Quý IV năm 2015, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tập thơ Những
ngọn gió đồng của Nhà thơ Bình Nguyên.
Những ngọn gió đồng là tập thơ thứ 5 trên hành trình thơ
gần hai mươi năm của Bình Nguyên. Dù đến với thơ khá muộn, 5 tập thơ chưa phải
là nhiều, nhưng chân dung thơ anh đã hiện rõ dần trên thi đàn qua mỗi
tập thơ, mỗi cuộc thi thơ.
Để có được nghiệp thơ đích thực, mỗi nhà thơ phải có được thi
pháp cho riêng mình. Có thể nói, Bình Nguyên là người luôn trăn trở, dày công
trên con đường tìm kiếm thi pháp. Ví như ngay trong cách đặt tên cho mỗi tập
thơ, mỗi bài thơ, người thơ đã đặt nó hướng tới mục tiêu thiết cốt này: Lang thang trên giấy; Đi về nơi không chữ; Trang anh... Đó là cách
chơi chữ, nói ngược. Không có chuyện lang thang, dạo chơi... về nơi không chữ đối
với nghiệp thơ. Trái lại, là sự săn tìm, "phu chữ", để những gì được
viết ra chỉ còn là tình, là ý sâu nặng nằm sau chữ, ẩn chìm trong xác chữ.
Thơ Bình Nguyên không dễ đọc, không thể cắt nghĩa, bình giảng
theo lối giảng giải thông thường, triệt để khai thác những đặc tính khác thường
cho phép của thơ, chọn cho thơ mình một lối đi riêng. Thơ nặng tính triết lý,
nghiêng về tính phi lý, suy tưởng, ẩn dụ, liên tưởng, tưởng tượng để xác lập
trường thơ. Tôi đặt tên cho bài viết: Gió đồng trong mắt bão, cũng là ngầm
võ đoán, liệu có phải chăng về những ý tưởng nung nấu làm nên thi pháp Bình
Nguyên? Ở bài viết này tôi không có ý định đi sâu viết về sự thành
công của tập thơ, ở nội dung, tư tưởng và nghệ thuật mà chỉ khai thác ở một số
bài đại diện, minh chứng cho thi pháp Bình Nguyên. Khi đã làm nên thi pháp
riêng thì đó không chỉ là thành công của tập thơ mà nó đã khẳng định vận số,
tên tuổi một nhà thơ rồi.
Mở đầu tập, là bài thơ: Dưới bóng cây, đó có lẽ cũng là
một trong những bài thơ khó đoán định nhất đối với người đọc ở tập thơ này. Vòm
cây, mà nào có thấy lá, thấy cây? Ở đó chỉ là chuỗi dài những tưởng tượng, những
giả thiết, suy đoán theo khúc quanh tâm trạng của nhà thơ cho đến tận khổ kết: Dưới
bóng cây ta muốn gột rửa mình/ Muốn nhặt một tiếng chim dưới bầu trời sạch sẽ/
Những tiếng chim đã rơi từ đơn lẻ/ Xuống vòm trăng khát tiếng gọi em về. Hóa ra
vòm cây chỉ là cái cớ, là một không gian ảo cho những hoài bão, ước mơ khao
khát bay bổng về thế giới tâm hồn, thế giới nhân sinh. Thế đấy, cái vòm cây,
cái khoảng mát mà chỉ có những người trong khô khát, bỏng rát, ngột ngạt, giàu
liên tưởng mới thấy. Và họ cũng phải biết vì người, vì cả môi trường sống trong
lành theo nghĩa rộng, mới cảm nhận được. Khi đã vượt qua những đỉnh cao ẩn dụ,
phi lý, suy tưởng để thấm được thơ, thì mới thấy những giá trị nghệ thuật, đến
thi pháp quan thiết đến chừng nào? Để người đọc có thể đồng tình, nhà thơ đã phải
trông cậy vào sự suy tưởng, mơ hồ, biến ảo: Những, ngọn gió thổi đêm vẫn
thường lật mặt, rồi cây phải lớn lên từ bóng tối/ Bởi những mầm cây xuyên
đêm sẽ không bao giờ lạc lối/ Qua úa tàn lại biết tự hồi sinh...Đó là những định
hướng vận động chân thiện, sinh tồn trong cõi thế, làm nên tư tưởng thâm hậu
cho thơ. Để có những tiếng chim rơi xuống không gian thơ đầy mộng mỵ, biến ảo
này, là cả một quá trình tự nhận thức đến hành động quyết liệt nhiều thế hệ, cả
cộng đồng, bằng mồ hôi và nước mắt.
Nhà thơ nào cũng có những thi phẩm nặng lòng với quê hương.
Quê hương trong thơ Bình Nguyên, ta thường gặp là những hoài niệm, trắc ẩn, lấy
cảm hứng chủ đạo từ bùn đất, nắng, gió, cỏ, cây...
Từ những điều giản dị, gần gũi ấy mà nhà thơ đã có những thi
tứ độc đáo, đủ sức khái quát, liên tưởng tìm về những vấn đề xã hội đương đại
phức hợp lớn lao, về nguồn cội thiêng liêng, thương khó, sâu xa. Ta hãy đọc thơ
viết về gió, về cỏ:
Những ngọn gió đồng là bài thơ được đặt tên chung cho tập
thơ, cũng mang tâm thế ấy. Ngọn gió đồng, muôn đời hiền hòa, trong lành, nâng đỡ
tâm hồn con người, nó như là dưỡng khí, là máu thịt người quê.
Dời phố thị, là dời xa: hiệu ứng nhà kính, khí thải ngột ngạt,
dời xa nỗi bức xúc lừa lọc, bon chen. Là được thả hồn mình, hòa vào những ngọn
gió đồng thân thiện quấn quýt như gọi, như mời: Dời phố phường tôi gặp ngọn
gió quê/ Gió thổi một thổi đôi thổi như dắt tôi giữa những bầy gió chạy/ Tôi
đông cứng gió thổi tôi mềm lại...Và còn gì sung sướng, hạnh phúc hơn khi được
hòa đồng, sưởi ấm bằng tình mẹ, tình quê. Người thơ được ngụp lặn trong suối
nguồn ký ức thương yêu và xa xót của cha mẹ, quê hương đã nuôi dưỡng, làm giàu
có phong phú tâm hồn, tâm trạng thơ mình. Tôi trở về gặp buổi chiều mẹ vục
bóng vào sông/ Gió thổi áo nâu mền lại ngày muối mặn/ Thổi buốt tháng năm thổi
tràn ký ức/ Thổi mát những đau buồn còn nằm khuất đâu đây...Nhưng gió biết thổi
cho nhau biết tự mình mở lối/ Ôi những ngọn gió quê muốn ghim tôi vào đồng nội/
Tôi bước ngược cánh đồng gió lại thổi ngược tôi. Gió thế đâu chỉ còn là gió, mà
là sức bền, sức mạnh nguồn cội, như phép lạ "siêu nhiên"?
Với cỏ, một loài cây thấp bé, yếu mềm, được thi sỹ mọi thời gửi
gắm, ký thác những nỗi niềm nhân thế. Bài Cỏ quê: Ta nghe như anh trò chuyện
tâm tình với cỏ mà lòng người đọc day dứt từ những bảng lảng đâu đâu. Xa
quê, gọi cỏ nghe gần lắm/ Ta bỏ quê đi cỏ đợi về/ Này hương không chắt từ bùn đất/
Nào có thơm đầy kiếp nón mê. Kiếp nón mê, là kiếp sống của những người lao khổ,
có lòng bao dung, nhân hậu, kiên nhẫn, khiêm nhường mà quyết liệt. Họ bị giai cấp
thống trị, miệt thị coi thường, là loại người "thấp cổ bé họng" -
"thảo dân". Đó là những định kiến thấp hèn tệ hại, kéo lùi
lịch sử.
Với nhà thơ, cỏ: thân gần, thân gần như thể cùng sinh ra, chắt
lọc ra từ hương thơm bùn đất, cùng gắn bó bởi hương vị đặc trưng, hương vị đồng
quê: Ta bỏ quê đi cỏ đợi về/...Ta xa mùa cỏ ngày giông bão/ Cỏ gục xuống
chiều níu chân đi...Này ai có tuổi cao hơn cỏ/ Thấp xuống mà nghe cỏ nói gì...Tình
cỏ mật thiết thế, thì sao dễ dàng "dứt áo ra đi" được? Cũng chính vì
thế mà cỏ có sức sống bền bỉ, mãnh liệt, trường tồn. Và Cỏ - thảo dân, có nói
gì chăng nữa, cũng không ngoài sự khẳng định: nhân dân có thể "nâng nổi
thuyền", cũng có thể "lật chìm thuyền", vì tiến hóa nhân loại. Bởi
vậy không chỉ Cỏ quê, mà còn cả 8 bài thơ khác trong tập anh cậy nhờ cỏ để
thổ lộ giãi bày.
Với thi pháp thơ mình, Bình Nguyên có những cách nghĩ khác,
nói khác làm nên sự xúc động, day dứt đối với cha mẹ, người thân, cũng rất khác
người:
Ta mãi như còn nghe được tiếng rên xiết bánh sắt con tàu,
nghiến vào đường ray, nghiến vào tiếng mẹ gọi con đến hụt hơi, như muốn kéo lùi
cả đoàn tàu đưa con ra mặt trận trong bài thơ Sân ga năm ấy:
Mẹ gọi con, tiếng gọi lăn theo đường ray/ Rồi những bánh xe
đưa con vào Nam nghiến lên tiếng gọi/ Mẹ cứ chạy, vập tiếng theo tiếng còi lăn
bánh/ Hai tay bấu vào vệt khói dài/ Bấu như thể kéo chuyến tàu đứng lại.../ Rồi
mẹ trở về với mái nhà đã quen tốc gió/ Chực ngã bao lần nhưng chẳng ngã đâu/ Bởi
mẹ đợi ngày hòa bình trở lại/ Lại đến sân ga chạy dọc những con tàu. Đó chả phải
cách nghĩ lạ và viết khác, rất phi lý mà người đọc vẫn cảm được, nhận ra một sự
thật vô vọng, tuyệt vọng. rồi lại là hi vọng mong manh của mẹ sao? Nó như cuộc
đời dài dặc, xót đau của mẹ được xô đi kéo lại trong khắc khoải đợi chờ, chứ lời
thơ nào phải nói rõ ràng ra. Và chỉ những hình tượng đặc trưng ấy mới xúc động,
ám ảnh vẹn nguyên trong ký ức, dù ngày ấy đã lùi xa chẳng kể tháng năm.
Hình bóng mẹ, những người mẹ luôn ngự trị trong trái tim thơ.
Không chỉ một bài, mà mẹ làm nên hồn vía sinh động, sức sống tập thơ. Bài thơ
nào khi nhắc đến "Mẹ" cũng biểu cảm, xúc động dư ba - quặn lòng: Sông
Đáy ơi/ Trở về nơi tôi sinh ra/ mỏm đất ấy không còn/ Nhưng còn đây cái lần mẹ
vấp...Khi cái rét tràn về thổi rách tuổi thơ tôi/ Rơm rớm máu từng đêm trong mắt
mẹ (Khúc hát sông Đáy). Cái lần mẹ vấp chỉ có thể cảm thấy, mà sao đến giờ
đọc vẫn ghê người? Thơ đã viết ra bằng cái cảm thấy: Tôi trở về gặp buổi
chiều mẹ vục bóng vào sông/ Gió thổi áo nâu mềm lại ngày muối mặn (Những
ngọn gió đồng); Rồi một ngày chỉ còn những dấu gậy bên những dấu chân/
Trong mảnh vườn nắng mưa theo từng mùa lá đổ/ Bóng mẹ còn ở đó/Chống tay lên
bóng gậy đơn thầm (Bóng gậy trong vườn); Những hình tượng mẹ chỉ là sự cảm
thấy mà chân dung mẹ lầm lũi cô đơn, se thắt, hoang hoải...Mẹ gom lại những dặn
dò kiếp trước/ Làm hành trang cho ta đến bạc đầu...Không biết mẹ đi qua bao nỗi
đau/ Để điềm tĩnh chiều chiều phơi tóc/ Tóc mẹ bây giờ không trắng nổi nữa đâu (Bài
ca về màu tóc)... Nước mắt mẹ đã đắng vào gió trời lại chát vào lòng đất/
Lẩy bẩy bóng đêm, buôn buốt phía con nằm" (Mộ gió)... Đành rằng viết về
người mẹ, người "mang nặng đẻ đau" thì khi nào cũng xúc động. Nhưng ở
nhiều bài thơ, nhiều trạng huống trong một tập thơ, mà khi nhắc tới mẹ đều làm
người đọc phải chùng xuống thì nội lực thơ không thể xem thường.
Ngay cả trong mảng thơ tình, Bình Nguyên cũng vẫn nghiêng về
những mất mát, thiếu hụt, xa xót, cần được nâng đỡ, sẻ chia chứ không có sự
viên mãn tròn đầy. Ta lại thấy người thơ sử dụng rất diệu nghệ hình tượng gió
trong một thi phẩm khác:
Vẫn là gió, nhưng là Gió qua cầu, vẫn là từ những ẩn dụ,
mơ hồ... đã làm nên tứ thơ tình khác lạ:... Bữa ấy gió qua cầu/ Anh rút ván để
em bầm vết xước/ Chẳng bắt được giấc mơ/ Anh đuổi theo rồi chìm vào tiếng nấc/
Rồi trượt ngã xuống em/ Sau một lần thức giấc... Những lời thơ, những câu
thơ tưởng vu vơ chẳng nhắm tới đâu, đó lại là sự ân hận, dằn vặt về một lỗi lầm.
Không biết "anh" hữu ý hay vô tình, đã gây ra lỗi lầm gì làm tổn
thương "em"? Chắc là nặng nề, nghiêm trọng lắm nên mới liên tưởng tới
thành ngữ "qua cầu rút ván". Dẫu ẩn dụ, người đọc vẫn sẽ nhận ra:
"anh" qua cầu rút ván, chứ đâu phải "gió". Vì vậy mặc cảm lỗi
lầm cứ bám riết truy sát "anh" đến tận giấc ngủ, làm giật thột, vấp
ngã trong cơn mê sảng. Và rồi cái kết mới lộ ra "gió". Người thơ đã
điều khiển "gió" như có phép màu: Ta trở lại mùa sau/ Em đã lành
vết xước/ Nhưng anh ạ làm sao em ấm được/ Cứ mỗi lần trở gió để anh đau. Giờ là
em đau và đây mới là nỗi đau "vĩnh cửu" của tình yêu dâng hiến lứa
đôi. Bởi có bao giờ hết gió, cứ gió lên là anh lại nhớ và ân hận, nên sự ân hận
không thể chữa lành. Mỗi lần như thế em thương xót, thương xót đến buốt lòng.
Vì yêu là "nguyên lý bình thông" mà. Tình yêu là thế, xin "nương
nhẹ" thận trọng giữ gìn đừng để tổn thương nhau.
Có thể đọc bất cứ bài thơ nào trong tập, ta cũng bắt gặp cách
nghĩ lạ, viết lạ mang dấu ấn riêng. Bài viết này mới điểm đến những bài thơ đại
diện. Đọc kỹ cả 50 bài trong tập, ta càng cảm được sức nặng của tập thơ ở tính
đa chiều, đa diện về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Để có được dấu ấn riêng
làm nên hiệu quả thơ, nhà thơ đã phải khổ công tìm kiếm con đường đi cho thơ
như thế nào? Ta hãy nghe anh trần tình:
Trang Anh
Mỗi dòng xuống trang anh
Anh có thấy nét mình trong màu mực
Nét đầu tiên
Nét cuối
Có thể chẳng còn gì suốt một đời vắt sức.
Dép cũ
Áo sờn
Gấp nếp từ mấy mươi năm trước
Mấy mươi năm theo bụi phủ anh dần.
Chôn trong từng sợi tóc
Từng ý nghĩ rơi đêm
Anh đã thấy những cái nhô lên
Cát lại vùi xuống cát.
Anh đã gặp
Những màu nước đánh phèn
Những ngôn từ vón cục
Cái rất tối chạy ra ngoài ánh sáng
Anh thường chọn cho mình góc khuất
Và yên tĩnh với anh như một niềm hạnh phúc
Càng xa lánh cái bon chen
Càng nhìn rõ những cái gì đen bạc.
Thiết nghĩ không cần nói gì thêm, khi đã đọc bài thơ, bạn đọc
cũng đã cảm thông và chia sẻ với Bình Nguyên về nỗi cực nhọc biết chừng nào
trên con đường tìm kiếm thi pháp thơ mình. Bởi nó là: được, mất chông chênh giữa
đỉnh cao và vực thẳm, là lặng lẽ cô đơn trong "cõi" người thơ chấp nhận
dấn thân. Một công việc mà ngay như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - chủ soái cách
tân thơ, cũng còn phải thốt lên: "Đã có một giai đoạn tôi thường sa vào
tính dị biệt trong các sáng tác của mình. Nhưng ngay sau đó tôi đã nhận ra sai
lầm của mình và đã rời bỏ. Ví như câu thơ tôi viết: Những ngón tay không
móng đang nhổ cỏ. Viết như vậy, quả thực chẳng mang lại điều gì cả về nghệ thuật
lẫn nội dung". (Báo Văn nghệ số 51 ngày 19/12/2015).
Lại nói đến những đòi hỏi khắt khe của thơ, tôi trích dẫn mấy
nhận xét của nhà lý luận phê bình văn học nổi tiếng Hoài Thanh về một tài thơ của
cố nhà thơ Lưu Quang Vũ "... Ngòi bút Lưu Quang Vũ là một ngòi bút thông
minh. Đó là một ưu điểm của thơ anh. Nhưng đến khi cạn dòng tình cảm, trơ ra chỉ
còn có thông minh, thì dầu thông minh đến đâu cũng bất lực (tr.265 Tuyển tập
phê bình văn học 1945- 2015 NXB HNVVN)
Nói thế để biết trăm ngàn lần khó trong việc làm hay, làm mới
thơ mình của mỗi nhà thơ. Nhưng nó là thuộc tính của văn học nghệ thuật, không
thể khác: không chấp nhận lối mòn.
Bình Nguyên đã âm thầm, bền bỉ, thận trọng và rất quyết liệt,
nghiêm khắc, cảnh tỉnh với chính mình: "Cái rất tối chạy ra ngoài ánh
sáng/ Chạy ra rồi không biết lại tối hơn". Nhờ "nhìn người ngẫm
mình" mà "cái tối" đã không thể: hù dọa, níu chân thơ.
Thơ Bình Nguyên đã kết hợp hài hòa tình cảm và lý chí, trong
xây dựng những hình tượng điển hình, những tâm trạng điển hình, chân thật của
cuộc sồng bằng ngôn ngữ, giọng điệu có tính triết lý, song chất trữ tình, gợi cảm,
rung động, cuốn hút, chinh phục được trái tim người đọc.
Đó là thi pháp Bình Nguyên, người đã để lại được những dấu ấn
ngày một đậm nét trên thi đàn qua mỗi chặng đường, mỗi tập thơ, mỗi cuộc thi
thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét