Con quỷ truyền kiếp 1
LỜI GIỚI THIỆU
Bên cạnh nỗi ám ảnh về lời nguyền là tham vọng muốn chiếm được
vật báu bằng tà thuật với thanh gươm và bàn tay danh vọng chặt từ cái xác một
người bị treo cổ, tất cả đã tạo thành một con “quái vật truyền kiếp” bao đời xô
đẩy người thuộc dòng họ Hammond phạm vào những tội ác đẫm máu, để sau đó lại sa
vào niềm hối hận triền miên đến phải kết liễu đời mình để chuộc lỗi. Bí mật qua
từng thế kỷ lại dày đặc thêm ấy chỉ được soi rọi qua ánh sáng của khoa học hình
sự và phân tâm học hiện đại, không những đã giải mã được những câu đố bí hiểm
xa xưa mà còn mang lại thăng bằng cho tâm hồn con người khi tìm thấy điểm tựa của
lương tâm. Chỉ có tình thương mới cứu rỗi được cho con người, phải chăng đó là
điều mà nhà văn J.D. Kerruish muốn nói với chúng ta qua tiểu thuyết Con Quỷ
Truyền Kiếp.
LỜI ĐẦU SÁCH
Truyền thuyết về ma sói và tín ngưỡng đa thần giáo Bắc Âu, đã
được bọn cướp biển Viking, mũ trụ đè lên bím tóc vàng, mang gươm đồng, mang đến
nước Anh trên những chiếc tàu buồm đầu mũi khắc hình quái vật từ mấy năm trước
công nguyên. Đến xứ sở bị sương mù bao phủ này, nó lại quyện chặt với những ký ức
lịch sử thời chiến tranh Hai Hồng và thời Mary Tuder, thiêu sống những kẻ phản
đạo trên dàn củi, sau khi nhúng thân thể họ vào thùng hắc in nấu lỏng… Mùi hắc
in nấu lỏng không những đã để lại những nhiễm sắc thể trong “gien” di truyền của
giòng họ Hammond qua bao thế hệ, mà còn gây những cảm giác và phản xạ về sinh
lý cho những người thuộc dòng họ này mãi đến thời đại văn minh của chúng ta
ngày nay. Bên cạnh nỗi ám ảnh về lời nguyền là tham vọng muốn chiếm được vật
báu tà thuật với thanh gươm và bàn tay danh vọng chặt từ cái xác một người bị
treo cổ, tất cả đã tạo thành một con “quái vật truyền kiếp” bao đời xô đẩy người
thuộc dòng họ Hammond phạm vào những tội ác đẫm máu, để sau đó lại sa vào niềm
hối hận triền miên đến phải kết liễu đời mình để chuộc lỗi. Bí mật qua từng thế
kỷ lại dày đặc thêm ấy chỉ được soi rọi qua ánh sáng của khoa học hình sự và
phân tâm học hiện đại, không những đã giải mã được những câu đố bí hiểm xa xưa
mà còn mang lại thăng bằng cho tâm hồn con người khi tìm thấy điểm tựa của
lương tâm. Chỉ có tình thương mới cứu rỗi được cho con người, phải chăng đó là
điều mà nhà văn C.Kerruish muốn nói với chúng ta qua tiểu thuyết Con quỷ truyền
kiếp.
Để đi vào thế giới nửa hư nửa thực, pha trộn giữa không khí tâm linh và màu sắc
khoa học này, may mắn chúng ta có một người dẫn đường thông thạo, đó là dịch giả
Thế Lữ, cũng là nhà văn đã sáng tạo nên những tiểu thuyết truyền kỳ – hiện thực
Việt Nam như Vàng và máu. Bên đường thiên lôi, Trại Bồ tùng Linh, Tiếng hú hồn
của mụ Ké… và là người mở đầu cho thể loại tiểu thuyết trinh thám Việt Nam.
Qua bao nhiêu năm đi “học đạo” với thầy Thế Lữ, có lần tôi đã hỏi ông về ý
nghĩa của Con quỷ truyền kiếp, ông nheo mắt cười bảo: “Mỗi tác phẩm bao giờ
cũng là một câu đố, chờ đợi những lời giải thông minh”. Thể theo ý nhà văn, muốn
bạn đọc tham gia vào trò chơi giải đố, nên tôi không dám dài dòng thêm về nội
dung cuốn sách này, và chỉ nguyên một cái tên dịch giả: Thế Lữ, cũng đủ đảm bảo
cho giá trị của tác phẩm.
Hoài Anh
Phần I
Chương 1. NỖI LO SỢ CỦA SWANHILD
Đang đọc sách, Swanhild dừng lại. Trong khoảng có nửa giờ
nàng trông lên đồng hồ những năm lần. Mỗi phút nàng một thêm nóng ruột. Mười
hai giờ ba mươi lăm rồi. Sao vằng vặc đầy trời và đêm lạnh giá như thế này mà
Oliver, anh nàng vẫn chưa thấy về.
Oliver với Swanhild là hai người cuối cùng còn lại trong dòng họ Hammond, ở với
nhau vẫn rất thuận hòa, rồi từ sau chiến tranh và từ ngày Reggie, người anh cả
chết đi, dây thân ái của hai người càng thêm khắng khít.
Tối hôm đó tâm trí người thiếu nữ lại bị ám ảnh vì câu sấm truyền lại từ đời tổ
tiên nhà nàng.
Ở đâu thông mọc um
Đêm sao tạnh và rét,
Gia trưởng nhà Hammond
Sẽ gặp phải lúc chết.
Bên ngoài gió bão tự miền bể thổi tới, bao vây cả lớp dinh cơ. Những tiếng ồ ạt
không ngớt tưởng như thấy mông mênh vô cùng. Bốn phía tường đầy tiếng gió gầm
rít không tới được tai người thiếu nữ và trong gian phòng Holbein (1) [(Phòng
treo những bức vẽ của Holbein (1497 – 1543), một họa sĩ trứ danh dưới triều vua
Herry VIII, bên Anh.)] là nơi nàng đang tĩnh trú, sự im lặng như chết kia trùm
phủ quanh nàng lại có vẻ đáng e ngại hơn lên giữa những trận giông tố hoành
hành.
Quang cảnh khắp gian phòng càng khiến nàng thêm băn khoăn lo sợ. Hai bên lò sưởi,
hai bức ảnh mập mờ (chưa chắc đã là do Holbein vẽ) phô diễn chân dung Godfrey
Hammond và bà vợ, cả hai đều bị con quỷ nghìn đời ở Dannow ám hại năm 1556 trong
một đêm giá lạnh như băng. Giữa hai bức treo đó, chân dung ông thân sinh
Godfery tục danh là Sir Magnus Pháp sư: ông này tự tử chết sau lúc đã thắng nổi
con quái vật.
Swanhild lại nhìn lên đồng hồ lần nữa và mắt nàng trông lướt qua ba bức tranh.
Nhà chỉ thắp có một ngọn đèn, khác nào một khu ấm áp, sáng sủa nhỏ nhoi, ở lẻ
loi giữa cả một miền mênh mông vắng lạnh của gian phòng tường lát gỗ và đầy những
hình bóng chập chờn. Khi lửa không bập bùng cháy nữa trong lò thì bao nhiêu sự
hoạt động của cả nhà đều tắt hết.
Swanhild là một cô gái hai mươi, dáng dong dỏng cao nhưng vẻ người khỏe mạnh,
nét mặt quả quyết, đôi mắt mờ xanh lặng lẽ và mở to. Mớ tóc hung vàng trùm sau
khuôn mặt một màu vàng ánh tuyệt đẹp, phơn phớt màu từ da đồng tới màu sáng
tương tự như bạc. Nàng quả là dòng dõi của ông Magnus Pháp sư kia. Dòng dõi người
có khuôn mặt phai mờ, nét mặt rắn rỏi, dưới cái mũ kiểu Tudor và nổi bật trên nền
đen tối của bức tranh.
Người đầu bếp Walton lúc ấy đi vào, ngoài mặt thì ra điệu vào để nói mấy câu chuyện
với cô chủ. Thực ra thì lão ta vào đây là cốt để khuây khỏa bớt nỗi lo ngại của
chính mình. Lão ngượng ngập bảo Swanhild:
- Cậu Oliver nhà về khuya quá cô nhỉ!
- Miễn là đừng xảy ra những điều chẳng lành cho anh ấy là may rồi.
- Thưa cô, thiết tưởng bao giờ cũng nên ngại rằng cậu nhà phải gặp chuyện không
hay. Đêm như đêm nay thì thế nào cũng có anh em nhà tên Ades.
- Anh em nhà ấy chỉ là những tên đi đánh bẫy thôi, sợ gì.
- Nhưng thưa cô, cô còn lạ gì những kẻ đã đi đặt cạm mắc bẫy để bắt những con vật
vô tội như thế thì còn cái gì mà chúng chẳng làm? Anh em nhà Ades là những đứa
hay mang oán, mà thằng Charlie thì vẫn còn tức giận về chuyện cậu Oliver sửa phạt
nó tháng vừa rồi.
- Đúng lý ra họ có tức thì tức tôi mới phải, vì chính tôi bảo anh tôi đến chỗ họ
mắc bẫy. Oliver chỉ muốn người ta bắt giam Charlie lại thôi.
- Dẫu sao thằng Bed với nó vẫn đã thề rằng hễ cứ gặp cậu Oliver ra ngoài trại
là báo thù.
- Chính vì thế mà tôi yên lòng đấy, lão Walton ạ; Chúng nó đã nói ra miệng như
thế thì không dám làm gì nữa đâu.
- Ồ, cô ạ, biết đâu là chừng mà…
Malton ngập ngừng rồi lại tiếp:
- Cậu Oliver nhà xuống Lower Dannow (Đa-nô-hạ) giá đừng chọn lối tắt qua rừng
thì hay.
Swanhild chưa trả lời vội; người lão bộc vừa thốt ra những điều lo ngại của chính
nàng. Sau cùng nàng mới nói:
- Về phần con quái vật thì không phải lo. Bốn mươi năm nay rồi mà chưa lần nào
thấy nó.
- Nhưng thưa cô, đó không phải là một lẽ. Đã có hồi nó ở yên ròng rã một trăm
hai mươi năm rồi, lúc hiện ra lại càng ghê gớm hơn trước.
Lão bất giác đưa mắt nhìn bức chân dung Warlock Swanhild rùng rợn khắp người.
Nàng đành phải bỏ không thể giữ được mãi cái vẻ thản nhiên bề ngoài. Nàng thở
dài, nói:
- Giá mà ta biết trước được lúc nào nó hiện ra nhỉ!
- Biết trước thì cô định làm gì?
- Thì ta sẽ mời thầy Doyle đến, hay giáo sư Lodge hay cô Bartendale đến giúp
ta.
- Bartendale? Cô này đã đến Dannow lần nào chưa ạ?
- Chưa. Tôi chỉ biết tiếng cô ta là người cao tay nhất trong những người có
phép trừ tà giải nạn. Hình như ngoài cái khiếu tìm mạch nước, cô ta còn có tài
trinh thám nữa kia!
Walton lắc đầu:
- Ôi chao! Đối với con quái vật nhà ta tôi chỉ sợ không ai có phép gì trừ được.
Cô còn trẻ tuổi quá, cô ạ, chứ tôi thì tôi vẫn nhớ hồi Blavastsky với giáo sư
Grookes đến đây sau cái ngày cụ thân sinh ra ông nhà ta khuất đi. Đến họ cũng
chẳng tìm được phương kế gì nữa là…
Tôi xem ý ra thì có phàn nàn lão cũng chỉ phàn nàn đôi chút thôi. Vì nếu con
quái vật nhà này không còn nữa thì cái thánh giá nhà này cũng kém bớt, có phải
không nhỉ, chính thức ra thì đã hàng ngàn năm nay dòng dõi nhà Hammond bao giờ
cũng gặp những cái chết dị kỳ với những vận rất may mắn…
Nàng chợt dừng lại: từ căn ngoài, tiếng chuông điện thoại văng vẳng đưa vào.
Không hiểu tại sao, thiếu nữ với người lão bộc cũng thấy rùng rợn. Hai người vội
vàng cùng ra.
Căn ngoài, một đại sảnh chạy dài ngang phòng, ánh đèn không được sáng. Ở một
phía xa nhất, người đầy tớ gái hầu phòng vẫn ngồi đợi chủ về, lúc đó đang trả lời
vào ống nói. Chị ta ngoảnh lại, khuôn mặt nổi một điểm sáng trong bóng mờ tối của
căn nhà.
Cụ Walton ơi! Cô ơi! (chị ta nói tiếng nhỏ và nhát gừng) nhà gác cổng (2) [(Nhà
giàu miền quê bên Anh, ngoài cổng vẫn có nhà riêng cho gia đình người gác ở.
Dây điện thoại liên lạc vào tận tư thất của chủ nhân (ND).)] gọi dây nói vào bảo
rằng con quỷ đang ở trong rừng… họ nghe thấy tiếng nó rú… vậy mà cậu Hammond vẫn
chưa thấy về!
Swanhild tưởng chừng quả tim ngừng đập, song nàng cố sức bình tĩnh lại. Nàng cần
phải giữ sáng suốt để cứu Oliver. Nàng cầm lấy ống điện thoại ở tay giá lạnh của
chị đầy tớ gái. Tiếng con trai người gác cổng hỏi:
- Allô, allô!… sao không vào gọi cô Hammond ra?
- Tôi đây. Gì thế anh Will?
- Thưa cô, con quỷ ở trong rừng đấy! Biết đâu không phải là một con chó bị mắc
cạm?
- Ồ không! Tôi ở dưới Lower Dannow về đây, tôi xuống đất lấy thuốc cho thầy
tôi, lúc qua cầu tôi nghe thấy những tiếng rú nửa như tiếng chó tru, nửa như tiếng
một con mẹ điên hú.
- Được rồi. Anh sắp sẵn cho tôi một cái đèn rồi đợi đấy nhé, hễ thấy xe ra thì
tức khắc mở cổng cho tôi.
Ba hồi chuông điện đánh thức người tài xế dậy.
- Srewick, bác cho xe chạy và đánh xe ra ngay.
Swanhild chạy nhanh lên phòng riêng, rồi tức thời trở xuống với chiếc áo khoác
ngoài. Tiện thể, nàng cầm theo cả khẩu súng lục của anh nàng Walton với chị hầu
phòng (cả đầy tớ trong nhà chỉ có hai người này khuya thế vẫn còn thức) thì ngồi
lì ở bên máy điện thoại.
Lão bộc kêu lên:
- Cô Swanhild! Cô không không vào rừng bây giờ được!
Sự khủng khiếp in trên đôi mắt lão ta khiến người thiếu nữ nghĩ đến sự thực. Từ
ngày còn trẻ lão đã trông thấy lúc chính Reginald Hammond, tổ phụ Swanhild, trở
về nhà sau khi gặp con quái vật trong rừng: chỉ trong mấy giờ đồng hồ mà tóc
lão bạc hết.
Swanhild mở cửa chính cố tình xua đuổi nỗi sợ hãi xâm chiếm tâm hồn nàng.
Gió bên ngoài liền vây quấn lấy người thiếu nữ từ đầu đến chân.
Bên ngoài bức tường rào, những khóm cây, bụi rậm trông giống như những xe tang
cắm lông chỏm. Đằng xa, miền thung lũng tắm trong một bầu sương phủ giá băng.
Những ngọn sóng sau cùng phía bể bắc dồn về cồn cát, vật mình tan tác trên đỉnh
cồn Thunderbarrow Beacon. Nhô lên khỏi khu rừng và nổi ra ngoài màn sương, một
hình tượng quái gỡ vươn thân, đen sì trên một nền trời sao điểm.
“Thằng người Dannow” là một hình thù khổng lồ mà thời gian đã tạc vào những
hang núi đá bờ bể, một tượng huynh đệ với hình Trường Nhân (Leng Man) gần
Eastbourne và những hình “bạch mã” ở rải rác nhiều nơi trong nước Anh. Đêm hôm ấy
“người Dannow” trông khác nào một con quỷ lớn lao phi thường đang vặn mình
trong cơn hấp hối.
Trước sự lặng lẽ đáng gờm của ban đêm trống rỗng. Swanhild thấy mình vô cùng yếu
đuối; không đủ sức để chống chọi với cái vật đã kinh ngạo tâm lực và can đảm của
ba mươi thế hệ nhà nàng. Xe chưa đánh đến ngay được khiến nàng bực dọc. Thì giờ
lúc ấy quí từng giây từng phút. Nếu Oliver mà thực mắc phải tay con quái vật ở
trong khu rừng bí mật kia, trong cái nơi mà bao nhiêu tổ tiên nàng đã gặp cái
chết kinh khủng, thì chỉ có nàng có thể cứu được anh nàng, rồi chính dù có chết
một cách ghê gớm hoặc phát điên rồ đến hủy hoại tính mệnh, nàng cũng cam tâm. Bởi
vì trong dòng họ Hammond tất cả những người mắt trông thấy cái sự ấy đều quyên
sinh hết: từ tổ phụ nàng rồi Warlock, Sir Magnus, rồi vợ chồng Godfrey cho đến
bao nhiêu người khác nữa cũng vậy! Họ đều muốn thà chết đi còn hơn là sống để
phải nhớ mãi cái ác mộng quái gở mà không một người nào chịu tiết lộ ra.
Swanhild mở to mắt nhìn và lắng tai nghe ngóng chiếc xe hơi, bỗng một cái mõm lạnh
giá chạm nhẹ vào bàn tay nàng:
- Alex! (nàng vừa nói vừa vuốt ve con chó lúc nãy theo nàng ra) Alex! Suýt nữa
tao quên mất mày đấy.
Nàng định sẽ cho con vật có nghĩa đi cùng, vì nàng đã thừa biết rằng khắp vùng
đó, không một người nào dám xông pha vào rừng trong cái đêm kinh hoàng ấy.
- Thưa cô (lời lão Walton) cô đi một mình bây giờ thì tôi không thể nào đành
lòng được. Tôi cũng đi với cô.
Lão nói câu ấy với một giọng quả q uyết của lòng tuyệt vọng. Hàm răng cầm cập
va vấp từng tiếng; tay lão bấm chặt lấy khung cửa hình như chính sự cả gan quá
sức khiến lão không đứng được vững vàng.
Swanhlid lắc đầu:
- Thôi, được! Có lẽ đây cũng chỉlà một chuyện dè chừng thôi, chưa có gì đáng sợ.
Tôi muốn ông cứ ở nhà coi nhà. Ông đi nói cho bà ấy đỡ lo đi!
Lão mở miệng toan cãi thì đương lúc ấy ánh đèn pha chiếu sáng lụt nhà: chiếc xe
hơi tiến đến đỗ trước cửa. Người lái xe, bộ áo tài xế mặc vội lên bộ quần áo ngủ,
nhảy xuống.
Swanhild bảo hắn:
- Stredwick, đến rừng Thuderbrrow.
Sự kinh khủng hiện lên gương mặt người tài xế! Hắn run run tiếng đáp:
- Bẩm… tôi không thể đến đấy được. Con quái vật ngày xưa cũng đã bắt mất một
người họ nhà tôi.
Chuyện ấy quả có xảy ra thực, Swanhild không muốn ép hắn. Nàng bảo:
- Mở cửa xe ra.
Nàng tự cầm lái, để con chó Alex ngồi bên cạnh; cho xe băng sấn qua chiếc cầu
kéo(3) [(Thứ cầu kéo lên hạ xuống được ở cửa thành cổ hay dinh thự cổ. Khi hạ
xuống là lối ra vào, khi cất lên là một thứ cửa đóng rất kiên cố.)] tiếng ầm
như sấm dậy, rồi theo lối thẳng chạy ra phía cổng trang.
Chương 2. TRONG RỪNG
Chiếc xe chạy đều trên lớp sỏi trải phẳng. Gió vụt hai bên má
Swanhild. Đến những khuỷu đường, ánh sáng đèn pha tràn phủ lên các khóm lá và
những thân cây lớn hình như chen chúc xô đẩy dưới vòm xanh chằng chịt những
nhánh cành.
Đã thấy được nhà người gác rồi. Ánh lửa đỏ của hắn treo chiếu lên những cột sắt
lớn vặn mình ở hai bên cổng mở. Vì có đèn đường xe lửa chạy qua, đường đá phải
ngoặt về phía tay phải, rồi ăn dốc xuống phía cầu. Swanhild cố lắng tai mà
không thể nhận được tiếng tăm gì khác lạ. Nàng thấy như con chó săn lớn ở cạnh
nàng nhô người lên, rồi lại ngồi xệp xuống nệm xe, vừa run sợ vừa nép vào bên
cô chủ. Nàng chợt nhiên tái hẳn người đi, vì nàng hiểu rằng linh giác loài vật
bao giờ cũng vẫn rất tinh tường: chỉ mới đánh hơi thấy gió thổi từ Beacon lại
mà con chó săn rất bạo dạn kia cũng đến len lét khiếp sợ đến thế!
Chiếc xe hơi qua cầu, rẽ sang tay phải rồi bon bon trên một quãng đường dài, một
bên có rặng cây mọc như hàng rào phủ đầy bụi cát chạy thoải đến tận một cái suối
nhỏ lấp loáng từ phía đồi núi ăn ra. Những bụm cây, những tường đổ nát, vây
quanh những khu nhà cửa tiều tụy mù tối, chỉ có những điểm sao làm đèn. Đằng xa
là một thung lũng mờ sương và cái mô đất trên đó sừng sững cái hình thù quái gở.
Qua khỏi chỗ làng xóm thì những mỏm cao miền Beacon hạ thấp dần xuống, con đường
nổi rõ một cách tuyệt diệu, chạy dài ở giữa khoảng bát ngát của vùng cây cối
hoang vu.
Swanhlid biết rằng tối hôm ấy anh nàng sang bên Mansby Place, đến chơi nhà
Goidard Covert là bạn thân của chàng. Nàng thầm mong rằng Oliver vẫn còn ở đấy
chuyện trò cho đến bấy giờ. Mắt nàng đã thuộc phong cảnh ở đây nên nhận rõ được
lớp nhà hình đen ngòm nhô trên nền đất. Chỉ thấy có ánh sáng mờ yếu ở cửa sổ
thượng. Thế thì Oliver hẳn đã ra rồi vì người bạn của chàng đã về phòng riêng
và chắc đang cặm cụi luyện, tán những chất hóa học.
Nàng đồ chừng có lẽ anh nàng đã qua rừng trở về nhà bằng một lối xuyên lâm, con
đường nhỏ do những đàn súc vật đã vạch sẵn, Theo lối đó, chàng cũng có thể qua
thung lũng mà về trang trại của nhà.
Bao nhiêu điều phỏng đoán ấy hỗn loạn trong óc Swanhild trong lúc nàng phóng xe
vào con đường nhỏ. Nàng quặt xe ra phía tay phải, bánh xe lướt trơn trên mặt đồng
tuyết đóng và sau cùng lăn trên lối cỏ mọc rậm rì. Nàng để cho tâm linh dìu dắt,
qua một bể sương sa mù mịt phủ đầy khu thung lũng. Chiếc xe xông lên tiếng máy
rầm rầm và đôi lúc chồm vấp.
Dưới vòm trời vằng vặc ánh trăng lạnh lẽo, nàng cho xe leo lên dốc đồi Beacon
và sau cùng tới cửa khu rừng.
Con Alex không còn vẻ nào là sợ hãi nữa.
Những tiếng rên rĩ thì thầm trong những vừng cây bị gió to hành hạ dồn đến
quanh người thiếu nữ. Cả một trận dông tố của những thanh âm thê thảm vây bọc lấy
nàng: tiếng lắc rắc của cành nhánh vật mình, tiếng rì rào của những bụi cây
khóm lá, tiếng xào xạc của lớp cỏ bị dày vò.
Ngọn đèn cầm chắc trong tay, tâm hồn điên cuồng khiếp sợ, Swanhild tiến bước
lên, người vừa nóng ran vừa giá ngắt. Cây trong rừng phần lớn là thông, sam – mộc
và dẻ, vươn những thân hình ảm đạm trong đêm và che kín cả bầu trời. Thỉnh thoảng,
một chút sáng lọt xuống, qua những cành cao của một cây bạch – mộc trụi lá.
Giữa cảnh trí hãi hùng ấy, Swanhild chỉ sợ những sự xảy đến thình lình, chẳng hạn
rơi xuống tự trên một chòm cây nay bật lên từ dưới âm ty, ngay cạnh người thiếu
nữ.
Con Alex đi trước mặt nàng, đầu lắc lư.
Chốc chốc nàng lại lớn tiếng gọi tên anh nàng, vừa mong được trả lời lại vừa sợ
tiếng nàng lọt vào những tai khác. Trong khu rừng om tối như hầm kín này, biết
đâu chẳng chất chứa cái sức giết người ghê gớm!
Một tiếng chưa rõ rệt khiến nàng quay lại, nàng chỉ thấy đằng xa hai mắt đèn xe
của nàng. Nàng rẽ sang một nẻo quặt thì không trông thấy ánh đèn kia nữa, thế
là nàng mất cả sự liên lạc cuối cùng với trần gian.
Đến một chỗ, đường phân nhiều ngả, nàng nhận ra như có người vừa qua. Trên mặt
đất đóng váng không còn dấu vết nào, nhưng cỏ ở đầy dẹp xuống và bị dầy xéo. Hốt
nhiên con Alex chạy đến một con đường ăn ra gần một cây sến mọc ở một khu quang
đãng nhỏ. Con chó ngừng lại chỗ ấy hít một khoảng đất ra vẻ sợ sệt. Swanhild hạ
thấp ngọn đèn xuống, soi thấy một vũng máu đọng và màu đã thâm, rồi đến một khoảng
thẫm hơn thấy trên thân cây, tầm ngang đầu người, một đống thịt bị xé nát trông
rất ghê tởm, be bét dưới gốc cây.
Tim người thiếu nữ như ngừng đập. Nàng nhận ra đó là con chó của anh nàng, một
giống chó to lớn như con bê. Một chân sau con chó bị rứt ra khỏi mình, còn mình
con vật thì bị vặn nhàu bóp nát trông không ra hình thù gì nữa, rồi bị quật mạnh
vào thân cây sến: đủ biết nó bị giết hại bởi một sức quái gở phi thường.
Sau khi buồn rầu hít ngửi cái thây chết của đồng loại, con Alex lại bước đi và
dừng chân trước một cây thông cực lớn bị sét đánh thủng một phần thân cây;
Oliver nằm sóng sượt trên một giải lá thông và quả thông khô, đầu gối lên một
vũng máu.
Swanhild đặt chiến đèn xuống đất, xốc anh nàng lên cho dựa vào thân cây sến.
Cái khăn quàng dây bằng lụa của Oliver vừa bẩn, vừa nhàu nát và các đường nếp
giá băng; hai ống tay chiếc áo khoác thì bươm rách. Mặt chàng sưng vều lên gần
hết, hai cánh tay và bàn tay vừa lấm đen, vừa bầm đỏ thì lạnh ngắt và cứng đờ.
Máu các chỗ đã đông lại từ lâu. Swanhild không biết máu cầm là vì người đã chết
rồi hay vì trời rét. Nàng cố nghe quả tim của anh nàng nhưng không thể nhận thấy
một nhịp nào, vì trống ngực nàng đập mạnh quá.
Nàng đứng dậy, thẳng người nhìn ra quanh mình: những bụi cây gai góc bị gẫy
nát, dày xéo, thuật lại một cuộc vật lộn vô cùng dữ dội. Bỗng nhiên, có tiếng
kêu rất nhỏ, đưa ra từ cái hốc cây bị sét đánh. Swanhild sởn tóc gáy, tai hết sức
nghe ngóng, chân bước lại gần Oliver và trỏ mãi ngón tay vào cái cây có tiếng lạ
cho con Alex sục tìm xem. Con chó ngoảnh đầu đi, lưỡng lự, đánh hơi về phía tay
chủ khiến rồi đến bên chân chủ đứng nhìn. Gió thổi dồn lẫn muôn nghìn tiếng dị
kỳ, ào ào trút như phong ba xuống những khóm cây và đầu dốc.
Sau cùng, người thiếu nữ hướng về trước, dõng dạc nói, giọng lạc đi:
- Muốn sống thì ra ngay, không ta bắn!
Không thấy đáp lại, nàng liền bắn một phát súng lục về phía cây. Vẫn không thấy
gì ngoài mấy tiếng vỏ cây vỡ, rơi xuống. Phát đạn nổ vừa rồi như trừ diệt hết mọi
tiếng tăm khác: kế đó là một sự im lặng nặng dầy. Không kịp để ý đến cử chỉ của
mình, nàng cầm ngay chiến đèn lên và soi ánh vào trong hốc tối, nàng hét lên một
tiếng:
- Chị Kate Stringer!
Cái cảnh tượng nàng trông thấy kia, không bút nào tả nổi. Tất cả sự kinh khủng
thấy ở cái thây nát của con chó lớn lúc nãy cũng không còn gì, nếu đem ra so
sánh với điều nàng mới nhận ra.
Tâm thần nàng thành ra hỗn loạn. Nàng lấy hết sức mạnh trong cơn nguy khốn tuyệt
vọng, xốc cho anh nàng đứng được lên. Rồi, cố gò người xuống, nàng vừa cõng
Oliver trên lưng; chân anh nàng buông thõng kéo lê dưới đất. Nàng chụm hai cánh
tay Oliver giữ chặt trong tay mình, quàng hai cánh tay ấy vào cổ mình, rồi bỏ
cây súng lục vào túi bên phải chiếc áo phủ ngoài, đề phòng lúc nguy cứ việc đưa
tay và lấy ngay được. Nàng dùng bàn chân đẩy cho đèn quay chiếu ra lối đi, để
có ánh sáng tới chỗ nàng có thể trông thấy đèn pha được. Gắng một sức cuối cùng
nữa, nàng ngước lên, khom cúi dưới cái vác nặng đè trĩu trên lưng.
Lúc bước gần thây con chó lớn, Swanhild chợt nhận thấy rằng chính nàng có thể
là cái đích rất rõ để cho cái sức tàn hại độc ác kia nhằm lên. Một ngành gai
chơm chởm quấn vào chân nàng, khác nào một bàn tay kêu quào những móng sắc.
Nàng phải ấn mình anh nàng vào một thân cây giữ cho khỏi tụt xuống, mới gỡ
thoát được nhành gai. Mắt đã quen tối, nàng trông thấy cái mình lông trắng của
con Alex tiến trước mặt như một điểm sáng mờ. Rồi ánh đèn pha chiếc xe hơi cũng
hiện ra, xuyên qua những hình đen sì của cây cối.
Swanhild giữ chặt chẽ lấy chút đảm lực còn lại và sau hết ra khỏi được bóng cây
rừng. Nàng buông dần cho anh nàng tụt xuống đất và gieo người ngồi xệp một bên
đợi hoàn hồn. Nàng kéo người thiếu niên vào lòng: đầu chàng ngặt ra một cách thảm
hại. Nàng ngẩng trông về phía rừng và thầm tạ ơn rằng được thoát nạn, trong lúc
này Oliver không việc gì nữa, vì chỉ ở dưới bóng thông trong rừng con quái vật
mới giết hại người.
Nhưng nàng còn phải làm nốt một việc nữa, khó khăn nhất: còn phải trở vào rừng
tìm kẻ bị nạn thứ hai. Trong lúc ngần ngừ, nàng tìm cách tự nhủ lòng rằng anh
nàng hiện vẫn còn sống và nếu tìm ngay thầy thuốc chữa chạy tức khắc thì có lẽ
cứu được mệnh chàng. Vậy bổn phận đầu tiên của nàng là hãy săn sóc đến anh nàng
trước đã. Còn như Kate, tuy mấy phút trước còn thoi thóp thực đấy, nhưng bây giờ
chắc cũng chết rồi.
Swanhild xốc Oliver lên, bế đặt lên xe, lấy tấm chăn nàng đã mang theo sẵn đắp
kín cho chàng, rồi mở máy. Một cuộc chiến đấu kịch liệt nổi lên trong tâm trí
nàng. Nàng tự nghĩ: thế ngộ chị Kate vẫn còn sống thì sao? Mà Oliver thì chết rồi
cũng không chừng? Chính nàng, nàng thoát khỏi tay quái vật một lần vừa rồi,
nhưng nếu nàng lại trở vào trong rừng thì liệu nó có để yên cho nàng lần nữa
không? Sau cùng, Swanhild tính đến một kế nước đôi: là anh nàng về nhà rồi trở
lại tìm chị Kate… Phải đấy. Nhưng mà nếu thế thì ra Oliver sống được là bởi sự
bỏ liều người con gái đáng thương kia sao? Không, một người dòng dõi quý phái ở
Dannow như nàng đây không thể làm một việc như thế được, dù để cứu sống anh
nàng cũng không đành.
Swanhild lại chạy vào rừng sau khi giao cho con Alex đứng canh giữ Oliver. Nàng
băng băng xông vào trong bóng tối, không nghĩ đến sự khủng khiếp quanh đó, cũng
không nghĩ đến sự táo tợn của chính mình, chỉ thấy hăng hái vì những ý niệm về
nghĩa vụ.
Khi tới chỗ hốc cây lớn và khi lại trông thấy cái người bạn gái vẫn chơi đùa với
mình xưa nay, người thiếu nữ mà mới buổi chiều vừa rồi còn cùng nàng cười cợt
bông đùa, giờ đã thành cái đống trông kinh sợ như thế thì nàng phát hoảng cả
người lên. Giữa khuôn mặt trước xinh đẹp nhất vùng, hai con mắt lờ lờ xanh mở
nhìn nàng một lát trước khi nhắm lại.
Mấy phút sau Swanhild đã trở ra được và đặt người con gái đáng thương ấy bên
Oliver. Muốn quay xe, nàng phải cho tiến vào trong bóng rừng cây nhưng không xảy
ra sự rủi ro nào hết.
Lại thấy đường cái rồi. Nàng phóng xe xuống dốc, xông vào khu thung lũng mù
sương. Nàng tưởng chừng từ lúc ở Dannow đi cho đến lúc xe hơi lại trở về đến
xóm, cách nhau kể có hàng nghìn năm. Nàng tính: cách tốt nhất bây giờ là về thẳng
trong trang. Mấy phút nữa xe tới cổng, nàng sẽ bảo người gác tức tốc đi mời bác
sĩ, ông này ở cách nhà nàng hơn một giờ rưỡi đường đất.
Chương 3. OLIVER KHÔNG CÒN NHỚ RÕ
Lão Walton cùng với người lái xe Stredwick, mặt xám không còn
hột máu, kinh hoảng hiện trên đôi mắt mở to, xúm lại bên xe hơi khênh Oliver
vào trong đại sảnh. Cùng với một người đầy tớ gái, bà vợ lão Walton đã chờ sẵn ở
đó; bà này lúc chưa lấy chồng đã làm nữ khám hộ, người đứng đắn, đảm đang và
không bối rối trước những cơn nguy. Bà ta bảo hai người đàn ông:
- Đặt cậu ấy lên ghế bành kia!
Swanhild bước vào theo, tay bế Kate. Lúc ấy nàng mới mơ hồ nhận thấy rằng mình
vừa làm được một sự phi thường. Nàng đặt cái ôm nặng trong tay xuống một cái ghế
bành khác.
Bà lão Walton xem xét Oliver một lát rồi nói:
- Đầu bị thương khá nguy hiểm! Cũng may cái khăn quàng đỡ được đôi chút; còn những
dấu vết ở cổ ở mặt thì cũng nhẹ thôi. Vì trời rét mà máu đông ngay được. Mà
kìa! Cậu ấy dần tỉnh lại rồi đấy. Ông Walton! Mau rót cho cậu ấy ít rượu mạnh.
Trong giây lát, Swanhild thấy khắp phòng quay lộn một lượt: Oliver còn sống, thế
là nàng yên lòng. Bà lão Walton đến bên Kate nhắc cái áo phủ đắp kín trên người
nàng lên. Tuy đã quen mắt thấy nhiều kẻ bị thương, bà ta cũng không khỏi rùng
mình. Bà kêu lên một tiếng khiếp sợ:
- Trời đất ơi! Thựa tôi chưa từng trông thấy những cái gớm ghiếc đến thế này
bao giờ. Ấy thế mà chính tay tôi đã hai lần lượm xác những người bị nạn xe lửa
rồi đấy! Tội nghiệp! Cô Kate Stringer đây, mà tôi không nhận ra được cô nữa!
Trông cứ như làbị cọp cào xé cũng không bằng! Cô Swanhild, cô với tôi hãy cứ đặt
cô ấy nằm thẳng xuống đã, đợi bác sĩ đến cũng vừa!
Ngay lúc ấy Oliver mở mắt ra, hai mắt sáng một cách kỳ quái trong cái gương mặt
máu đỏ nhuộm hoen.
Chàng ngoảnh nhìn bốn phía quanh mình, ra vẻ ngơ ngác.
- Sao lại?…
Chàng nói chưa dứt bỗng nhìn thấy người Kate. Vẻ kinh dị mất hẳn, nhường chỗ
cho một vẻ khiếp sợ. Không để kịp ai giữ lại, chàng đã đứng dậy, cúi xuống nhìn
người thiếu nữ bị nạn một hồi lâu.
Chàng khẽ kêu lên:
- Kate! Trời ơi! Kate bị con quái vật hại rồi!
Rồi chàng ngất người trong tay cô em gái. Bà lão Walton nói:
- Bị xúc động mạnh quá, không thể gượng được nữa. Walton với Stredwick, hai người
khiêng cậu sang phòng ngủ.
Bà ta quay lại, giọng quả quyết nói với Swanhild:
- Cô với tôi lên buộc lấy vết thương cũng được.
Chuông điện thoại reo. Người đầy tớ gái nhỏ tiếng bảo cô chủ:
- Bác gác báo tin bác sĩ Newton mấy phút nữa sẽ đến. Lúc ấy Oliver lại hồi tỉnh
dần dần.
Diện mạo Oliver giống em gái như đúc, nhưng mớ tóc rất đậm của chàng màu đen và
hai mắt xanh thẫm hơn. Trừ bên thái dương mang một chỗ sưng u lên khá lớn, cả
khuôn mặt chỉ bị xây xát nhẹ thôi.
Chàng cất tiêng hơi rè, gọi em:
- Này Swan! Sao tôi lại ở nhà thế? Tôi cứ tưởng vẫn ở bên anh Goddard đấy!
Chàng đưa tay quấn băng sờ lên trán ngượng ngập hỏi:
- Lại có băng buộc!… Tại sao tôi lại phải nằm thế này?
Swanhild vội đáp:
- Em tìm thấy anh ở trong rừng đấy.
- Nhưng sao lại trong rừng!… Tôi không còn nhớ được tí gì hết. Sau khi ở dưới
Dannow ra về…
Tiếng nói của chàng thấp xuống, nghe không được rõ.
- À, à! Tôi đã sắp nhớ ra rồi… Tôi đánh nhau với con quái vật… Này Swan ạ! Khốn
nạn cô Kate!… Không thể nào đánh lui được con quái vật.
Swanhild cúi xuống giường và đặt bàn tay mát rượi lên cái trán nóng bừng của
Oliver. Nàng dịu dàng an ủi chàng:
- Thôi! Anh ạ, anh đừng quan tâm đến việc ấy.
Chàng nức nở khóc:
- Lần này là lần đầu tiên con quỷ truyền kiếp của nhà ta xông đến hại một người
đàn bà! Mà cũng lỗi tại anh: nếu anh không chống cự kịch liệt với nó thì nó
không hại đến Kate!
Swanhild ngắt lời nói:
- Anh Oliver, thế… anh trông thấy thế nào?
Chàng nhíp mắt lại:
- Em muốn cho anh tránh khỏi cái số phận của tổ phụ chúng ta chứ gì? Bây giờ
thì anh chẳng còn nhớ gì cả.
Nhưng trong lúc đó, nàng thấy ánh lên trong mắt chàng một tia lửa đỏ, dấu hiệu
một sự xúc động mạnh. Chàng hét lên:
- Reggie (1)! [(Tên người anh cả đã chết.)]
Swanhild cũng kêu:
- Oliver! Chẳng lẽ anh mà cũng tưởng… Không anh điên rồi! (Nàng nói câu ấy vì
thấy Oliver không cãi). Tôi mong rằng anh điên thực đấy.
- Không, anh không điên. Anh biết trước người quê vùng này họ sẽ bàn tán những
gì rồi. Họ cho rằng… (chàng thấy rất khó nói) Reggie đã hóa ra… thần trùng hút
máu (2) [(Theo dị đoan bên Âu châu, người chết có thể hiện về ban đêm hút máu
người sống.)], mà từ khi anh ấy mất đến nay bây giờ trời rét mới đóng giá lần
này là lần đầu…
Swanhild vội ngăn lại:
- Suỵt! Anh cứ thuật lại những việc xảy ra đêm hôm nay cũng có thể phá tan cái
thuyết dị đoan khả ố ấy.
- Nhưng anh không trông thấy gì hết, hay là anh không có thể nhớ tí gì. (Chàng
đưa tay lên ấn thái dương và nói tiếp). Đầu anh có bị thương ko?
- Có một vết sưng lớn. Chắc anh ngã nên bị.
- Có lẽ… Mà chắc hẳn vì cái ngã mạnh ấy mà anh không thể nhớ được các điều.
Bác sĩ Newton bước vào.
Ông là một người to béo, mặt mày tỉnh táo, dù giữa lúc đêm khuya. Bao giờ cũng
lạc quan trước đã, ông nói quyết ngay:
- Ông Hammond, ông đã kêu to được, thế là triệu chứng tốt rồi đó.
- Thưa bác sĩ, tôi bây giờ chỉ thấy trong người mệt lắm. Còn bệnh tình cô Kate
thì thế nào?
- Bọn thanh niên thường vẫn dai sức chịu đựng; tôi mới chỉ nói được thế thôi.
Bà Walton đang dọn cho cô ấy một căn phòng ở đây vì cô ta không thể nào mang đi
xa được.
Ông xem xét cẩn thận Oliver, rồi kết luận:
- Không có gì đáng lo ngại hết. Khâu một mũi vào chỗ rách, thế là xong.
Ông gài nốt được một chiếc kim băng nữa thì chàng lại ngả mình xuống đám gối nệm.
Ông hỏi:
- Thế nào? Hai người gặp tai nạn gì mà đến nỗi thế?
- Tôi ở Mansby Place trở về theo đường tắt qua rừng thì gặp cô Kate. Cô ở với
người ông, ở một túp nhà nhỏ cuối Dannow – hạ. Ông cụ ốm nên cô ta đến nhà người
gác kiểm lâm gọi điện thoại mời ông đến xem.
- À! Nếu thế thì được rồi! Bà Walton lúc nãy đã bảo gọi điện thoại mời ông bác
sĩ Albury và cô Blacke nữ khán hộ. Họ đến là ta bảo đến ngay nhà cụ Stringer.
Thế rồi sao? Ông bảo ông gặp cô Kate, rồi sao nữa?
- Tôi bảo cô để tôi gọi điện thoại hộ, vì tôi vừa đi qua nhà gác kiểm lâm. Cô
Kate liền cùng với tôi trở gót lại cho đến chỗ cây thông bị sét đánh lủng. Lúc ấy
tôi ngửi thấy rõ ràng một mùi thối nát đưa ra…
Oliver lại đưa tay lên thái dương, ngập ngừng. Ông bác sĩ liền đưa cho chàng một
cốc thuốc ông vừa pha xong; chàng đỡ lấy uống ngay, không nghĩ ngợi. Swanhild nhận
thấy mùi laudanum (3) [(Laudanum (đọc là lô-đa-nôm) là thuốc ngủ, trong có chất
nha – phiến tinh.)] pha trong cốc thuốc.
- Tôi lấy làm lạ về cái mùi thối đó. Lúc ấy chúng tôi đi trong bóng tối hoàn
toàn. Con Holder, con chó của tôi, thì nép sát mình vào tôi. Hốt nhiên, Kate
hét lên một tiếng khiếp sợ! Tôi thì cảm trước rằng một sự gì đang tiến đến trước
mặt tôi. Tôi chắc chắn rằng con quái vật đã có ở đây, nhưng cũng chắc chắn rằng
tôi sẽ thoát thân.
Swanhild gật đầu:
- Em hiểu rồi, anh ạ.
Chàng có ý tức giận:
- Không, đừng có cho tôi là một đứa nhút nhát hay một người điên! Vả lại bây giờ
tôi không cho cái gì là lạ lùng hết: sao sáng trên trời, thông trong rừng, cái
rét lúc ấy và con quái vật bò trong bóng tối, tất cả mọi thứ ấy như lôi cuốn
tôi vào một cơn sóng hỗn độn những cảm giác mơ hồ và quen thuộc. Sự ấy không có
gì độc ác dữ dội, cũng không phũ phàng, nhưng chỉ kinh khủng! Thực kinh khủng!…
Con Holder rên lên những tiếng sợ hãi, mà tóc tôi thì dựng đứng cả trên đầu! Chừng
như con chó biết trước được một sự khủng khiếp sắp xảy ra. Tôi nghe thấy tiếng
tôi kêu Trời, cô Kate thì rú lên, con Holder cũng tru lên đáp lại. Trong nháy mắt,
cái vật ấy chiếm lấy tôi. Tôi liền cuống cuồng chống cự lại, chống cự với một sức
mà tôi không hiểu sức gì, ở trong một thứ bóng đen hình như có lóe ra nhiều tia
sáng. Thế rồi tất cả thành tối tăm và có lẽ chính lúc đó là lúc tôi ngã quật xuống.
Tôi mở mắt ra thấy ở phòng ngoài nhà này. Em Swan cũng ở đó, với cô Kate nữa…
Trời!
Oliver úp tay che mặt mà rên lên những tiếng buồn thảm.
Khi thấy con chó Alex đứng bên cạnh giường và nhìn chàng một vẻ quý mến, Oliver
hỏi:
- Con Holder đâu?
Tưởng cứ nên nói thật ngay cho chàng biết, Swanhild đáp gọn một tiếng:
- Chết rồi.
- Con Holder chết rồi?
- Sau khi đã bảo vệ anh và cô Kate con chó bị xé nát cả mình. Đối với một con
chó trung thành thực không còn cái chết nào đẹp được hơn thế.
Chàng than thở:
- Giá tôi đừng kháng cự thì tất con quái vật sẽ không hại Kate với con Holder!
Giọng nói hạ thấp dần. Đã tới lúc buồn ngủ không thể cưỡng được nữa, chàng cũng
gắng trỗi dậy:
- Swanhild, anh mà chết đi thì em sẽ là gia trưởng. Vậy thì lại đến lượt em sẽ
thành tội nhân trong họ nhà ta…
Nỗi khổ sở của chàng mạnh đến nỗi trong giây lát có thể làm tan được hiệu lực của
thuốc ngủ vừa uống. Chàng tiếp theo:
- Swanhild, em thề quyết với anh nhé: em phải thề rằng dù anh sống hay dù anh
chết, dù anh ra điên ra dại hay anh vẫn khôn như thường, em cũng tìm, hết cách
để khám phá sự bí mật kia nhé?
- Em xin hứa theo lời anh.
- Em sẽ mời thầy Lodge, hoặc hỏi nhà thần linh học, hoặc người đàn bà nhà
Kynaston đã mời về.
- Em xin lấy danh dự hứa theo lời anh
- Balavasty và Crookes đã thất bại hồi ông chúng ta mất, nhưng từ hồi ấy đến
nay khoa học đã tiến hơn.
Trí chàng minh mẫn được trong vài phút: chàng nhận biết cái trách nhiệm của một
người sống hay chết có ảnh hưởng đến số mệnh một người đàn bà.
- Em mà không thề với anh, quyết để tâm đến cái việc kia ngay từ sáng sớm mai
thì anh không thể nào yên lòng được. Em phải nhớ đấy: anh sống hay anh chết,
anh bình thường hay điên dở cũng vậy, nghe không?
- Vâng, em xin thề sẽ theo ý anh.
Oliver ngả người xuống, thở một tiếng dài: chàng đã nhọc mệt hết sức. Nhưng
chàng vẫn căn dặn:
- Nếu còn có em là gia trưởng, em sẽ phải lĩnh cái hương hỏa là lời nguyền tai
hại của dòng họ nhà ta. Em sẽ nên mời Lodge về điều tra hay mời bà thầy… Em phải
thề… lấy danh dự mà…
Tiếng chàng chìm vào trong những lời lầm rầm, sau cùng chàng ngủ mất.
Chương 4. TÌM MỘT BÀ THẦY
Những giờ tiếp theo đó thực là một giấc ác mộng ghê gớm đối với
Swanhild. Trong khi ấy, nàng nhớ lại những giờ hấp hối của người anh cả trong
gia đình nàng. Cũng những mùi thuốc ấy trong nhà, cũng một bầu không khí nặng nề
đêm nay và cũng sự kinh khủng y như thế. Nàng nóng lòng mong trời chóng sáng.
Mọi người trong nhà không ai đi ngủ. Mấy ông thầy thuốc thì không tiếc công sức.
Một cô khán hộ coi giấc ngủ của Oliver. Đối với Kate cũng không thiếu một phép
cứu chữa nào.
Ngồi một mình trong phòng Holbein và nỗi kích thích ban đầu đã dẹp, Swanhild nhận
thấy ngay cả tình thế bi đát bấy giờ. Oliver vẫn còn sống đã đành nhưng nếu
chàng nhớ rõ chi tiết trong tấn thảm kịch thì không thể nào ngăn nổi chàng sẽ
quyên sinh. Muốn tránh điều nhục nhã kia cho gia đình nàng. Swanhild phải làm
thế nào thành công được trong cái việc ba mươi đời ông cha đều đã thất bại: là
khám phá ra con quái vật truyền kiếp xem thuộc về giống nào.
Chẳng biết hình thù nó ra sao? Mà tại sao nó lại không ra hại nàng? Lúc nàng
vào trong rừng thì nó nấp ở đâu? Nó lại ở đâu mà đến? Bao nhiêu phen xảy ra những
thảm kịch ngày trước, người ra không tìm được qua một dấu vết nào.
Swanhild chỉ còn một phương độc nhứt. Nàng bèn rắp tâm theo và giở tìm trong tập
sách hằng năm của nhà bưu điện.
Căn phòng mở ra, bác sĩ Newton bước vào. Nàng lẳng lặng dò ý tứ trên mặt ông
ta. Ông nghiêng mình nói:
- Ông Albury cũng đồng ý với tôi sau khi xem bệnh: ông anh cô thoát khỏi nguy rồi.
Mạch chạy như thường và giấc ngủ bình yên, các vết thương không mấy chốc sẽ
lành. Tôi xin khen phục cô đã biết phòng độc và buộc các vết thương mau lẹ được
đến thế, nếu để máu ra nhiều quá thì đến nguy cho tính mệnh chứ chẳng không.
- Thế còn bệnh tình Kate?
- Thực đáng buồn! Cô ấy khó lòng qua khỏi được. Tôi muốn biết ý kiến một vị
chuyên môn.
- Cái đó xin ông cứ tùy tiện. Về phần tinh thần thì anh tôi bây giờ thế nào?
- Tôi chưa biết thế nào nói ngay được. Phải đợi ông ấy thức dậy đã. Ngoài vết
thương bị sưng do lúc ngã, xem ra ông cũng không đến nỗi nào.
- Ngã như thế có thành mất trí nhớ được không ạ?
- Tôi cũng không được rõ. Xương đầu không bị dập thế thì chỉ ngủ ngon một giấc,
cái bệnh quên kia cũng mất đi.
- Nhưng nếu bệnh cứ dai dẳng thì liệu thành bất trị không ạ?
- Không thể nói quyết được điều gì bây giờ. Nếu đến nước ấy thì tôi sẽ nói với
cô mời một bác sĩ chuyên trị về tâm thần.
Swanhild nói một giọng chua xót:
- Tôi sợ rằng mời cũng không ích gì.
Ông ôn tồn:
- Ồ, ồ! Có lý nào! Cô cứ yên tâm cô ạ, nào có gì là trầm trọng đâu!
Người thiếu nữ chợt nhớ ra ông bác sĩ đến miền này mới được ít lâu thôi. (Chuyện
nhà nàng hẳn ông ta không được rõ). Nàng hỏi nữa:
- Theo ý kiến ông, những vết thương ông buộc kia là do sự gì gây nên?
- Điều này khiến tôi làm lạ. Những vết tích không được rõ. Một con vật đói nào
xổng ra cũng không chừng. Tôi đã báo tin cho viên tuần tra cảnh liệu. Tôi lại
nghe người quản gia kể lại với tôi rằng anh em nhà Ades đã có lần đe dọa ông
anh cô. Cả ba tên ấy đều có những con chó hung dữ, có lẽ những con chó kia giữ
việc sủa cô con gái có mặt đấy, là người làm chứng đáng lo ngại, trong lúc
chúng đánh anh cô. Dẫu sao, tôi mong rằng lúc ngả dậy, bệnh nhân của tôi sẽ buồn
cười cho những câu nói điên rồ đã thốt ra đêm nay. Tôi thử hỏi cô, cái chuyện
con quái vật kia có nghĩa lý gì không nào? Ông Oliver chẳng qua mê sảng đấy.
Swanhild lạnh lùng đáp:
- Những câu ấy không phải chuyện điên rồ chút nào hết, vì anh tôi mà nhớ được
những điều trông thấy trong rừng thì anh tôi đến tự tử. (Nàng đưa tay cho ông
Newton trông thấy những búc chân dung của tổ phụ và nói rõ ý mình). Từ trước đến
nay, những người kia đều như thế này cả đấy, ông ạ.
Ông tỏ vẻ mặt không tin và nhạo báng:
- Những chuyện vô lý ấy có những gì là sự thực nào?
- Tổ phụ tôi chết y như thế năm 1890. Báo :”Times” ra ngày 18 tháng 10 năm ấy
tường thuật cả vụ điều tra về việc ấy.
Ông nhìn người thiếu nữ, vẻ ngẫm nghĩ:
- Hình như tôi cũng có đọc bài ấy rồi. Tôi, tôi cho là những câu chuyện truyền
khẩu của bọn vú nuôi, con ở. Lúc này cô vẫn còn bị hốt hoảng vì những sự kích động
vừa qua, nhưng đến sáng mai là cô lại tỉnh trí được như trước ngay, rồi nhà
chuyên trách chắc là sẽ tìm ra được con vật hung ác. Bây giờ tôi thử đi xem hai
người bệnh của tôi xem nào!
Swanhild lại cầm cuốn chỉ nam bưu điện và biên ra một bản những tên và địa chỉ
của nhiều người. Cửa bỗng lại mở ra. Người thiếu nữ reo lên:
- Kìa, anh Goddard!
Người vừa vào khẽ đáp:
- Swanhild!
Và giọng nói đầy ý trách móc, thương hại và kinh sợ.
Goddard hơn Swanhild một vài tuổi, người nhỏ nhắn, mảnh khảnh. Trên khuôn mặt
xương xương, dưới mái tóc đen và rậm, tươi sáng đôi con mắt nâu lóng lánh và
cái miệng của người sắc sảo hữu duyên. Chàng ăn mặc sơ sài một bộ quần áo hàng
mỏng nhẹ không được thẳng nếp, đầu đội một cái mũ cáp lưỡi trai mềm và dẹt và
xách lủng lẳng một ngọn đèn xe lớn trong bàn tay trái đeo găng. Goddard bị
thương nặng hồi chiến tranh, phải mang một cánh tay gỗ. Thấy Swanhild ngạc
nhiên nhìn chiếc đèn, chàng ngiêm giọng nói:
- Phải, chính đèn của cô đấy.
Nàng nghẹn tiếng hỏi:
- Ồ! Anh Goddard, anh cũng vào rừng đấy sao?
Chàng làu nhàu:
- Giá cô rủ tôi cùng vào mới phải. Đêm qua tôi làm việc khuya. Lúc đi nằm, thấy
có lửa đèn thấp thoáng trong rừng, tôi mới thử vào đó xem cho biết, thì, trời
ơi! Tôi trông thấy các con chó…
Chàng đặt chiếc đèn xuống và nắm chặt bàn tay lạnh lại, nói tiếp:
- Tôi cứ nghĩ đến cái việc cô vào rừng có một mình, (giọng chàng vẫn trách móc)
lại vào sau những việc xảy ra này!… Ồ, lão Walton đã cho tôi biết hết đầu đuôi
rồi… tôi thực không thể nào bực mình hơn được nữa.
Chàng vo tròn mãi cái mũ trong tay, Swanhild cảm động nhắc câu nói lúc nãy:
- Thế ra anh có vào trong rừng!…
- Thì có gì đáng kể? Trong rừng không còn nguy hiểm nữa vì trời lúc ấy đã đang
mưa.
Trước thấy ông bác sĩ tỏ thái độ không tin lời mình, nay được nghe Goddard nhận
theo những giả thuyết về con quái vật, Swanhild cũng thấy được dễ chịu trong
lòng. Nàng đem cái việc mạo hiểm đêm qua ra vắn tắt thuật lại. Goddard hỏi:
- Thế là Oliver thoát nạn và tâm trí vẫn yên lành rồi. Thì cô còn lo sợ gì bây
giờ?
Nàng đáp:
- Anh ấy mà nhớ lại được thì tất sẽ theo gương ông tôi. Chốc nữa anh ấy ngủ dậy,
bà vợ lão Walton với tôi sẽ coi chừng anh ấy có ý tự sát chăng, như thế trong
vài ba giờ còn được, nhưng bất thần anh ấy nhớ lại lúc nào không biết,thì liệu
có thể suốt đời canh giữ anh ấy được sao?
Tiếng nàng sau cùng thành tiếng nức nở. Goddard cũng lấy làm khó nghĩ:
- Vâng, tôi hiểu rồi. Giờ thì biết làm thế nào? Swanhild:
- Tôi định cố tìm cho biết tính cách hình thể con quái vật xem. Việc ấy mà
thành và nếu tôi có thể cứ dễ dàng phân giải các điều cho Oliver nghe, thì sự
kích động kia sẽ giảm bớt đi được.
- Thế cô định theo cách nào bây giờ?
Nàng trỏ vào cuốn chỉ nam.
- Lúc anh vào đây thì tôi đang tìm hội khảo cứu S.P.R và địa chỉ cô Bartendale,
nhưng tên cô không thấy in trong sách.
- Cô Bartendale, ư? Cái tên này làm tôi lại mang máng nhớ ra một việc…
- Bà Grace Kynaston có lần đã nói chuyện với tôi về cô ta. Chả hồi năm ngoái cô
ta có tìm giúp bà ấy cái nguyên nhân những việc hiện hồn kỳ dị xảy ra trong nhà
bà. Nhưng hiện nay bà Grace lại đi ngoại quốc mất rồi! Mà tôi thì chỉ biết được
có mỗi một điều là cô Bartendale ở London thôi! Chắc hẳn cô ta ngụ ở một nhà họ
hàng nào đấy chớ chẳng không. Tôi mới tìm xem có bao nhiêu địa chỉ nhà
Bartendale, đem kê ra thành một bản: có mười một nơi tất cả. Hễ lúc nào xem có
thể rời Oliver ra được tôi sẽ đi London hỏi thăm.
Goddard khẽ lắc đầu:
- Như thế thì khác nào tìm chiếc kim trong đống cỏ. (1) [(Cũng như ta nói: “Đáy
bể mò kim”.)] Bartendale… Bartendale… hừ!
Chàng nhăn trán nghĩ ngợi, miệng thì cứ lẩm nhẩm nhắc lại tiếng Bartendale
hoài.
Swanhild đi mở cửa sổ hướng Bắc ra. Gió bên ngoài ùa vào ướt nặng những hạt
mưa. Hai người đứng ngắm cảnh đồng quê mịt mùng lan xa tới cái hình thằng người
Dannow. Một màu sáng hỗn mờ tuôn xuống từ trên mây. Khu rừng xa hiện thành một
dải đen xám.
Bỗng nàng không thể im lặng được nữa.
- Cái tình cảnh thực ghê gớm, tai ác không biết ngần nào! Oliver thoát chết, mà
nếu ta không thể tìm được cách khám phá được cái bí mật nghìn năm kia thì anh ấy
đến hóa điên mất, rồi anh ấy lại…
Nàng không nói được dứt, nghẹn ngào một lát rồi lai lớn tiếng kêu lên:
- Tôi thực là đứa hèn nhát! Anh Goddard ạ. Tôi hèn nhát một cách khả ố! Nhưng
anh nghĩ coi: đời tôi bây giờ chỉ còn lại có một mình Oliver nữa là hết! Hồi
anh ấy với anh Reggie đi đánh trận trở về, các thầy thuốc bảo là anh ấy không
thể sống được. Tôi đã cố công cùng sức cứu được anh ấy sống. Mà thế này thà cứ
để yên cho anh ấy chết có lẽ lại hơn.
Goddard khuyên:
- Swan, đừng nên nghĩ thế! Tại Swan nhọc mệt quá mới ngã lòng đấy. Độ vài ba giờ
nữa Swan lại có đủ nghị lực chiến đấu để che chở cho Oliver.
- Ta làm thế nào mà thắng nổi được kẻ thù kỳ quái, kẻ thù vô hình kia được!
Chàng âu yếm dỗ:
- Không, em cứ vững tâm. Mới hai năm trước đây, tôi còn trong một đường hố
ngoài trận, lấy xẻng xúc đào trong một lớp bùn kinh tởm: cái chết treo trên đầu.
Không thể nào biết nó sẽ hiện đến theo hình thể nào để lôi chúng tôi đi. Chỉ có
một cách duy nhất để tránh khỏi nỗi lo sợ là đừng nghĩ ngợi lắm. Bây giờ cũng
thế đấy! Bây giờ ta cũng cứ thế; ta chỉ nghĩ đến việc tìm ra cô nữ pháp sư kia
là hơn.
Chàng nhìn Swanhild bằng đôi mắt hóm hỉnh, một vẻ trách móc khôi hài:
- Mà này, lúc nãy Swan bảo: đời Swan chỉ còn có Oliver nữa thôi. Câu nói ấy
không đúng mà cũng không được tử tế cho lắm. Tôi cứ tưởng là Swan vẫn hiểu bụng
tôi.
Từng trận gió quay cuồng, khác nào tiếng nói lớn lao của không gian vô cùng tận,
bao bọc cả lấy căn phòng kia, giây phút buông thả bình tĩnh này thực dịu ngọt
cho lòng người thiếu nữ. Nàng tưởng chừng như khắp vũ trụ đều tiêu diệt thành
hư ảo chỉ còn lại một tình thương mến chung của hai người. Nàng dịu dàng bảo
chàng:
- Anh Goddard, lòng anh đối với Oliver của chúng ta thân thiết biết chừng nào!
Chàng ôm lấy nàng trong tay và đặt môi hôn nàng. Sau lúc người anh cả nàng là
Reggie tắt nghỉ, anh Oliver nàng cũng tỏ với nàng cử chỉ âu yếm y như thế.
Swanhild nhớ đến lại rùng mình kinh sợ, nhưng nàng cũng thấy được phấn khởi tâm
hồn. Nàng vui vẻ nói như gần quên hết lo âu:
- Nhờ trời, Oliver vẫn còn đấy.
- Thì chính thế, mà giữ được anh ta mãi mãi là do ở chúng mình. Ta phải làm thế
nào tìm cách giữ lấy mọi điều lợi để có cơ thành công.
Chương 5. “SUEZ WEST OF SUEZ”
Sau đó một giờ rưỡi, Swanhild bước xuống dưới đại sảnh.
Trời đã gần về sáng, lạnh lẽo càng thêm giá ngắt và sự im lặng càng sâu xa. Những
cây leo khô cóng bao phủ khắp tường khiến cho tòa nhà lớn có một vẻ hoang tịch
của ngày tận cùng thế giới.
Một người nữ khán hộ đi qua đường hành lang, quyện theo mình một mùi nồng thuốc.
Swanhild không thể yên lòng được. Nàng trở vào căn phòng lớn Holbein là nơi ấm
áp vì có đèn sáng và lửa cháy trong lò. Con Alex và lũ chó khác đang tranh nhau
ăn với mấy con mèo. Ở một bàn đã sắp sẵn thức ăn điểm tâm, Goddard với bà lão
Walton vẻ mặt đăm đăm đang thì thầm nói chuyện. Chàng ngẩng lên bảo nàng:
- Swanhild ạ, tôi đã bảo đánh chiếc xe Mercedes rồi. Tôi tưởng độ hai giờ ngồi
xe sẽ có lợi cho tâmthần cô lúc này; bà Walton cũng nghĩ như thế đấy.
Swanhild hỏi:
- Mà ngay bây giờ sao?
Bà Walton gật đầu:
- Vâng, ngay bây giờ. Trong lúc cô vắng mặt đã có tôi coi sóc mọi việc ở nhà.
Goddard nói cho nàng biết trước:
- Ta đi tìm cho được cô Bartendale. Tôi mong sẽ tìm thấy cô ấy rất chóng.
Người thiếu nữ ngạc nhiên hỏi:
- Ồ! Anh Goddard, anh làm thế nào mà?…
- Đừng hỏi gì bây giờ vội. Swan hãy ăn điểm tâm đi đã.
- Tôi không thấy đói.
- Không đói? Nếu vậy thì Swan phải uống xong chén cà phê kia đã rồi ta mới lên
đường. Xe đã đánh ra sẵn sàng là ta đi liền, đi về Suez West of Suez.
Swanhild kinh ngạc nhìn chàng. Goddard cắt nghĩa:
Suez West of Suez là cái tên hiệu thân mật tôi đặt cho bờ bể Brighton. Tôi nghe
thấy nói miss Bartendale đến nghỉ ở đó được hai hôm rồi, đến cùng với một bọn
người sang trọng ưa tắm biển.
- Anh biết địa chỉ cô ấy chứ?
- Không, nhưng kiếm một người có tiếng đến chơi Brighton vẫn dễ hơn kiếm một
người ở London trong cuốn chỉ nam của sở bưu điện.
Swanhild vẫn còn lưỡng lự:
- Nhưng ngộ Oliver thức dậy sau lúc tôi đi khỏi thì sao?
- Thì đã có bà Walton ở nhà.
Bà Walton cũng nói vào:
- Uống liều thuốc lúc nãy thì cậu ấy ngủ được ít ra năm sáu giờ. Lúc nào thức dậy
tôi sẽ liệu chừng cho cậu dùng bữa hoặc uống thuốc an thần. Cô đi xa bây giờ rất
tốt. Ở nhà mà tâm trí rối loạn như cô bây giờ cũng chẳng có ích gì cho cậu ấy
đâu.
Người thiếu nữ thuận ngay, không phải để nài thêm nữa.
Quả nhiên lúc ngồi vào chỗ lái xe, những nỗi lo ngại bối rối trong lòng nhẹ bớt
đi nhiều. Khí trời thông thoáng bên ngoài, ngày lại gần về sáng, cùng với cái ý
tưởng rằng đã tìm được cách bận rộn về việc cứu vớt Oliver, bằng ấy sự khiến
nàng vững lòng lên. Khi xe đã qua cầu, nàng hỏi Goddard:
- Anh định làm cách nào để tìm thấy cô ấy?
- Ta đi hỏi thăm những người gác cổng ban đêm ở các khách sạn. Cách ấy mà không
ăn thua, ta sẽ tìm đến một anh bán báo mở hàng sớm mà có biên tên những du
khách đến Brighton hôm thứ bảy.
Mưa đã tạnh, sao điểm lóng lánh tỏ rõ dưới bầu trời trong xanh. Khi xe qua
Beeding, những ngôi còn lại sau cùng lần lần tắt. Đến Sorcham rồi mà bóng đêm vẫn
còn đen tối. Hai người cùng nói ít, vì Swanhild chăm chú lái xe. Sau cùng, xe
vượt khỏi miền đồi Porslade thì cái hình Brighton mờ xám hiện ra trước mặt hai
người dưới màu hồng sơ khai rung động của một cảnh hửng sáng mùa đông.
Con đường sao mà thấy vắng vẻ lạ lùng! Ánh đèn pha càng làm rõ rệt thêm vẻ hiu
quạnh tiêu điều của cảnh vật: bầu trời với mặt đất, nhà cửa cùng những bờ cát
xa xa, tất cả hình như huyền ảo. Chỉ có tiếng máy kêu rền với tiếng gió than
dài thoảng đưa tiếng sóng ồn ào, làm tan vỡ bề tĩnh mịch.
Swanhild, mà lòng áy náy khiến giọng nói nhỏ đi và có chiều mỏi mệt, hỏi
Goddard:
- Nếu không tìm thấy miss Bartendale ở Brighton thì làm thế nào?
Chàng chỉ đáp.
- Thì đi tìm chỗ khác. Ta không cần gì phải băn khoăn lắm. Cô cứ cho xe rẽ vào
phố đầu bên trái, rồi ta bắt đầu hỏi thăm.
Những lúc chàng xuống hỏi thăm bọn gác đêm nàng vẫn ngồi lại trong xe. Miss
Bartendale không trọ trong khách sạn đâu, mà đến khách sạn thứ hai cũng vậy. Đi
suốt một dãy phố mà chẳng được ích gì, chốc chốc lại ngừng xe, khi để hỏi thăm,
khi tìm kiếm một hàng bán báo. Đến lúc mặt trời hửng đông thì hai người thông
thuộc được hết các chừng độ thức dậy dần dần của một khách sạn. Sau cùng mới có
một người trong bọn người làm đưa một bản kê tên du khách cho Goddard coi.
Chàng reo lên:
- Đây rồi! Swan trông đây này: Hesse House, Hesse Square: thứ năm, lady(1) [(Tiếng
gọi những đàn bà quí phái bên Anh.)] Adams, miss L. Bartendale… đi qua Ship
Street ta hãy đỗ xuống đã.
Swanhild ngoan ngoãn vừa cho xe quanh lại vừa hỏi:
- Xuống đấy để làm gì?
- Để gọi điện thoại. Đến nhà cô ấy sớm quá thế này không được. Ta phải có lễ độ
với nạn nhân của ta(1) [(Một tiếng nói đùa để chỉ miss Bartendale.)]!
Vào cái giờ sớm sủa ấy, thành phố buồn bã và có vẻ còn ngủ yên. Hai bàn tay
Swanhild xâm xấp ướt, mặt tái mét như người chết rồi, vì nàng chỉ cách có vài
ba phút hoặc nỗi mừng hoặc sự tuyệt vọng.
Trong máy nói, giọng rề rà của một người đầy tớ gái trả lời nàng:
- Miss Bartendale đang ở trong phòng ngủ. Cô ấy sắp sửa đi chuyến xe lửa thứ nhất
về London. Tên là gì? Xin cho biết. Vâng, được, miss Hammond, xin cứ đợi đấy
nhé!
Đợi một lát, nàng bỗng lại nghe thấy tiếng đầu dây bên kia:
- Allô! Miss Bartendale đây. Con quái vật hẳn lại hiện về phải không, miss
Hammond?
Swanhild kinh ngạc hết sức:
- Vâng, phải rồi, nhưng sao mà…?
- Sao mà tôi biết, phải không? Này cô em ạ, khi một cô dòng dõi nhà Hammond ở tận
cư thất miền Dannow mà gọi đến một người đàn bà được tiếng là có tài về linh hồn
học, thì câu chuyện đoán cũng chẳng khó khăn gì!
Giọng cô nhẹ và nâng cao, nhưng rành rẽ từng tiếng cô hỏi:
- Nó hiện về bao giờ thế?
- Mới được mấy giờ thôi.
Swanhild liền vắn tắt thuật lại những việc xảy ra đêm vừa rồi. Người kia lại hỏi:
- Nhưng tôi làm sao được bây giờ.
- Năm ngoái cô đã có lần giúp cho lady Grace Kynaston, vì thế tôi chắc rằng…
- Cái bí mật của nhà Kynaston không phải là cái bí mật lưu truyền nghìn năm. Được,
tôi cũng cố hết sức xem sao, nhưng cô đừng tin ở tôi nhiều quá đấy! Hiện giờ cô
đang ở đâu?
- Ở nhà điện báo Ship Street. Tôi đi xe hơi đến cùng với anh God… à, cùng với
ông Covert.
- Liệu tôi có thể xem xét chỗ xảy ra trước các nhà chuyên trách được không?
- Được ạ, mặt trời chưa lên cao thì chưa ai làm gì vội, cả đến viên chánh cảnh
sát ở Dannow cũng vậy. Mà ta thì chỉ một giờ nữa đã đến đấy được rồi.
- Nếu vậy thì cô lại đây, nhưng cứ thong thả thôi, vì tôi chưa kịp sửa soạn gì
cả.
Nàng bảo Goddard:
- Cô ấy nhận lời và xem ra người nhã nhặn lắm.
Rồi nàng không nói gì thêm.
Hess Suare ở về mé tây nam bờ biển Brighton, thuộc khu của hạng quý phái trong
thành phố, một nơi ở dễ chịu nhất hồi chưa có những gia đình đua nhau lập nên.
Bình yên và tĩnh mịch trong những ngày tưng bừng nhất của mùa hè, khu ấy trong
buổi sáng mùa đông kia trông thực quạnh vắng. Chiếc xe hai người lăn bánh trên
những đường phố buồn tẻ dưới những hàng cây âm thầm. Tòa nhà Hess Hourse dựng gần
mấp mé trên thành đá bờ biển.
Goddard khen:
- Thực là nơi biệt thự mộng tưởng đối với một người như miss Bartendale.
Swanhild trên xe vừa nhảy xuống thì bỗng cửa tòa nhà mở. Một người đàn bà nhỏ
nhắn bước ra, dẫn theo một con chó rất lớn, nửa thuộc giống cho hiếm, nửa là giống
chó săn.
Giọng nói nghe trong máy lúc nãy, cất lên hỏi, trong lúc bàn tay người ấy đưa
ra:
- Miss Hammond đấy phải không?
Người đâu mà có khuôn mặt dễ thương đến thế! Những món tóc uốn kia cuộn dưới
mép chiếc mũ mềm giữ gió, có một màu vàng lụa không mấy khi còn được sau tuổi
trẻ thơ. Nét mặt thanh tú, nước da sữa mịn, hai má phơn phớt điểm hồng. Duy chỉ
có đôi mày đậm nâu, đôi lưỡng quyền đã lộ và cái mũi hơi to là bớt lại cái vẻ
non dại thơ ngây thấy trên toàn diện mạo. Chiếc cằm tròn nhỏ ấn xuống một đường
hình lõm phía dưới môi. Thường thường miss Bartendale giữ đôi mí mắt buông thấp,
nên gương mắt nàng trông đen lay láy sau cái riềm lông mi lụa vàng. Thân hình
nàng mảnh dẻ, đứng thẳng thắn trong một cái áo măng-tô rộng bằng len.
Swanhild nhỏ tiếng hỏi trong vẻ ngạc nhiên:
- Miss Bartendale, người đàn bà tìm mạch suối đây sao?
Người ấy mỉm cười chữa lại:
- Không, nhà nữ thần linh học mới phải. Trông tôi bề ngoài thế này nhưng tôi
nhiều tuổi hơn vẻ người tôi đấy! (Cô nói thêm câu này để đáp lại những ý nghĩ
thầm của Swanhild). Mà tôi không cho những công việc của tôi làm có vẻ nên thơ
như bọn người Mỹ đâu.
Cô nhẹ cúi đầu đưa mắt lên nhìn Swanhild một cách rất đáng yêu, khiến cho khi gặp
đôi mắt xanh sáng kia, trong vắt như thủy tinh hay như ngọc kim cương và như thấu
suốt lòng nàng, nàng lấy làm sung sướng rằng không còn điều chi phải giấu giếm
nữa.
Miss Bartendale ngoảnh lại nhìn chàng trai:
- Ông này là ông Goddard đây hẳn rồi. Nhờ có ông mà hôm nay tôi được cái may mắn
điều tra về việc này đấy. Được! Bây giờ đã quen biết nhau rồi thì ông lên ngồi
cầm lái, còn miss Hammond thì sẽ kể cho tôi biết tường tận những điều cần biết.
Tôi xem ý thì con chó của tôi không ác cảm với hai người. Cô đỡ lấy chiếc ví da
người hầu gái đưa ra và bảo: Được! Ổn thỏa lắm rồi. Chị nhớ gọi điện cho bà cô
tôi dùm nhé!
Cô ngồi yên ấm bên cạnh Swanhild, để con chó nằm dưới chân. Chiếc xe quay về
Dannow trở lại con đường đã đi trước.
Chương 6. NHỮNG CỤ TỔ THÀNH TRÙNG
Miss Bartendale ngồi gọn về một góc nệm xe và mỉm cười với cô
thiếu nữ ngồi cạnh. Cô bảo Swanhild:
- Hình như cô lấy làm lạ rằng sao tôi nhận lời đi với cô nhanh đến thế nhỉ?
Swanhlid đáp:
- Là vì tôi chỉ lo sớm quá, cô sẽ từ chối không muốn bận mình.
- Tôi như thế quen đi rồi. Lúc cô gọi điện thoại cho tôi đã ăn mặc chỉnh tề và
gần điểm tâm xong; ăn bữa sáng dưới đèn! Như thế cũng ngược đừi y như uống sâm
banh giữa ban ngày. Bây giờ cô kể lại lần nữa cho tôi nghe những việc xảy ra hôm
vừa rồi đi!
Swanhild liền thuật cả lại một lượt nữa. Miss Bartendale hỏi:
- Trong câu chuyện đó thì có những gì là khác thường?
Swanhild thưa:
- Tôi không biết thế nào mà nói được.
Miss Bartendale chậm rãi từng tiếng, giọng nhẹ nâng cao nghe ngọt ngào rất êm
tai:
- Tôi chỉ thấy trong cái việc kia có một chỗ không được tự nhiên lắm, có lẽ vì
ông anh cô đã quên nói cho ta biết rằng… Nhưng để xem ông ấy nói thế nào đã.
Bây giờ ta hãy xem xét về con quái vật. Các sách chỉ nam về những nhà có ma
quái, sách nào cũng nói đến con quái vật ấy, đấy, tôi tóm tắt những điều tôi biết
cho cô nghe, những điều có liên quan đến con quái vật tôi đọc trong các sách khảo
về chuyện yêu ma. Họ hàng nhà cô, từ bao nhiêu thế kỷ nay, vẫn bị một giống ma
quỷ quấy nhiễu. Người ta gọi nó là con quái vật bất tử. Trong dòng họ Hammond
có nhiều người chết một cách bí mật: người ta đều bảo là con quái vật kia. Có
phải đúng thế không?… Thế, con quái vật ấy ở yên không sinh chuyện gì được bao
nhiêu lâu rồi?
- Đã từ năm 1890 là năm nó giết hại ông tôi cùng hai người nữa.
- Đầu đuôi việc ấy thế nào?
Lưỡng lự một chút rồi Swanhild liền kể:
- Hôm ấy , ông tôi có hẹn hò gặp nhau trong rừng với một bà ở Mansby Place. Cả
hai bên đều có vợ có chồng rồi. Giữa chừng họ bị một người lính kiểm lâm bắt gặp…
Cả người lính kiểm lâm cùng bà kia bị chết, bị tàn sát một cách kinh khủng y
như cô Kate đêm vừa rồi, nghĩa là một lối hung ác ghê gớm và chỉ có con quái vật
vẫn dùng xưa nay. Hai con chó lớn của ông tôi với con chó của người lính gác
cùng bị xé nát nhưng không bị ăn thịt. Thây người và xác chó, bọn tuần cảnh tìm
thấy ở gần Gò Sét (Thunder Barrow) ở bên kia rừng, còn ông tôi họ thấy đang đi
lang thang, mình đầy những vết thương trông rất ghê sợ. Trong có một đêm trời
mà tóc ông tôi hóa bạc. Ông cụ nhất định không chịu kể lại những việc đã xảy ra
và hôm sau thì tự tử chết. Vì thế mà tôi lấy làm lo cho anh tôi.
Luna Bartendale nắm lấy tay nàng tỏ vẻ thân mến:
- Nếu vậy được! Cô em cứ yên lòng. Nếu ông anh cô định quyên sinh thì tôi sẽ
tìm cách để biết quyên sinh vì cớ gì. Dannow là một lâu đài cổ nhất nước Anh,
phải không?
- Vâng. Căn đại sảnh bây giờ là một dinh thất cũ.
- Chi phái nhà cô tậu được lâu đài Dannow từ hồi nào?
- Chính tổ tiên nhà tôi xây dựng nên
- Cô còn những cảo thư cũ không?
- Nhà tôi hiện giữ một tập cảo có ấn tín của vua Canute chứng nhận rằng
Réginald, con trai Hammond là chủ nhân tòa cổ thất trước.
- Tập gia phả lập năm 1650, có biên chép các hồi nó hiện lên giáng họa, và những
tên người bị hại đều ghi chú bằng mực đỏ. Một tập gia phả nữa thuật lại những
việc xảy ra từ năm 1650 đến năm 1890.
- Cô còn biết những di tích chứng chỉ nào nữa không?
- Còn. Trong nhà thờ thuộc lâu đài Dannow có một phiến đá trên mặt tạc nổi hình
một người chiến sĩ quân Thập tự (1) [(Chiến sĩ Thập tự là những người sung vào
đội quân chinh phạt của khắp châu Âu hồi thế kỷ thứ XI để đi chiếm lấy thành
Jérusalem của dân Hồi. Họ lấy hình Thập tự giá đính trên chiến phục để làm dấu
hiệu, nên gọi là quân Thập tự.)] và dưới chân người ấy, một hình thù to lớn có
ý tả con quái vật. Thứ bia ấy dựng lên để kỷ niệm công đức sir Oliver
Hammond(2) [(Tuy trùng tên họ, nhưng không nên lầm với Oliver, anh Swanhild.)],
người đã đương đầu với con quái vật mà không chết, xin theo quân Thập tự lần
chinh phạt thứ nhất để khỏi phải nhớ lại và bỏ mình trong hồi này. Nhà chúng
tôi lại có một bức tranh đề tặng cho Godfrey Hammond năm 1387. Bức tranh vẽ một
con vật rất dị kỳ. Ông Godfrey Hammond này đã có lần trông thấy con quái vật và
từ đó cho đến hết đời chỉ lấy sự cầu nguyện ăn năn làm công việc, sống như một
nhà tu hành ẩn dật, hãm mình trong một phòng kín nhỏ hẹp xây áp với nhà thờ.
Người nào trong họ Hammond đã có gặp con quái vật cũng đều tự sát hết, trừ ra
chỉ có hai ông kia là không, nhưng vào đội quân thập tự hay là làm nhà ẩn tu
cũng là hai cách tự tử rồi.
- Con vật tạc ở phiến đá với con vật trong bức họa trông hình thù thế nào?
- Cũng khó nói lắm. Con trên phiến đá thì chẳng ra hình thù gì hết, mà con họa
trên bức tranh thì bị cạo xóa nhem nhuốc hình như để khỏi nhận được.
- Ngoài ra, còn ai là những người khác đã trông thấy nó, hay có ai mô tả hình dạng
nó không?
- Không. Họ không bị giết chết thì cũng vì sợ hãi quá mà chết mất.
- Tuy vậy, cô con gái kia, cô Kate Stringer ấy mà, cô ấy cũng vẫn còn sống đấy
thôi?
- Chưa chắc. Mấy ông bác sĩ đều bảo cô ấy không thể cứu chữa được.
- Tôi nghe như một câu hát cổ có nói đến con quái vật, phải không?
- Vâng. Câu hát ấy thế này:
Linh hồn quái vật Dannow
Kiếp nổi kiếp cùng dòng giống
Con quái mà còn cứ sống
Dòng Hammond thịnh lâu dài
Con quái mà tắt được hơi
Dòng họ Hammond tuyệt diệt
Cầu cho yên lành mà chết
Kẻ gặp thấy quái Dannow
Gặp mà vẫn chẳng làm sao
Sống cực bằng muôn cái chết.
Luna lẩm nhẩm nói:
- Lạ thực! “Con quái vật mà còn cứ sống chừng nào thì họ Hammond còn thịnh vượng
mãi”. Thành thử cái họa cũng là cái phúc rồi chứ sao? (Ngừng một lát, cô lại
nói). Tôi đã đọc nhiều bài khác nhau nói đến những lúc nó hiện lên. Trong số đó
có một bài nói quả quyết rằng trong tòa cổ thất Dannow có một phòng bí mật,
phòng ấy ở đâu và có những gì, người nhà giữ rất kín, chỉ đợi khi nào người con
kế tự đủ hai mươi lăm tuổi mới cho biết. Bài ấy lại bảo rằng cái việc giữ kín
kia ghê gớm quá chừng, đến nỗi không có ai dám tiết lộ.
Swanhild muốn ngắt lời, nhưng Luna Bartendale đưa tay ngăn lại và tiếp:
- Theo lời tục truyền trong dân gian thì người ta vẫn tin rằng ông thủy tổ dòng
họ Hammond đã kết ước với ma quỷ để cho con cháu về sau kế nghiệp làm chủ nhân
Dannow cho đến ngày Phán Xét sau cùng (3) [(Tức là đến lúc tận thế, người ta đều
chết hết, khi ấy sẽ cùng đến trước một tòa án (tòa Phán Xét) để nghe Thượng Đế
(đức Chúa Trời) tuyên án về những phúc và tội của mỗi người trong lúc sống ở trần
gian. (Theo sự tin tưởng trong đạo Cơ Đốc).)] mà mình thì được sống khá lâu, đủ
thời giờ để thấy thành hiệu điều giao ước đó. Chính ông cụ tổ này đã ở trong
cái phòng bí mật và đã nhiều lần đúng tuần đúng tiết, đem hy sinh một mạng người
để cho tuổi mình thọ lâu. Tóm lại, nghĩa là theo ý tưởng trên kia thì chính cụ
thủy tổ nhà là con quái vật đấy.
Swanhild cũng nhận ra lời bàn ấy là đúng. Nàng nói:
- Vâng, trong dân gian họ quả có tin là như thế thực. Họ cho rằng ông thủy tổ ấy
vẫn hiện thành một hình thể ghê sợ gớm ghiếc đến nỗi ai trông thấy cũng phải
quyên sinh. Nhưng có điều này thì thực chắc chắn: là không có phòng bí mật nào
đâu. Tôi thường vẫn đến cái phòng người ta tưởng đâu là bí mật đã nhiều lần rồi.
Miss Bartendale lại nói:
- Người ta lại kể chuyện rằng, đã có từng hồi thỉnh thoảng nhà này lại sinh ra
một thú vật nửa người nửa thú và vật ấy giấu kín trong lâu đài. Cứ mỗi lần
trông thấy cái vật quái dị ấy là lại có những thảm kịch ghê gớm xảy ra. Cố
nhiên đó là những chuyện vừa rồi người ta bịa đặt ra rồi lan truyền đi khắp nơi
để làm thỏa cái lòng thèm khát chuyện kỳ quái của quần chúng; tuy vậy ta cũng
phải xét đến. Cô còn biết những điều gì khác về việc này nữa không?
- Còn. (Swanhild nói to lên). Mà lại là những lời độc địa hơn cả: người ta đồn
rằng nhà Hammond có những trùng hút máu mà tự những người ấy không ngờ rằng khi
một người trong họ này chết non thì cái hồn quỷ – quỷ nhập trong người ấy –
thoát ra mà trở về Dannow. Mà… họ lại bảo rằng…
Sự tức giận đưa lên tận cổ, nàng ngừng lại nghẹn ngào, Luna vội hỏi:
- Họ bảo sao?
- Họ bảo rằng chính là anh Reggie, anh cả tôi! Anh mới chết được ba tháng nay!
Nàng nói rồi ôm mặt khóc. Luna khẽ kêu lên:
- Ba tháng! Tức là cái kỳ hạn…
- Vâng. Mà người trong vùng đó ai cũng tin chắc như thế. Sau khi ông tôi chết,
họ đã bảo rằng chính người cô tôi, tức là người con gái út của ông tôi bị nạn
đi săn chết về mùa thu trước năm ấy… họ bảo rằng chính cô tôi đã giết chết người
đàn bà với người lính gác ở trong rừng. Việc quyên sinh của ông tôi cũng chỉ
khiến cho họ càng tin chắc chắn điều đó.
Luna Bartendale âu yếm nhìn Swanhild. Trong đôi mắt đẹp một vẻ thần tiên của
nàng, trước ánh sáng dịu của buổi mai, điểm đồng tử mở rộng ra như ở đôi mắt
mèo trong bóng tối. Nàng dịu dàng nói:
- Tôi đã không còn lạ gì những điều người thôn quê họ vẫn tưởng tượng. Ở nhà
quê tôi bây giờ vẫn còn cái lệ cũ: bảy năm một lần người ta đem quẳng xuống
sông một con vật còn sống để cúng một con ma tên là Peg O’Nell… Cố nhiên, về
chuyện nhà cô cái thói dị đoan kia cũng làm cho ông anh cô phiền muộn lắm đấy
nhỉ?
Swanhild sốt sắng đáp:
- Anh tôi lúc nào cũng chỉ quan tâm về những chuyện này. Cha chúng tôi chết ở
ngoài trận, mẹ chúng tôi chẳng mấy chốc cũng lại chết theo. Hai anh em tôi
thành trơ trọi ở đời, họ hàng chẳng còn ai nữa… Mà, tôi cũng không hiểu tại sao
lại đem chuyện nhà tôi ra làm bận tai cô thế này?
- Đó là vì tôi được lòng tin cậy của cô đấy. (Luna đổi chuyện). Chẳng hay ngoài
khu rừng cây ra thì con quái vật kia có bao giờ hiển hiện ở nơi khác không?
- Có ạ! Ngày xưa Oliver Hammond là cụ thân sinh ra ông cụ Godfrey Hammond ẩn
tu, với con gái đã bị con quái vật giết chết trong cuộc đi viếng nhà thờ ở
Rocamadour. Hồi ấy Godfrey Hammond cùng đi với cha và em gái, trông thấy việc ấy
mà không chết, rồi về sau mới hãm mình trong đời tu hành.
- Tại sao con quái vật chỉ hiện ra những đêm mùa rét nhỉ?
Swanhild đáp:
- Có một bài hát khác nói đến điều đó. Bài hát thế này:
Ở đâu thông mọc um,
Đêm sao, lạnh và rét.
Gia trưởng nhà Hammond,
Sẽ gặp phải lúc chết.
Luna lại nói:
- Xét cho cùng thì tai họa chỉ nhè giáng xuống những người làm chủ nhân của khu
trang trại kia thôi. Không bao giờ thấy con quái vật ở ngay trong lâu đài chứ?
- Có đấy ạ, có một lần. Người gia trưởng hồi ấy là sir Magnus Pháp sư, cháu cụ
Hammond ẩn tu.
- Có phải sir Magnus chính là nhân vật trong những chuyện dị đoan truyền lại đấy
không?
- Vâng, chính phải đấy. Sir Magnus thường làm những phép phù thủy trong cái
phòng bí mật – phòng này có một cửa sổ ngay dưới bóng thông. Tôi nghe nói lại rằng
ông cầu được con quái vật giúp phép rồi thì luyện tập theo cách bảo ban của nó;
ông cụ lại hy sinh đứa cháu nhỏ của mình để tạ ơn. Có nhiều người lại quả quyết
những: nào ông cụ đã bán hồn cho quỷ Satan; nào ông cụ cử hành những ác lễ, những
cuộc yêu thuật; nào ông cụ giết những trẻ nhỏ làm lễ vật, hoặc nữa cho con quái
vật bắt sống những trẻ nhỏ ăn thịt, thôi thì đủ các lời độc địa bàn ra nói vào?
Luna ra chiều hết sức chăm chú đến các điều đó. Sau cùng nàng hỏi:
- Về sau, cái chết của cụ Pháp sư ấy ra sao?
- Ông cụ tự tử sau khi bà vợ bị chết một cách tàn ác: chính mắt bà này trông thấy
con quái vật giết chết và ăn thịt con bà. Ông cụ tự tử rồi người nhà đem táng
trong nhà thờ. Bọn dân quê ở vùng Dannow, người thì vẫn tin rằng vong hồn ông cụ
đã làm cho những người trong dòng họ Hammond hóa ra trùng hút máu; kẻ thì bảo rằng
ông cụ chết rồi, quái vật vẫn sống và ở ngay trong cái phòng bí mật.
Chương 7. CHIỀU THỨ NĂM
Miss Bartendale trầm ngâm một lát, cằm đặt lên lòng bàn tay.
Một hồi lâu, cô nói:
- Không bao giờ có khói mà không có lửa, ít khi những chuyện truyền khẩu lại
không có dựa lên một sự có thực nào. Mà, cái phòng bí mật kia…
- Cô sẽ được thấy cái phòng ấy. Chỉ có anh em nhà tôi là được vào đấy, sợ cho
tôi tớ vào chúng làm khác chỗ những thứ trong phòng.
- Những thứ nào trong phòng?
- Những pho sách, những bình hóa học của cụ Warlock để lại trong ấy, khác nào
như một thứ phòng thí nghiệm. Lúc ông cụ hấp hối, có trối lại rằng cái chìa
khóa sự bí mật, sau này sẽ tìm thấy ở đó.
Luna mở to mắt, ngạc nhiên:
- Thế mà bốn trăm năm trời nay vẫn không một ai khám phá được điều gì! Thế căn
phòng có còn y nguyên các thứ không?
- Ngoài một vài cái bị bọn quân lính của Cromwell(1) ([Bậc vĩ nhân nước Anh
1599 – 1658), người đã gây ra cuộc cách mệnh lớn nước Anh (1645), rồi chiếm lấy
quyền độc tài trị nước]) lấy mất hay làm vỡ hồi họ đóng binh trong lâu đài
Dannow, còn thì không ai đụng chạm tới những vật ở đâu vẫn ở nguyên đấy. Theo lời
bà Blavatsky và sir Williams Crookes thì có lẽ bọn quân lính đã lấy mất hoặc hủy
hoại mất những dấu tích cốt yếu nhất rồi.
- Nếu thế thì đến tôi, tôi không biết có được may mắn hơn không?
Swanhild bàn góp:
- Từ 1890 đến nay, một vài khoa học chuyên môn cũng đã tiến được nhiều rồi.
Luna trịnh trọng gật đầu:
- Có thế. Bà Blavatsky là một nhà thần linh học, còn tôi, tôi là một nhà siêu
linh học kia!
- Siêu linh nghĩa là gì ạ?
- Nghĩa là tôi có một giác quan thứ sáu(2) ([Thêm vào ngũ quan: trông nghe, nếm,
ngửi và sờ mó, của người thường]) rất sắc sảo và nhờ giác quan ấy tôi có thể
tìm thấy được dấu vết con quái vật trong rừng.
- Nhưng giác quan thứ sáu là thế nào?
- Đó là trực giác. Hẳn cô cũng đã có lần tự nhiên thấy lòng mình gớm sợ, ác cảm
ngay với một vài người rồi, mãi sau, biết rõ người ta hơn, quả nhiên thấy mình
không nghĩ lầm, có phải thế không?
- Vâng, chính thế đấy.
- Đó là nhờ giác quan thứ sáu của cô báo cho cô biết trước đó. Cái trực giác của
ta kia chính là cái ý niệm về sự hòa đối trong cuộc đời, về sự thật, sự công bằng,
minh bạch ở đời. Khi nào người ta đã ra khỏi cái cõi thật phải, và minh bạch ấy
hoặc bằng lời nói hoặc ở trong tâm ý hoặc nửa lộ ra diện mạo bề ngoài, khi ấy tức
khắc có sự ngang chướng mà ta nhận thấy được ngay; những ý nghĩ sâu xa, một
tính khí ưa vật dục, hay cái số chết về tai họa, đó là những điều làm mất sự
hòa đối – sự mất hòa đối hay sự ngang hướng ấy, nếu gặp ở nhân vật nào là chúng
tôi cảm thấy được ngay. Nhà thần linh học có khiếu riêng về mặt này, cũng như
những người khác có khiếu riêng về hội họa hay về âm nhạc. Vậy, nếu đêm vừa rồi,
có xảy ra trong rừng một việc kỳ quái nào, một chuyện phi thường nào, thì tôi sẽ
có thề tìm ra được dấu vết (Luna hỏi tiếp). Thế, lúc cô đi tìm trong rừng,
ngoài ông anh cô và cô con gái tên Kate, con chó còn đánh hơi giúp cho cô thấy
được cái gì khác nữa không?
- Không, tôi không nhận thấy gì lạ hết. Chỉ thấy con chó lúc được ra khỏi rừng
thì có vẻ bằng lòng lắm.
- Trong câu chuyện ông anh cô kể lại có một chỗ tôi lấy làm lạ: là con chó theo
ông ấy sao không sủa báo trước cho chủ biết rằng kẻ thù đang tiến tới gần?
- Trời! Quái lạ thực.
Goddard vẫn lẳng lặng cầm lái từ nãy giờ, lúc đó bỗng quay đầu lại:
- Vâng. Quái lạ thực. Nhưng ta nên nhớ rằng lúc Oliver thuật câu chuyện thì
trong trí không được bình tĩnh. Anh ấy quên sót một vài điều cũng nên.
- Hẳn thế.
Rồi Luna lại đăm đăm suy nghĩ hoài. Swanhild không yên tâm được, lo ngại hỏi
nàng:
- Theo ý cô bây giờ thì việc này thế nào?
Luna đáp:
- Việc điều tra của tôi chắc sẽ khó nhọc lắm đây. Tôi xem chừng bí mật kia khám
phá ra được cũng chỉ do một việc nhỏ nhặt xảy ra trong khoảng vài ba trăm năm
trước, việc nhỏ nhặt ấy ta phải tìm để biết xem là việc gì. Tôi thực lòng mong
rằng ông anh cô có thể nói rõ cho tôi biết rằng con chó của ông ta có báo trước
cho ông ta biết hay không, bởi vì dù là một biểu hiện, con chó cũng phải coi chừng
chứ!
- Mà nếu biết rõ điều ấy thì cô thấy được những mối manh gì?
Luna trầm ngâm đáp:
- Không phải chỉ có bốn chiều(3) ([Chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và chiều thời
gian]) đâu, cô ạ.
- Ra thế kia đấy!
- Khoa chiêm tinh học ngày nay đã được hầu hết các nhà triết học tân tiến nhất
công nhận. Phần tôi, tôi cũng đã khảo cứu về khoa học này một cách riêng. Miss
Hammond! Cái hình ta trông thấy kia kìa, có phải là “thằng người khổng lồ” đấy
không?
Dãy núi mặt tây bắc, dựng đứng như thành, từ từ tiến đến trước mặt ba người như
một trùng sống vĩ đại. Xe hơi lên tới dốc, lọt qua một đường rẽ và sau cùng đã
trông thấy một phía làng xóm và chỗ đất cao.
Goddard vừa hãm đà xe vừa chỉ tay nói:
- Khu rừng kia kìa, miss Bartendale ạ!
Luna đứng dậy để trông cho dễ, còn Swanhild thì nhìn đám cây rừng, ngờ vực như
trước cảnh chiêm bao. Nắng chói khắp mặt cao nguyên: đỉnh đồi nổi bật trên nền
trời xanh mờ ám. Những dải suối nhỏ loáng biếc như thép sáng. Cây lá lặng lẽ nhỏ
giọt vì nắng ấm đang làm tan hết giá băng.
Gần lối đi, lặng lẽ từng đám người nhà quê khiếp sợ, lãng quên trong chốc lát
những công việc thường ngày. Phía bên kia thung lũng và ở tận đầu con đường hẹp,
một chiếc xe hơi nhỏ đỗ ngay ở mép rừng. Cạnh chiếc xe hơi có hai người đứng chờ:
người cao lớn nhất trong hai người, đầu và tay bị băng bó.
Goddard lái sang ngang và cho xe chạy vào con đường hẹp trong lúc Swanhild kinh
ngạc kêu lên:
- Oliver bỏ nhà ra đây, kìa! Rõ điên rồ thực.
Xe chưa đỗ hẳn Swanhild đã chạy ngay lên; đằng kia anh nàng cũng vội vã đến
đón. Thái dương và một bên mặt chàng bị vết thương trông rất ghê sợ nhưng chàng
vẫn ra vẻ khỏe mạnh như thường.
Chàng lớn tiếng gọi:
- Swanhlid! Em đừng trách anh nhé, mà cũng đừng lo sợ gì nữa, anh không nhớ gì
về những việc trông thấy tối qua. Lúc nãy anh thức dậy, bác sĩ nói rằng anh vẫn
khỏe mạnh… tội nghiệp cho con Holder quá, anh không nỡ để nó suốt ngày trong rừng
này được… này, Swan, người đi cùng em kia là người tìm mạch suối đấy, phải
không?
Swanhild cảm động ôm lấy anh nàng rất khắng khít. Giá không có người ngoài ở đấy,
dễ nàng nức nở khóc cũng không chừng. Nàng quay lại giới thiệu:
- Anh Oliver tôi đấy, miss Bartendale ạ.
Oliver vui vẻ nói:
- Cô đến vừa dịp quá! (Chàng đưa tay trái bắt tay Luna). Vừa thoạt trông thấy
cô, tôi đã ngửi thấy cái hương cỏ thơm mới cắt.
Luna mỉm cười vẻ khoan dung như một bác sĩ không muốn làm phật ý người ốm. Cô
trả lời:
- Đã hai năm nay, tôi không dùng thứ nước hoa đó nữa đâu.
Chàng đáp:
- Tôi nhớ được lâu thực. Hồi ấy, khăn tay của cô bao giờ cũng thơm thứ nước hoa
ấy. (Quay lại phía em gái, chàng bảo Swanhild): Em đừng tưởng anh vớ vẩn, anh
nói thế là vì trước kia anh đã gặp miss Bartendale, mà chính cô Bartendale đã
chữa cho anh khỏi mất trí đấy.
Luna ra vẻ ngẫm nghĩ, vừa nhìn Oliver vừa thấp giọng nói:
- Hồi hai năm về trước tôi có được bổ vào làm việc trong nhà thương
Sloane-Shell. Thế ra hồi ấy ông nằm chữa ở đấy sao?
- Vâng. Nhưng sau tôisẽ nói rõ cho cô về chuyện này. Hồi ấy cô là vị phúc tinh
cho không biết bao nhiêu người cùng lớp với tôi, nhiều thế thì nhớ sao được hết.
Nhưng họ thì chẳng bao giờ quên đâu.
Cô có vẻ ngạc nhiên cho sự tình cờ và đáp:
- Vâng, càng hay. Bây giờ thì, ông Hammond ạ, công việc của tôi là ở trong rừng
kia. (Cô nhẹ nhàng gỡ tay mình ra khỏi bàn tay Oliver giữ lại trong lúc chàng
nói chuyện. Rồi cô hỏi) Bệnh tình cô gái ra sao?
Sắc mặt Oliver bỗng sầm ngay xuống:
- Cô ấy đang mê sảng, luôn miệng nói rằng một vật “lù lù to bằng cái nhà” xông
đến hại mình. Xem chừng cô ta không thể cứu chữa được nữa.
- Ông không còn điều nào nói thêm vào những lời ông thuật lại chứ?
- Không còn điều nào. Các lời tôi nói, bác sĩ đã ghi chép cả, tôi cũng đọc lại
hết rồi, không có chỗ nào thay đổi hết.
- Vâng, thế thì được. Ta vào trong rừng đi! Giá từ lúc xảy ra các việc chưa có
ai bước chân vào thì hay, nhỉ.
- Nhưng anh Warren lại vào trước mất rồi. Anh ấy kia, kìa!
Chàng trỏ tay về phía một người to lớn và còn trẻ, mình mặc quần áo đi săn. Hắn
đứng nói chuyện với Goddard, vẻ mặt lầm bầm. Oliver cắt nghĩa:
- Anh ấy là vị hôn phu của cô Kate. Anh một mực cho hung thủ chính là anh em
nhà Ades và chỉ muốn chúng phải chịu tội. Để anh ta nói lại các điều cho cô
nghe. Ê này, Warren!
Anh chàng bước lại gần hai người. Mặt hắn sọp hẳn đi và sắc lại vì căm giận. Hắn
mang một tấm chăn ngựa và một cây súng trường. Luna nói:
- Tôi cứ muốn được vào xem xét khu rừng trước khi chưa có ai vào.
Hắn nhìn nàng một vẻ buồn chán:
- Xin bà thứ lỗi cho, là vì tôi tưởng vào đó không hại gì và không ngờ trái ý
bà… Chả lúc ấy trời chưa sáng mà cái thằng đồ khốn là thằng Will đã vào kháo chuyện
khắp làng, mà nó nói gì là những thằng ngu ngốc liền kháo lại đúng như thế.
Chúng nó bảo nhau: “Từ ngày ông cả Reggie mất đến nay, lần này trời mới có tuyết
đọng là một!”.
Goddard vội ngắt:
Chàng mỉm cười với Swanhild, lo ngại, nhưng Warren cứ nói nữa:
- Tôi hiểu thế này là không phải lắm, song tôi phải nói thực, bổn phận tôi là
phải nói cả cho ông Hammond biết những lời người ta thì thầm bàn ra nói vào. (Hắn
nén giận, nói tiếp) Chúng dám nói ông Reggie! Mà ông Reggie cùng đăng lính với
tôi với cả ông nữa, ông Oliver nhỉ! Hồi ở mặt trận Cambrai, trong bình sắt còn
một nửa nước uống, ông ấy nhường cả cho tôi, nói rằng chính ông ấy đã uống hết
một nửa trước rồi! Thế mà tôi cũng xin nhận tôi uống, không ngờ ông Reggie nói
dối để tôi yên lòng! Đến bây giờ em Kate của tôi gặp thảm họa này chúng nó cũng
chưa vừa lòng, chúng còn tìm cách đổ tiếng xấu cho ông Reggie nữa!
Hắn phải cố sức mới giữ được bình tĩnh để tiếp:
- Vì thế, tôi mới qua lối trong rừng, tra xét dò hỏi về bọn Ades. Rồi sau ông
Hammond cùng với tôi trở vào rừng định để đem con chó của ông ấy về nhà.
Swanhild hỏi:
- Thế về anh em nhà Ades, anh đã hỏi được những gì?
- Thưa cô, thằng Charlie thì què một chân, nằm bẹp một chỗ, còn thằng Joe bị một
trận nên thân. Chúng nó đánh nhau với lão Miles, bác gác ở cho ông Hudson: hai
đứa say rượu nhưng đêm tối, lão Miles không nhận ngay được mặt chàng.
Luna nói:
- Ta cố nhiên phải liệu trước cách phân giải những việc xảy ra ban đêm.
Nàng mở túi xách lấy ra một cành cây(4) ([Một thứ cành rất mềm, mà những người
có khiếu riêng bên Âu châu vẫn dùng để làm vật báo hiệu trong lúc đi tìm mạch
suối ngầm để đào giếng. Cành cây này ở trong tay họ, người ta cho là có một
tính cách dễ cảm động, khiến cho khi gặp mạch ngầm dưới chỗ người ta tìm mạch,
tự khắc cong một nhánh lên để báo hiệu. Hiện nay vẫn còn nhiều nơi sử dụng cách
này]) có ngạnh và cầm lủng lẳng trong tay. Goddard hỏi:
- Cành cây tìm mạch đấy, phải không ạ?
Luna đáp:
- Cành này tìm được mạch nước, mà cũng tìm được cái khác nữa kia.
Nàng bảo con chó theo nàng:
- Ngồi xuống, Roska!
Con chó lớn vâng lời ngay.
Luna cầm lung lẳng cành cây trong mấy ngón tay, người đứng thẳng, mặt ngẩng
lên, đôi lông mày chíu lại. Nàng quay mình vòng tứ phía không ngừng chân. Mớ
tóc vàng lục với khuôn mặt trắng xanh của nàng là những khoảng sáng cô đơn
trong vừng bóng ban ngày, mờ xám. Cây lá rủ dương tàn rợp ở trên đầu nàng và
phía sau Luna, người ta thấy những điểm mạ kền của mấy chiếc xe hơi bóng loáng.
Cạnh xe, mấy người đàn bà nhà quê sán gần lại, chăm chú nhìn Luna, mắt xanh
sáng trên những bộ mặt rám nắng màu nâu.
Swanhild cảm thấy một cách kỳ dị như đã được mục kích cảnh tượng kia một lần
nào: những quả đồi vắng lặng, hình thằng người khổng lồ vươn lên khoảng núi, với
thứ bóng mập mờ quanh một người đàn bà đang lặng lẽ niệm chú kia, tất cả mọi vật
nàng thấy như đều quen thuộc cả.
Chương 8. CHIỀU THỨ NĂM, GIÁC QUAN THỨ SÁU
Đang quay vòng, Luna bỗng dừng lại, chân dặm hoài một lát
trên mặt đất, rồi sau cùng ngừng im: một nhánh ở cái cành nàng đương cầm choãi
ra, như ngóc lên, ưỡn mình thẳng ngang và cứ ở nguyên như thế mãi. Nàng bèn cúi
mình nhìn xuống chỗ đất ẩm ướt: cỏ ở đây đẫm những máu đã đông lại. Swanhlid nhận
ra nơi đó là nơi mình đã đặt Oliver nằm lúc ở trong rừng ra.
Luna Bartendale tiến bước đi vào cái lối dẫn đến một chỗ cây cối quang rộng,
qua chỗ đó và tiến nữa lên. Bọn người cùng đi (cả con chó Roska nữa), bước theo
sau nàng. Cành cây choãi nhánh lên rồi lại xuôi xuống. Đến khi Luna bước tới một
lối nhỏ dẫn đến khoảng quang rộng thứ hai thì nhánh cây nghiêng trở về phía tay
phải. Oliver đi gần nàng hơn cả, thấy thế kêu lên một tiếng “Ồ!” ngạc nhiên.
Luna chăm chú nhìn con Roska lúc ấy đang hít ngửi vũng máu thứ nhất.
Xa chút nữa, những dấu vết không thẳng hàng, ăn ngoằn nghèo theo những vết máu
rải rác., mà mỗi khi tới gần, cành cây trong tay Luna lại lủng lẳng một lúc.
Nhưng đến khi tới cạnh thây con chó Holder, cành cây ngoáy tít hẳn lên.
Oliver thở một tiếng dài buồn bực và tức giận.
Luna nhìn cái thây con vật rồi nhìn chủ nó một vẻ dịu dàng, rồi lại bước lên.
Qua chỗ gốc cây lớn, là chỗ Swanhild đêm qua tìm thấy anh, Luna lại do dự, hai
chân dặm nhịp trên đất, rồi đến bên cây thông sét đánh đi quanh một vòng. Cành
cây chỉ cử động có một lúc trên cái lối mà vừa rồi mấy người đã đi qua. Những
nhành gai chi chít quấn phủ thân cây, ken khít đến nỗi chỉ có giống rắn mới có
thể chuồi qua mà không làm tuột xuống.
Luna lẩm nhẩm nói:
- Kẻ thù kia, chẳng biết theo đường nào mà đến, rồi lại theo đường nào mà đi?
Cô trở gót bước về, ngừng lại ở đầu mỗi lối. Cái cành mềm trong tay không thấy
cử động nữa trừ khi tới chỗ thây con chó nằm. Oliver nói ngay:
- Cô còn quên cái lối trước nhất mà cô Kate với tôi đã cùng đi đến đây…
Cô ngoảnh nhìn người thanh niên, đôi mắt mở to, đen láy, âm thầm – một vẻ nhìn
buồn và êm dịu.
- Không, ông ạ, tôi không có ý tìm những dấu vết người thường đâu. Từ nãy tới
giờ tôi chỉ thấy có một tang chứng quan trọng là những vết máu mà thôi.
Nàng chỉ thây con chó:
- Ông làm ơn bảo người đem để riêng nó một nơi để rồi tôi có thể xem xét lại được
không?
Swanhild hỏi:
- Nhưng xem xét con chó làm gì?
- Để may ra tìm được những dấu hiệu gì, có thể giúp tôi biết kẻ đã giết nó là vật
như thế nào chăng.
Oliver có vẻ không tin, chàng hỏi:
- Thế ra cô vẫn công nhận có một nguyên nhân hữu hình thực tại, trong vụ này
sao?
- Vâng.
- Dù biết trước rằng con Holder không báo hiệu gì cho tôi biết trước.
Luna gật đầu:
- Dù thế nữa! Cho cả đến ma quái, vong hồn chăng nữa cũng không ra khỏi cái
thông lệ của vật hữu hình. Gây nên được những thương tích như thế này thì vật
hiển hiện kia dù ở hạng nào mặc lòng, cũng phải khoác lấy một hình thể chắc chắn,
cũng phải hiện nguyên hình.
Theo lời Oliver, Warren gói con chó vào tấm chăn dạ hắn mang theo. Hắn lễ phép
nói:
- Xin bà thứ lỗi cho. Tôi thì cũng nghĩ rằng không cần phải viện đến yêu ma,
cũng có thể phân giải được vật này rất dễ.
Oliver vội hỏi:
- Ồ! Warren! Thế cứ sức anh thì liệu anh có xé nát một con chó lớn như con
Holder được như thế này không đã nào?
- Thưa ông, mình tôi thì không, nhưng hai người đàn ông thì có thể được lắm.
Luna lại trầm ngâm một lát, rồi sau nàng bàn:
- Nếu ta bỏ giả thuyết có nhiều hung thủ trong vụ này thì ta phải đồ rằng án mạng
gây nên do một giống có sức như một con ngựa có bốn chân, khỏe mạnh ghê gớm, lại
có thể đến đây và đi khỏi đây không ai biết được bằng cách bí mật nào.
Warren lại bàn:
- Hay một con khỉ đột lớn cũng nên? Ta phải đi hỏi xem có con vật nào xổng ra ở
miền tây này không. Nhưng tôi mong rằng, không, thì hơn, vì tôi còn muốn trả
thù.
- Mọi người quay trở về, yên lặng.
Luna Bartendale nói:
- Ông Hammond, ông nên cho nhà chức trách biết việc này đi.
Oliver đáp:
- Xin vâng. Anh Warren, anh giúp ông Goddard đem con Holder lên xe, rồi về ngay
bên nhà tôi bảo lão Walton để nó vào một nơi để rồi miss Bartendale còn khám
xét lại. Xong rồi, anh đi trình cảnh sát nghe không?
Khi Goddard với Warren cùng mang cái bọc thảm hại kia đi, Luna mới nói:
- Nếu ta không thể tìm được manh mối nào khác, ta vẫn có thể cho vụ án mạng này
vào loại vụ án mạng ở phố Morgue trong truyện của Edgar Poe kia mà.
Olievr hỏi nàng:
- Nhưng cô không tin chuyện ấy chứ?
- Không, nhưng cũng phải lấy một chuyện làm quà cho nhà chức trách chứ? Bây giờ,
tôi lại muốn thử tìm một lần nữa xem.
Cô, Swanhild, Goddard (lúc ấy đã xong việc ngoài xe) với Oliver lại quay vào rừng,
nhưng Luna vẫn không tìm được manh mối nào khác. Đến chỗ phân giới bên kia của
khu rừng, Luna đứng lại trước một gò thông nhô lên ở khoảng giữa khu rừng và miền
bờ bể.
Swanhild giảng giải:
- Gò này chính là Gò Sét (Thunder’s Barrow), một di tích của ngôi lăng huyệt cổ.
Bốn người cùng lên dốc, Luna ngắm cái hình “Thằng người Dannow” một lát rồi hỏi:
- Cái mô đất kia có liên lạc gì với con quái vật không nhỉ?
Swanhild vừa nhìn anh vừa đáp:
- Cái đó tôi không được rõ.
Oliver cũng lắc đầu:
- Cả tôi cũng vậy. Thực ra, thì ngày còn bé, chúng tôi không được phép nghe những
sự tích về con quái vật, mà về sau, lớn lên cũng không có mấy thì giờ rảnh để
lưu tâm đến.
- Tôi hiểu. Bây giờ xin ông đưa tôi đi xem những hình ảnh về con quái vật còn
trong nhà thờ di.
Oliver giữ Luna lại lúc nàng toan bước xuống:
- Miss Bartendale, cho tôi hỏi một câu đã. Vừa rồi, ở trong rừng, cô không tìm
thấy một dấu hiệu huyền bí nào, cũng không thấy vết tích tỏ ra rằng có một giống
thú to lớn nào đã đến đây… Vậy, nếu không có một vật trần gian nào, lại cũng
không có một vật yêu ma nào trong việc này, thì phỏng đoán cái gì được?
- Ông Hammond ạ, tôi xin nhắc lại câu thứ nhất tôi đã hỏi ông: Con Holder có
báo trước cho ông để ý đến một sự gì đang hiện đến bấy giờ không? Có lẽ vì ông
bị ngã choáng đầu nên không nhớ được nữa chăng? Nếu quả ông không quên – nếu quả
con chó không tỏ ra một dấu hiệu có kẻ lạ tiến đến – thì chứng cứ đã rõ rệt:
con quái vật nhà ông thuộc về một cõi khác, một chiều khác: đó là chiều thứ
năm. Vì nếu là giống ở cõi trần, hay ở cõi vong hồn chăng nữa, bản năng của giống
chó cũng có thể cảm thấy được.
- Cái cõi thứ năm kia là thế nào?
- Cả khoa học lẫn tôn giáo đều không có quyền lực gì đối với cái cõi đó. Tôi hết
lòng cầu mong cho con yêu quái nhà ông không phải là giống trong cái cõi này.
Rồi không giảng giải gì thêm, cô dần dà đi trở xuống, Swanhild đến bên nắm lấy
cánh tay cô, giọng nài nỉ:
- Cành cây dò mạch của cô không phải là tìm được đủ mọi thứ. Tuy nó dò được các
vết máu đấy, nhưng cô nên biết rằng ngay dưới chân cô vừa rồi, có cả một thế giới
người chết, vậy mà có thấy cành cây ấy động đậy qua tí nào đâu:
Luna đưa mắt nhìn quanh mình, cô ôn tồn nói:
- Vết máu rơi là một đằng, cô ạ; còn những người chết và chôn cất theo lễ thường
mà họ tin thờ lại là một đằng khác. Những kẻ chết dưới gò đấy kia vẫn được yên
nghỉ, hay ít ra vẫn được yên nghỉ còn ban ngày. Ban đêm thì… thì có lẽ cái đó lại
là chuyện khác.
Cô ngừng lời và bỗng rùng mình:
- Ở đây lạnh thực! Thôi ta vào nhà thờ đi!.
Jessie D.
Kerruish
Dịch giả: Thế Lữ
Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét