Có người yêu thơ và hay tập tành làm thơ, sau khi đọc một tác
phẩm “Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng” của một người làm thơ viết về một
người làm thơ khác (Tuệ Sỹ viết về Tô Ðông Pha) đã cảm khái:
“Nghe từ thiên cổ
lời ru mênh mang
bước vào cuộc Lữ
mấy chuyến đò ngang.
Tà dương có khóc
Nắng ngả ánh vàng
Mưa bay thoảng chốc
Thiên địa hoang tàn
Một người đọc thơ
Nhìn trăng vừa khuyết
Sinh tử đâu chờ
Vòng quay nhật nguyệt.
Ði vào đất trích
Quanh quẩn nhân gian
Cho tròn vai kịch
Giây phút muộn màng
Phương trời viễn mộng
Sẵn lúc chào đời
Bốn bề gió lộng
Người ơi, Thơ ơi!!”
lời ru mênh mang
bước vào cuộc Lữ
mấy chuyến đò ngang.
Tà dương có khóc
Nắng ngả ánh vàng
Mưa bay thoảng chốc
Thiên địa hoang tàn
Một người đọc thơ
Nhìn trăng vừa khuyết
Sinh tử đâu chờ
Vòng quay nhật nguyệt.
Ði vào đất trích
Quanh quẩn nhân gian
Cho tròn vai kịch
Giây phút muộn màng
Phương trời viễn mộng
Sẵn lúc chào đời
Bốn bề gió lộng
Người ơi, Thơ ơi!!”
Viết về Tô Ðông Pha, mà nghe như viết cho chính mình. Tuệ Sỹ,
trong cái quay cuồng của lịch sử, đã nhìn vào chặng lữ hành của lịch sử để tìm
vào cõi sâu kín của vòng chuyển dịch. Ông, không phải trong vai trò thiền sư để
đi tìm cái uyên áo mà, với thái độ mơ mộng lãng mạn đi tìm cho riêng mình một
cõi thơ riêng. Ông viết:
“Thơ vẫn là một cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung, của Thời Ðại
và Lịch Sử. Từ cuộc Riêng, Thơ nương theo cánh của Thi và Dịch để đi về nơi Hoằng
Viễn, dẫn Lịch Sử Uyên Nguyên tụ hội với Thời Ðại. Hình như những sự này tôi
nghe được từ nơi thơ của Tô Ðông Pha, nhưng có nghe lộn hay không thì không biết…”
Kinh Thi và Kinh Dịch là những trầm lắng suy tư của người
xưa, theo Tuệ Sỹ là hai cánh chim lớn của con thần nhạn chuyên chở định mạng của
dân tộc Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Ðông. Thi và
Dịch, là suy ngẫm để tìm đến đích đến rốt ráo của Chân Lý. Và, cũng là những
phiến gương soi để tìm lại những bóng hình vẫn còn hiện hữu dù đã xa xôi những
không gian, thời gian muôn trùng…
Có những câu thơ, của thấp thoáng tình Riêng trong Ý chung.
Thấp thoáng nỗi niềm của Tuệ Sỹ trong ngôn ngữ một thuở Thịnh Ðường. Dù thơ lục
bát, của ngữ ngôn thuần túy Việt Nam, nhưng giấc mộng vẫn vút cao
“Ðồi mai ngơ ngác nụ cười
cánh hồng lả mộng của đời lưu ly
tồn sinh thấp thoáng nẻo về
dấu trơ bãi tuyết, ngoài tê cánh hồng
Sư già, tháp mới, hồn không
Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ
Gập ghềnh năm tháng, hay chưa?
Ðường dài người mỏi, gót lừa kêu đau…”
cánh hồng lả mộng của đời lưu ly
tồn sinh thấp thoáng nẻo về
dấu trơ bãi tuyết, ngoài tê cánh hồng
Sư già, tháp mới, hồn không
Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ
Gập ghềnh năm tháng, hay chưa?
Ðường dài người mỏi, gót lừa kêu đau…”
Ôi, những phương trời viễn mộng, của những kiếp nhân sinh
trôi nổi theo dòng thời thế, của nỗi niềm người tha hương lưu lạc ngay trong
chính đất nước mình. Những canh trường mộng, những lời nỉ non nghe vẳng lại từ
hai bờ tịnh không của cảm xúc. Vẫn, vần lục bát, lời của Tuệ Sỹ, làm vẳng nhớ đến
Tô Ðông Pha thuở nào xa xưa:
“Ðá mòn phơi nẻo tà dương
nằm nghe bước lũ khóc chừng Cuộc Chơi
nghìn năm vang một nỗi đời
gió đưa cuộc lữ lên lời Viễn phương
đan sa rũ mộng phi thường
đào tiên trụi lá bên đường Tử Sinh
đồng hoang mục tử chung tình
Ðăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô”
nằm nghe bước lũ khóc chừng Cuộc Chơi
nghìn năm vang một nỗi đời
gió đưa cuộc lữ lên lời Viễn phương
đan sa rũ mộng phi thường
đào tiên trụi lá bên đường Tử Sinh
đồng hoang mục tử chung tình
Ðăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô”
Viết về bài thơ, viết về cái tâm tình của bờ biển lớn, của
cõi hoang vu mà thiên nhiên là đại dương bí ảo để, ở đó những dấu chân tỏ mờ
trong ngã về hoang lộ. Tuệ Sỹ viết:
“… Người đã lãng phí trọn vẹn tinh thể của người, để cho
thiên nhiên tỏ bày ân tình trơ trọi, như viên sỏi bên đường lây lất với nắng và
gió. Nắng lên cùng với dấu hiệu của hao mòn và sụp đổ. Gió lên cùng với những ước
nguyện thiên thu phảng phất ra ngoài khung trời Hoằng viễn và Tịch nhiên. Mộng
Phi Thường được ký thác trong đan sa trong dấu hiệu của trường sinh bất tử,
nhưng đường Sinh tử đi trong cõi Hoằng viễn Tịch nhiên, ấy thế mà không bao giờ
dừng bước cho Lữ Khách một lần ngụ cư ở đó. Sống và Chết vẫn còn như một nỗi đời
hư huyễn, vẫn rầm rộ như một cuộc chơi. Giữa khoảng đồng rộng, đồng trống, đồng
không mông quạnh. Mục tử đăm chiêu tư lự những chuyện đường đời. Và Lịch sử qua
bóng dáng con Hạc gầy, rồi tự hỏi; Ðâu là Cõi Mộng Thiên Thu?..”
Ðọc “Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ để
thấy từ một người hậu sinh sau những thế kỷ dài đã chia sẻ với Người Thơ những
nỗi niềm của những người tri kỷ. Thời thế có khác, đất nước có khác, nhưng chất
Thơ vô cùng bát ngát của những phương trời mở ra mênh mông những cánh vỗ để đi
vào cái tận cùng của ngữ ngôn, để bay vào cái vô tận của ý tưởng. Viết về thơ
đã khó, giải thích thơ lại khó hơn nhưng tái tạo lại không gian thơ, lại khó bội
phần. Thơ ở trong thơ, không chỉ là cái khám phá hời hợt bên ngoài, mà, Thơ có
tham vọng đi sâu vào cõi vô thủy vô chung của những nốt lặng của một bản trường
ca chưa hoàn tất. Chính cái dở dang ấy, là thái độ của người thơ, dù trong hoàn
cảnh lao lung cấm cố, bốn bề là những bức tường đá lạnh lùng, mà, hồn vẫn thoát
đi, bay bổng, không có gì ngăn chặn được. Thơ, là thái độ sống, là sự thản
nhiên của người hiểu biết được cái vô cùng nhỏ nhoi nhưng cũng vô cùng lớn lao
của tâm thức con người…
Một buổi tối, đọc lại tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn. Không dừng
lại được, ngồi dậy bật máy, viết… Những tâm cảm đón nhận được từ những câu thơ.
Như những làn sóng lan tỏa từ mặt nước yên tịnh. Ngoài trời chắc khuya lắm thì
phải. Và những giọt mưa, mù mịt đất trời. Sắc không, còn mất, có lúc như hơi thở
nhẹ. Lắng nghe từ vô thức, tôi đọc…
Có những điều, nói nhiều mà chẳng đủ. Cũng như có những việc,
nói ít mà vẫn thừa. Chuyện thi ca, có khi chỉ một giây phút, hiểu rồi, sẽ bất
khả tư nghị. Tôi không dám làm người vẽ rắn thêm chân, vẽ rồng thêm cánh. Mà,
tôi chỉ diễn tả cái tâm chân thực của mình. Ðọc rồi cảm, cái quá trình ấy phải
chăng là lúc này, khi mọi lắng đọng đã theo giấc ngủ ngon vút mất. Thơ như
cáinh tay lay động, thức tỉnh ngũ quan..
Ðóng lại tập thơ. Với bài thơ cuối. Những câu lục bát đơn sơ.
Như một lời nhắn nhủ. Có thể với chính mình nhưng cũng có thể là một ai khác,
cùng mang khắc khoải trong lòng. Một chút vỗ về, một chút xao động thoảng qua.
Bước chân ai, đi về, biền biệt.
“Khói ơi, bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần ra hoa.”
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần ra hoa.”
Tại sao lại nhớ những lần cây nhỏ ra hoa? Có phải vì ý niệm
thời gian? Tôi nghĩ là không phải. Mổi lần ra hoa, là một lần sự phát triển đến
mức tuyệt đối. Trong hành trình của con người, có phải là đi tìm một cái gì tuyệt
đối mà chẳng bao giờ nắm bắt được. Cõi vĩnh hằng, có khi là khói sương, là những
mong manh vô định….
Giấc mơ Trường Sơn – Những bài thơ có man mác ý tình, của cái
tâm như biển động lúc nào cũng trào khơi theo ngàn sóng vỗ. Không nói đến thời
thế mà quê hương vẫn hiển hiện trong thơ. Những nhọc nhằn của một thời đại nhiều
máu lệ. Những giấc mơ của những người tham dự vào lịch sử một cách bất đắc dĩ.
Những người nhìn thấy Trường Sơn vòi vọi nhân chứng.
Quê hương, những bước chân đi của mười năm, những mốc thời
gian đau đớn.
“Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua dấu tích điêu tàn
Triều Ðông Hải vẫn thầm thì cát trắng
Truyện tình người và nhịp thở Trường Sơn.
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
Ðời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như lòng ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Ðôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Ðông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương”
Nhìn quê hương qua dấu tích điêu tàn
Triều Ðông Hải vẫn thầm thì cát trắng
Truyện tình người và nhịp thở Trường Sơn.
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
Ðời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như lòng ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Ðôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Ðông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương”
Có phải đó là tự truyện của một người Việt Nam? Ở bên kia?
hay bên này? Của chiến tuyến đã vạch sẵn từ bao nhiêu năm nay. Dường như đó là
nỗi niềm chung mang của cả một thế hệ? Ở phố thị, lầm lì với những tâm tình khó
ngỏ thành lời. Trời thì cao mà bàn tay thì khó với tới những ước nguyện và chim
trời thì lênh đênh những cánh nhỏ ngơ ngác bên đường. Mười năm rồi tiếp mười
năm, quê hương vẫn chỉ là những con sông huyết lệ. Ngày trở về phố cũ vẫn man
mác nỗi hờn thiên cổ, của những người hình như mất mát một quê hương.
Thơ Tuệ Sỹ, trong ngôn ngữ bình dị có những suy tư thâm trầm.
Xúc cảm hình như cố gắng để lắng đọng lại và ý tưởng cũng được trình bày một
cách gián tiếp để trong màn sương mờ ảo ấy, thấy được cái lẽ xoay vần của thời
thế.
Thi sĩ cũng làm thơ tù. Cũng những ngày biệt giam, cũng những
bức tường cao nhưng sao lồng lộng gió và đầy trăng sao. Cái thong dong của tâm
thể đã vượt quá cái cùm gông của thân xác …
“…Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Ðổi hình hài con mắt vẫn đầy Sao.”
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Ðổi hình hài con mắt vẫn đầy Sao.”
Viết ở trại giam Phan Ðăng Lưu mà tưởng đến quán trọ của ngàn
sao, có lẽ chỉ có một mình Tuệ Sỹ! Sự tưởng tượng ấy như cánh buồm đưa con thuyền
ra khơi về chân trời nào mênh mông chỉ có được từ những hồn thơ trải theo muôn
dặm bát ngát. Thơ, vô úy, thong dong. Thơ, như trèo qua được con dốc thực tại để
đến một nơi, rộng khắp bao la
“Mắt em quán trọ của ngàn sao
Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào
Pha loãng nắng tà dâng cát bụi
Ấm lòng khách lữ bước lao đao
Mắt huyền thăm thẳm mượt đêm nhung
Mưa hạt long lanh rọi nến hồng
Sương lạnh đưa người xanh khói biển
Bình minh quán trọ nắng rưng rưng.”
Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào
Pha loãng nắng tà dâng cát bụi
Ấm lòng khách lữ bước lao đao
Mắt huyền thăm thẳm mượt đêm nhung
Mưa hạt long lanh rọi nến hồng
Sương lạnh đưa người xanh khói biển
Bình minh quán trọ nắng rưng rưng.”
Có những vần thơ ngưng đọng, xót xa. Như những thề nguyền, hứa
hẹn cho những bước chân lên đường. Những hùng tráng trộn lẫn với bi thương.
“… Ta đã hát những bài ca của suối
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ soi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.”
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ soi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.”
Những câu thơ diễn tả tâm trạng của một người muốn làm chuyện
đội đá vá trời. Ta đã hát những bài ca của suối. Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời… Lời
suối thầm thỉ muôn năm. Hát bài ca đó, có phải là từ thiên thu vọng lại. Gã anh
hùng? Ta? Hay kẻ khác? Bẻ vụn mặt trời, để đêm tối kéo về, để quỷ sứ từ âm ty
kéo dậy, để hãi hùng rừng núi những ánh ma trơi…
Một bài thơ viết giữa những ngày tháng tư năm 75 ở Nha Trang,
lúc tình trạng đất nước nghiêng ngửa. Bài thơ, như một mốc dấu tích
cho những ngày tháng không thể xóa nhòa trong tâm khảm những người dân Việt.
“Phố trưa nắng đỏ cờ hồng
Người yêu cát bụi đời không tự tình
Sầu trên thế kỷ điêu linh
Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu
Hận thù sôi giữa ráng chiều
Sông tràn núi lở nước triều mênh mông
Khói mù lấp kín trời đông
Trời ơi tóc trắng rủ lòng quê cha
Con đi xào xạc tiếng gà
Ðêm đêm trông bóng Thiên Hà buồn tênh
Ðời không cát bụi chung tình
Người yêu cát bụi quê mình là đâu?”
Người yêu cát bụi đời không tự tình
Sầu trên thế kỷ điêu linh
Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu
Hận thù sôi giữa ráng chiều
Sông tràn núi lở nước triều mênh mông
Khói mù lấp kín trời đông
Trời ơi tóc trắng rủ lòng quê cha
Con đi xào xạc tiếng gà
Ðêm đêm trông bóng Thiên Hà buồn tênh
Ðời không cát bụi chung tình
Người yêu cát bụi quê mình là đâu?”
Cát bụi, từ ngữ được nhắc đi nhắc lại một cách cố tâm. Người
yêu cát bụi đời không tự tình. Rồi Ðời không cát bụi chung tình. Người yêu cát
bụi quê mình là đâu? Cát bụi, hình ảnh của hỗn loạn, của những lênh đênh ngày
tháng. Bài thơ diễn tả nỗi niềm của một người ngơ ngác giữa vần xoay của thời
cuộc… Tháng tư năm 75, những ngày tháng chẳng thể nguôi quên. Dù là một thiền
sư cố giữ lòng không vọng động. Mà sao vẫn ầm vang thác lũ nỗi niềm.
Thơ Tuệ Sỹ có lúc cô đọng đến chẳng thể ngắn gọn hơn. Như những
hé mở, để ở đó tầm nhìn bị kích thích để trải dài tới sâu xa rộng khắp hơn.
Không phải thơ haiku của những cây trồng ép mình trong chậu bonsai mà ở đây tự
nhiên sống đời thảo mộc trong khổ hạnh chịu đựng náu thân vào ngôn ngữ.
“Bứt cọng cỏ
Ðo bóng thời gian
Dài mênh mang”
Ðo bóng thời gian
Dài mênh mang”
có:
Buổi sáng tập viết chữ thảo, có một chút mênh mang thời cũ
nhưng cũng có những khắc khoải bây giờ. Ban mai là lúc tấm lòng mở ra, vô tận.
Thơ, cũng phơi phới, an nhiên vô ngại:
“Sương mai lịm khói trà
Gió lạnh vuốt tờ hoa
Nhè nhẹ tay nâng bút
Nghe lòng rộn âm ba”
Gió lạnh vuốt tờ hoa
Nhè nhẹ tay nâng bút
Nghe lòng rộn âm ba”
Tụê Sỹ. Thiền sư khổ hạnh. Hay một nghệ sĩ phiêu bồng. Hay là
chiến sĩ tranh đấu cho dân tộc cho đất nước với sự sắt son kim cương vô hoại.
Thơ cũng trong những góc cạnh ấy để có một đời sâu sắc phong phu mà ngôn từ
bình dị như thanh kiếm gỗ của Ðộc Cô Cầu Bại trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim
Dung sắc bén hơn vạn lần bảo kiếm. Thơ Tuệ Sỹ, ngôn ngữ đời thường để biểu hiện
tấm lòng bồ tát…
Trong cuộc hành trình, đời sống mở ra những cảm xúc. Tuệ Sỹ
làm thơ trong cái phơi phới của thiên nhiên, của núi cao mây trắng, của bến cũ
neo thuyền, của mặt biển khơi xao động. Bài thơ “Một Bước Ðường”, không có
phong vị của một bài hành nhưng sao nghe như có một điều gì bừng dậy của tâm
tư, của những tâm can bừng bừng ngữ ngôn:
“Một bước đường thôi nhưng núi cao
trời ơi mây trắng đọng phương nào?
Ðò ngang neo bến chờ sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao
Một bước đường xa xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra biển bình minh đó
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trong bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy ngàn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạy lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu áo
Trên phím dương cầm hay màu xanh…”
trời ơi mây trắng đọng phương nào?
Ðò ngang neo bến chờ sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao
Một bước đường xa xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra biển bình minh đó
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trong bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy ngàn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạy lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu áo
Trên phím dương cầm hay màu xanh…”
Giấc mơ Trường Sơn, một tập thơ mỏng nhưng chứa đựng nhiều biển
trời và đại dương như thi sĩ Bùi Giáng đã nhận xét khi đọc một bài thơ trong
đó. Và tôi xin được trích dẫn lại thay cho lời kết bài viết này:
“… Thi nhân đã mấy phen ngồi ngắm trăng tàn. Ngồi trên một đỉnh
đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp với chân
trời xa xôi đại hải?
Ðỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển.
Ðỉnh đá quy tụ về mọi hướng màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải
hàm của trùng dương. Ðó là cái bất tận của tâm tình đứng sững tại giữa tuế nguyệt
phiêu du. Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Ðường thi
Trung Hoa đến siêu thực Tây phương…”.
Nguyễn Mạnh Trinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét