Cầu Mơ 1
Tặng Bùi Duy Tâm
1. Xe lửa dừng ở ga Mỹ Tho vào lúc mặt trời lặn. Lần đầu tiên tôi xuống một tỉnh lỵ miền Tây. Chưa có cây cầu nào bắc ngang Cửu Long giang nên xe lửa chỉ mới chạy tới Mỹ Tho. Nhà ga nằm sát bờ sông. Tấp nập hơn ga Tân An nhưng, dường như, vẫn mang một nỗi buồn. Buồn ga nhỏ. Ngó qua cửa sổ toa xe bên phải tôi trông thấy những cù lao nổi trên mặt sông chi chít cây cối. Y hệt những hòn đảo nhỏ trên mặt biển. Bên Tre bên đó. Nghe nói dừa nhiều.
Tôi theo giàn nhạc Hạ-uy-di của Nguyễn xuống Mỹ Tho giúp vui
một đêm văn nghệ tổ chức tại một trường trung học mà Điều, bạn chúng tôi, dạy tại
đó. Giàn nhạc Hạ-uy-di mang tên Hương Duyên, được thành lập ở sân Cư Xá Hoả Xa
đường Petrus Ký vào một đêm trăng. Nguyễn đã từng học nhạc Hạ-uy-di ông
Williams Chấn từ ngày còn ở Hà Nội, mong ước của anh ta là, nổi tiếng ngang
Đoàn Chuẩn, một tay chơi lục huyền cầm vang danh Hà Nội. Nguyễn luôn luôn nghĩ
đến những chiếc áo chim cò bỏ ngoài quần, cổ đeo vòng hoa giấy màu, giàn nhạc
trình bày những bản Hilo March, Blue Hawaii, Habor Light, Đàn chim Việt,
Ngày về, Nỗi lòng. Những cây dừa và bãi biển sẽ là phông. Như giàn nhạc Hạ-uy-di
của ông Willams Chấn đã trình bày tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Những Nguyễn chưa đủ
tài phổ dàn nhạc Hạ-uy-di trước số khán giả sành điệu nghệ thuật. Nguyễn sợ sệt,
dù ông Williams Chấn khuyến khích và tập dượt nhiều lần. Nhận dịp Điều mới,
Nguyễn ben nhận lời ngay gọi là "thử lửa" một phen trước những người
thưởng thức mà anh ta tin rằng sẽ dễ tính. Giàn nhạc rủ thêm hai em Quỳnh Hương
và Vân Duyên, bạn gái của Ngạc, con hai ông kỹ sư hoả xa cùng ngụ tại Cư Xá Hoả
Xa với gia đình Ngạc. Giàn nhạc, do đó, mang tên Hương Duyên. Tôi được cử đi hộ
vệ giàn nhạc để trấn an tinh thần Nguyễn.
Một phần cũng vì Quỳnh Hương. Không hiểu tại sao Quỳnh Hương
và Vân Duyên dám đi hát xa. Lại bằng lòng ngủ trọ ở Mỹ Tho, mấy đêm cũng được,
Ngạc bảo gia đình hai nàng Tây lắm. Tôi không tin. Và tôi nghĩ hai nàng đều có
máu nghệ sĩ trong tim. Quỳnh Hương giản dị, thành thật. Những người con gái miền
Nam đều thành thật cả. Tôi mến Quỳnh Hương nhất, mỗi khi nàng tròn xoe mắt,
ngây thơ hỏi những danh từ ăn chơi khó hiểu mà chúng tôi nói chuyện với nhau có
nàng ngồi nghe. Không ai dám ngờ tôi có thể rủ rê hai cô con gái con hai ông kỹ
sư đi lưu diễn văn nghệ. Ngay cả tôi, mãi tới lúc này, đứng tựa tay vào cửa sổ
toa xe, nhìn sang sông tôi mới chắc rằng Quỳnh Hương và Vân Duyên đang ở sau
lưng tôi.
- Thằng Điều kia rồi!
Nguyễn reo lên mừng. Anh ta gọi tôi:
- Hoài, Hoài, thằng Điều ra đón chúng mình.
Tôi quay lại, bỏ rơi ý nghĩ về Quỳnh Hương, Vân Duyên và rừng
dừa Bến Tre. Một cơn gió lạ vừa thổi vào tâm hồn tôi. Gió miền Nam đây. Chúng
tôi xuống tầu sau hết mọi người. Buổi chiều tỉnh lỵ thật đẹp và thật buồn. Một
tà áo trắng từ đằng xa cũng đủ làm nổi bật đường chiều Mỹ Tho. Và tôi tưởng chừng
hương khói không thể xoá mờ nhân ảnh ở đây. Hai năm trời xa quê hương, tôi mới
vừa thấy tỉnh lỵ. Tôi vẫn để lòng tôi ở tỉnh lỵ miền Bắc, dù tôi đã lớn lên ở
nhiều thành phố. Mỹ Tho sao mà giống cái tỉnh lỵ chôn rau cắt rốn của tôi thế.
Tôi gặp tỉnh lỵ cũ kỹ mấy năm xưa của mình. Và cảm tình của tôi đã gửi trên những
mái ngói rêu phong của những căn nhà một tầng xây không thẳng hàng. Tự nhiên,
tôi không muốn người ta chỉnh trang tỉnh lỵ. Tôi ghét những căn nhà lầu mới xây
ở tỉnh lỵ. Những căn nhà lầu, tôi nghi ngờ quá, sẽ là mầm mống của sự thay đổi
lố lăng nếp sống êm đềm của người tỉnh lỵ. Mỹ Tho chưa có những căn nhà lầu mới
xây cất. Ngay cả cây cầu bắc ngang con sông nhánh của sông Cửu Long ngăn cách
hai bên tỉnh lỵ cũng hãy còn nguyên dáng dấp cổ xưa. Xuân Diệu ngày nào đã dừng
trên cầu này, nhìn ra sông lớn tìm cảm hứng làm thơ ca ngợi tình yêu. Tôi mến Mỹ
Tho hơn vì nơi ấy, đã chứa một thi sĩ tôi hằng yêu kính. Tôi ngẩn ngơ nhìn Mỹ
Tho cơ hồ nỗi ngẩn ngơ của một cô gái vừa bước chân về nhà chồng.
Điều đưa chúng tôi đến một biệt thự đường Alexandre de
Rhodes. Gọi là biệt thự, chứ thực ra chỉ là căn nhà có vườn trồng nhiều hoa và
lối đi rải đá sỏi. Biệt thự Hương Lan. Điều trọ tại biệt thự này. Bà chủ có hai
cô con gái. Một cô đã lấy chồng và hai vợ chồng qua Pháp học rồi. Còn một cô
đang ở nội trú Gia Long Sài gòn. Ông chủ là một thẩm phán. Ông đã bỏ vợ con, bỏ
tỉnh lỵ, lên Sài gòn xây dựng một hạnh phúc ồn ào hơn. Từ năm năm nay, ông
không về Mỹ Tho nữa. Bà chủ đã quen nỗi buồn. Bà sống bình thản cùng những bông
hoa nở rợp của vườn nhà. Nỗi buồn của bà ướp vào hoa sứ - hoa ngọc lan - phảng
phất và mộng mị. Bà chủ còn trẻ. Bà yêu thơ. Điều bảo tôi rằng bà chủ thích sống
trọn vẹn nghĩa của câu "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên". Bà
đã từng ra bờ sông, ngồi dưới gốc dừa, đợi trăng mọc vào những hôm trăng mọc muộn.
Vườn hoa của bà chỉ thiếu giàn thiên lý, Mà tôi, tôi yêu hoa thiên lý vì tôi có
một kỷ niệm đằm thắm về hoa thiên lý. Tôi yêu hoa thiên lý như yêu mẹ tôi. Mẹ
tôi yêu hoa thiên lý như yêu bố tôi và anh em tôi. Tôi thoáng gặp vài nét thân
yêu trên khuôn mặt bà chủ biệt thự Hương Lan. Tôi chẳng hiểu có phải vì đồng điệu
không mà, khi cả bọn rủ nhau đi ăn về, giàn nhạc của Nguyễn tập dượt cho buổi
trình diễn ngày mai, bà chủ chẳng thèm chú ý tới tiếng đàn ngọt ngào của Nguyễn.
Bà đã ra vườn trước nhà, ngồi nói chuyện với tôi trên chiếc ghế đã có lưng dựa.
- Thầy không chơi nhạc à?
- Thưa bác, cháu không biết âm nhạc.
Tôi khen một câu xã giao đầu tiên:
- Vườn nhà nhiều hoa đẹp quá.
Bà chủ nhìn tôi:
- Vậy mà không giữ nổi một cánh bướm.
Cánh bướm mà bà chủ biệt thự Hương Lan vừa mới nói tới bằng
giọng nửa như trách móc nửa như tủi thân khiến tôi phải nhìn bà với cặp mắt của
hoạ sĩ truyền thần. Tôi xuống Mỹ Tho vào dịp trăng tròn. Và, dưới ánh trăng
sáng, tôi thấy bà chủ biệt thự Hương Lan từa tựa nhân vật nữ của Ôn Như Hầu
trong "Cung Oán Ngâm Khúc". Ánh trăng giấu giếm giùm người ta nhiều sự
thật đau đớn. Nhất là đã giấu cái vẻ già nua của đàn bà. Nên tôi chưa thể nhìn
rõ một vài nếp nhăn trên khuôn mặt bà chủ biệt thự Hương Lan. Mà chỉ thấy đôi mắt
đen sâu thẳm ở khuôn mặt đẹp não nùng. Dưới ánh trăng tỉnh lỵ, dĩ nhiên là thế.
- Thưa bác, cháu nghĩ rằng con bướm chỗ vườn hoa nhà thật là
dại dột.
Bà Hương Lan - bây giờ tôi muốn gọi vậy - suy nghĩ giây lát rồi
hỏi tôi:
- Thầy bao nhiều tuổi?
- Cháu hai mươi ba.
- Trẻ quá nhỉ? Thấy còn trẻ mà sao biết nổi sự dại dột của
con bướm?
- Có lẽ vì cháu vào đợi sớm.
- Đã dan díu với cô nào chưa?
- Thưa bác, nếu được ví như con bướm thì cháu đang bay trên
những vườn hoa.
- Đợi chừng nào mới đậu?
- Ngày cháu làm nên một việc gì đó.
- Việc gì?
- Việc khác việc của người khác.
- Vậy thầy đang làm gì?
- Cháu đang... thất nghiệp!
- Tôi cứ nghĩ thầy cũng dạy học như thầy Điều.
- Không, cháu rất ghét cái nghề nhai lại. Nghề ấy cao quý lắm
nhưng cháu chẳng dám theo đuổi.
- Cậu có vẻ... thi sĩ?
- Thi sĩ không biết làm thơ.
- Ồ, cần gì làm thơ! Có những người suốt đời làm thơ mà có ai
nhận là thi sĩ đâu.
Bà Hương Lan, quả như Điều nhận xét, là người đàn bà tâm hồn
nặng trĩu chất thơ. Tôi nghĩ trái tim bà được ướp bằng tinh tuý của thi ca. Bà
chép miệng:
- Tỉnh lỵ nào cùng có đời sống bình thản. Không ai thích làm
dậy sóng gió cả. Thầy biết không, một cây ngọc lan vườn nhà tôi, cả tỉnh đều ngửi
được hương thơm. Tôi muốn như cây bông sứ dù tôi rất ghét thứ hương thơm giả tạo.
Tôi chợt hiểu vì nguyên do nào bà Hương Lan tự đầy mình trong
lãnh cung của dục vọng từ năm năm trời nay. Cuộc đời ở tỉnh lỵ thật buồn. Đó là
cái lồng không đóng cửa nhưng không con chim nào dám bay khỏi lồng để ca hót,
bay lượn theo ý mình muốn. Nếu nó muốn bay, nó phải bay xa vùng trời của nó và
đừng bao giờ hy vọng trở về. Tôi bắt tội nghiệp bà Hương Lan. Bà giống cô Nhung
"Lạnh Lùng" của Nhất Linh. Khổ hơn cô Nhung, bà Hương Lan chỉ dám ngoại
tình bằng tâm tưởng. Bà yêu trăng, yêu hoa, yêu thơ thay vì yêu một người đàn
ông nào đó.
- Cháu thích tỉnh lỵ vì thế, thưa bác. Đời sống ấy bị giới hạn
song sự giới hạn nó khiến tỉnh lỵ đẹp hơn thành phố.
Bà Hương Lan mỉm cười:
- Thầy an ủi tôi?
Tôi xoa tay:
- Cháu ích kỷ thì có. Giả dụ cây ngọc lan ở vườn nhà không
còn mùi thơm của ngọc lan, làm sao cháu được ngồi đây, dưới ánh trăng này, nói
chuyện cùng bác.
Bà Hương Lan cười thành tiếng. Tôi chưa biết diễn tả tiếng cười
của bà ra sao. Bà dứng dậy, dời chiếc ghế đối diện tôi và sang ngồi gần tôi.
- Thầy không hút thuốc lá à?
- Dạ không ạ!
- Uổng hết sức. Với khung cảnh này, người ta cần hút thuốc.
Tôi khuyên thầy nên tập hút thuốc lá đi. Khói thuốc hay bất cứ một thứ khói gì
cùng đều gợi cảm.
- Thầy thuộc thơ Hồ Dếnh không?
- Cháu chỉ đọc "Chân trời cũ" của Hồ Dếnh thôi.
- À, tôi thích tâm hồn thơ Tầu lai Việt của Hồ Dzếnh lắm. Đọc
bài "Cô gái Việt Nam" của ông ta, cảm xúc lạ lùng.
Chinh Hồ Dzếnh đã "Nhớ nhà châm điếu thuốc, Khói huyền
bay lên mây" đó, thầy ạ!
- Bác đọc nhiều quá. Mà cháu hơi ngạc nhiên thấy bác nói tiếng
Bắc thật hay.
- Thầy Điều dạy tôi đấy. Học hai năm rồi. Thuở còn là học
trò, tôi mê đọc văn chương Tự Lực Văn Đoàn và Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Tôi là người
Nam, tâm hồn ướp bằng văn chương Bắc.
Bà Hương Lan lại trở về chuyện hút thuốc lá:
- Thầy hút thuốc lá, sẽ thấy mình già thêm một chút. Và già
thêm một chút, tự nhiên, thầy sẽ đi xa ý nghĩ của mình một chút.
Tôi nói:
- Để làm gì, thưa bác? Cháu trẻ mãi?
Bà mỉm cười. Nụ cười thật đẹp. Vì tôi đã nhìn rõ nụ cười ấy.
- Bộ thầy tưởng một mình thầy ích kỷ thôi ư? Tôi cũng biết
ích kỷ.
Từ trong nhà, tiếng đàn Hạ-uy-di của Nguyễn vọng ra. Anh ta
đang rượt bài "Ngày về" của Hoàng Giác. Tôi đã nghe Williams Chấn đàn
bàn này. Ông Chấn là người Trung Hoa, quê ở Thượng Hải. Ông chạy giặc từ Tầu
qua Việt Nam và lập nghiệp luôn tại Việt Nam. Nhưng tay danh cầm Hạ- uy-di người
Hà Nội, phần đông, là học trò của ông. Ông mến nhất Đoàn Chuẩn. đã nghe ông
Williams Chấn chơi đàn Hạ-uy-di, không thiết nghe tiếng đàn Hạ-uy-di nào khác.
Ông diễn tả những bản nhạc Việt thật bất hủ. Bài "Đàn chim Việt" của
Văn Cao, có câu "...Tới đây chim thấy lòng ngập ngừng nhớ ai trên mấy đồi
Yên Thế...", ông lướt "bloc" trên sợi dây trầm hai nốt "ngập
ngừng" khiến người nghe tưởng chừng cánh chim đang vỗ mạnh yếu đi
và... ngập ngừng không muốn bay nữa. Nhưng ông Chấn bất hủ nhất câu "Nhớ
phút chia ly ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao nhiêu ngày xanh...
trong bản "Ngày về". Tiếng đàn của ông nức nở, xao xuyến, bồi hồi...
không một nhạc sĩ Việt Nam nào lột hết được ý của tác giả những "Ngày về,
Đàn chim Việt, Suối mơ, Trở về bến mơ..." bằng bất cứ thứ đàn gì,
ngoài tiếng đàn Hạ-uy-di của ông Chấn.
Người thầy nhạc này, một cây lục huyền cầm Hạ-uy-di diễn, có
thể, chơi được vĩ cầm mà tôi nghĩ dù người chơi vĩ cầm cả chục nam vẫn thua cái
nút đàn điện của ông. Ông Williams Chấn chơi lục huyền cầm Ý-pha-nho cũng tuyệt
vời. Ông đúng là thiên tài âm nhạc. Chỉ tiếc ông "giấu nghề" nên học
ông có nghĩa là tốn công vô ích. Ông không truyền những ngón điêu luyện cho ai
cả, dù phục dịch ông như một đệ tử trung thành nhất. Tôi đã từng đi mua cà phê
cho ông Chấn, coi lớp đàn giùm ông ta lúc ông vắng mặt, đến nhà ông ta khuân đồ
đạc, dọn dẹp để cố học một bài "Ngày về". Ông hứa dạy tôi. Một năm liền
hầu hạ ông, tôi chẳng được ông truyền tí nghề nào. Tôi bèn bỏ mộng chơi đàn và
ước ao, ngày nào đó, đầy uy quyền, tôi sẽ chặt hai ngón tay của ông Chấn để cảnh
cáo sự giấu nghề nhỏ mọn của người Trung Hoa. Nói vậy, song tôi vẫn mê tiếng
đàn Hạ-uy-di của Williams Henri Chấn. Mê đến nỗi, Nguyễn chơi đàn Hạ-uy-di, tôi
cảm như anh ta vừa bắt đầu tập đàn, mặc dầu, anh ta đã khổ công tập luyện tự mười
năm nay.
Nhưng, chẳng hiểu vì sao, tối nay và ở khung cảnh êm đềm này,
tiếng đàn Hạ-uy-di của Nguyễn đã làm tôi bồi hồi, xao xuyến. "... Ta
sống không một lời trìu mến. Như bóng con đò chiều lạc bến". Tôi chợt
hỏi một câu, vu vơ:
- Bác không thích âm nhạc?
Câu hỏi của tôi không có ý lảng những ý nghĩ nào đó của bà
Hương Lan. Chừng bà cũng hiểu thế. Bà nói:
- Đôi khi tôi thích âm nhạc, đôi khi tôi ghét. Âm nhạc không
diễn tả nổi chiều sâu thẳm của tâm hồn. Tôi đã nghe Mozart, Beethoven, Chopin,
Bach, Wagner... Xúc động thì có đấy, song tôi thấy âm nhạc chỉ nói được tâm sự
quanh ta chứ không nói hết được tâm sự trong ta. Thơ cũng vậy. Chỉ có văn. Cái
gì còn bị ràng buộc vào luật lệ, khó mà diễn tả thật.
Bà Hương Lan là người đàn bà, tôi nghĩ, tỉnh lỵ không ai hiểu
nổi bà ta. Tôi đâm ra sợ sệt trước người đàn bà trí thức và trĩu nặng chất nghệ
sĩ này.
- Còn thầy?
- Dạ.
- Thầy thích âm nhạc hay văn chương?
- Cháu chưa đủ kiến thức để biết yêu thích cả hai thứ đó.
- Gần đây, thầy đọc tác giả nào?
- Mai Thảo.
- À, "Đêm giã từ Hà Nội", tôi vừa đọc. Cây bút này
tài hoa lắm. Thầy tin tôi đi, ông Mai Thảo đang để những dấu chân dò dẫm vào
văn học của ông trên đường. Và, ít nhất, cùng có hai ba kẻ giẫm lên bước chân của
ông.
- Bác thử đoán tương lai họ xem sao.
- Ai?
- Những kẻ bước theo vết chân ông Mai Thảo.
- Chỉ là...
Bà Hương Lan gõ ngón tay vào trán tìm chữ:
- Tôi sẽ nói quá đáng đấy.
Tôi cười:
- Cháu thích nghe sự quá đáng của bác.
Bà Hương Lan nhún vai:
- Chỉ là "xia ra" đánh bóng giày cho ông Mai Thảo!
Tôi mến kiểu cách văn chương của Mai Thảo. Gọt giũa công phu đấy chứ. Tôi sợ
người ta kiểu cách hơn Mai Thảo thì tôi nghiệp cả người ta lẫn Mai Thảo.
Tôi không dám đi sâu vào lãnh vực văn chương. Tôi đọc rất ít.
Và đọc để giải trí. Để thay thuốc ngủ. Nói chuyện văn chương với bà Hương Lan
là thòi cái đuôi dốt nát của mình. Bà Hương Lan đọc văn, phê bình văn và còn
tìm hiểu tác giả nữa. Bản "Ngày về" của Hoàng Giác, Nguyễn chơi đi
chơi lại. Và càng tăng thêm nỗi bồi hồi của tôi, dưới ánh trăng, trên ghế xi
măng, cạnh bà Hương Lan.
- Bác thích bản "Ngày về" không?
- Thầy có vẻ thích?
- Vâng, vì cháu đang muốn về, đang mong ngày về. Xa nhà thế
mà đã hơn hai năm. À, thưa bác, bản "Ngày về" nghe nói của một người
lính lê dương.
- Ủa!
- Thưa bác, người ta bảo người lính lê dương này là một anh Đức
trí thức. Anh ta, vì một cuộc tình, giết người rồi trốn sang Pháp đăng lính lê
dương và nhập vào đoàn quân viễn chinh sang Việt Nam đánh mướn. Anh ta nhớ quê
hương quá, làm bản "Ngày về". Nhạc sĩ Hoàng Giác, dạo đó, là lính tác
động tinh thần. Trong một buổi ca hát giải trí, Hoàng Giác đã gặp anh lính lê
dương nọ. Và anh ta tặng Hoàng Giác bản nhạc duy nhất của anh ta. Hai người tâm
sự với nhau thật nhiều. Rồi anh lính lê dương chết trận.
Hoàng Giác thương tri kỷ, đặt lời thành "Ngày về" rồi
cho sự mơ ước hồi hương của anh lính lê dương lan toả trong không gian.
Bà Hương Lan khen tôi:
- Thầy nhớ cả lai lịch của một bài ca. Nhưng mà có chắc đúng
không? Tôi sợ người ta hay thêu dệt huyền sử quanh một bài thơ, một cuốn sách.
Thấy biết vụ T.T.Kh. chứ? Thật là nhức đầu.
Bỗng bà trầm giọng:
- Thầy mong "Ngày về" quê hương miền Bắc lắm, hả?
Tôi đáp:
- Dạ, cháu mong mỏi ngày đêm. Những buổi chiều mưa thất nghiệp,
trú chân ở mái hiên nhà thiên hạ, thoáng gặp bếp lửa, cháu thấy trái tim se lại.
Và muốn khóc. Cháu nhớ nhà.
Bà Hương Lan ngước mắt nhìn đám mây vừa phủ vầng trăng:
- Mỗi người đều có lần mơ ước một lần trở về. Người bất hạnh
nhất là người không bị sông núi cách trở, mà vẫn chẳng dám trở về.
Bà Hương Lan muốn hé cánh cửa tim cho tôi biết tâm sự của bà.
Song cánh cửa vừa hé đã khép chặt. Và tôi chỉ thấy tâm sự của bà u ẩn cơ hồ đôi
mắt đen của bà. Mùi hoa lan đã quyến rũ tôi. Hai năm nay tôi mới được những
phút giây thoải mái ngồi trong vườn hoa nghe một người đàn bà nói chuyện vui buồn.
- Thầy thuộc thơ Nguyễn Bính không?
- Thưa bác, không ạ!
- Nguyễn Bính đã từng lưu lạc phương Nam như thầy. Ông ta
cũng nhớ nhà giống thầy. Ông ấy viết nỗi nhớ ấy thành thơ: "Chiều chiều
ra đứng trông về Bắc, Chỉ thấy mây thôi, chả thấy gì". Tôi muốn nơi
tôi mong trở về xa vời vợi, nhìn về chỉ thấy mây. Có lẽ, như thế nó đẹp, thầy
nhỉ? Người ta mơ ước điều chi, khi thực hiện được, điều mơ ước không đúng với
niềm ước mơ của mình, chắc sẽ buồn hơn.
Tôi vừa nghe rõ từng giọt sầu đang đổ xuống tâm hồn bà Hương
Lan. Giọng nói của bà mỗi lúc một cay đắng. Đám mây đã trôi qua vầng trăng. Bà
Hương Lan quay mặt sang phía tôi:
- À, tôi vô ý quá, tên thầy kêu chi nhỉ?
- Hoài, thưa bác tên cháu là Hoài.
- Gì Hoài?
- Vũ Thương Hoài.
- Cái tên đẹp thật. Hèn chi thầy cứ thích thương nhớ hoài
hoài. Thương hoài ngàn năm chăng? Này thầy Hoài...
- Dạ.
- Thầy nói muốn làm việc gì khác với người khác, vậy thầy
tính sẽ làm gì?
Tôi đưa bàn tay lên xoa cằm lởm chởm râu ngắn:
- Ngày học lớp nhất, thấy giáo ra đề luận "Sau này lớn
khôn, con chọn nghề gì", cháu đã chọn nghề dạy học. Bây giờ lớn khôn, cháu
lại ghét nghề dạy học. Và chưa biết định cư đời mình ở cái nghề nào. Theo ý
bác, cháu nên chọn gì?
Bà Hương Lan lắc đầu:
- Ý tôi đâu phải ý thầy.
Tôi nói:
- Thưa bác, bác cứ thử chọn xem sao.
Bà Hương Lan lại ngước mắt nhìn trăng:
- Nếu tôi là thầy, tôi sẽ với trái cây nào gần tầm tay mình
nhất. Với trái cây đời cao quá, múa vu vơ chỉ tổ mỏi tay. Mà giả dụ với được,
nhỡ trái cây nó xấu xí, nó bị chim mổ rữa rồi, mình sẽ thất vọng.
Tiếng đàn của Nguyễn đã lắng lại, nhường cho tiếng lục huyền
cầm Y-pha-nho đệm lời ca của Quỳnh Hương. Nàng rượt bản "Nghìn phương còn
lạnh", thơ của một thi sĩ chưa nổi danh và Nguyễn đã phổ nhạc. Giọng Quỳnh
Hương, ở khung cảnh này, bỗng não nề, day dứt. Bà Hương Lan lắng nghe:
"Yêu nhau không nói năng.
Vì cửa đời còn khép, đường đi còn dài.
Tóc em buông xuống bờ vai.
Rồi tung tâm sự trâm cài lệch ngôi
Thơ anh nghiêng ngả thế thời
Tương tư non nước ngậm ngùi nước non
Mưa chiều nhỏ giọt hoàng hôn
Mắt em sao đẫm lệ buồn vương mi
Yêu nhau không nói năng.
Vì nghìn phương còn lạnh xuân thì còn xanh"
Tôi biết Bà Hương Lan đang để lòng mình rung động. Chợt bà hỏi
tôi:
- Thầy nghĩ sao?
Tôi mỉm cười:
- Về bài thơ phổ nhạc, thưa bác?
- Không, về lời khuyên chọn nghề ấy mà.
- Thưa bác, bác đã khuyên cháu nên hút thuốc lá. Bác bảo hút
thuốc lá sẽ thấy mình già thêm một chút. Và già thêm một chút, tự nhiên mình sẽ
đi xa ý nghĩ của mình một chút.
Bà Hương Lan xoa tay:
- Thầy nhớ dai quá.
Tôi kéo cổ áo trùm kín gáy vì lành lạnh:
- Cháu muốn đi xa hơn một chút, muốn trái cây đời xa tầm tay
với của mình một chút.
- Thầy không sợ đau khổ ư?
- Cháu đã là đàn ông rồi, thưa bác. Và cháu nghĩ rằng điều bất
hạnh cho người đàn ông là hắn không biết đau khổ.
- Nhiều người tìm lạc thú trong dự đau khổ. Hàn Mạc Tử chẳng
hạn. Thi sĩ này ca tụng cái "thú đau thương". Tôi sợ thầy không
hưởng nỗi "thú đau thương" đâu.
- Bác khinh thường cháu?
- Không đâu. Tôi quý mến thầy. Sự đau khổ làm lớn con người
nhưng cũng dễ làm cằn cỗi con người, Đau khổ quá đỗi mà không giải toả được,
người ta dễ biến thành tàn ác. Rất ít người quá đau khổ trở thành hiền nhân.
Cho nên, đời thường dành sự đau khổ cho nhà thơ, nhà văn. Những con tằm này
càng ăn nhiều dâu đau khổ càng nhả ra tơ vàng óng ánh.
Tôi đứng dậy, bước tới cây ngọc lan, dựa lưng vào thân cây.
Bà Hương Lan cũng ngã lưng vô thành ghế đá. Tự nhiên, tôi thèm một điếu thuốc
lá. Điếu thuốc lá để già dặn thêm và dễ soi rõ tâm sự của bà Hương Lan bằng đốm
lửa đỏ.
- Cháu sẽ cho bác xem nỗi đau khổ thứ nhất của cháu.
- Làm sao mà tôi biết?
- Thưa bác, cháu sẽ viết nó.
Bà Hương Lan vụt ngồi thẳng, khẽ reo:
- Thầy viết văn?
Tôi nói:
- Cháu chọn nghề viết văn. Bác ngạc nhiên không?
Bà Hương Lan duỗi chân thoải mái:
- Không, tôi không ngạc nhiên chút nào. Tôi đã đoán trước...
Tôi hỏi:
- Bác đoán trước cháu sẽ chọn nghề văn?
Bà đáp:
- Gần gần như thế. Thầy có cái phong cách của một nhà văn.
Tôi đùa:
- Nhà văn cỏ, thưa bác?
Bà Hương Lan cười theo:
- Nếu thầy muốn làm "xia-ra" Mà thầy khởi đầu bằng
nỗi đau khổ nào?
Tôi vươn tay bám một cành cây thấp nhất.
- Bác đã đọc "Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng
chưa?
Bà Hương Lan gật đầu:
- Rồi.
Tôi buông tay khỏi cành cây, khoanh tay trước ngực:
- Cháu sẽ khởi đầu từ nỗi đau khổ ấy.
- Thầy mê Nguyên Hồng?
- Dạ, mê lắm.
- Và ai nữa?
- Nam Cao, Tô Hoài.
Bà Hương Lan chép miệng:
- Thầy còn quá trẻ.
Tôi hơi bất bình câu nói ấy. Nhưng bà Hương Lan đã tiếp:
- Quá trẻ, vì quá khứ tuổi thơ của thầy còn gần gũi thầy và
tương lai thì lại thật xa. Tới một tuổi nào đó, sau khi đã chín mùi thất vọng,
người ta hồi tưởng thời thơ ấu, tôi nghĩ rằng thời thơ ấu nó sẽ rực rỡ và tha
thiết vô cùng. Thầy đồng ý rằng những nhà văn đứng tuổi viết về tuổi thơ mới đằm
thắm, nồng nàn. Những nhà văn trẻ, viết về tuổi thơ, có thễ cũng hay đấy, nhưng
chắc chắn thiếu thiết tha, thương nhớ.
Tôi gật gù:
- Bác biết quá nhiều!
Bà Hương Lan nói:
- Mỹ Tho không ồn ào, thầy lại thích sự trầm lặng của Mỹ Tho.
Hay là...
- Hay là sao, thưa bác?
- Hay là thầy ở Mỹ Tho ít lâu.
- Cháu sẽ làm gì ở đây?
- Thầy dạy học.
- Thưa bác, cháu rất ghét dạy học như cháu đã thưa với bác.
Bà Hương Lan không nói thêm một lời nào nữa. Tiếng đàn, tiếng
hát của bọn Nguyễn đã im bặt. Đêm đã khuya rồi chăng.
Tôi nghe như sương ướt tóc mình. Và sương ướt cả vai bà Hương
Lan. Một cảm giác lạ lùng vừa thấm trái tim tôi. Tôi mơ hồ như đi trong sa mạc
cát bỏng từ hai năm nay. Và chợt thấy một khóm dừa mát rượi. Khóm dừa ấy, chỉ
khoảnh khắc làm tôi quên Quỳnh Hương.
- Thưa bác, khuya rồi, cháu xin phép bác vào nghỉ.
Bà Hương Lan thản nhiên:
- Thầy vô nghỉ đi. Tôi đợi một bông hoa sắp nở.
Tôi bước vào nhà. Tiếng đá sỏi lao xao. Bà Hương Lan ngồi yên
trên ghế đá. Tôi không dám quay lại nhìn bà.
2
Nguyễn và dàn nhạc Hạ-uy-di của anh ta trở về Sài gòn. Tôi nằm
lại Mỹ Tho... ăn xoài. Bà Hương Lan bảo, bây giờ đang mùa xoài. Bà khuyên tôi
nên để chất ngọt của Mỹ Tho thấm vào máu mình nếu tôi đã thật lòng yêu Mỹ Tho.
Và tôi ở lại. Không phải vì xoài mà vì tiếng lao xao của bước chân mình trên lối
đi trải đá sỏi trong vườn biệt thự Hương Lan. Tôi quên mất con chim Quỳnh
Hương. Con chim ấy mấy tháng trời thất nghiệp tôi đã mất công đan một cái lồng
bẫy, kết thật nhỉều hoa, dụ dỗ nó. Nó sắp sửa bị sụp bẫy thì tôi buông trôi
công lao của mình. Tôi gửi hồn tôi trong tiếng lạo xạo của đá sỏi.
Một tuần lễ ở Mỹ Tho, tôi bị quyến rũ vào cuộc sống đầy thơ,
đầy mộng của người đàn bà sầu muộn. Tôi đã ra công viên bờ sông với bà Hương
Lan từ chiều đến đêm khuya. Hoặc thuê một chiếc xuồng, cùng bà Hương Lan lênh
đênh trên dòng Cửu Long, bơi vào sát những cù lao có cá sấu. Dòng sông thật hiền
hoà ở mùa trăng đầu hạ. Tiếng chèo khua nước nghe vui tai. Tôi chợt nhớ hai câu
ca dao lãng mạn tuyệt vời của miền Đồng Tháp Mười: "Trăng nằm dưới nước
trong veo, Cầm chèo ta đập mấy chèo trăng tan". Trăng đang nằm trên mặt
sông. Đẹp lạ lùng. Lý Bạch có nhảy xuống sông vồ trăng thì cũng chỉ ham vồ mảnh
trăng đẹp như thế này thôi... Tôi đã năn nỉ bà Hương Lan dừng mái chèo.
Bà hỏi tôi:
- Thầy muốn làm thơ?
Tôi đáp:
- Không, thưa bác cháu muốn cầm chèo đập cho vỡ trăng.
Bà Hương Lan cười giòn giã. Tiếng cười vang vang trên mặt
sông. Thuở nhỏ, tôi hay đứng ở bờ ao đình làng, cùng bọn trẻ con ném những mảnh
ngói mảnh sành, gọi là ném thia lia. Những mảnh sành lướt trên mặt nước, đi xa
rồi mới chìm nghỉm, Tiếng cười của bà Hương Lan giống những mảnh sành lướt trên
mặt ao làng.
- Thầy không dám nhảy xuống sông bắt trăng?
- Cháu đâu phải là thi sĩ, lại chưa say rượu.
- Thầy muốn say không?
Chiếc xuồng nhỏ chỉ chở bà Hương Lan và tôi. Và bà Hương Lan
đã bỏ chiếc bơi chèo vào giữa lòng xuồng. Tôi ngồi ở đầu xuồng, bà ngồi cuối.
Chiếc xuồng không chịu đậu im. Nó xoay tròn và trôi từ từ theo chiều gió thổi.
- Ngày xưa Lưu Thần và Nguyễn Triệu đã bơi thuyền vào một đêm
trăng để nhập thiên thai. Ước gì chiếc xuồng này là chiếc thuyền của Lưu Nguyễn.
Thầy thích nhập thiên thai không?
Tôi đã đọc một truyện ngắn của Vũ Khắc Khoan. Và tôi nói:
- Nơi ấy không có tình yêu. Lưu Nguyễn đã thất vọng.
Bà Hương Lan lặng im một lúc thật lâu, bà hỏi tôi:
- Nơi nào mới có tình yêu?
Tôi khẽ nghiêng mình, lấy tay vốc một vốc nước. Chiếc xuồng
tròng trành.
- Thưa bác, nơi nào đó, cháu chưa biết vì cháu chưa yêu ai.
Nhưng cháu nghĩ nơi có tình yêu phải là cuộc đời.
- Tại sao thầy biết tình yêu chỉ có ở cuộc đời?
- Vì Lưu Thần và Nguyễn Triệu đã trở về trần thế. Hai ông ấy
không tìm được tình yêu với những nàng tiên. Tiên nó chỉ biết múa hát và chẳng
bao giờ biết tỏ tình. Đến như cỏ cây mà cũng không biết đổi thay cùng thời tiết
thì chốn thiên thai, cháu tưởng chán quá đỗi. Nơi ấy ta nên dành cho mấy ông già
chê bỏ tục lụy bay lên đánh cờ, uống rượu với "mùa đào ròng ngày tháng
chưa tàn qua một lần".
Bà Hương Lan mỉm cười:
- Như vậy, mình không thèm nhập thiên thai của Lưu Nguyễn.
Tôi nói:
- Lưu Nguyễn làm gì có "thiên thai" thưa bác.
Bà Hương Lan chữa câu nói lại:
-... Thiên thai mà Lưu Nguyễn đã một lần đặt chân tới. Và đã
thất vọng. Nhưng tại sao mỗi người không nhập thiên thai của riêng mình? Con ốc
biển còn tự hào chứa cả đại dương trong lòng, tôi nghĩ, con người nên bắt chước
con ốc, tự tìm cho mình một chốn thiên thai khác với thiên thai mà mọi người hằng
mơ tưởng, thiên thai mà người sống chúc người chết sớm lên tới đó. Cái thứ
thiên thai của người chết, thầy không ham cũng phải.
Tôi nhìn bà Hương Lan, suy nghĩ giây lát, rồi hỏi:
- Tới một tuổi nào thì người ta chôn luôn cả thiên thai của
riêng mình, bác nhỉ?
Bà Hương Lan không trả lời câu hỏi của tôi. Bà khẽ hất đầu:
- Thầy nhìn trăng trên mặt sông đi!
Tôi làm theo lại bà Hương Lan.
- Tại một tuổi nào trăng không sáng? Có lẽ là tuổi... tận thế.
Tản Đà đã một lần thắc mắc: "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu
tuổi gọi là núi non!"
Bà Hương Lan đặt một bàn tay vào ngực mình:
- Tôi cho rằng tôi khi nào trái tim mình hết đập, mình mới
chán mơ ước chốn thiên thai của riêng mình.
Bà khẽ thở dài, giọng nói buồn bã:
- Không có tuổi cho thiên thai, thầy cứ nhập thiên thai đi, đừng
thèm biết thiên thai bao nhiêu tuổi.
Bà Hương Lan bơi xuồng trở về bến. Bảy ngày ở lại Mỹ Tho thì
ba đêm ngồi trên ghế công viên hay dưới gốc dừa bên bờ sông Cửu Long ngắm trời
mây cùng bà Hương Lan, ba đêm bơi thuyền lênh đênh trên mặt nước không gợn
sóng, nói chuyện một thiên thai nào đó. Bà Hương Lan như muốn gợi ý văn cho
tôi. Xoài Mỹ Tho ngọt vô cùng. Ngọt và thơm. Trong máu tôi đã đượm chất thơm ngọt
ấy. Nhưng tôi vẫn phải rời Mỹ Tho. Mùa trăng hết rồi. Tôi thèm sống bình yên ở
tỉnh lỵ song bây giờ chưa thể bình yên được. Với tôi, tỉnh lỵ là chiếc võng bắc
ngang trên hai cành cây trong vườn - vườn nhà bà Hương Lan, chẳng hạn - tôi sẽ
nằm trên chiếc võng đong đưa, hồi tưởng dĩ vãng sầu đau hay rực rỡ của đời
mình. Hiện tại, tôi chưa có dĩ vãng tính từ ngày mình bước xuống cuộc đời. Tôi
cần có dĩ vãng. Có dĩ vãng mới mở mắt mà hồi tưởng được khi nằm trên võng. Bằng
không, tôi sẽ nằm trên võng như một ông già bệnh hoạn, chờ chết.
Buổi sáng hôm tôi giã từ Mỹ Tho, bà Hương Lan dậy thật sớm.
Bà pha sẵn cho tôi và Điều hai ly cà phê. Dưới ánh điện tỉnh lỵ, bà Hương Lan
ngồi nhìn từng giọt cà phê rớt xuống. Tôi xoay mình, ngắm bà qua tấm màn lan
tiêu. Tự nhiên, tôi muốn giả vờ chưa thức giấc để xem bà Hương Lan sửa soạn cuộc
chia ly. Tôi biết bà Hương Lan quý mến tôi. Bà không có người tâm sự. Bà cần
tôi để tâm sự. Phải chi bà có đứa con trai bằng tuổi tôi? Tôi lại thấy tội nghiệp
bà Hương Lan. Và tôi vụt ngồi dậy, tung màn, chui ra. Bà Hương Lan tưởng tôi sợ
trễ chuyến tàu sớm. Bà nói:
- Còn sớm lắm, thầy Hoài.
Tôi ngượng ngùng, nỗi ngượng ngùng mà đáng lẽ mình chẳng nên
ngượng ngùng:
- Thưa bác, cháu có cái tật hễ sắp đến nơi nào là nôn nao.
- Muốn rời bỏ ngay?
- Vâng.
- Sao vậy?
- Vì không nôn nao rời bỏ ngay, mình sẽ hết muốn rời bỏ.
Bà Hương Lan giục tôi:
- Thầy đi rửa mặt, đánh răng và sửa soạn hành lý rồi dùng điểm
tâm.
Tôi răm rắp nghe lời Bà Hương Lan như một đứa con trai nghe lời
mẹ. Tôi chợt có cảm tưởng mình sắp đi trọ học xa và mẹ tôi thì đang lo chuyến
xa nhà đầu tiên của tôi. Điều vẫn ngủ vùi. Chắc ly cà phê thứ hai không phải của
Điều. Và, chắc hơn, bà Hương Lan chưa hề nói chuyện với Điều về một cõi thiên
thai của riêng mình như bà đã nói với tôi. Một lát sau, tôi đã ngồi đối diện bà
Hương Lan. Bà đưa cho tôi một gói thuốc lá Capstan.
- Thầy nên tập hút thuốc lá.
- Vâng cháu sẽ tập.
- Và nhớ hút Capstan. Tôi yêu sự trình bày gói thuốc này. Người
đàn ông hút thuốc lá trông đẹp lắm. Dù chưa từng trải cùng thấy mình từng trải.
- Cháu sẽ chỉ hút thuốc Capstan. Và hút khi nào cháu nhớ Mỹ
Tho, nhớ vườn hoa của bác.
Tôi bóc gói thuốc. Vụng về quá đỗi. Lần đầu tiên tôi bóc một
gói thuốc lá. Bà Hương Lan cười tủm tỉm. Bà bật diêm cho tôi châm điếu thuốc thứ
nhất trong đời. Khói thuốc thật đắng trong miệng nhưng thơm vô cùng trong mũi
tôi. Thuốc lá Capstan. Lạ ghê? Tại sao bà Hương Lan thích thuốc lá Capstan? Tôi
nâng ly cà phê. Uống một ngụm. Bà Hương Lan nói:
- Chưa có đường.
Tôi đặt ly cả phê xuống bàn:
- Thưa bác, cháu thích uống cà phê đắng.
Bà khen tôi:
- Thầy mới khám phá ra một điều mới lạ, hả?
Tôi hít một hơi thuốc, cố gắng để khỏi bị sặc sụa:
- Thưa bác, cháu học được ở bác.
Bà Hương Lan cười gượng:
- À, thầy đổ lỗi cho tôi, phải không?
Tôi lại nâng ly cà phê lên, uống cạn một hơi:
- Cháu ơn bác chứ. Bác đã dạy cháu nhiều thứ. Cháu biết hút
thuốc lá để nghĩ xa hơn điều mình muốn nghĩ. Và có lẽ cháu sẽ dám uống chất đắng
cay của cuộc đời, đắng hơn cà phê đen không đường.
Bà Hương Lan nhìn tôi đăm đăm. Giây lát, bà nói:
- Mặt nước ao tù đang lặng im. Bỗng có kẻ ném viên đá xuống.
Mặt nước gợn chút sóng, cau mày rồi lặng im. Như vậy, ao tù buồn thêm.
Tôi cảm động:
- Có ngày cháu sẽ xuống thăm bác.
Bà Hương Lan chớp mắt:
- Trong những ngày chờ đợi tôi sẽ cô độc lắm. Thầy Điều không
thích nói chuyện trăng hoa. Thầy ấy chỉ thích uống rượu và ngủ vùi.
Tôi thương bà Hương Lan vô cùng. Nhưng tôi không thể sống ở Mỹ
Tho. Tôi phải rời cái nơi êm ái này. Tuổi tôi cần uống nhiều cay đắng. Mà ở đây
chỉ có chất ngọt của trái cây và tình người. Bà Hương Lan đã tiễn chân tôi ra tận
nhà ga. Chưa bao giờ tôi thấy bản "Biệt ly" của Dzoãn Mẫn bi ai
như bây giờ.
Giữa lúc tranh tối tranh sáng, tôi không nhìn rõ đôi mắt bà
Hương Lan. Nhưng đôi mắt tôi đã ứa lệ. Con tầu nặng nề chuyển bánh. Bà Hương
Lan không vẫy tay. Bà quay lưng đi vào bóng tối mờ ảo của buổi sớm tinh mơ tỉnh
lỵ. Tôi ngồi ở góc vắng của xe lửa, nghĩ tới bài thơ của Hoàng Công Khanh diễn
tả tâm sự tráng sĩ Lê Liêm trong "Bến Nước Ngũ Bồ":
"Thuở ấy lên đường có một thân
Đường sang Hời đôi ngả phân vân
Nàng mê Đát Kỷ xô hang Trụ
Ta mộng Kinh Kha diệt bạo Tần
Nửa nụ cười xuân muôn tráng sĩ
Ba nghìn tân khách một giai nhân
Thiếu bao đưa đón lòng không thiếu
Chỉ thiếu một người đi tiễn chân".
Đời tôi thiếu thốn rất nhiều nhưng đã không thiếu một người
tiễn chân. Bà Hương Lan đã tiễn chân tôi. Con tầu già nua đưa tôi về Sàigòn,
tôi xách hành lý tới bến xe đò cao nguyên. Tôi đi Ban Mê Thuột ngay. Anh em
trên đó đã hẹn tôi lâu rồi. Tôi cứ mải mê những chuyện đâu đâu, hôm nay mới dứt
khoát bỏ Sàigòn mà đi lập nghiệp. Tôi ở Ban Mê Thuột ngày nghe vượn hót nhớ con
trong rừng sâu, đêm nghe hổ gầm, thác đổ thấy nhớ khu vườn của bà Hương Lan ghê
gớm. Nhớ nhưng không muốn xuôi miền Hậu Giang. Tôi thèm khát có nhiều, thật nhiều
kỷ niệm để, ngày nào đó, trong vườn hoa của bà Hương Lan, tôi kể cho bà nghe.
Tôi chắc bà Hương Lan sẽ ngậm ngùi nếu như tôi đã múa vu vơ rời rã đôi tay, để
có những kỷ niệm. Tôi bỗng trách mình là đã nói dối bà Hương Lan. Có bao giờ
tôi nghĩ rằng mình sẽ trở thành nhà văn đâu. Sự đau khổ mà tôi muốn dấn thân
vào không phải là con đường văn nghệ. Con đường ấy ai cùng có quyền, có thể bước
vô. Song bước vô để làm thợ gặt hay để làm những kẻ đi mót những bông lúa lép,
lúa thừa lại là chuyện khác. Tôi không thích làm kẻ đi mót lúa, kẻ đi hôi cá.
Như nhà văn Hoàng Hải Thủy đã nghĩ, tôi nghĩ là tôi phải làm việc gì đó, việc
gì cũng được, ngoài tôi ra, những người khác không làm được.
Với ý nghĩ ngông cuồng đó, trong hoàn cành thê lương này, giữa
một hoàng hôn của tranh đấu, anh em tôi đã mơ thành người Lam Sơn, phá rãy làm
nương để chống lại, một lúc, hai ba lực lượng đang chế ngự dân tộc và thế giới.
Bằng tuổi tôi, ai cũng thích làm một việc khác những người khác. Những lại
chóng chán. Chỉ một cái cớ vẩn vơ nào đó, người ta có thể chối bỏ công việc
mình cho là lý tưởng. Cái cớ của tôi là người đàn bà sầu muộn ở tỉnh lỵ Mỹ Tho.
Tôi đã thèm hương vị của thuốc lá Capstan. Nhìn khói thuốc, tôi nhớ Mỹ Tho, nhớ
vườn hoa nhà bà Hương Lan, nhớ tiếng lạo xạo của đá sỏi và nhớ bà Hương Lan vô
cùng. Ở rừng có nhiều trăng hơn. Tôi nằm trong vườn cam, nhìn ánh trăng xuyên
qua lá cành không cảm thấy gì ngoài nỗi thương hoài. Bà Hương Lan đã suy từ tên
tôi ra nỗi thương hoài ngàn năm. Tôi sinh ra đời, có lẽ, để hành động theo tình
cảm hơn là theo lý trí. Và, một đêm tình cảm bật đèn xanh trong trái tim, tôi
đã trỗi dậy xếp hành lý, sáng sớm hôm sau xuôi đồng bằng miền Nam. Giã từ chí lớn
trong thiên hạ. "Chí lớn trong thiên hạ không vừa đôi mắt mỹ
nhân" Tráng sĩ Phạm Thái đã bỏ công cuộc phục hưng Lê triều về câu cá
uống rượu và thương hoài ngàn năm Trương Quỳnh Như. Bà Hương Lan không phải là
mỹ nhân như mỹ nhân của Tiêu Sơn tráng sĩ. Nhưng bà đã làm cho tôi biết mộng mơ
một cõi thiên thai của riêng mình.
Tôi về Sài gòn ngày thứ sáu thì chiều thứ bảy ra ga xe lửa
mua vé Sàigòn - Mỹ Tho. Tôi đi chuyến tàu chót. Tự nhiên tôi thích giống Hàn Mạc
Tử, phiêu bạt giang hồ chán chê rồi trở về gõ của nhà vào đêm trừ tịch, khiến
thân mẫu vừa ngạc nhiên vừa mừng chảy nước mắt. Bà Hương Lan sẽ ngạc nhiên lắm.
Ít ra, bà cũng ngạc nhiên vì tôi xuống thăm vườn hoa nhà bà vào lúc chín giờ tối.
Tầu sẽ dừng ở ga Mỹ Tho trước chín giờ. Tôi ngồi trên toa xe, mong thời gian
kéo dài ra. Ước gì nửa đêm tầu mới đến Mỹ Tho. Khi người ta mong thời gian đi
chậm thì nó lại cứ đi nhanh vùn vụt như bóng câu qua cửa sổ.
Tôi tới Mỹ Tho đúng chín giờ. Tỉnh lỵ vẫn nguyên vẹn. Chưa có
gì thay đổi. Tôi chỉ sợ có sự thay đổi ở biệt thự Hương Lan. Sự thay đổi ở lòng
người chỉ cần một cái chớp mắt của thời gian. Bỗng dưng, tôi đâm ra ngài ngại.
Chẳng biết bà Hương Lan còn đón tiếp tôi niềm nở không.
Tôi đứng trước cổng biệt thự ngần ngại ghê gớm. Biệt thự
không có chó dữ. Tôi đẩy cổng bước vô. Cổng biệt thự Hương Lan không có then
cài. Bước chân tôi lạo xạo trên lớp đá sỏi. Tôi chưa muốn vào nhà. Mà ngồi trên
ghế đá suy nghĩ vẩn vơ. Mùi hoa ngọc lan thơm ngát. Tôi dựa lưng vô thành ghế.
Một lát, có tiếng người nói:
- Thầy Điều lại uống rượu như tối qua, má à... Thầy đã về và
đang ngồi ngoài vườn.
Tôi mỉm cười. Con gái của bà Hương Lan đây. Chắc chắn rồi. Bà
Hương Lan theo con gái ra vườn. Tôi vội đừng dậy:
- Thưa bác, cháu đây, Hoài đây, không phải Điều đâu ạ!
Nhằm ngày cuối mùa trăng nên tôi đã không nhìn được rõ khuôn
mặt bà Hương Lan. Tôi rút điếu thuốc, bật que diêm. Que diêm không đủ ánh sáng
để soi rõ tình cảm của bà Hương Lan lúc đó. Bà Hương Lan chừng xúc động. Bà để
tôi đứng ngơ ngẩn một lúc, mới lên tiếng:
- Thầy về thăm Mỹ Tho?
Bà giới thiệu tôi cô con gái:
- Đây là thầy Hoài, bạn của thầy Điều. Con cháu nhỏ tôi, Thùy
Trang. Cháu được nghỉ lễ vài hôm về ở với má cho đỡ nhớ.
Chúng tôi cùng vào trong nhà. Ngọn đèn nê-ông đã bật sáng. Bà
Hương Lan sai Trang đi pha trà. Sự bỡ ngỡ dần đã biến mất. Tôi có cảm tưởng như
đứa con trai đi xa mới về. Bà Hương Lan hỏi tôi:
- Thầy Hoài nhớ Mỹ Tho?
- Vâng.
- Nhớ từ bao giờ?
- Từ hôm cháu hút điếu thuốc đầu tiên ở bên bờ suối Ban Mê
Thuột.
- Thuốc Capstan chứ?
- Vâng.
Bà chép miệng:
- Thế mà đã hai tháng rồi. À, lên mãi núi rừng tìm sự đau khổ
ư?
Tôi vuốt tóc, mai tóc nhiều bụi đường dài:
- Cháu lại thay đổi ý nghĩ, bác ạ.
- Sợ đau khổ?
- Vâng, cháu sợ đau khổ. Cháu chán rừng núi chán "mài
gươm dưới nguyệt", chán trăng gió cao nguyên.
Bà Hương Lan nhìn tôi:
- Thầy.. già thêm một chút đó. Khi người ta bắt đầu chán nản
điều gì là lúc người ta già đi.
Tôi nói:
- Cháu già đi, có lẽ, vì nhớ Mỹ Tho.
Trang đã bưng khay trà ra. Nàng giống mẹ như đúc. Tôi yêu đôi
bàn tay của Trang. Đôi bàn tay đẹp hơn cả đôi bàn tay bày ở hiệu kim hoàn, Tôi
nghĩ một người nặng nợ giang hồ, thèm những chuyến đi như Nguyễn Tuân, giá được
đôi bàn tay Trang vuốt ve, chắc là không thèm khát ga bến nữa.
Trang đẩy tách nước gần phía tôi:
- Mời thầy dùng nước.
Tôi gợi chuyện nàng:
- Cô Trang định nghỉ ở nhà bao lâu?
Nàng trả lời:
- Thưa thầy, em được nghỉ lễ mười ngày.
Giọng nàng thật dễ thương. Đôi mắt Trang tròn, lớn và đen như
hạt nhãn.
Tôi hỏi:
- Năm nay cô có thi cử không?
Nàng khép nép ngồi xuống ghế:
- Thưa thầy, năm nay em dọn thi tú tài đôi"
- Đậu xong, có định học gì?
- Má em biểu học văn khoa, em lại thích học sư phạm.
Bà Hương Lan cười:
- Con bé thích cuộc sống bình thường.
Tôi nhấp một ngụm trà mạn:
- Cháu cũng thích cuộc sống bình thường. Bác đã khuyên cháu rất
đúng. Chỉ nên hái trái cây hạnh phúc sát tầm tay với của mình.
Bà Hương Lan ngó Trang:
- Thầy Hoài chọn Mỹ Tho rồi đó, con ạ!
Tôi đặt bao thuốc lá Capstan lên mặt bàn xa lông:
- Vâng, cháu muốn dạy học ở đây ít lâu. Trường công chắc xin
dạy khó vì giữa niên học. Cháu sẽ nhờ Điều giới thiệu với một trường tư. Vừa dạy
học vừa viết văn được chứ, thưa bác?
- Được mà.
- Vậy cuốn truyện đầu tiên của cháu sẽ viết về tỉnh lỵ.
- Mỹ Tho?
- Vâng.
- Thầy định viết về đề tài gì?
- Về dòng sông, ánh trăng, vườn hoa và tiếng lạo xạo của đá sỏi
trên lối đi trong vườn biệt thự Hương Lan.
Trang tròn đôi mắt, hỏi mẹ:
- Thầy Hoài là nhà văn hả, má?
Bà Hương Lan gật đầu:
- Ừ, thầy ấy là nhà văn.
Nàng có vẻ sung sướng lắm, Và cảm phục tôi.
Trang chớp mắt:
- Thầy viết báo nào?
Bà Hương Lan trả lời giùm tôi:
- Thầy Hoài viết báo người Hà Nội. Vô đây, thầy chưa công tác
với báo nào. Con đợi ít lâu nữa, thầy Hoài sẽ viết một cuốn truyện dài.
Trang len lén nhìn tôi. Mắt nàng ánh lên bao vẻ trìu mến, thiết
tha. Nhà văn vẫn là một cái gì ghê gớm với những người bình thường. Tôi đã có
thời phục nhà văn lắm. Phục cả Nguyễn Minh Lang, Hoàng Công Khanh... Sự cảm phục
dần dần phai nhạt với kiến thức của mình. Tới một tuổi nào, xét lại, mình mới cảm
thấy hố to là đã quá rộng rãi sự cảm phục. Bây giờ, tôi không thể nào chịu nổi
sự cảm phục các nhà văn bừa bải của những cô câu mới lớn lên. Tôi hy vọng, họ sẽ
có lần xét lại như tôi. Và lúc ấy giá trị của những Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu,
Nhật Tiến, Sơn Nam, Nguyễn Mạnh Côn... mới định cư ở tâm hồn người thưởng ngoạn
nghệ thuật. Tôi không ưa con người Phạm Duy, nhưng trước Phạm Duy chỉ có Văn
Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý và sau Phạm Duy ngoài Phạm Đình Chương, chắc
không còn ai làm tôi yêu âm nhạc Việt Nam. Bạn tôi thường bảo tôi tự kiêu khi
mình chưa là cái gì. Tại sao phải đợi đến lúc là cái gì mới tự kiêu. Người ta
có quyền tự kiêu ngay ở trong bóng tối, ở cái sự chẳng ra gì của mình. Đợi đến
thuở mình là cái gì mới dám tự kiêu thì hèn quá.
Tôi hơi bực bội bà Hương Lan. Và nói:
- Cô Trang có vẻ cảm phục nhà văn lắm, phải không?
Trang thành thật:
- Dạ, em phục nhà văn.
- Tại sao?
- Vì họ không giống mình. Mình chỉ sống với cuộc đời có sẵn.
Nhà văn tạo ra nhiều cuộc sống cho nhiều người sống.
Tôi khen Trang:
- Hèn chi bác muốn Trang học văn khoa. Những theo ý tôi, nhà
văn không có gì đáng phục cả.
Trang hỏi:
- Sao vậy thầy?
Tôi rút một diếu thuốc Capstan, bật lửa mồi thuốc:
- Vì họ đâu có khác gì chúng ta. Nhà văn chỉ đẹp khi họ ngồi
viết văn một mình. Lúc ấy, họ sống thế giới riêng của họ...
Tôi thở một đám khói thuốc và ngó bà Hương Lan:
-... Cõi thiên thai của họ. Xong lúc đó, họ xấu xa nhất trên
đời.
Trang ngây thơ:
- Họ xấu xí thật hả, thưa thầy?
Bà Hương Lan đỡ lời tôi:
- Không đâu, con ạ! Họ không xấu xí đâu. Nhà văn được chiêm
ngưỡng quá, đâm ra khiêm tốn. Họ không thích độc giả thần thánh họ. Cho nên, họ
tự mỉa mai họ. Vả lại con hãy đọc văn chương của họ và chẳng cần biết về đời sống
của họ. Đời sống của họ làm văn chương của họ hay, quyến rũ độc giả, thế là đủ
rồi.
Bà Hương Lan không muốn Trang hiểu rõ cuộc sống bừa bãi,
phóng túng, buông trôi, bất cần thiên hạ của nhà văn. Tôi rõ ngay ý muốn của
bà. Phải, hãy để Trang chiêm ngưỡng "Vang bóng một thời" của
Nguyễn Tuân và chớ bắt tội nàng thắc mắc tại sao Nguyễn Tuân hút thuốc phiện. Rồi
lại nói về cái bàn đèn, sự thiếu thuốc hạ thấp nhân phẩm của nhà văn, chắc là
Trang sẽ thất vọng, Nên đánh bóng chiếc mề đay, chớ dại dột lật mặt trái của
nó.
Trang hỏi tôi:
- Má nói thật hả?
Tôi gật đầu:
- Ừ, má nói thật.
Trang trách móc:
- Vậy mà thầy cứ khiêm tốn.
Bà Hương Lan cắt ngang câu chuyện văn chương:
- Thầy Hoài dùng cơm chiều chưa?
Tôi dụi điếu thuốc vào đế giày:
- Thưa bác, cháu đã ăn ở Sài gòn và lai rai quà vặt thêm ở
trên tầu.
Bà Hương Lan mỉm cười:
- Nói chuyện từ nãy, chắc thầy Hoài đói bụng?
Tôi cười theo:
- Cháu no hơn.
Trang nói:
- Hay mình ra chợ ăn hủ tiếu đi, má? Hủ tiếu Mỹ Tho ngon nổi
tiếng, thầy Hoài biết không?
Tôi lại đốt điếu thuốc mới:
- Người tôi, từ đầu đến chân còn đầy bụi đường xa. Thôi để
mai nhé, cô Trang.
Bà Hương Lan chợt nhớ ra. Bà xuýt xoa:
- Mãi vui, quên hết. Để thầy Hoài đi rũ bụi đường a. Thầy còn
ở đây lâu mà.
Tôi bẻ ngón tay:
- Vâng, cháu còn ở đây lâu. Cháu hy vọng được gửi xác ở Mỹ
Tho.
Hai mẹ con bà Hương Lan rủ nhau ra vườn. Tôi đã quen thuộc,
quá quen thuộc gia đình này. Và tôi tự nhiên mở hành lý, lấy bộ quần áo ngủ, đi
vào phòng tắm. Đêm ấy, dù rất mệt, trong giấc ngủ của tôi, vẫn nở một vài giấc
mơ ngắn có nụ cười hồn nhiên của Trang, có giọng nói ngọt ngào của bà Hương
Lan. Và, lạ lùng sao ấy, có tiếng lạo xạo của đá sỏi trên lối đi ngoài vườn biệt
thự Hương Lan.
3
Chiếc xuồng lướt trên mặt con lạch. Nếu miền Bắc là của núi rừng
thì miền Nam là miền của sông nước. Tôi yêu sông nước miền Nam. Sông nước miền
Nam cùng hiền hoà như người miền Nam. Phải thấy một con rạch cắt đôi cánh đồng
rộng bao la, khô cằn về mùa nắng, chạy dài tít tắp tới một làng thôn xa xôi mới
yêu mến. Tôi tưởng, đôi tình nhân ngồi trong xuồng, bơi trên lạch vào một đêm
trăng thì chẳng còn gì thơ mộng hơn. Những con lạch, hai chiếc xuống ngược chiều
tránh nhau thật khó khăn, vì như những mạch máu. Những mạch máu ấy đã chở tôi về
trái tim miền Nam.
- Nắng quá, thầy Hoài nhỉ?
- Không nắng đâu.
Trang mỉm cười. Nàng bơi mái chèo đều tay. Trang đưa tôi về
bên ngoại của nàng. Bà Hương Lan không đi. Đêm qua, bà bị nhức đầu. Tôi muốn bà
cùng đi cho vui nhưng bà bảo đi với Trang vui hơn. Và Trang đã đưa tôi về bên ngoại
của nàng.
- Miền Bắc có lạch không hả, thầy Hoài?
- Chỉ có những con ngòi.
- Mùa nào người ta hay bơi xuồng?
- Lụt lội.
- Lụt lội chắc vui lắm nhỉ?
- Khổ sở vô cùng.
- Em muốn biết nhiều về miền Bắc, thầy ạ! Lớp em có mấy chị
người Hà Nội. Hà Nội chắc đẹp, phải không thầy?
- Hà Nội nhỏ bé. Nó ồn ào hơn Mỹ Tho một chút.
Tôi ngắm bộ quần áo bà ba của Trang:
- Và không hề có quần áo bà ba.
Trang thẹn thùng:
- Em mặc ngộ quá hả, thầy?
Tôi nói:
- Mộc mạc lắm, Trang là cái gì đặc biệt nhất của miền Nam.
Nàng cắn môi dưới:
- Em quê thì có.
Nàng bơi chèo nhanh thêm, để cho bớt ngượng. Vì tôi thấy má
Trang đã au đỏ. Tôi ngồi ở đầu xuồng, đối diện Trang. Tôi ngó chằm chằm. Trang xấu
hổ. Nàng quay mặt:
- Thầy làm em mắc cỡ muốn chớt.
"Muốn chớt", hai tiếng nghe êm đềm lạ. Tôi
trêu Trang:
- Tôi làm gì đâu?
- Thầy cứ nhìn em.
- Có Trang ghét đôi mắt của tôi à?
- Đâu có.
"Đâu có" Trang nói đến là dễ thương. Tiếng
"đâu" lướt nhanh và như phảng phất dấu huyền. Tiếng
"có" kéo dài ra. Văn chương không đủ khả năng diễn tả sự dễ thương của
tiếng nói miền Nam, của Trang. Tôi nghĩ phải dùng tới băng nhựa. Chưa có người
miền Nam nào nói tiếng miền Nam hay như bà Hương Lan, như Trang.
- Tôi móc mắt vứt đi nhé!
- Í đừng.
- Vậy tôi nhìn lên trời đây.
Trang lại quay mặt đối diện tôi:
- Thầy hờn em, hả?
Tôi lắc đầu:
- Không đâu.
Im lặng... Tiếng chèo rẽ nước của Trang nghe rõ mồn một. Nếu
không có tiếng chèo rẽ nước, chắc là tôi nghe rõ cả tiếng trái tim Trang rộn
rã. Nào ai biết vì sao trái tim nàng rộn rã. Tôi ngửa mặt nhìn trời. Trời trong
xanh. Từng đám mây trắng lững lờ trôi. Tự nhiên lòng người cũng bao la như trời
đất.
Tôi móc điếu thuốc lá, quẹt mồi thuốc.
- Trang đừng sợ tôi.
Nàng hồn nhiên:
- Em sợ gì đâu.
- Sợ tôi làm mắc cỡ.
- Em không sợ nữa,
- Tại sao đang sợ "muốn chớt" lại hết sợ?
- Tại vì đôi mắt của thầy.
Tôi nhả khói thuốc, gật gù:
- Trang giỏi lắm. Như thế sẽ không rơi vào sự đau khổ để oán
hận cuộc đời.
Trang ngạc nhiên:
- Thầy Hoài nói gì, em không hiểu.
Tôi hỏi:
- Có phải Trang đã nhìn rõ tâm hồn tôi qua đôi mắt tôi?
Trang bối rối. Giây lát sau, nàng mới nói:
- Làm sao em nhìn rõ được tâm hồn nhà văn như thầy. Em chỉ thấy
đôi mắt thầy hiền như mắt bồ câu.
Tôi ném điếu thuốc vừa cháy một chút xuống nước. Tiếng
"xèo" khó chịu cơ hồ sự khó chịu của tôi:
- Tôi chưa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét