, hai người bạn đều chờ đợi một chuyến vào chiến khu.
Hình như không có chiến khu. Hình như chiến khu chỉ là ảo tưởng, là nơi chốn
nương dựa của tuyệt vọng. Vương Huy Dũng và Trần Thế Tưởng tìm đến cụ Phan Vô Kỵ.
Già và trẻ gặp nhau. Cụ Vô Kỵ chỉ dẫn Dũng và Tưởng những kinh nghiệm của cụ với
cọng sản. Họ hoạch định chương trình hoạt động. Tổ chức, ngày đầu, chỉ có Dũng
và Tưởng. Tuần lễ sau đã quyến rũ được hàng chục thanh niên, thiếu nữ. Nam Sơn,
vua các biển quảng cáo đường Vũng Tàu, Lục tỉnh nhập cuộc chơi. Phan Vinh, phó
giám đốc khách sạn Palace dâng hiến tiền bạc. Nơi liên lạc: Các quán cà phê vỉa
hè. Nơi hội họp: Phòng 4, lầu 3, khách sạn Palace. Dũng và Tưởng viết truyền
đơn, viết báo. Nam Sơn ấn loát bằng roneo, bằng máy in. Sinh viên học sinh phổ
biến. Tổ chức thiếu cảnh giác và kết nạp người theo nhiệt tình. Tên luật sư Đỗ
Hữu Cảnh, bạn học của Dũng đã lọt vô. Nó là thằng trí thức nằm vùng, đeo quân
hàm trung úy công an, bí danh ba son. Nó giăng một mẻ lưới. Tổ chức bị tóm gọn.
Đối diện Mai Chí Thọ, Dũng và Tưởng không nhận tội. Chiến đấu cho tự do, dân chủ,
hạnh phúc của dân tộc không bao giờ là tội lỗi cả.
Hai chàng bị xếp vào hồ sơ đen, bị còng chân, còng tay nằm
dài dài trong các thứ cachot của các kiểu nhà tù. Hai chàng từ chối làm việc với
công an chấp pháp và không viết tự khai. Tuy vậy, công an vẫn điều tra đầy đủ
lý lịch của hai chàng cọng thêm những chống đối của hai chàng ở các trại giam.
Tiếng đập cửa thình thình làm Trần Thế Tưởng giật mình.
- Mày khát nước chưa?
Cai ngục hỏi.
- Tôi khát lắm.
Tưởng đáp.
- Ký vào tờ giấy tự kiểm nhận hết tội lỗi với cách mạng, mày
sẽ được uống nước và đưa xuống phòng tập thể. Rồi mày có thể về nhà luôn.
Cai ngục rọi đèn pin qua miếng cửa cachot. Ánh sáng soi rõ cảnh
tượng ghê gớm của cái quan tài xi măng nhốt tù nhân. Cuộc đời nhỏ đấy, phóng lớn
thì nó là cuộc đời xã hội chủ nghĩa rất trung thực. Cai ngục tắt đèn.
- Mày nghĩ kỹ đi.
- Tôi nghĩ rồi.
- Ký hả?
- Không phải tôi nghĩ thế.
- Mày nghĩ sao?
- Tôi nghĩ có ngày tôi sẽ tha thứ anh, dù anh đã đánh đập tôi
không tiếc thương.
- Đ. m., vậy lát nữa tao đánh thêm mày!
Cai ngục bỏ đi. Trần Thế Tưởng cố đứng dậy, mò mẫm tới cửa, đặt
miệng vào ô hở cachot, hét lớn:
- Mày không đáng trả thù, mày chỉ đáng tha thứ…
--------------------------------
Chấp cung, hạch hỏi, dọa nạt đối với cộng sản đều là… làm
việc. |
|
Danh từ nghiêng: Cộng sản luôn luôn nói với tù nhân như thế. |
|
Trận đòn Tưởng chịu đựng ở Chí Hòa với Vương Huy Dũng tháng
12 năm 1978. |
4
Bản tự khai của Đặng Hữu Trí
Sơ yếu lý lịch
Họ và tên: Đặng Hữu Trí
Năm sinh: 1960
Nơi sinh: Sài gòn
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 214B/5 Gia Long, Sài gòn
Nghề nghiệp: Học sinh
Bị bắt ngày: 7-11-1975
Can tội: Xử tử bác hồ.
Chúng tôi gồm ba đứa: Nguyễn Bảo Châu, Lê Văn Nam và Đặng Hữu
Trí, cùng học chung lớp 10 trường Pétrus Ký. Bố của Nguyễn Bảo Châu là đại tá
quân lực việt nam cọng hòa. Bố của Lê văn Nam là trung tá. Còn bố tôi buôn bán
lặt vặt. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi rất buồn vì nhiều bạn thân của
chúng tôi đã chạy sang Mỹ. Rồi bố bạn tôi, anh bạn tôi đi trình diện học tập cải
tạo. Nhà nước nói 10 ngày về nhưng nhà nước đã nói dối. Niên học giải phóng, thống
nhất tổ quốc, trường của tôi bị đổi tên thành trường Lê Hồng Phong, chúng tôi tức
lắm. Thầy của chúng tôi, người di tản, người đi tù, chúng tôi uất ức. Tượng của
vị danh nhân mang tên trường tôi dựng ở vườn sao trước dinh Độc lập bị giật đổ
nằm gục mặt xuống cỏ trông thảm hại. Ông Trương Vĩnh Ký có tội gì? Ông ấy không
phải ngụy quân, ngụy quyền, tại sao cách mạng thù hận ông ấy? Tôi không thích
cách mạng. Tôi không thích ai trả thù ai. Tôi thích mọi người sống gần gũi
nhau, đùm bọc nhau, thương yêu nhau, tha thứ lỗi lầm cho nhau. Cách mạng chỉ
làm xa cách và bắt bẻ tội tình đã qua và bỏ tù người việt nam. Cách mạng thiếu
tình đồng bào.
Ở khu phố tôi, mấy thằng mất dạy, nay là Cờ Đỏ, bắt nạt tôi,
bắt tôi họp hành tập hát, tập múa và căm thù Mỹ Ngụy. Chúng cứ mở miệng là “bác
hồ vĩ đại” khiến tôi cáu sườn. Bác hồ, bác hồ, bạn tôi nói, người đường phố
nói, bởi cái anh già râu lơ thơ này mà miền Nam khổ sở. Tôi thấy bác hồ thua
ông Trương Vĩnh Ký. Bác ấy chết rồi mà cứ bắt chúng tôi nằm mơ gặp bác ấy, chán
lắm, chán lắm. Tôi thương ông Trương Vĩnh Ký, chết thuở nao thuở nào mà còn bị
xử tử. Tôi ghét bác hồ. Tôi bàn với Châu:
- Này, tao muốn xử tử thằng già râu. Cách mạng xử tử ông
Pétrus Ký, mình xử tử già râu.
Châu nói:
- Muốn xử tử lão ta thì phải lập tòa án.
Nam nói:
- Dùng cả pháp trường cát nữa.
Châu nói:
- Xử bí mật, ba thằng mình xử lão.
Nam nói:
- Cứ rủ thêm mấy thằng con cháu sĩ quan ngụy cho chúng nó
tham dự mới vui.
Tôi nói:
- Lập tòa án luộm thuộm vô cùng. Tao đã xem xử án Tòa Sài Gòn.
Có chánh án, phụ thẩm, bồi thẩm, công tố viên, luật sư, mõ tòa, nhân chứng.
Châu nói:
- Mình đơn giản đi. Thằng Trí làm chánh an, tao buộc tội, Nam
bào chữa.
Chúng tôi nhất trí. Nam nói:
- Cả nước hoan hô bác hồ, mình xử tử bác ấy mình mới ngon.
Châu nói:
- Mình hách hơn bố mình.
Tôi nói:
- Mình trả thù cho dân tộc.
Châu nói:
- Nếu nó biết thì sao?
Nam nói:
- Tao đã đọc truyền đơn của Phục Quốc. Chơi xong, mình đi kiếm
Phục Quốc mà dông vô rừng.
Tôi nói:
- Tao chẳng ham sống với Cộng sản. Đời sống bây giờ buồn quá.
Tối ngày thủy lợi với kinh tế mới. Mình mất hết kỷ niệm rồi.
Châu nói:
- Bộ đội của nó lỏi dìn. Mình đủ sức cầm súng. Mình chơi súng
là Cộng sản đi đái.
Nam nói:
- Tao thề không đội trời chung với Cộng sản.
Tôi nói:
- Tao thề không theo Cộng sản.
Châu nói:
- Tao thề tiêu diệt Cộng sản.
Chúng tôi thề chí tình và tôi cũng khai thật tình. Tôi ghét
những kẻ gian dối. Buổi trưa ngày 4-11-1975, chúng tôi đã lập tòa án ở lớp học
trường Pétrus Ký. Ngoài ba đứa tôi chủ mưu còn thêm năm đứa toàn con sĩ quan ngụy
mà chúng tôi gạt chúng nó vô xem chúng tôi làm trò ảo thuật. Tôi gỡ chân dung
bác hồ lộng kiếng treo tường, đặt lên bàn, trên bục giảng. Dưới bàn học trò,
Châu móc túi lôi ra sợi giây, con dao nhíp và một hộp quẹt. Hai đứa ngồi hai
bàn sát nhau. Năm thằng kia ngồi chung một bàn. Phiên tòa khai mạc.
Tôi nói:
- Đây là phiên tòa bí mật. Vậy tòa yêu cầu mọi người im lặng,
nói khẽ, cười khẽ, vỗ tay khẽ.
Một thằng bọn năm đứa nói:
- Xử đứa nào thế?
Nam nói:
- Mày yêu bác hồ không?
Thằng đó nói:
- Không.
Châu nói:
- Vậy chúng tao xử lão già.
Bọn năm đứa vỗ tay. Tôi nói:
- Buộc tội lão đi, Châu!
Châu nói:
- Tao hỏi câu nào, mày nhái giọng ông cụ trả lời nhé, Nam!
Nam nói:
- Ô kê.
Châu nói:
- Già hồ, ra trước vành móng ngựa.
Nam nói:
- Dạ… dạ…
Tôi dựng bức ảnh bác hồ lên. Châu nói:
- Bị cáo từ đâu vô đây?
Nam nói:
- Từ Bắc kỳ!
Châu nói:
- Bị cáo! Già có biết già gây ra bao nhiêu tội ác không?
Nam nói:
- Khô… ô… ng…
Tôi nói:
- Láo! Đồ nói láo!
Châu nói:
- Thưa Tòa, bị cáo già hồ này có một tỉ tội ác. Tôi chỉ kể
vài tội vừa mới xảy ra ở Sài gòn thôi. Hắn tên là hồ chí minh, hừ, hồ chí minh
con mẹ gì. Đọc tiểu sử hắn, thấy cả lô tên. Nào là nguyễn tất thành, nguyễn ái
quốc, lý thụy… chẳng biết tên nào thật tên nào giả nữa. Đích thực, hỗn danh của
hắn là minh râu, trùm bọn cướp nón cối. Hắn đã xua quân chiếm Sài gòn, cướp nhà
cửa của dân di tản, bắt sĩ quan vào tù, bắt thầy giáo đi cải tạo tư tưởng, đổi
tên trường học, phá hủy tượng đài vĩ nhan, anh hùng, xé quốc kỳ miền Nam may quần
xà lỏn, đốt sách, giết nhà văn, bắt con nít học tập căm thù Mỹ ngụy, bắt cả nước
suy tôn hắn, bắt cụ già gọi hắn là bác, xua người về vùng kinh tế mới, lùa người
đi làm thủy lợi vân vân… Nhưng cái tội vĩ đại của hắn là gây ra cảnh cha xa
con, chồng mất vợ và chúng tôi chán nản học hành vì thấy tương lai mù mịt. Vậy
tôi xin Tòa xử tử hắn để treo gương cho những tên phản dân hại nước khác.
Tôi nói:
- Luật sư cái đi, mày!
Nam nói:
- Thưa quý Tòa, thân chủ của tôi thật sự là hồ chí minh tự
anh ba bồi tàu thủy chứ không phải minh râu. Thân chủ của tôi vô tội. Ông ta
không hề cầm dao con chó xin tí huyết ai cả. Mà chỉ xui lui cháu ngoan tàn sát
nhân dân thôi. Ông ta rất có công với tổ quốc Liên xô, Trung quốc. Vậy xin Tòa
giảm án cho ông ta, đổi án xử tử thành án cắt lưỡi. Theo ý tôi, Cộng sản bị cắt
lưỡi là nó hết nói phét, hết tuyên truyền láo lếu.
Tôi nói:
- Tòa suy nghĩ một tí.
Châu nói:
- Thưa Tòa, tôi cho phép minh râu chọn ba cách chết. Một: hắn
sẽ bị thắt cổ. Hai: hắn sẽ bị đâm ngực. Ba: Hắn sẽ bị hỏa thiêu.
Tôi nói:
- Tòa tuyên án xử tử lão già hồ chí minh, không cho lão chọn
lựa, bắt hắn chết cháy.
Bọn năm đứa vỗ tay hoan hô sự sáng suốt của Tòa. Bản án được
thi hành ngay. Tôi liệng chân dung bác hồ xuống sàn lớp, vỡ tan. Châu gỡ ảnh
ra, xé tan nát, dí chân lên rồi châm lửa đốt. Chúng tôi sung sướng vì đã trả
thù cho toàn dân việt nam. Sau phiên tòa, chúng tôi ra về. Tôi không hề biết
tên năm đứa tham dự, cũng chẳng quen chúng nó. Chúng tôi không sợ bị bắt. Do
năm đứa kể với bạn bè ở trường, an ninh Cờ Đỏ điều tra ra chúng tôi. Và chúng
tôi bị công an đến nhà còng tay, bịt mắt dẫn đi. Ở công an phường, tôi bị đánh
hộc máu mồm. Về sở công an, tôi hết bị đánh nhưng bị nhốt ở biệt giam hai
tháng.
Phiên tòa xử tử bác hồ hoàn toàn do tôi nghĩ ra. Không ai xúi
dục tôi cả. Bạn tôi, Châu và Nam ham vui đã a dua tôi. Tôi xin khai thêm: Từ lớp
2 đến lớp 5 tôi học ở trường tiểu học Trần Quý Cáp. Tôi không có nguyện vọng
gì. Tôi cũng không xin cách mạng tha tôi. Tôi chẳng hiểu mình làm đúng hay sai
nhưng đã làm thì chịu.
Những lời tự khai của tôi là đúng. Tôi chịu hình phạt nếu
khai man trá.
Làm tại đề lao Gia Định, 8-3-1976
Ký tên
Đặng Hữu Trí
Bổ sung bản tự khai ngày 8-3-76
Sơ yếu lý lịch
Họ và tên: Đặng Hữu Trí
Năm sinh: 1960
Nơi sinh: Sài gòn
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 214B/5 Gia Long, Sài gòn
Nghề nghiệp: Học sinh
Bị bắt ngày: 7-11-1975
Can tội: Xử tử bác hồ.
Sau nhiều lần làm việc với nhiều cán bộ chấp pháp và được gặp
gỡ bố mẹ tôi, tôi vẫn cho rằng những ý nghĩ của tôi đã tự khai là chân thật.
Tôi không hề nói dối. Từ khi tôi cắp sách đi học đến khi tôi bị bắt, chưa ai dạy
tôi nói dối cả. Bố mẹ tôi hy vọng vào tương lai của tôi: Làm người thật thà,
không làm người ian dối, dù thông minh hay xuất chúng. Người thật thà đã nói là
thật. Người thật thà không bao giờ cần cải chính những điều mình đã nói.
Tôi ghét bác hồ, tôi nói tôi ghét. Tôi không yêu bác hồ, tôi
nói tôi không yêu. Tôi không thể yêu một người mà tôi không hề biết. Bác hồ đã
chết, xác ướp trong hòm kính, tại sao bắt tôi phải yêu? Tại sao bắt tôi phải
suy tôn xác chết. Bây giờ tôi nói tôi yêu xác chết, yêu bác hồ là tôi nói dối.
Mà cán bộ đòi hỏi tôi chân thành khai báo rõ sự thật. Vậy sự thật là tôi không
yêu bác hồ, tôi thù ghét bác hồ.
Khi tôi đã ghét khó mà bảo tôi yêu. Khi tôi đã yêu khó mà bảo
tôi ghét. Thầy tôi đã dạy tôi thơ của ông Phùng Quán: “Yêu ai cứ bảo là yêu,
Ghét ai cứ bảo là ghét”. Tôi vâng lời thầy tôi, vâng lời ông Phùng Quán. Tôi
không thích tự khai thêm. Bổ sung, bổ sung hoài thì cũng chỉ tăng thêm lời ghét
chứ chẳng có lời yêu đâu. Nhốt tôi ở biệt giam năm tháng hay năm năm, tôi vẫn
thế, tôi vẫn là tôi chân thật.
Cán bộ hỏi tôi, nếu thả tôi về với gia đình, tôi sẽ làm gì,
có biết ơn cách mạng không, có yêu kính bác hồ không. Biết ơn cách mạng, nhất định
tôi biết ơn cách mạng rồi. Ai bắt tôi, rồi thả tôi, tôi cũng mang ơn. Nhưng yêu
kính bác hồ thì tôi không yêu kính đâu, vì tôi đã ghét bác hồ, đã xử tử bác hồ.
Tôi chỉ biết bổ sung đến đây.
Tôi khai thật, nếu man trá tôi không phải là tôi nữa.
Làm tại đề lao Gia Định, 6-8-1976
Ký tên
Đặng Hữu Trí
Bổ sung bản bổ sung tự khai ngày 6-8-1976
Sơ yếu lý lịch
Họ và tên: Đặng Hữu Trí
Năm sinh: 1960
Nơi sinh: Sài gòn
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 214B/5 Gia Long, Sài gòn
Nghề nghiệp: Học sinh
Bị bắt ngày: 7-11-1975
Can tội: Xử tử bác hồ.
Thêm nhiều lần làm việc với cán bộ chấp pháp, tôi đã trả lời
rõ rệt tôi không khai lại bản tự khai lần đầu. Không ai biến đổi sự thật thành
sự giả được. Cán ộ dọa rằng, nếu không ăn năn hối cải, thật lòng yêu kính bác hồ
thì muốn nằm tù bao nhiêu năm, tôi cũng đã trả lời rồi. Hồi ngụy, người ta ghét
Nguyễn Văn Thiệu, người ta uống rượu, giả say, bắn nát hình Nguyễn Văn Thiệu,
có sao đâu. Ngụy gian ác mà nó không bắt những người bắn hình Thiệu, đốt hình
Thiệu, đem ảnh Thiệu chùi đít, gói tôm, gói cá. Cách mạng quang minh sao nỡ nhốt
trẻ con? Cứ nhốt đi, khi nào cách mạng tiêu, tôi sẽ về. Về bây giờ vẫn bị nghe
hát suy tôn bác hồ chẳng ích lợi gì. Tôi muốn nằm tù muôn năm.
Làm tại đề lao Gia Định, 7-10-1976
Ký tên
Đặng Hữu Trí
5
Căn nhà nằm bên số chẵn đường Phan Đình Phùng, cách tòa Lãnh
sự Pháp vài bước. Trước cửa trồng hoa giấy. Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, không
ai thiết chăm sóc giàn hoa, để nó mọc xum xuê che lấp cả ánh sáng. Vì thế, căn
nhà đã cổ kính lại càng thâm u. Nó là biểu tượng của sự phản kháng tiêu cực. Nó
chẳng chịu hòa nhập vào niềm vui thống nhất tổ quốc. Nó thiếu cờ lớn, hình như
không treo chân dung chủ tịch hồ chí minh, mặc dù, căn nhà thường xuyên phải tiếp
những nhân vật quyền quý của chế độ mới: Bộ trưởng ngoại giao của chính
phủ lâm thời cọng hòa miền Nam, bà Nguyễn thị Bình và chồng, đại tá Đinh Khang,
chánh văn phòng của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trước những năm 70, thời quân phiệt
Nguyễn Cao Kỳ, căn nhà phải tiếp Tổng ủy viên thông tin chiêu hồi Đinh Trình
Chính. Vậy thì căn nhà còn là biểu tượng đậm nét của thời đại về lòng thù hận
huynh đệ, về sự xung đột tư tưởng, về nỗi xâu xé quyền bính gây ra bởi chủ
nghĩa và chủ nghĩa, gây ra bởi sự dấn thân mù quáng và sự bon chen hèn mọn.
Chủ nhân của căn nhà, ông Đinh Phụng, đứng giữa thù hận và chống
luôn cả hai phía thù hận. Mặc nhiên ông cô đơn. Ông tự biến ông thành thứ Kiều
Phong trong Thiên Long bát bộ. Người hiệp sĩ kia có đường gươm chém đá, có trái
đấm chặt cây, có chút tình oan nghiệt, có bạn hiền, có trời đất, có rượu. Để
đi, để khóc, để trút hận sầu. Chủ nhân căn nhà chỉ có một góc tối. Để thở dài.
Ông còn người em khác, không màng công danh, không ham phú quý, khinh bỉ địa vị
xã hội của Chính, của Khang, sống thầm lặng như một ẩn sĩ ở một xó xỉnh nào đó
của phồn hoa Sài gòn. Ông nhiều con cái, dĩ nhiên, nhưng ba đứa con trai của
ông đã là sư tử lãng mạn trong lịch sử tranh đấu hôm nay: Đinh Vượng, Đinh Cường,
Đinh Dũng.
Ba anh em cùng chung một tâm sự, từ sau 30-4-75. Sống trong một
gia đình trung lưu, trí thức, lương thiện, ba cậu con trai được ấp ủ bằng nỗi
niềm của bố và của ông chú tài năng ở ẩn. Như tất cả những người tuổi trẻ Sài
gòn, ba cậu yêu mến cuộc đời vô cùng. Cuộc đời, với tuổi vừa lớn, cơ hồ một
tình nhân mắt xanh thu cổ tích, tóc heo may thần tiên, tim suối đàn miên viễn.
Mộng ước của tuổi trẻ là làm hồng môi cuộc đời, làm thơm má cuộc đời, làm xanh
tóc cuộc đời, làm rung động trái tim đời. Giấc mơ mới ở đoạn đầu. Cuộc đời thay
đổi. Cuộc đời vụt biến. Cuộc đời mất tích. Tuổi trẻ hụt hẫng. Tuổi trẻ thất
tình với cuộc đời. Tuổi trẻ tương tư cuộc đời. Tuổi trẻ bơ vơ. Tuổi trẻ hư vô.
Một hôm, tuổi trẻ muốn tìm lại cuộc đời, muốn tìm lại kỷ niệm chan chứa và mộng
ước dạt dào lỡ trao gởi cuộc đời…
- Chú Lăng không còn cư ngụ ở Trần Bình Trọng nữa, bố có biết
chú ấy đi đâu không?
Đinh Vượng hỏi bố. Ông bố thầm lặng đáp gọn:
- Chú ấy đã nhập thế.
- Nghĩa là?
- Chú ấy biết lúc nào chú ấy phải chiến đấu.
- Chú ấy làm phản động?
- Không, chú ấy đi làm lịch sử. Con đã biết rồi đấy, chú con
là người lạ lùng. Có lẽ, phải nói, chú con là người Việt Nam chân chính, người
quốc gia lý tưởng, người quốc gia cực đoan hiểu theo ý nghĩa đẹp nhất. Có lần,
chú con than thở rằng: “Đôi khi, tôi không thấy tôi là người Việt Nam nữa. Người
ngoại quốc làm sao nhận diện nổi mẫu người Việt Nam mà họ mong mỏi. Dân tộc
chúng ta đã bị phiêu lưu quá xa cội rễ của mình bằng học thuyết, bằng chủ
nghĩa, bằng giáo điều…”
Sự thở than của ẩn sĩ họ Đinh không viển vông chút nào. Cuộc
phiêu lưu tư tưởng của dân tộc ta khởi sự từ Khổng giáo. Rồi Lão giáo, Phật
giáo. Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca không có gì để chê trách. Nhưng giáo điều và sự
thêu dệt của bọn truyền giáo đã tạo ra những khe khắt, những u mê trói buộc và
làm tăm tối con người, đã xóa bỏ dấu vết tinh thần Văn Lang, tinh thần tuyệt diệu
của giòng giống Bách Việt. Những sáng tạo Cổ Loa, Hoa lư kỳ diệu, dần dần, mai
một. Những công trình nhà Hồ, lũy Thầy nhân bản chẳng hề thấy nữa. Giáo điều
thêu dệt và lễ nghĩa chế thêm của bọn truyền giáo biến dân tộc thành một bầy
người cam đành với thân phận hẩm hiu của mình, phó thác định mệnh cho Trời, cho
con Trời. Thường thì con Trời quyền uy hơn Trời. Người ta được phép nhục mạ Trời
nhưng không dám động đến con Trời. Giáo điều đẻ ra hình phạt. Hình phạt đẻ ra
ân huệ dành cho bọn truyền giáo. Rốt cuộc, con người đành an ủi bằng tiêu dao
tâm hồn, bằng sự chối bỏ cuộc đời bể khổ để giải thoát cá nhân một cách ích kỷ.
Toàn là những thêu dệt của bọn truyền giáo ngu xuẩn. Phiêu lưu mãi, phiêu lưu
mãi… Toàn những khuyển nho xu phụ, những thầy cúng đồng bóng, những sư mô đàn
chay. Rồi Thiên Chúa giáo, rồi thực dân giáo. Rồi giáo điều thêu dệt, giáo hội
chế thêm. Rồi Tin Lành giáo, Bà la môn giáo, Hồi giáo, Sư bút giáo, Bà hai
giáo… Rồi khuyển tây, khuyển nhật, khuyển mỹ. Rồi cọng sản giáo, rồi khuyển
nga! Một giáo hội đẻ thêm hàng chục giáo hội. Trên đầu người Việt Nam đội nặng…
giáo hội: Giáo hội Công giáo, Giáo hội Tin Lành, Giáo hội Giêhôva, Giáo hội Ba
ngôi, Giáo hội Phật giáo thống nhất Ấn Quang, Giáo hội Phật giáo thông nhất Việt
nam quốc tự, Giáo hội Cổ sơn môn, Giáo hội Hòa hảo, Giáo hội Cao đài, Giáo hội
Ba Hai… Giáo hội và giáo hội. Giáo hội trước, tổ quốc sau. Bao nhiêu giáo hội
đè lên tinh thần dân tộc. Vậy nên dân tộc mới ngóc đầu không nổi, mới triền
miên lầm than, cay đắng, nô lệ, chiến tranh, tù đày, phân cách. Người ta cứ nhận
người ta là người Việt Nam, người ta cứ nói về tinh thần dân tộc nhưng người ta
không cư xử với nhau như người Việt Nam xa xưa, ít ra, như người Việt Nam thuở
ca dao nhiễu điều phủ lấy giá gương, và người ta chẳng còn xúc động với
huyền thoại đồng bào. Chắc chắn, để trở về nguồn gốc, trở về hạnh phúc đích thực
của mình, mỗi người Việt Nam đều phải truy nã thân phận mình hiện tại.
Cậu Đinh Vượng không muốn biết chi tiết rườm rà của sự lạ
lùng của ông chú ẩn sĩ, cậu cắt ngang lời ông bố thầm lặng:
- Chú Lăng đi làm lịch sử ở đâu?
- Ở Việt Nam.
- Chú ấy vẫn còn ở lại Việt Nam?
- Vẫn còn, và mãi mãi. Lịch sử Việt Nam phải do người Việt
Nam làm ở Việt Nam. Lịch sử làm từ ngoài Việt Nam đem về là lịch sử của khốn
cùng, của sa đọa. Chúng ta đã có bốn lần lịch sử ấy: Lịch sử làm bởi Trần Ích Tắc,
Lê Chiêu Thống, Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm.
- Con muốn làm lịch sử, được không?
- Tại sao không? Bây giờ là cơ hội đẹp của những người Việt
Nam chân chính muốn làm lại quê hương của mình.
- Bố không sợ nguy hiểm cho con sao?
- Không. Không ai có quyền sợ hãi cho những người đi làm lịch
sử. Gia đình ta có một đại biểu trong phỉ quyền, một đại biểu trong ngụy quyền,
rất nên có một đại biểu trong chính quyền tương lai, hoặc đại biểu tranh đấu
cho sự kiến tạo một chính quyền tương lai.
- Con sẽ đi một mình?
- Con tự tìm lấy đường đi, đường đi của người quốc gia lý tưởng.
Đường ấy gian khổ và cô đơn nhưng nó cho phép con hãnh diện.
Cậu Đinh Vượng hết buồn bã. Tuổi trè của cậu không còn bơ vơ
hụt hẫng nữa. Cậu vẫn còn một con đường đi để làm thắm má hồng môi cuộc đời. Và
cậu đi. Ngày nào cậu cũng đi. Đi sớm về khuya. Cậu đến trường này, cậu đến đại
học nọ. Cậu gặp nhiều người như cậu. Một hôm, lại một hôm, cậu hỏi Đinh Cường:
- Mày dám chơi không?
Đinh Cường hỏi:
- Chơi gì?
Đinh Vượng đáp:
- Chơi cọng sản.
Đinh Cường mỉm cười, khó khăn xoay cái cổ. Cậu là đệ tử của
thày Tâm Giác, sáng chói Trung tâm Nhu đạo Quang Trung. Có lần đi đấu võ tranh
giải, cậu bị người lớn chơi bẩn, thả lên đài thằng đối thủ đai lớn hơn mà hạ xuống.
Nó cho Đinh Cường đo ván với thương tích ở cổ. Đinh Cường nuôi hận, không thèm
chữa, cứ để cái cổ ngoẹo một bên.
- Em khinh bỉ những thằng chơi bẩn. Cọng sản là bọn chơi bẩn.
Sợ gì nó mà không chơi.
Đinh Vượng nói:
- Trò chơi này khác trò chơi nhu đạo của mày. Nó đòi hỏi cái
đầu mày, sự thận trọng và tinh thần chuẩn bị vào tù, ăn đòn.
Mắt Đinh Cường sáng rực:
- Anh tìm
thấy Phục Quốc rồi à!
Đinh Vượng gật đầu:
- Đúng mà không đúng. Tất cả đều có bổn phận phục quốc nhưng
chúng tao thấy dùng chữ phục quốc không ổn. Quê hương mình còn đó, ngôn ngữ
mình còn đó. Đất nước mình chỉ mới bị thống trị bởi một chế độ khốn nạn. Và bây
giờ mình đánh nát cái chế độ khốn nạn này là xong. Khi nào đất nước bị xóa tên
bản đồ như Do Thái ngày xưa, như Palestine ngày nay mới dùng chữ phục quốc. Phục
quốc nghe nó vời vợi, tiêu cực lắm. Đánh nát chế độ cọng sản tích cực và gần
gũi hơn.
- Em hiểu rồi, mình chống cọng sản.
- Không chống. Chúng tao đã bàn nhau. Cha anh chúng ta chống
cọng ba mươi năm mà cứ thua dài dài. Chúng ta mở kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên đánh
cọng sản. Kinh nghiệm đánh còn non nớt thì vừa đánh vừa học cách đánh. Nhất định
không chống cọng sản. Đánh thẳng vào mặt cọng sản. Đánh vào tim, vào óc nó.
Đánh gục lãnh tụ nó. Đánh chết lãnh tụ nó. Chỉ đánh chết lãnh tụ của nó thôi. Bẻ
cùn móng vuốt chủ nghĩa của nó.
- Ngon vậy?
- Chứ sao.
- Anh giao em nhiệm vụ gì?
- Mày dán bích chương và rải truyền đơn.
- Chỉ thế thôi à?
- Bước đầu.
- Bao giờ khởi sự?
- Mày bằng lòng thì “hàng hóa” xong tao sẽ giao.
- Em chơi.
- Tốt.
- Anh rủ thằng Dũng chưa?
- Tao không rủ rê.
- Anh đã rủ em?
- Tao không rủ mày. Tao hỏi mày. Mày có quyền từ chối. Lịch sử
không bao giờ làm nên bởi những thằng a dua ngu muội. Đi chiến đấu khác với đi
ăn cướp. Chiến đấu kết bạn. Ăn cướp kết bè. Chúng tao không xưng là Tổ chức,
Phong trào hay Công ty. Chúng tao có cái tên nho nhỏ: Nhóm Tuổi Trẻ Đánh cọng sản.
Đinh Cường thấm lời đàn anh hơn nó có hai tuổi. Nó gặp riêng
thằng em Đinh Dũng nói những gì mà Đinh Vượng đã nói với nó. Đinh Dũng khoái
chí:
- Tôi âm thầm đi kiếm Phục Quốc, kiếm hoài không ra, nay các
ông cho tôi cơ hội chơi cọng sản, còn gì bằng. Tôi chơi ông chú, bà thím trước.
- Cách nào?
- Đọc truyền đơn của mình.
- Đừng.
- Yên chí, tôi sẽ nhét vào túi ông chú một cái, bà thím một
cái, khi họ đến đây thăm bà nội.
Hai tháng 10 và 11 năm 1975, Sài Gòn đầy truyền đơn. Truyền
đơn đủ loại. Đánh máy. In Ronéo. Truyền đơn nhét vào xe hơi. Truyền đơn bỏ vào
giỏ đi chợ. Truyền đơn nhìn mặt đưa công khai. Truyền đơn ném vô nhà… Truyền
đơn hứa hẹn tái chiếm Sài gòn. Truyền đơn dặn dò ngày tấn công. Truyền đơn viết
non nớt, ngo nghê, ngớ ngẩn mà nhiệt tình. Vững chãi nhất là truyền đơn của
nhóm Tuổi Trẻ Đánh Cọng Sản. Sở Công An Nội Chính ngạc nhiên không hiểu bọn phản
động in, rải truyền đơn bằng những phương tiện nào. Họ điều tra. Họ giăng lưới.
Đinh Dũng, những ngày chưa chơi nhau với cọng sản, thường rong chơi các khu chợ
trời. Cậu mua đồng hồ, radio giùm bộ đội nên quen vài anh bộ đội. Đinh Dũng còn
bán xăng ăn cắp giúp bộ đội nữa. Do đó, cậu đã thản nhiên ngồi trên xe dzíp của
bộ đội mà rải truyền đơn mỗi tối.
Đinh Cường dán bích chương kêu gọi dân Sài Gòn tẩy chay cọng
sản. Cậu dán những khẩu hiệu sôi sục chiến đấu. “Còn cọng sản, còn tù đày, đói
khổ”. “Chặt đầu Lê Duẩn, phanh thây Trường Chinh”. “Tống cổ bọn nón cối, giép
râu khỏi miền Nam”… vân vân. Ở góc mỗi khẩu hiệu, bích chương đều ghi tắt
NTTĐCS. Cái thú của Đinh Cường là, sáng sáng, ra ngắm “tác phẩm” của mình trước
khi bị bọn Cờ Đỏ lột đi, lèm bèm chửi rủa bọn phản động với công an phường.
Đinh Vượng làm những việc lớn hơn. Bằng hữu của cậu toan tính
gây một tiếng vang lớn ở Sài Gòn. Đinh Vượng không hề nói kế hoạch của cậu cho
hai em biết. Đinh Dũng đã nhét được vào túi áo mưa của ông chú Đinh Khang và bà
thím Nguyễn thị Bình, mỗi người một cái truyền đơn. Cậu rất buồn vì không thấy
phản ứng của hai đảng viên đảng cọng sản. Khi mùa mưa chấm dứt, hoạt động của
Đinh Vượng, Đinh Cường, Đinh Dũng cũng chấm dứt theo. Lợi dụng nhiệt tình và
lòng ngay thẳng của tuổi trẻ, công an cọng sản đã tung bọn sinh viên học sinh nằm
vùng của họ gia nhập các tổ chức phản động. Bọn phản phúc làm việc tận tình,
chúng hăng say đánh cọng sản hơn cả Nhóm Tuổi Trẻ Đánh Cọng Sản và các tổ chức
chống cọng khác. Chúng mai phục theo chỉ thị, rất công phu và kiên trì. Cuối
tháng 11-1975, nhóm Đinh Vượng dính lưới công an hết. Đến cuối tháng 6-1975 thì
các tổ chức chống cọng sản của sinh viên học sinh tan rã. Kẻ vào tù, người bỏ
trốn về các vùng kinh tế mới, người tình nguyện vào thanh niên xung phong để tạm
ẩn thân, chờ đợi cơ hội khác.
Ba anh em Đinh Vương, Đinh Cường, Đinh Dũng bị bắt tại nhà.
Công an bảo vệ chính trị áp vô lúc 9 giờ tối. Họ còng tay ba anh em lại, bắt đứng
nghiêm nghe họ đọc “Quyết định”. Đinh Vượng không đứng nghiêm. Hai người công
an kè cậu đứng dậy. Đinh Vượng thản nhiên nói:
- Một mình tôi dám đánh chế độ cọng sản bằng cái đầu và trái
tim. Cả chế độ xúm lại bắt tôi bằng còng, súng đạn và quyền hành. Tôi nhận tội
hết. Hai em tôi bị khích động thôi.
Đinh Cường cố đưa cái cổ cao lên:
- Tại sao tôi không nhận tội đã đánh chế độ nhỉ?
Đinh Dũng lây máu đàn anh:
- Và tôi nữa!
Người công an lớn tuổi hỏi ông Đinh Phụng:
- Ông có ý kiến gì?
Ông Đinh Phụng nhìn ba đứa con trai, trả lời công an:
- Đã bao giờ ông thấy sư tử đẻ ra chó chưa? Ông có thể bắt
thêm tôi, nếu cần thiết.
Công an im lặng. Họ lục soát lung tung, tịch thu bừa bãi. Hai
giờ sáng, ông Đinh Phụng ký vào biên bản. Ba anh em họ Đinh rời gia đình. Tháng
4 năm 1977, Đinh Cường và Đinh Dũng được trả tự do. Ít lâu sau, ông bố thầm lặng
mất khi Đinh Vượng, hai tay còng chéo vào nhau, ngồi dựa lưng ở góc tường
cachot khu A đề lao Gia Định.
6
Người công an chấp pháp hỏi Đinh Vượng:
- Anh nằm biệt giam bao lâu rồi?
Đinh Vượng vươn vai:
- 18 tháng, tức 540 ngày, 12 ngàn 5 trăm giờ.
Người công an xoa cằm:
- Lâu đấy nhỉ.
Đinh Vượng cười nửa miệng:
- Vâng, lâu hơn bất cứ một lãnh tụ Cộng sản nào nằm cachot. Về
phương diện nằm cachot, tôi ăn đứt các ông. Tôi nhất định phá kỷ lục cachot.
Người công an vẫn nhỏ nhẹ:
- Anh bị còng chân tay bao lâu rồi?
Đinh Vượng nhìn thẳng vào mắt người công an chấp pháp:
- Ông gọi tôi ra làm việc chỉ hỏi vậy thôi ư?
Người công an gật đầu:
- Phải, chỉ có vậy. Anh bị còng tay bao lâu? Anh cứ thong thả
trả lời rồi sẽ đến những câu hỏi mà anh mong đợi.
Đinh Vượng vuốt tóc:
- Tám tháng còng tay.
- Mấy tháng còng chân?
- 8 tháng còng chân.
- Mấy tháng còng cả tay lẫn chân?
- Hai.
- Từ ngày bị bắt là anh đeo dính còng?
- Ông lạ à?
- Lạ chứ. Anh làm việc với bao nhiêu cán bộ rồi?
- Mười, kể luôn ông.
- Anh cảm thấy ra sao khi bị còng quá lâu?
- Cảm thấy mình anh hùng.
- Anh nghĩ gì khi ngồi còng?
- Không nghĩ. Tôi chửi những đứa chế ra còng!
- Anh biết còng còng anh, đứa nào chế ra không?
- Mỹ!
- Anh đã chửi Mỹ?
- Và tôi chửi những đứa chửi Mỹ mà lại dùng còng Mỹ còng tay
chân tôi.
Người công an khựng lại. Bỗng ông ta mỉm cười, nụ cười của
chó sói. Ông ta bỏ rơi chuyện còng.
- Tại sao anh khước từ sự can thiệp của Bộ trưởng Nguyễn thị
Bình?
Đinh Vượng liếm mép:
- Vì tôi không thích mang ơn Cộng sản!
- Còn chú ruột anh, đại tá Đinh Khang?
- Ông ấy cũng là Cộng sản.
- Anh thù hằn Cộng sản hả?
- Dĩ nhiên.
- Cộng sản đã làm gì gia đình anh, đã làm gì anh? Tự anh, anh
dấn thân vào tù rồi tự anh, anh không thích được thả. Nếu anh thành khẩn làm tờ
tự khai, chúng tôi đâu có còng anh ở biệt giam. Sự còng chân tay anh không phải
là một hình phạt, một trừng trị mà chỉ là một đòi hỏi thành khẩn khai báo. Đinh
Cường, Đinh Dũng đã thành khẩn khai báo, đã ăn năn sám hối, đã chấp nhận sự can
thiệp của chú thím anh và đã về. Họ đang tự do. Còn anh?
- Còn tôi? Tôi không phải là em tôi. Cộng sản đã làm gì tôi
à? Đâu cần Cộng sản làm gì tôi. Tôi đi chiến đấu vì mọi người, vì cuộc đời mà
tôi muốn nó thật tốt, thật đẹp. Thế thôi. Ông bắt tôi thành khẩn nhận tội, tôi
không có tội, nhận cái gì? Ông đánh Mỹ, ông có lý tưởng của ông. Tôi đánh cộng
sản, tôi có lý tưởng của tôi. Tôi thua ông keo đầu, tôi cam đành chịu tù đày,
cùm xích. Nhận lý tưởng của mình là tội thì không bao giờ. Không bao giờ cả.
- Anh ngoan cường, không, anh cường điệu quá đà đấy.
- Ông có quyền chụp đủ thứ tội. Tôi không xin tha đâu.
- Anh biết tại sao cha anh chết không?
- Chắc ông biết rõ.
- Cha anh chết vì thương nhớ anh, vì giận anh bướng bỉnh.
- Điều này thì ông cường điệu hơi lố lăng. Cha tôi chết vì thấy
tôi chưa kịp đánh nát Cộng sản đã sa cơ thất thế.
Người công an mời Đinh Vượng hút thuốc. Thản nhiên, Đinh Vượng
rút một điếu Thăng Long, thứ thuốc thơm cao cấp của Hà Nội. Người công an bật
diêm cho Đinh Vượng mồi thuốc. Ông ta ngắm nghía cung cách cầm điếu thuốc, hút
và nhả khói của Đinh Vượng. Người công an thân mật:
- Đọc kỹ nội quy chưa?
- Rồi.
- Điều xưng hô giữa tù nhân và cán bộ?
- Tù nhân gọi cán bộ bằng anh xưng tôi. Cán bộ gọi tù nhân bằng
anh xưng tôi.
- Tại sao anh gọi tôi bằng ông?
- Vì ông có vẻ nhiều tuổi hơn tôi.
- Tôi đề nghị chú gọi tôi là anh cho nó thân mật nhé!
- Để ra đời, dù ông thua và tôi thắng, tôi sẽ gọi ông bằng
chú xưng cháu, bằng anh xưng em. Bây giờ giữa ông và tôi có biên giới, không thể
thân mật được.
- Cũng tốt thôi. Này nhé, tôi sẽ không còng anh nữa, sẽ đưa
anh ra phòng tập thể ngay sau khi ở đây về. Ta sẽ không làm việc luôn, ta nói
chuyện mưa nắng thôi.
- Ông lãng mạn quá!
- Hơn cả lãng mạn, tôi chiêm ngưỡng tâm hồn của anh, đảng
đang cần những tâm hồn như anh. Đảng viên cũ đã lạc hậu, đảng viên già thì ì ạch,
đảng viên trẻ thì suy thoái mất phẩm chất, đảng viên mới thì giá áo túi cơm. Những
người như anh rất cần thiết cho đảng trong thời đại mới.
Đinh Vượng dập điếu thuốc:
- Những người như tôi cũng rất cần thiết cho sự khôi phục lại
đất nước đã bị bằm vặp nát bấy bởi phỉ quyền và ngụy quyền.
Người công an cau mày:
- Đừng gọi chính quyền Cộng sản là phỉ quyền. Đừng để thành
kiến che lấp lương tri. Thế này nhé, tôi tự giới thiệu với chú, tôi mới ở Hà Nội
vào, chúng ta sẽ mạn đàm hàng ngày. Anh em mình sẽ hiểu nhau. Tôi rất thông cảm
chú, rất dễ dãi với chú, chú thấy đó. Nếu tôi đủ thẩm quyền, tôi chẳng đòi hỏi
chú làm bản tự khai làm gì. Đọc những bản tự khai của các bạn chú, cộng thêm sự
làm việc của các bạn chú với cán bộ, tôi đã biết hêt, đã nắm gọn vấn đề. Nhưng
mà nguyên tắc, cấp trên chỉ thị cho tôi phải có tờ tự khai của chú. Để nghiên cứu
trường hợp của chú mà trả tự do cho chú. Để tôi đun nước pha trà mời chú uống.
Trà móc câu Thái Nguyên, tuyệt lắm.
Đinh Vượng lặng thinh nghe người công an Hà Nội nói. Ông ta
không có thái độ thù hằn Đinh Vượng, không dọa nạt, quát tháo, đập bàn như những
người công an đã từng gọi Đinh Vượng làm việc. Ông ta quá ngọt ngào, cởi mở nên
Đinh Vượng không có cớ để trút nỗi tức tối bị còng ròng rã 540 ngày đêm. Đinh
Vượng chợt nhớ câu mật ngọt chết ruồi. Cậu bỗng giật mình. Được, mày muốn tự
khai thì ông tự khai. Ông chán nằm ngủ đeo còng rồi. Nằm ngủ đeo còng chân dính
tay như con tôm, ông càng chán. Lâu lắm ông không uống nước trà, ông thèm lắm.
Trà móc câu Thái Nguyên à, tốt tốt.
Sau tuần trà, Đinh Vượng về cachot thu dọn hành lý. Người cán
bộ Hà Nội giữ đúng lời hứa. Đinh Vượng ra phòng tập thể. Người ta phát cho cậu
hai mươi trang giấy, bảo cậu cứ từ từ tự khai ở ngay phòng, nếu hết giấy thì
báo cáo cán bộ xin thêm. Mỗi ngày, người ta tặng cậu một ca nước trà và một gói
thuốc lá Vàm Cỏ. Đinh Vượng viết tự khai nửa tháng. Cậu nộp tự khai buổi sáng
thì buổi chiều rời phòng tập thể vào cachot nằm tiếp. Lần này, hai tay cậu bị
còng chéo sau lưng. Còng chỉ mở mỗi bữa ăn mười phút. Lý do: Đinh Vượng chưa
thành khẩn khai báo. Tự khai của cậu vỏn vẹn ba trang giấy và không phải là mẫu
tự khai của chế độ.
Bản tự khai bất hủ của Đinh Vượng:
“Tôi đã đọc Ngục trung nhật ký của chủ tịch Hồ Chí Minh và
tôi thích nhất bốn câu này:
Ở đời trăm sự đều cay đắng
Cay đắng không bằng mất tự do
Mỗi lời mỗi việc thiếu tự chủ
Để chúng dắt đi tựa trâu bò
Thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng ra cái gì cả. Tôi thích vì
nó hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của tôi hiện thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hạnh
phúc hơn tôi nhiều. Trước hết, ông nằm ngục bên Tàu. Ông chỉ có mỗi một nỗi cay
đắng là không dám tuyên truyền bậy bạ và yêu sách lăng nhăng. Ông cam đành làm
kiếp trâu bò để cai ngục dẫn đi đâu thì đi đấy, bắt làm gì ông làm nấy. Ông đã
thành khẩn khai báo và làm thơ vinh tôn sự thành khẩn đó. “Để chúng dắt đi tựa
trâu bò”, ông hơi hèn. Nhưng ở tù mà hùng thì chết ngu. Nhờ chủ tịch Hồ Chí
Minh, tôi hiểu rõ niềm bí mật: Tất cả những vị anh hùng Cộng sản vào tù đều hèn
hết. Do đó, đã không vị nào dám phán xét những anh bị nằm tù cả. Bí mật ấy cho
tôi hiểu thêm, các nhà cách mạng vào tù biến thành trâu bò để cai ngục dẫn dắt.
Vậy đứa nào thoát khỏi cảnh ngục tù mà nói mình làm anh hùng trong nhà tù tức
là nó nói phét. Đứa nào không ở tù mà phán xét người ở tù này nọ là đứa vô liêm
sỉ. Đứa nào ca tụng hồ chủ tịch rất anh hùng trong nhà tù là đứa siêu vô liêm sỉ.
Đất nước ta có khá đông bọn siêu vô liêm sỉ. Lãnh tụ đã thú nhận lãnh tụ làm
trâu bò trong nhà tù mà chúng nó cứ hô hoán lãnh tụ vĩ đại, vĩ đại!
Tôi bất hạnh hơn chủ tịch hồ chí minh, dĩ nhiên. Trước hết,
tôi nằm ngục ở ngay quê hương tôi, ở quê hương đã sạch bóng quân xâm lược, đã
giải phóng, đã cách mạng thành công, đã hòa bình hòa giải dân tộc, đã dân chủ,
cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Người ta bảo, trong xã hội xã hội chủ
nghĩa không có nhà tù. Vậy mà tôi bị nhốt ở đề lao Gia Định vốn là nhà tù của
thực dân, đế quốc. Tôi bị còng chân, còng tay nằm khổ sở trong cachot hôi hám, ẩm
ướt 540 ngày ròng rã. Nhưng, có điểm, tôi hạnh phúc hơn chủ tịch hồ chí minh.
Là mỗi lời, mỗi việc của tôi, tôi đều tự chủ. Tôi không hạ mình làm kiếp trâu
bò. Không ai có thể dắt tôi đi tựa trâu bò được. Do đó, tôi khước từ làm bản tự
khai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét