Ba hồi kinh dị 2
Mâm rượu bưng lên, hai ông bạn lại vừa chén tạc chén thù vừa
nói chuyện. Ông Đàm ngỏ ý lựa bạn ở lại ít bữa nhưng ông Nguyễn xin từ chối và
nhất quyết đi khám phá những việc lạ trong chùa Đầm.
Cản ngăn thế nào cũng vô hiệu, đến khi mặt trời ngả bóng, ông
Đàm ngại ngùng đi tiễn bạn ra khỏi thôn. Lúc chia tay, Đàm tiên sinh lại hết lời
khuyên giải lần nữa. Ông Nguyễn phải bật cười lên mà rằng:
- Sao tiên sinh phải lo sợ quá như thế? Người xưa dẫu phải
bao phen nguy khổ cũng không ngại, miễn là tìm biết được điều hay. Đây chả là một
sự lạ đáng biết ư? Tôi muốn tin lời tiên sinh mà vẫn còn chưa hiểu các việc kỳ
dị, vậy tôi đi xem cho hiểu chứ sao?
- Nếu vậy, xin vĩnh biệt, thân người là trọng mà tiên sinh
không muốn giữ gìn, tôi cũng không dám can ngăn.
Nguyễn công thì mỉm cười lên đường, còn Đàm công đứng trông
theo, cau mày lẩm bẩm mấy câu rồi cũng trở vào.
THẤY YÊU QUÁI
Bấy giờ vào khoảng gần canh ba. Khu miễu trơ trơ ở giữa chốn
đồng không bát ngát kia dốc ngược cái hình lù lù sẫm đen xuống mặt nước đầm bên
cạnh.
Mảnh trăng cao không bị mây ám dải cái ánh sáng rõ ràng lạnh
lẽo xuống trăm nghìn mẫu ruộng trắng xanh. Chốc chốc một làn gió thoáng đưa như
phảng phất qua lại những vong hồn không ai trông thấy.
Trong miễu thì om tối. Lác đác dưới đất mấy vùng ánh sáng mờ
đang cử động theo bóng lá chen xít nhau. Từng trận gió ào ào trên các đầu cây
nghe như những tiếng thở dài lớn. Trong bụi lối dưới chân cỏ các thứ dế đua
nhau trinh trích từng lúc rồi lại im, điểm vào những giọng giun kêu rù rì rất
dài, rất lâu, rộng rãi điều hòa như cái yên lặng.
Lúc ấy trong chùa thấy có một ngọn lửa nhỏ không cử động, Ngọn
lửa nhỏ quá, đến nỗi không đủ soi ra ngoài cái bệ phẳng lỳ. Ngọn lửa ở đó được
gần nửa trống canh. Trước khi hiện ra, cứ thấy nó từ tử ở trong chỗ đen mù đen
mịt tiến gần lại, trước nhỏ, sau to dần. Mà хеm như không có người đem ra, hay
có thì người ấy vô hình hơn đêm tối. Khi nó đứng lại, nhìn rất kỹ thì mới biết
đó là một thứ lửa đèn. Nhưng ngọn bấc lại nhô lên cháy ở giữa đĩa, nên trông
hình như cái đèn ấy không có đế và đứng lửng lơ trên không.
Không có một tiếng động nào qua. Những giọng rì rào ở bên
ngoài như bé dần, như biến đi, làm cho vùng đen tối thêm nặng nề, thêm độc ác.
Bỗng thấy rúc rích như chuột chạy ở chân tường... Ngoài hiên mấy chiếc lá khô
rơi.... một con dế trong xó sẻ rụt rè kêu. Rồi tất cả im thin thít.
Một bàn tav đen sì to tướng thò rа, năm ngón quều quào trên
ngọn đèn, ánh lửa chiếu lên làm cho lòng bàn tay mờ mờ đỏ. Một bàn tay nữa vừa
đến nằm lên trên bàn tay trước, thì bốn năm thằng quỉ hiện lên ngồi vây lấy
chung quanh cái bệ. Chúng che khuất hẳn ngọn lửa và châu đầu vào nói chuyện với
nhau. Chúng nói không ra lời, chỉ thấy lắp bắp phì thào mội lúc.
Ông Nguyễn thấy trống ngực đánh thình thịch, ông nín hơi thở
lại thì quả tim lại đập dữ hơn. Ông ta nấp ở sau một cánh cửa vẫn mở, chỗ ấy
đen tối như mực, giơ tay lên đến mặt cũng không trông thấy gì. Nhưng từ chỗ ấy
ông ta có thể xem xét được hành động của lũ "yêu quái".
Chúng nó vẫn châu đầu nói chuyện với nhau bằng hơi gió. Hai
thằng quỉ quay lưng lại, nên ông ta chỉ thấy hình hai cái đầu yên lặng trên hai
cái lưng to lớn và đen. Ba thằng ngồi ở phía bệ bên kia thì ông ta trông thấy mặt:
mặt xanh như nhuộm phẩm, miệng đỏ và cực rộng, ở dưới những đám lông rậm xơ xác
không rа hình râu. Chúng nó để tóc xõa xuống vai, nhưng có một đứa quay mặt ra
thì bịt trên đầu một thứ khăn xanh thắt ở sau gáy.
Lúc ấy hai cái tay trên ngọn đèn là tay của thằng quỉ bịt
khăn xanh đã kéo về để lên bệ. Ông Nguyễn thấy nó gật gù mấy cái rồi đưa mắt
cho mấy thằng kia trông về chỗ ông ta nấp rồi lại rì rầm nói nhỏ hồi lâu. Đang
hết sức lắng tai nghe thì bỗng thấy chúng "Hà hà!" lên mấy tiếng. Rồi
lại rì rầm bàn nhau nữa. Sau thằng quỉ bịt khăn xanh thì thào lên một thôi một
hồi những tiếng nói lớn hơn trước, nhưng nghe vẫn như tiếng người hết hơi. Lũ
quỉ liền rút năm con dao nhọn và sáng giơ lên rồi cùng đứng cả dậy. Ông Nguyễn
nghe thấy tiếng cười khàn khàn như ở trong những cổ họng bị cắt đứt:
- Hà hà!
- Hà hà! hà hà!
Ông ta hết sức cẩn thận sẽ đứng lên. Rồi vùng một cái, chạy
ra cửa, nhưng liền bị hai tay bóp lấy cổ đun ông ta lại; một thằng quỉ nữa vẫn
đứng rình ở ngoài. Bấy nhiêu đứa liền nắm lấy ông ta khiêng để lên bệ. Ngọn đèn
lúc ấy đẫ khêu lớn, một thằng đang cầm ở tay giơ lên. Ông Nguyễn dẫy dụa thế
nào cũng không ra, ông kêu không thành tiếng nữa. Ông bị những bàn tay như sắt
ghì chân tay ông xuống, người ông nằm ngửa, cứng như xác chết; ông nhắm nghiền
mắt lại sẵn sàng da thịt đợi cho lũ quỉ xé ra tan tành. Bỗng thấy một thằng nói
lên, nói tuy sẽ, nhưng lần này thực là tiếng người:
- Mở... mắt... ra!... Mở... mắt...!
Ông Nguyễn vô tình vâng lời, mở mắt ra thì thằng bịt khăn
xanh cúi xuống gần mặt ông ta mà thở, ông ta ngơ ngác liếc quanh liếc quẩn rồi
lại nhìn rõ vào mặt nó. Nó liền rách mồm ra cười một cách ghê gớm mà nói:
- Ai bảo mày... cả gan... vào đây?
Nguyễn công điên tiết quát lên:
- Chúng bay tụ nhau ở đây chỉ có việc giết người ăn thịt thôi
phải không?
Một đứa rền rĩ trả lời:
- Chính phải, rồi... chính... phải!...
- Thế thì chúng bay ăn thịt tao đi!
- Hãy yên... mày... chưa được chết vội!
Ông Nguyễn hét rất lớn:
- Thì giết ông đi! Giết đi! Giết đi!!!
Thằng quỉ đội khăn xanh trợn mắt nhìn như đâm vào mặt ông ta.
Nó nói:
- Không nói to... Đợi đó!
Rồi ồng bị nó chẹn lấy cổ, chân tay không nhúc nhắc được; người
rủn cả ra. Lũ yêu quái lại thì thào với nhau một hồi. Ông ta biết rằng nó bảo
nhau sắp giết mình, nên lừa lúc bất ngờ, vùng lên cùng với một tiếng thét dữ dội.
Chúng nó ồn ào xúm nhau lại giữ. Ông ta thấy mấy nhát dao đâm hụt vào lưng với
bên gáy, bèn nắm tay đánh tung ra tứ phía. Bỗng ngọn đèn tắt hẳn, rồi thấy ánh
lửa sáng rực hiện lên. Trên bốn mặt tường, những bóng đen cực lớn chạy rất
nhanh giữa những tiếng kêu gọi xôn xao, nhìn ra thì lũ quỉ đã bị mấy người trói
dật cánh khuỷu. Ngoài cửa chùa lại thấy gần một chục người, tay gươm tay đuốc
xông vào.
- Các người là lính của Đào huyện quan sai đến phải không?
Lính thưa:
- Bẩm cả Đào đại nhân cũng đến.
- Thế đâu?
- Bẩm ngài, quan cùng mấy người xông vào trong kia bắt nốt.
Nói dứt lời thì huyện quan và hai tên lính dẫn thằng quỉ đội
khăn xanh ra. Quan huyện Đào cười và nói với Nguyễn công:
- Bây giờ tiểu đệ mới biết rõ mặt các vong hồn!
Nguyễn công sửa lại đầu tóc, quần áo xong, đáp:
- Nếu không có ngài đến cứu thì tiểu đệ cũng bị giống yêu
quái này giết chết, tiểu đệ xin nhớ ơn mãi mãi.
- Ngô huynh dạy quá. Đó là chức trách của tiểu đệ, ngài bất tất
phải nói đến việc hàm ơn.
Huyện quan lại ngảnh trông lũ quỉ:
- Các "vong hồn" oan uổng đói khát quá, nay ta đem
về huyện cho nơi ăn chốn ở hẳn hoi. Quân bay! "rửa mặt" cho chúng!
Tức thì bằng ấy thằng quỉ bị vặt hết râu và chùi sạch phấn nhọ
bôi trên mặt. Nguyễn công trông vào thằng chúa quỉ đội khăn xanh, kêu lên một
câu kinh ngạc:
- Đàm tiên sinh!
Huyện quan gật đầu, cười mà nói:
- Phải. Đàm tiên sinh, hay là Ba Đen (vì trong bọn vẫn gọi bằng
cái tên hiệu ấy). Bọn này Ba Đen đứng đầu, được bộ hạ vâng phục lắm, vì y táo tợn
giảo quyệt biết chừng nào... Chúng nó có mười bốn thằng tất cả, nhưng đây mới là
những tên ghê gớm nhất. Cả bọn thì một nửa là quân cường bạo hợp lại, còn một nửa
là tuần đinh ở roấv làng gần đây. Cái ý kiến giết sư cướp chùa làm sào huyệt, rồi
bầy rа những câu chuyện yêu quái như thế là chính Ba Đen nghĩ ra. Thực y đã
khéo lấy những điều huyền hoặc sợ hãi để che kín những việc hành động của mình.
Sào huyệt của chúng ở đây, nhưng chỗ chúng đến ăn cướp lại ở xa lắm. Bởi thế
sau những án giết người lấy của, dò xét thế nào cũng không ra. Ai có ngờ đâu rằng
bọn cướp kia chính là lũ yêu quái này - lũ yêu quái giả mạo!
Nguyễn công đứng lặng thinh ở giữa đám người cầm đuốc. Việc xảy
ra là một việc kỳ quái hết sức, đến nổi ông ta không biết có nên tin những điều
mắt thấy tai nghe vừa rồi không! Đàm Văn Cương lại là tướng cướp ư? Lại là người
chực giết cả ông ta ư? Lòng người đến như thế thì mắt nào soi suốt được?
Ông huyện quan lại tiếp:
- Đàm tiên sinh (hay là Ba Đen) khôn ngoan đến như thế, song
vẫn có điều sơ xuất: Ba Đen cứ tưởng rằng trong bọn ai cũng kinh sợ hắn, lại
tin rằng thủ hạ hắn đã uống máu ăn thề rồi thì không đứa nào dám làm phản nữa.
Nhưng Đàm tiên sinh lầm. Cái lòng tham lam chỉ muốn vơ của cho đầy, muốn cướp hết
cả phần của thủ hạ mình với cái lòng độc ác chỉ thèm giết cho nhiều mạng kia,
đã khiến cho một con yêu giả trong chùa này рhải căm hờn, phải hối hận. Con yêu
ấy tên là Trần Văn Thình (cả bọn cướp đều sửng sốt). Phải, Trần Văn Thình, tuần
tráng ở làng trên. Chiều hôm nay, chính sau lúс ngô huynh ra khỏi huyện đường
ít lâu, bản chức đang ngồi ngẫm nghĩ về câu chuyện ngô huynh ẩn mưa trong chùa
Đầm thì thấy lính dẫn tên tuần tráng ấy đến. Nó quì xuống thú hết các tội, rồi
tố cáo các việc sát hại của bọn chúng với các việc "hiển hiện" ở chùa
Đầm. Bản chức hỏi cặn kẽ tên Thình, xong lại nói cho nó biết ngô huynh vào khám
phá ở đấy. Nó vội thưa với bản chức rằng nếu ngay đêm nay không bắt được bọn cướp
này thì thế nào ngô huynh cũng bị hại.
Bản chức đem lính đến nơi cho vây kín bốn mặt thì vừa lúc
nghe tiếng ngô huynh thét. Lúc xông vào bắt thì Đàm tiên sinh là người trốn trước
nhất, không muốn cho bản chức được cái hạnh ngộ tiếp kiến ngài... Nhưng lính của
bản chức đã bít hết các lối, mà bản chức lại biết hết các ngách hiểm hóc ở sau
chùa rồi, nên Đàm tiên sinh không thoát đâu được.
Nói đoạn ông truyền cho lính trói cả năm tên cướp lại làm một
bọn và quay lại mời Nguyễn công cùng về huyện đường. Nguyễn công vừa buồn vừa
giận. Ông thở dài mà theo qnan huyện, miệng mỉm cười một cách chua chát mỉa
mai: "Ồ! Có ai ngờ! Có ai ngờ đâu rằng cái khoảng mười năm xa cách đã thay
lòng người cố hữu đến như thế!... Mà cũng là người có học, biết rộng! Có học để
thêm quỷ quyệt, để bày ra mưu sâu chước hiểm, để khéo rào khéo chống; đối với
những việc ghê gớm dị kỳ mà chính mình bày ra, chính mình gây nên, y khéo làm
như người ngoài cuộc, để che mắt trần gian. Cái lòng nham hiểm với cái trí quỉ
quyệt kia nếu không vì một sự tình cờ có người khám được ra thì không biết sẽ
ra biết bao nhiêu tội ác nữa".
Đàm Văn Cương lúc ấy đứng ngoài hiên chùa bị trói dật cánh
khuỷu cùng với bọn đồng đảng, búi tóc buột rũ xuống hai bên vai. Lúc Nguyễn
công bước qua trước mặt y, thì y vẫn ưỡn ngực một cách ngạo nghễ, không tỏ ra vẻ
gì là lo sợ, hối hận. Nhưng khi đôi mắt nghiêm khắc của Nguyễn công trừng lên
nhìn thẳng vào y thì họ Đàm hơi biến sắc, se sẻ cúi đầu xuống và mắt liếc
ngang.
Nguyễn công toan đem bao nhiêu lời căm giận mà mắng cho giống
sài lang kia một hồi. Song ông chỉ mím môi mà đứng lại giây lát trông y một
cách rất khinh bỉ, rồi vừa thở dài vừa bước ra.
Tiếng hú đưa từ phía rừng Sam Na lại. Đêm nào mưa gió thì
nghe rõ từng hồi một: trước còn thấp, sau bổng cao, kéo dài ra, rồi chìm biến
vào trong bốn bề rừng núi. Trời đất âm thầm lạnh, vì hồi ấy về cuối thu. Tiếng
hú đưa lên ai oán thảm thê, tưởng như giọng ba bốn đứa trẻ xác xơ đang ngồi
trên bãi vắng hay bờ lau mà gào mẹ chết.
Người Mán Khao-la ngủ không yên giấc, đêm đêm nằm trong khiếp
sợ mà lòng mê tín của họ làm tăng mãi lên.
Bởi vì trước đó không lâu, trong làng có nhiều điều quái dị xảy
ra như đi trước đón đường cho tiếng hú bí mật. Rừng Sam Na là một khu rừng
lớn, người Mán thường ngày vào săn bắn những cầm thú nhỏ và khai phá những của
thiên nhiên. Bỗng dưng đã một tháng nay có một con hổ cái hung dữ lạ thường, chẳng
biết từ đâu về rừng đó ở. Con hổ to lớn khỏe mạnh lắm, giữa ban ngày cũng dám
ra bắt súc vật của dân Mán - có khi lại vồ cả người. Đến những thiện xạ xưa nay
vẫn làm tai làm họa cho thú rừng cũng nhiều lần bị khốn vì con hổ cái. Họ tìm đủ
mọi phương kế: nào vây đón, nào bẫy cạm mà không tài nào bắt được - lần nào hổ
cũng thoát rất dễ, lại còn tha được cả mồi đi. Người Mán thường coi hổ háo chỉ
như một con chó dữ mà bây giờ nghe tiếng nó gầm cũng phải run sợ. Cùng một thời
kỳ hiện ra cái nạn rừng ghê gớm này, một người đàn bà với một cô con gái làng
khác đến ở ngụ. Xem chừng là hai mẹ con. Hai người dựng một cái lều tận đàng
xa, bên một cái cụm cây lớn, ở ngay cửa rừng. Như thế hình như nhà này muốn
cách biệt hẳn với thôn xóm ở đây. Cả một làng dăm ba mươi nóc, chen xít nhau
trong đám cây cối dưới sườn một quả núi thấp và quay mặt hướng về Sam Na. Dân
cư vẫn giúp đỡ nhau, thân cận nhau, nay đột nhiên có người ở đâu đến, lại ra ý
tỵ hiềm chia rẽ, thì ai cũng phải cho là những nhân vật lạ lùng.
Không ai hiểu tính tình hai mẹ con nhà ấy. Mà từ khi rừng
thành dữ không mấy người dám đến, nên không biết họ ăn ở ra sao. Chỉ những ngày
phiên chợ mới thấy hai người ra mặt, họ gánh củi từ cửa rừng đem ra chợ đổi lấy
gạo muối về nhà. Người đàn bà trong vòng năm mươi tuổi, váy ào màu chàm đã bạc,
bao giờ cũng dúm núm, хốс xếch, người khô xác, thấp bé, chỉ tinh nhanh ở hai
con mắt sắc rất linh động, nhưng lúc nào cũng gườm gườm. Cô con gái độ mười bảy
mười tám, ăn mặc gọn ghẽ, nét mặt xinh xắn và có vẻ e lệ ngây thơ. Cô ta theo
sau như bám lấy bà mẹ. Các cậu trai tân ơt trong làng ra chợ cậu nào trông thấy
cô ả cũng phải ngây ngất mà nhìn hoài. Họ thích cánh và cười vụng với nhau,
nhưng không cậu nào dám toe toét lả lơi, tỏ ra ý mon men trêu ghẹo cô bé. Vì có
mụ già đấy: mụ sẽ trả lời lại những lối trai lơ kia bằng một cái lườm nguýt khỉnh
bỉ và hằn giận đến rùng mình. Anh nào to gan, không sợ cứ sấn gần đến cô bé, tức
thì mụ rủa cho như khạc lửa vào mặt rồi chẳng đổi chác thì chớ, cầm ngay lấy
tay cô bé, cất gánh củi, một mạch đi về.
Người Mán vốn đang đột thật thà, không có lòng hiểm độc ghen
ghét, nhưng thấy cái thái độ lạnh lùng và kỳ dị của mụ già khô khan kia họ chẳng
khỏi sinh bụng nghi ngờ. Vì thế, sau những buổi chợ, hoặc khi ngồi chuyện vãn với
nhau, người Mán thường chỉ bàn tán đến chuyện hai mẹ con người đàn bà lạ
mặt. Trước thì còn bảo đó là một mụ ké cay nghiệt, hiểm ác sau cho là một mụ dí
cấy thuốc độc ở móng tay. Nhiều người chắc thế nào nhà mụ cũng có thờ ma. Rồi mỗi
ngày đẻ thêm ra những điều quái gở để gán cho mụ. Điều kỳ quặc đến đâu cũng
không ai cho là thái quá, thậm chí có người dựng đứng lên bảo rằng mụ đàn bà ấy
là một con hùm tinh. Mọi người liền tin theo, mà tin như thế một cách vững
vàng, như là chuyện hiển nhiên trước mắt. "Phải, chính nó đấy, chính nó là
con hùm trong rừng, nó bế thành con mụ ké với đứa con gái đẹp để đánh lừa chúng
ta đấy. Тa cứ để yên rình lúc nó vô ý nắm ngay lấy đuôi nó là bắt được, vì con
mẹ này có đuôi!".
° °
°
Bỗng nhiên mấy phiên chợ sau cùng, người ta không thấy mặt mẹ
con mụ ké nữa. Mà từ ngày mụ ké không ra chợ thì dân cư bắt đầu nghe thấy tiếng
hú ban đêm. Người Mán lại càng tin mụ ké không phải là người thật. Họ chắc mụ
ké biết đã lộ việc kín, nên không dám giao tiếp với người trong làng nữa, từ
nay đành phải giữ nguyên hình. Thế rồi thường thường trong những lúc buổi tối
quây quần, nhà nào nhà ấy đóng cửa cho kín, họ vây quanh ngọn đèn hay bếp lửa kể
cho nhau nghe những chuyện hoang đường truyền khẩu từ đời này qua đời khác, những
chuyện có một tầm quan trọng thần bí trong tâm hồn của dân đồng rừng.
Theo những câu chuyện họ kể thì trước kia ở Sam Na cũng có một
con hùm tinh. Người ta thường gặp nó trên núi, dưới ruộng, trong rừng, nhất là ở
các đường lối có người hay qua lại. Con hùm tinh ấy trèo được lên những cây
cao, nói được tiếng người. Khi thi hát như ru em, khi thì khúc khích như đùa,
khi thì than khóc. Thấy người nào một mình quãng vắng thì nó giả tiếng bà già
hay đứa bé nheo nhéo gọi: "Thầy ơi, u ơi, ông ơi hay cô ơi...". Theo
tiếng gọi, người ta thử nhìn хеm thì hoặc ở sau lưng hoặc ở trên cây chỉ thấy một
con hổ đang cười sằng sặc. Người kia khiếp sợ ríu chân lại: hùm tinh cứ việc nhẩy
tới tha đi. Về sau con hùm tinh ấy như bị sét đánh chết, nên dân cư mới được
yên cho mãi đến bây giờ.
Rồi đến nay, lại có một con nữa đến. Cái tíếng hú kia từ phía
rừng đưa lại chẳng phải là tiếng con hùm tinh đó sao?
Một đêm kia, dân Khao la lấy làm kinh ngạc lắm. Có lẽ con hùm
tinh đã đến lúc bầy mưu chước để giáng thêm tai họa: Tiếng hú không thấy vẳng
đưa nữa, mà đêm hôm ấy lại tạnh ráo, không có tiếng mưa gió nào qua. Khắp làng
Mán lạnh lẽo trơ trơ dưới ánh sáng non của mặt trăng còn khuyết. Cách rừng Sam
Na bằng một bể ruộng, ngút ngát mấy chục nóc nhà xám chen úp trong những đám
cây cối sẫm đen. Cái lo sợ nặng nề nhu bầu sương ẩm ám trong không khí.
Mọi nhà đều đóng cửa thật kín. Hơi có một tiếng động cũng tưởng
là tiếng con hùm tinh đi qua.... Giả thử có ai đứng gọi xin lửa ở ngoài, họ
cũng không dám mở vì biết là tiếng yêu quái hay tiếng người? Một vài nhà đánh bạo
nhìn qua khe cửa phên trông ra. Bên ngoài vắng yên như cảnh chết. Trên những từng
ruộng khô và trắng, chỉ thấy mấy đống rạ lớn ngồi lù lù. Đằng xa dải rừng lặng
ngắt mập mờ vẫn giữ kín những cái bí mật.
Gần hết canh hai, bỗng nhiên từ phía làng xóm có một toán sáu
bảy người lực lưỡng rảo cẳng đi về mạn Sam Na. Đó là bảy người đi săn giỏi và
khỏe nhất trong làng Mán. Họ tiến lên những bước mạnh bạo và yên lặng, mấy người
đi trước cầm dao lớn, ba người đi sau mang một cuốn giấy dài.
Từ lúc trời bắt đầu tối, không thấy tiếng hú đưa ra, họ đã họp
nhau ở nhà ông lang để bàn định. Họ nhờ một thầy pháp bện cho họ mấy sải dây
ngũ sắc và yểm phép vào dây để họ đem đi rình trói con mụ ké hay là con hùm
tinh.... Những việc ác hại làm khổ dân làng đã quá lắm rồi, bây giờ không thể để
cho con quái vật kia hoành hành mãi được nữa. Họ quyết lòng trừ cho dân làng một
cái họa lớn. Không thì họ chết chứ không trở về.
Bọn người can đảm ấy tiến lên, không mấy chốc đã đến nhà mụ
ké. Một người ra hiệu cho ai nấy nhẹ bước; dặn khẽ nhau hễ trông thấy con mụ
già thời đem dây phép mà trói nghiền lạị; rồi hễ vớ được đuôi của nó là giết
phăng ngay đi.
Cổng ngoài mở, cưa phên cũng mở, trong nhà đen tối, nhìn kỹ
thì như không có người! Bọn này đã sinh nghi, cùng đi ra lối sau nghe ngóng...
Một người bỗng kéo áo người đi cạnh, trỏ vào một vật lù lù nằm ở sân sau. Mọi
người nhìn xem, thì đều sởn cả gai ốc. Bên cái vò nước, dưới ánh trăng mờ, một
con vật lông vằn nằm không cử động... Không phải chỉ một con, coi lại thì như
ba bốn con nằm đó, mà con nào cũng như ngủ mê mệt không biết gì. Ghê sợ quá, họ
cùng nhau hết sức nín tiếng mà lùi - "Vô phúc nó trở dậy bây giờ thì chết
cả" - Cũng có người sực tỉnh khẽ bàn nên nhân lúc nó còn ngủ đem dây ngũ sắc
trói lại cho mau. Khốn nỗi chưa mấy ai hoàn hồn! Đột nhiên gặp thấy cái cảnh bất
ngờ ấy thì táo tợn đến đâu cũng phải núng. Vả lại, con mụ ké là yêu tinh, nên
nó khôn lắm. Biết đâu đó chẳng là một mưu chước nó bầy ra để lừa người?
Trước họ tiến lên cẩn thận bao nhiêu thì nay họ thoái bước
cũng cẩn thận chừng nấy. Người nọ bám lấy người kia thực chặt. Bỗng thấy gầm
lên một tiếng cực lớn, nghe rất dữ dội. Bọn con trai không còn hồn vía nào. Họ
nhảy choàng lên, cùng kêu thét như bị vứt vào lửa. Tiếng gầm kia lại rống, ngày
một gần, một lớn, một gấp, như vỡ trời đổ núi bên mình. Anh nào anh nấy cũng
mong thành cánh ở chân, tranh nhau cắm cổ chạy về làng, lăn cả xuống rãnh, chui
cả vào câv, đâm vào cả bụi rậm.
Về đến làng xóm thì vừa hết cả sức, họ gào lên những tiếng
khàn, líu lưỡi lại mà gọi, đập cửa như phá rồi vào nằm vật cả xuống đất, thở
không ra hơi. Bên ngoài, không có gì đuổi theo, nhưng tiếng gầm vẫn hét vang cả
một phía rừng. Sam Na như chuyển động, như có bao nhiêu hổ báo cùng vật lộn xâu
xé nhau. Cho mãi đến quá nửa đêm, tiếng gầm rống thưa dần và yếu dần, rồi tắt hẳn.
Bốn bề dân làng trong sự im lặng kinh hoàng vẫn tưởng như tiếng hú mọi đèm còn
vẩn vơ trong hơi gió.
Kể từ hôm ấy, người Mán Khao la lại càng thêm lo sợ. Họ biết
thế nào cũng sẽ có những tai họa phi thường. Nhưng lạ thay! Hết ngày ấy sang
đêm khác, dân làng cứ mất mật mà sẵn chờ những điều ghê gớm không xảy đền bao
giờ.
Tiếng hú trong rừng thấy mất. Người Mán và trâu lợn của họ vẫn
bình yên. Con hùm lớn cũng không thấy để lại một bóng vết nào qua. Hơn một
tháng rưỡi trời, mụ ké hay con hùm tinh biến đâu? Chết rồi chăng? Hay đi nơi
khác. Mà hùm tinh chết hay đi nơi khác, dân làng đã hẳn được mừng chưa?
Cái ngờ vực áy náy vẫn như tiếng vang còn lại của bao nhiêu
điều khiếp sợ. Cách đó hơn hai tháng cũng chưa ai dám đánh liều vào rừng xem. Đến
nhà mụ ké cũng không ai bén mảng tới. Mụ ké với người con gái đẹp cũng không thấy
ra nữa. Người Mán thản nhiên kết luận rằng:
"Phải rồi, con mụ ké ấy chính là con hùm tinh, con hùm
tinh ấy nó bỏ Sam Na nó đi vì dân Khao la có thầy pháp, có quan tang, dân Khao
la khôn hơn con hùm tinh ấy".
Đó là việc có thực xảy ra ở làng Khao la ngày trước, đến nay
dân Mán vùng đó ai cũng biết, ai cũng nói lại, từ người già cả cho đến bọn trẻ
con. Nhưng chuyện thực sao lại có lắm vẻ hoang đường quá như thế?
Người Mán không cần biết; họ chỉ vững tin những điều họ tưởng,
những điền mà lòng mê tín của họ cắt nghĩa ra thôi.
Bởi vậy duyên do câu chuyện này không mấy ai cho là thực.
Người đàn bà Mán mà họ ngờ cho là hùm tinh ấy nguyên là người
ở một làng xa, cách đó những gần hai ngày đường. Bà ta góa chồng từ năm ba mươi
tuổi. Nói là góa, nhưng thực ra thì bà ta bị chồng lừa: lấy nhau chừng một năm,
đến khi bà ta có mang thì người đàn ông bỏ nhà đi mất.
Bà căm tức lắm, nguyền rằng hễ sinh con trai thì giết chết
ngay.
Nhưng đứa trẻ ra đời lại là con gái. Bà ta mới đổi oán làm mừng,
nưng niu chăm chút con thơ và ra sức làm lụng để nuôi cho nó khôn lớn. Người
con gái ấy là cái hạnh phúc của bà mẹ: nó làm cho sự sống của bà ta có nghĩa và
thay cho cái ái tình đã chết đi. Mẹ đặt tên cho con là Mi Nàng, bỏ tên chồng nhận
lấy tên ấy để tỏ ra hai mẹ con như một.
Nhan sắc trong trẻo của Mi Nàng cùng tăng lên với ngày tháng.
Năm Mi Nàng mười tám tuổi thì trong làng có người đem rất nhiều của cải đến xin
kết hôn. Bà Mi Nàng không nghe. Cô ấy tuy bằng lòng nhưng cũng từ chối. Mi Nàng
ngây thơ lắm. Bên con trai tìm cách dỗ dành không ngớt. Rồi trong vòng bảy tám
phiên chợ làng, những tiếng hát ái ân của họ đã làm cho người thiếu nữ phải say
mê. Mi Nàng một khi sa ngã, rất hổ thẹn ăn năn, bèn đem sự lòng thú thực cả với
mẹ. Bà mẹ tức khắc sang điều đình với bên kia nói là thuận gả con gái. Nhưng
anh con trai giở mặt, muốn bà ta đem Mi Nàng biếu không cho minh. Bà mẹ tím mặt
lại vì giận, nhớ đến người chồng mà bà ta coi như đã chết rồi, nhớ đến con người
đã lừa dối tình phụ. Bà ta trở về, không nói năng gì cả. Đến đêm lăm lẳm thanh
đao rừng ở tay, bà ta đứng rình ở một chỗ khuất rồi xông ra chém một nhát vào
sau gáy thằng con trai kia. Giết nó xong, không hối hận, không sợ hãi, người
đàn bà Mán sốc ngay cái xác còn đeo lủng lẳng cái đầu ma, đem về vất ra sân vườn,
rồi vào gọi con gái vác nải gạo, với bọc quần áo đi trốn.
Hai mẹ con trông thẳng mạn Sam Na đi suốt đêm, đến chiều tối
hôm sau thì tìm chỗ tạm nghỉ. Bấy giờ bà mẹ mới cầm hai má cô con gái mà nhìn.
Bỗng nước mắt tràn ra, rồi ôm chặt lấy con khóc rưng rức:
- Mi Nàng! Mi Nàng! Nong khon nó muốn đánh lừa mẹ, đánh lừa
con, mẹ đã chém Nong khon cho nó chết.
Rồi bà ta lại khóc như muốn lấy tiếng nức nở để nói nốt bao
nhiêu lời. Mi Nàng cũng khóc, có lẽ nửa thương tình nhân bỏ mạng, nửa thương bà
mẹ phạm tội ác vì yêu dấu cô ta.
- Mi Nàng ơi! Mẹ với con đi xa, đi trốn; ở đây làm gì với những
người nó chỉ chực cướp sống con gái của mẹ. Con nghe chưa?
- Con nghe rồi. Con cũng... muốn thế...
- Ừ! Thế thì hay lắm, mẹ với con đi rõ thực xa! Xa lắm. Rồi
làm nhà riêng một nơi, mẹ đi làm, con đi làm, mẹ con nuôi nhau, con yên vui mà
mẹ cũng vẫn được yêu dấu con. Mẹ sung sướng.
Đêm hôm ấy hai người đến dưới bóng một cây to, trải áo trên
đám cỏ cao và sờ sạc. Mi Nàng mỏi quá ngủ ngay, nhưng bà mẹ vẫn thức, vừa thở
dài vừa xua muỗi hay kéo lại khăn áo cho con nằm yên.
Sáng hôm sau, hai mẹ con lại lên đường. Cô con gái thì đi trước
xách bọc vải lớn; bà mẹ đi sau, khòm lưng địu một nải gạo nặng nề. Mi Nàng hai
mắt đỏ hoe, chốc chốc lại ngảnh đầu trông lại, trông trời cao mây vẩn; trông rừng
lá vây quanh, trông cái phía đường xa núi chắn, nó ngăn cách người con gái với
chốn quê hương. Nhiều lúc cô ta gặp mắt bà mẹ. Bà mỉm cười cho con gái quay đi,
rồi đăm đăm nhìn thẳng trước mặt, như tìm xét xem nơi nào mới chắc chắn, nơi
nào mới kín đáo để mẹ con ẩn náu mà nuôi nhau. Đối với lúc phải bỏ nơi sinh trưởng
của mình, ai là người không buồn cảm? Nhưng bà mẹ Mi Nàng lúc ấy vui mừng lắm,
vai mừng vì vẫn giữ được con gái là sự vui sống của bà ta. Từ ngày bị người chồng
bỏ đi, bà ta chỉ biết lấy cái bông hoa quí này để làm cho đẹp cái cảnh đời thẳm
đạm. Bao nhiêu căm giận người đơn bạc, nay vứt đổ đi hết mà để lại trong lòng
cái tình rất đằm thắm là tình yêu con. Người đàn bà ấy yêu Mi Nàng một lòng say
đắm dữ dội, một cách ghen tuông ích kỷ, như không muốn ai được dòm dỏ, không muốn
cho ai được tấm tắc khen cô ta. Cái quả báu kia, cái nhan sắc kia là của bà ta,
của riêng của bà ta mà thôi, bà mẹ lấy làm đắt chí mà chiếm giữ lấy một mình
cái thú được yêu, được ngắm.
Đi chừng ngót một ngày đường nữa thì đến cánh rừng Sam Na. Thấy
gần đấy có nhà cửa dân cư, nên mẹ con quyết định lấy làm chỗ nương náu. Ở lẫn với
người trong làng thì lại sợ cho con, nên bà mẹ Mi Nàng mới dựng một túp nhà nhỏ
ở xa cho cách biệt.
Từ đó bắt đầu cuộc đời vất vả nhưng rất sung sướng cho bà mẹ.
Sáng đi xới vườn, kiếm củi, tối về rau cháo bên ngọn mồi con. Sự ái ân với lòng
thương xót ở đời có lẽ thấy cái hình ảnh cảm động nhất ở trong gian nhà tranh
húp túp ấy.
Một tháng bốn ngày phiên chợ, bà mẹ lại dắt con gánh củi ra đối
lấy gạo muối và những thứ cần dùng. Đến nơi, đổi chác cho mau rồi về, bà ta rất
gờm những trai làng nó chỉ giở thói nhăn nhở để câu mất con gái.
Mẹ con ở với nhau được hơn một tháng, mẹ kiên nhẫn, con chịu
khó, cặm cụi suốt ngày quên cả nhọc nhằn. Thực là yên vui. Bà mẹ vẫn nhắc đi nhắc
lại một mình rằng: "Suốt đời người, bấy giờ mới thực biết cái sung sướng".
Tuy thế, trong lòng bà ta vẫn phấp phỏng sợ, cho rằng mình không thể được sung
sướng mãi. Cái phúc của bà cũng như giọt sương mai tuy đẹp đẽ, nhưng đến lúc rực
rỡ thì tan mất - mà chỉ đậu trong khoảng một buổi sớm thôi! Người thiếu nữ là
con gái bà ta kia trông yêu kiều nhan sắc quá! Bà ta nhiều khi chợt thấy như chỉ
được làm mẹ nó để rồi thương khóc nó, chứ không được âu yếm nó trọn đời. Mi
Nàng vẫn hết lòng tươi cười vui vẻ. Nhưng con mắt nồng nàn tình cảm của người mẹ
ấy nó sắc sảo lạ thường. Trên khuôn mặt cô Mi Nàng bà vẫn thấy cái bóng mây buồn
nó vương vít, cái nét đau khổ nó ẩn núp, nó cứ chực len vào đôi con mắt ươn ướt
với cái miệng cười như сố gượng сủa cô ta. Có khi đang cùng ngồi nhìn nhau, bà
ta để cô ngồi một mình trong nhà, lặng yên ra núp một nơi, rón rén bước lại khe
hở vách nghé mắt dòm qua mà xem mặt con gái. Những lức đó, mặt Mi Nàng chưa đổi
sắc, vẫn còn giữ nguyên cái vui tươi vừa rồi. Bà mẹ thấy thế nhẹ bay lên vì mừng
rỡ, chạy ngay vào bế lấy cô con gái mà nưng niu hú hí trong lòng.
- Con yêu mẹ nhé, con thương mẹ nhé. Con khỏe đi, con lớn đi,
con vui vẻ đi để cho mẹ sung sướng với con.
Rồi bà ta ôm chập lấy Mi Nàng, giấu đầu vào ngực cô ta mà
không biết là cười hay là khóc. Mi Nàng cảm động lắm, càng ngày càng cố làm cho
mẹ vui mừng hơn lên. Sau mấy lần rình xem như thế, bà mẹ mới hơi yên lòng, rồi
lâu dần cũng quên hẳn được những điều lo ngại.
Mẹ con đã bàn nghĩ với nhau đến những kế sinh nhai khác cho
cuộc đời thêm có thú và thêm dễ dàng. Xới thêm đất trồng các giống rau, đánh những
cây có quả về chung quanh nhà, lại tìm lấy mấy cái tổ ong gây lấy mật Rồi ra, nếu
trời thương, hai mẹ con sẽ kiếm lấy mấy con lợn, con bò về nuôi, đợi cho sinh nở
ra nhiễu thì cũng dễ đổi chác với người làng lấy thóc gạo. Mi Nàng lại nghĩ
thêm được mấy cách nữa, nào chăn tằm, kéo sợi, rồi tìm cách đóng lấy một cái
khung cửi nhỏ dệt lụa, dệt vải hay thêu thùa vá may trong những buổi không đi
kiếm trên rừng.
Cô con gái tính cách nào mẹ cũng khen hay, nói đến câu nào
cũng rất phải, bà già đã trông thấy trước cái cảnh tượng mới mẻ và sung túc
trong cái chốn lều vườn bé nhỏ của mẹ con mình.
Chiều hôm ấy đang chém củi hái nấm trên rừng, bà mẹ Mi Nàng sực
nhớ tới mấy cái bẫy chim ở nhà nên bảo con đứng đợi, tất tả chạy về lấy đem
lên, Mi Nàng dặn theo: "Mẹ đem cả cái giỏ mới đan lên nữa nhé! Nấm này hãy
còn non xâu vào dây thì rụng hết".
Lần này là lần thứ nhất bà để con một mình trên rừng, vì chỗ ấy
gần nhà, bà ta lại lên ngay được. Tuy thế nhưng trong bụng vẫn thấy bồn chồn
như sắp thấy một điều không hay. Chạy một mạch về rồi lại tức khắc chạy một mạch
lên rừng. Đến nơi, Mi-Nàng đã không thấy đâu nữa. Bà ta chắc con gái đứng sau một
chỗ khuất nào đó nên chưa muốn nghĩ đến cái nguy. Bụng bảo dạ: "Không, con
ta không việc gì đâu, không việc gì hết". Rồi tươi cười giơ mấy cái bẫy và
cái giỏ ra, bà ta nói:
- Lạy ông trời nhé, ông cho mẹ con tôi đến chiều bắt được
nhiều chim... Mi Nàng ơi! Giỏ đây rồi, bẫy đây... Ra đây mắc bẫy với mẹ.
Hai mắt bà mẹ Mi Nàng lộ ra vẻ sợ, mà miệng cứ mỉm cười:
- Con ơi, Mi Nàng ơi! Mi Nàng à!
Bà già bỗng thất sắc. Mặt nhăn như người chực khóc, tiếng gọi
hơi run run:
- Mi Nàng, Mi Nàng đâu con?
Bà già liền đi quá vào chỗ con tìm nấm lúc nãy rồi cất
tiếng gọi lớn. Các bụi cây quanh đó yên lặng không trả lời! Bà già cuốn cuồng
lên, vứt mấy cái bẫy xuống đất, sấn vào trong đám lá rậm, đâm thẳng xuống bờ suối
rồi tức tốc lại trở ngược lên, hai mắt mở trừng trừng, vùa chạy vừa nhìn hết mọi
chỗ, miệng thì mấp máy không ra lời; chốc chốc lại gào lên mấy tiếng gọi:
- Mi Nàng!... Mi Nàng!... Mi Nàng!!!...
Trời đã gần tối, tìm Mi Nàng không thấy được nữa, bà già bỏ cả
củi, cả nấm, cả bẫy, không thiết gì hết, vừa khóc thê khóc thảm, vừa lểu thểu về
nhà. Bây giờ vẫn còn chút hy vọng! Vào trong lều: vắng ngắt. Trông khắp bốn
phía, nhìn cả xuống gầm chõng, lục cả sau đám chăn áo: không thấy đâu! Không thấy
đâu! Con gái bà già hẳn bị hổ bắt mất rồi. Thế là xong, thế là biến mất cái vui
sướng mà bà ta đã tốn biết bao nhiêu công lao mới được hé thấy...
Bà già bỗng thét lên khóc rồi văng mình xuống chân chõng, dứt
tóc, cào đất, vùng đứng dậy rồi lại gieo mình! Khóc đã khản cổ, đã mất cả tiếng;
tâm thần muốn cho say mê để quên khổ, trời đất muốn cho tan nát để mình tiêu diệt
theo... Trong lúc đau đớn, mình khóc gào như vẫn nghe thấy con gái sùi sụt, như
trông thấy con gái đứng ở tận những quả núi nào đang cứ vùn vụt lùi xa... Bỗng
lại vùng đứng lên, bà già đâm bổ vào trong rừng, đầu thì lắс, mồm thì há, tay
thì múa, chân thì lảo đảo, rồi ngồi xuống bên một bụm cây âm tối nói cho nó
nghe những lời kỳ quái như không phải tiếng người. Rồi lại đứng vươn thẳng mình
trong giữa cái cảnh thầm thì bí mật ấy, bà ta quắc mắt nhìn đây nhìn đó, quần
áo sốc sếch, đầu tóc bù rối, ghê gớm, độc ác như hình tượng của sự căm hờn. Đứng
như thế một lúc lâu, không nói năng gì, rồi chân nam đá chân chiêu, bà già lảo
đảo về nhà nằm vật lên trên mặt chõng.
Sáng hôm sau, bà mẹ Mi-Nàng chợt tỉnh cái giấc mê mệt mà bao
nhiêu đau đớn đã làm cho ngất đi từ đêm qua. Bà ta ngồi dậy khóc lóc một hồi.
Thoắt nín bặt, mắm môi lại, bà ta đai lưng vấn tóc, cầm lấy con dao rừng lăm lẳm,
rồi bước ra. Trên mặt không còn ngấn nước mắt chảy, chỉ thấy hiện ra một vẻ dữ
tợn lạ thường. Bà ta xông thẳng vào rừng, từ cái chỗ vứt những bẫy chim hôm trước
đi trở lên, rồi cứ đi sâu vào mãi, theo một đường cây lá rẽ ra chỉ để vừa lọt
được một người. Đến một chỗ ánh sáng soi xuống nhiều nhất, người đàn bà đứng lại,
chăm chú nhìn như mới trông thấy vật gì quái gở lắm. Cúi xuống nhặt, thì ra đó
là những mảnh áo chàm thẫm máu, những mảnh áo của Mi Nàng! Bà già mặt tái đi
như người chết, răng nghiến lại, rít lên một tiếng tưởng đứt ruột, rồi vừa nguyền
rủa vừa cắm đầu bước lên.
Suốt một ngày hôm ấy bà mẹ Mi Nàng không lúc nào ngơi chân,
chúi vào các bụi cây, len qua mọi chỗ rậm rạp, liôn tay chém những dây dợ chằng
chịt nó soắn súyt dưới chân và những cành lá đâm ngang trước mặt; luôn mồm vừa
chửi vừa nói:
"À phải, à phải, bà không có sợ mày, bà giết chết mày!
Giết chết mày bằng được, bà mới nghe".
Cái giọng nói với cử chỉ của bà Mi Nàng quả quyết và đáng sợ
đến nổi giá con hổ lớn ở Sam Na có nghe thấy chắc cũng phải rùng mình. Vì chính
nó đã vồ mất người con gái.
Từ ngày hai mẹ con nhà này đến ở đây, con hổ ấy vẫn có ý dòm
dỏ nhiều lần. Nhưng bà ta đã phòng bị sẵn. Ban đêm thì trong túp lều vẫn có đống
lửa cháy sáng làm cho nó phải xa lánh. Ban ngày thì nó lại sợ tiếng cái ống nứa
ngộ mà lúc nào bà ta cũng đem theo. Vả lại cái vẻ mạnh bạo của người đàn bà Mán
hình như đã có một oai lực làm nhụt hẳn cái dữ tợn của con quái vật. Hai con mắt
bà ta lúc nào cũng như lửa, hình như vẫn coi chừng cái nguy hiểm, mà nếu gặp phải
thì bà ta sẽ một tay ôm giữ lấy con, một tay múa con dao rừng ra tứ phía như
vung ra bao nhiêu cái đảm lực thiêng liêng của tình mẩu tử. Chết thì bà ta liều
chết, chứ chạm vào con gái bà ta là không xong.
Không ngờ cái lúc bà mẹ Mi Nàng để con gái một mình lại là
lúc con hổ vẫn chờ đợi. Bà ta chua xót hối hận. Hết chửi rủa con hổ lại lấy đủ
các tiếng tệ hại để tự rủa lại mình. Nhiều lúc đang bước xăm xăm, bà ta bỗng đứng
lại lấy tay cử vả mãi vào mặt, rồi hai chân dậm đất, bà ta ngửa cổ hắt ra bao
nhiêu tuyệt vọng cay đắng trong một tiếng hét dài.
Rồi từ đó, người đàn bà Mán quên ăn, bỏ ngủ, quyết chí tìm
cho được con hổ để báo thù cho con.
Ban ngày thì không có bụi cây hõm núi nào bà ta không sục đến,
đầu tóc thì chằng quấn dây rợ, váy áo thì bươm rách vì cành gai, mặt mũi chân
tay bị lá sắc nó cứa váo như bị chém; máu có chảy nhiều quá thì bà ta chỉ
lấy cánh tay chùi ngang một quệt, như không biết gì là đau. Ban đêm thì lại ngồi
ở cửa rừng mà đợi.
Những lúc vắng khuya một mình giữa nơi hoang dại, tưởng chửng
như hồn con gái bây giờ đương vơ vẩn bên mình, nỗi thương đau của người đàn bà
như dội lên đến cực điểm. Nhưng không khóc hay là không khóc ra lời, bà ta chỉ
đem baо nhiêu nổi phẫn giận cực khổ trong lòng gửi vào một tiếng hú. Đó là cái
tiếng hú hồn lạnh lùng thê thảm đã làm cho dân Khao la sợ hãi luôn mấy đêm trời.
Bà ta ngồi đó, сố ý đợi cho con hổ đến. Nhưng hình như con vật
cũng biết, chỉ tìm lối khác ra kiếm ăn. Còn ban ngày thì nó vẫn lẩn lút một nơi
không để cho người đàn bà bắt gặp. Nhiều lần nó có dịp để hại người đàn bà Mán,
nhưng có lẽnó còn ghê còn gớm một sức gì khó hiểu ở một người dữ tợn nhất trong
giống người tinh khôn kia.
° °
°
Đến mãi ngày thứ bảy bà ta mới tìm đượс sào huyệt con hổ cái.
Sau bảy đêm ngày cơ cực. Giá không có ngọn lửa hăng hái mà tấm lòng quả quyết
báo thù nó vẫn đốt lên trong lòng người mẹ kia, thì chắc hẳn bà ta không còn
gan sức nào chống được với nỗi khổ sở mệt nhọc. Chiều hôm ấy, bà ta đi tới một
chỗ có nhiều bụi cây râm và lớn thì chợt thấy mấy con hổ còn nhỏ đang lăn lộn ở
trước một cái hõm tối cành lá chùm phủ như che tàn. Bà ta đứng nấp một nơi rình
xem thì biết con hổ mẹ đi vắng. Bà Mi Nàng liền rón rén lại gần rồi xô ra đâm
chết được ba соn. Hai con kia hồng học chạy trốn mất. Sức lực đã gần đến lúc kiệt,
bâv giờ lại thấy trở về đầy đủ, bà ta vác ngay ba con hổ chết đem về quẳng ở
sau nhà. Biết trước con hổ cái thế nào cũng về hang, bà ta liền sắm dây rợ rồi
nai nịt gọn ghẽ cầm lăm lâm con dao đi vào rừng. Đến bên hang nằm đợi cho tới
khuya mà vẫn không thấy con hổ mẹ về: có lẽ nó đi tìm những con hổ con đã bị bà
ta giết.
Đêm ấy là một đêm về giữa tháng chín, bóng trăng sáng tỏ ló
qua những từng lá cây thưa. Vào khoảng quá nửa canh hai, bà ta thấy trong hang
thơ thẩn đi ra hai con hổ chạy thoát lúc nãy. Bà Mi Nàng nghĩ ra được một ý, lập
tức chạy ra giết phăng đi rồi vừa trói chặt hai chân sau hai con hổ lại vừa
nguyền rủa:
"Mày giết con tao! Mày không trả con tao. Tao cũng giết
con mày. Tao lại giết mày nốt". Nhưng chỉ giết con hổ cái cũng chưa hả giận,
bà ta muốn cho trước khi bị giết, hổ mẹ phải trông thấy hổ con chết, mà chết vì
tay mình.
Bà ta vừa trói xong hai con hổ con thì chợt nghe thấy những
tiếng chen lá dẫm cành đi gần lại. Biết rằng con hổ lớn đã đến, bà ta bèn cầm lấy
một đầu dây rồi trèo lên một cái cây ở gần.
Trong nẻo đường tối từ chân rừng đi lên, bà ta thấy hai con mắt
xanh lè ở giữa những mảnh sáng trăng mập mờ và lay động. Một lát thì trông thấv
cả cái mình vừa dài vừa lớn của con vật. Nó đứng lại một lát dưới những tàn lá
thấp, đuôi hơi ve vẩy, hai mắt từ từ chớp như úp mở hai ngọn đèn to. Rồi nó lại
thong thả bước lên; đi chưa được xa nghe tiếng động đằng sau nó toan quay trở lại.
Nhưng xem chừng đã ngửi thấy hơi lạ nên nó đủng đỉnh bước thẳng về hang.
Trên kia người đàn bà Mán đã buộc hẳn mình vào mội cành cây
to và đã thắt cái dây dài trói hổ vào trạc bên cạnh. Con hổ vào hang hình như
kinh ngạc lắm. Nó ngoắt ra, trông ngay thấy hai con mình treo lủng lẳng gần đó
thì nhe nanh mà gừ. Chợt lại thấy có bóng người trên cây, con hổ nghe chừng đã
hiểu, nên lồng lên và gầm một tiếng cực dữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét