Một cách nhìn về thơ Đồng Tháp 1975 - 2012
Có thể nói chưa bao giờ, thơ Đồng Tháp lại đa dạng, phong phú
về đề tài, nội dung và phong cách thể hiện như khoảng thời gian này, trong đó tập
trung khai thác chủ yếu ba phương diện: thế sự, cái tôi cá nhân và tình yêu.
Một chặng đường chưa phải là dài lắm nhưng không phải quá ngắn,
đủ viết nên những trang trân trọng, ghi nhận sự lớn mạnh của đội ngũ những người
cầm bút, vài đặc điểm cần chú ý và những thành tựu đáng trân trọng của một
phong trào sáng tác thơ. Để đánh giá một cách toàn diện và cơ bản về thơ Đồng
Tháp trong hơn ba mươi lăm năm (1975 - 2012), cần thiết phải có độ lùi thời
gian dài hơn mới có thể có được một cách nhìn khách quan, đầy đủ và trọn vẹn. Ở
đây, chỉ xin nêu lên những nhận xét, gợi ý, mong xác lập một hình dung khái
quát và những ý niệm ban đầu về một chặng đường thơ của một miền thơ còn rất trẻ
trung và mới mẻ.
Trước hết nói về đội ngũ. Sau giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc (1975), văn học nghệ thuật Đồng Tháp bước vào một chặng đường phát triển
mới. Đội ngũ sáng tác nói chung và những người làm thơ nói riêng, từ nhiều hướng,
nhiều nguồn khác nhau hội tụ dưới mái nhà văn học, nghệ thuật.
Họ là những người vừa trở về từ chiến khu, bưng biền, từ cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà dường như những trang thơ vẫn nồng mùi bom đạn
như Lý Thuận Khanh, Công Đoàn, Phước Hồng… Họ là những người từ phía Bắc vào
góp sức xây dựng quê mới và mang theo giọng thơ của miền châu thổ sông Hồng, của
miền Trung khúc eo đất nước như Trần Quốc Toàn, Thai Sắc, Phi Long, Khánh Hòa,
Lê Minh Hùng, Thanh Thủy, Nguyễn Thị Phước, Thanh Phúc, Phan Ngọc Quang, Nguyễn
Hòa Hiệp, Hà Thị Thanh Nga… Họ là những người vừa hội nhập với dòng thơ cách mạng
bằng một sắc diện mới, dẫu buổi ban đầu dường như vẫn còn vương vấn chút thiếu
tự tin như Hạc Thành Hoa, Lại Trí Huệ, Thụy Linh Phương, Trần Tấn Thảo, Nguyễn
Thái Khâm, Khắc Chu… Họ là những người vừa rời ghế nhà trường hoặc đang khoác
áo thư sinh nhưng hăng hái và sung sức băng mình vào làng thơ như Thu Nguyệt, Hữu
Nhân, Trần Thị Hoàng Anh, Đặng Ca Việt, Nguyễn Chơn Thuần, Đỗ Ký, Thanh Dũng, Hữu
Phước, Bạch Phần, Ngọc Điệp, Ngọc Minh, Phạm Thị Ngọc Bích, Nguyễn Giang San,
Lê Minh Chánh, Bùi Hữu Nghĩa, Minh Hoàng, Nguyễn Văn Nghiêm, Lưu Văn Hùng…
Nhìn một cách tổng quát và khách quan, đội ngũ sáng tác thơ Đồng
Tháp trong hơn ba mươi lăm năm ấy là khá hùng hậu, đa dạng và trẻ trung. Có những
người hoạt động chuyên nghiệp, giữ các trọng trách trong lĩnh vực văn học nghệ
thuật. Lại có nhiều người sáng tác bán chuyên nghiệp, công tác ở các ngành nghề
khác nhau mà nhiều nhất là ngành giáo dục. Có những cây bút già dặn về tuổi nghề,
tác phẩm viết ra thường được đánh giá cao. Lại có nhiều cây bút sung sức, xông
xáo, tác phẩm ít nhiều để lại ấn tượng. Họ tự nguyện tập hợp bên nhau, trở
thành hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Tháp và đoàn kết, giúp đỡ, hỗ trợ
nhau trong một đam mê sáng tác.
Gương mặt dễ nhận thấy nhất ở đội ngũ sáng tác thơ của tỉnh Đồng
Tháp hơn ba mươi lăm năm qua, đó là sự trẻ trung - trẻ trung về tuổi đời và tuổi
nghề. Như nhiều địa phương khác thuộc đồng bằng sông Cửu Long, hầu hết các cây
bút thơ Đồng Tháp đều đang ở độ tuổi trên dưới 40 - một độ tuổi sung sức, chịu
khám phá, tìm tòi và cũng đầy sáng tạo. Có lẽ vì vậy mà nơi đây đã sản sinh ra
những nhà thơ trẻ với những vần thơ giàu bản sắc, được công chúng cả nước yêu mến
như Trần Quốc Toàn, Thu Nguyệt, Thai Sắc, Hữu Nhân… Đây chính là đặc điểm đáng
ghi nhận về đội ngũ sáng tác thơ của một trong những vùng đất mới ở phương Namnhư
Đồng Tháp.
Tuy nhiên, gần đây, khi nhìn vào tần số xuất hiện của
tác giả trên văn đàn, lại nảy ra một băn khoăn có thật: đội ngũ sáng tác thơ
chuyên nghiệp ở Đồng Tháp không phải là không hùng hậu, song chưa thật đồng tâm
hiệp lực và đều tay trong sáng tác, một số cây bút không hoặc ít xuất hiện trên
thi đàn khá lâu, khiến phong trào sáng tác thơ ở Đồng Tháp chưa phát huy một
cách tốt nhất tiềm năng của mình. Vấn đề đáng quan tâm là trong số khoảng 10
tác giả trẻ gần đây, một số người đã vội lão hóa hoặc vội chùn
bước trên con đường thi ca vốn lúc nào cũng rộng mở nhưng không ít chông
gai, thử thách.
Với đội ngũ tác gia không chuyên, nghiệp dư, nhìn chung ở Đồng
Tháp, phong trào sáng tác thơ trong quần chúng là tương đối sôi nổi, nhất là ở
một số ngành như: giáo dục, quốc phòng, y tế, hội người cao tuổi… và một số địa
phương như: Thành phố Cao Lãnh, Huyện Cao Lãnh, Huyện Lấp Vò, Thị xã Sa Đéc… Những
cuộc thi thơ, các câu lạc bộ thơ tại những địa chỉ nói trên được tổ chức thường
xuyên và qui tụ được một đội ngũ tác giả không chuyên khá đông đảo. Đây là tiền
đề tốt để có thể bồi dưỡng nhiều tác giả trở thành những cây bút thơ chuyên
nghiệp - hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Tháp, kể cả một số cây bút có tuổi
đời cao trong các câu lạc bộ thơ Đường luật, nhất là Câu lạc bộ Unesco thơ Đường
Thành phố Cao Lãnh.
Trên mặt bằng đội ngũ ấy, thơ Đồng Tháp trong hơn ba mươi lăm
năm qua đã gặt hái được những thành tựu quan trọng.
Trước hết về mặt số lượng, chưa kể hàng ngàn bài thơ đã được
đăng tải trên tạp chí Văn nghệ Đồng Tháp và nhiều báo chí khác, chưa
kể các bài thơ được đăng trong nhiều tuyển tập thơ khác nhau tại địa phương và
trên cả nước, chỉ tính các tập thơ riêng của tác giả đã được xuất bản, con số
cũng đã ngót nghét : 50. Hơn ba mươi lăm năm, mỗi năm khoảng gần 2 tập thơ được
xuất bản - đó là một thông số đáng kể. Có thể ghi lên đây những gương mặt tiêu
biểu : Gặp nhau, Hát với mùa xuân (Lý Thuận Khanh); Nghe hơi con
thở (Công Đoàn); Bông điên điển, Cánh tím hoa lục bình (Phước Hồng); Tháp
Mười nhỏ, Viết đơn lên cát trắng, Ngón tay út thành phố, Ngửa tay hứng trời (Trần
Quốc Toàn); Điều thật, Ngộ, Cõi lạ, Hoa cỏ bên đường, Theo mùa (Thu
Nguyệt); Đối thoại với trái tim, Miệt vườn, Độc ẩm, Ta về với gió, Những
chiều không thời gian, Ngày chợt đến, Lục bát những ngày rơi, Trầm tích (Thai
Sắc); Khúc đồng vọng, Bài ca về những dòng sông (Hữu Nhân); Phía
sau một vầng trăng, Khói tóc (Hạc Thành Hoa); Tác phẩm Đặng Ca Việt (Đặng
Ca Việt); Lời cầu nguyện cho chiếc răng cuối cùng, Giữa nắng sân trường,
Lá gan chuột nhắt, Bài thu hoạch về tim, Khóc mây, Buổi sáng có chàng trai xin
chết (Đỗ Ký); Hái bên đường (Lê Minh Hùng); Trăng quê, Gọi
mình (Hữu Phước); Ngẫu hứng trăng (Trần Thị Hoàng Anh); Tơ
lòng (Lại Trí Huệ); Khung trời tuổi thơ (Thanh Phúc); Nhịp
song loan, Khơi lòng (Nguyễn Chơn Thuần); Hoa bằng lăng, Tiếng lòng (Bạch
Phần); Nhạc khúc sông (Nguyễn Bình Yên); Khoảng nhớ (Thanh
Dũng); Chuồn chuồn đi học (Phan Ngọc Quang); Bâng khuâng mùa hạ (Ngọc
Điệp); Đếm ngón tay, Vườn nhớ (Nguyễn Giang San)… Trong đó, có
những tập thơ đã được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Liên hiệp
các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam như: Cõi lạ của Thu
Nguyệt; Những chiều không thời gian của Thai Sắc…
Một điều cần ghi nhận nữa của thơ Đồng Tháp từ 1975 đến 2012,
đó là thành công về phương diện nội dung hiện thực cuộc sống phản ánh qua những
mảng đề tài và chủ đề được thể hiện và về phong cách nghệ thuật... Có thể nói
chưa bao giờ, thơ Đồng Tháp lại đa dạng, phong phú về đề tài, nội dung và phong
cách thể hiện như khoảng thời gian này, trong đó tập trung khai thác chủ yếu ba
phương diện: thế sự, cái tôi cá nhân và tình yêu. Trong những năm qua, nếu thơ
thế sự ở Đồng Tháp vẫn chủ yếu dừng lại ở cấp độ miêu tả sự kiện thì thơ viết về
cái tôi cá nhân và thơ tình yêu đã có bước chuyển rõ rệt. Trong sự chuyển mình
của thời cuộc, khi con người ý thức một cách rõ ràng hơn khát vọng sống của mỗi
cá nhân thì nhiều bài thơ bộc lộ các sắc độ của cái tôi cá nhân một cách mãnh
liệt hơn. Thơ tình yêu (đất nước, quê hương, gia đình, đôi lứa…) cũng không còn
nhòa nhạt, chung chung mà đi vào những ngõ ngách sâu kín nhưng cụ thể hơn.
Trước hết và nổi bật nhất là những vần thơ viết về cuộc sống
mới sau ngày giải phóng với bộn bề, ngổn ngang khó khăn, thiếu thốn, vất vả
nhưng luôn vận động, phát triển với một niềm tin rạo rực, sâu sắc vào tương lai
tươi sáng của quê hương, đất nước. Sự vận động, phát triển xuất phát từ khát vọng
lớn lao mà rất đỗi bình dị: Chưa ráng làm con én liệng; Đo dọc, đo
ngang bầu trời; Không bay khi mùa xuân hết; Nào hay, mênh mông Tháp
Mười (Khát vọng Tháp Mười - Trần Quốc Toàn) và có khi không kém
phần dữ dội: Tôi đội đá mong mọi người kí ước; Làng quê ta phải khác với
bây giờ (Hoài bão - Thu Nguyệt).
Khát vọng ấy nhen lên trên những trang đời bát ngát mùa xuân
và những trang sách mới nơi mái trường ngói đỏ. Viết về mùa xuân, về nhà trường
và nghề dạy học là những chủ đề khá nổi bật của thơ Đồng Tháp những năm này. Điều
này cũng dễ hiểu vì đề tài mùa xuân là đề tài bất tử của thi nhân muôn đời còn
đội ngũ làm thơ ở đây có nhiều người đang đứng trên bục giảng nên thơ viết nhiều
về ngành nghề mình là điều tất yếu. Về mùa xuân, một mặt thơ tập trung thể hiện
sự biến chuyển của thời gian và cảnh vật thiên nhiên trong sự cảm nhận tươi mới
của tình người: Đón giao thừa miệt vườn; Chợt nghe ngoài song thưa; Chuối
văn mình nở nhụy; Đón giao thừa khai hoa (Giao thừa miệt vườn - Nguyễn
Chơn Thuần), mặt khác thơ đi vào đánh thức chiều sâu chiêm nghiệm của con người
trong bước đi vĩnh hằng của vũ trụ mỗi khi chuyển mùa: Giao mùa nắng như
không nắng; Phải gió lọc xanh trời mưa; Ai thả bềnh bồng áo trắng; Dáng bay bối
rối bao giờ? (Tháng chạp - Thụy Linh Phương). Về nhà trường và nghề dạy
học, có thể nhắc đến Phước Hồng với Bữa cơm thiệt là ngon; Tiếng trống trường
em… đến Trần Quốc Toàn với Mẹ và cô… đến Lê Minh Hùng với Chùm hoa ướp…
Bóng dáng một ngôi trường vùng sâu hiện lên rõ nét trong Tan trường của
Thanh Dũng: Bài đã học xong đã chép xong; Xuống xuồng ta vượt một
mênh mông; Lên lớp cô nâng viên phấn thẳng; Đưa dò trò vít ngọn sào
cong. Tà áo trắng học trò buổi tan trường cũng đã được Ngọc Điệp đặc tả
theo một cảm nhận độc đáo: Như vạn thiên thần nhỏ; Đan rợp một vùng
trời; Theo làn mây sà xuống; Dọc phố dài rong chơi. Ngọc Điệp đã Nói
cùng đồng nghiệp làm nghề dạy học về lí tưởng cao cả của mình một cách xúc
động: Ngày đi qua còn đọng lại những nụ cười; Những ánh mắt long lanh đợi
chờ giục giã; Và ta lại vững tay chèo băng qua sóng cả; Chở con thuyền Trăm Năm
đỗ cặp bến Trồng Người.
Thơ viết về đất nước, quê hương ngày một thay da đổi thịt - phát triển nhưng
không quên truyền thống cách mạng hào hùng - có số lượng khá lớn. Trong chừng mực
có thể, chỉ lược nêu tên một số tác phẩm tiêu biểu: Thơ về cây lúa nổi
Tháp Mười (Khánh Hòa); Mùa nước nổi (Đặng Ca Việt); Về những
dòng kênh xanh (Lê Vũ Hùng); Viết cho em bài thơ xuân 78 (Lê Ngọc); Ngân
nga Tháp Mười (Thanh Phúc); Xẻo Quýt (Phan Ngọc Quang); Khúc
hát người thợ xây cầu (Xuân Sáu); Những dòng kinh phèn đã xa (Hạ
Thanh Viên); Về Xẻo Quýt (Trần Tấn Thảo); Nắng Đồng Tháp (Võ
Hoa Thiếm); Tiếng hát em trong đêm (Thanh Thủy); Hương sen Đồng
Tháp (Tô Quốc Tuấn)…
Trong nguồn mạch nói trên, thơ Đồng Tháp hơn ba mươi lăm năm
qua cũng đã sáng lên nhiều vần thơ ca ngợi Đảng, Bác Hồ mà cách thể hiện đã
thoát được lối tuyên truyền cổ động một chiều để dựng nên những hình ảnh đẹp về
lí tưởng cao cả, về lãnh tụ kính yêu. Những bài thơ như: Hồ Chí Minh mặt
trời sáng mãi (Lý Thuận Khanh); Nhớ Bác (Công Đoàn); Tiếng
Người vọng mãi Bác Hồ ơi ! (Phước Hồng), Miền Nam chúng con luôn bên
Người, Thưa Bác - chúng con luôn sẵn sàng, Người là niềm tin tất thắng (Hữu
Nhân); Hương sen Bác Hồ (Thanh Dũng)…là những bài thơ như thế; trong
đó, chùm ba bài thơ được tặng thưởng tại cuộc vận động sáng tác và quảng bá các
tác phẩm VHNT về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cấp
quốc gia của Hữu Nhân là rất đáng ghi nhận.
Mảng đề tài quê hương nói chung và nơi chôn rau cắt rốn nói
riêng được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau, mỗi người một vẻ, tựu trung,
cảm hứng về những điều thiêng liêng, tốt đẹp ở nơi đó vẫn là cảm hứng nổi trội.
Dường như ai cũng có những bài thơ hay viết về quê hương mình, dù đó là quê
hương thứ hai. Nếu Nguyễn Chơn Thuần say hồn quê hương trong nhịp gõ song loan ai
rao ngọt tiếng đàn; vô sáu câu vọng cổ thì Bạch Phần thủy chung với tấm áo
đặc trưng của miệt vườn mặc ai nhung gấm xa hoa; áo bà ba vẫn thiết tha
tình đầu. Nếu Thụy Linh Phương khắc khoải cùng nỗi nhớ ngọn gió cù lao bao
năm thổi trắng bơ phờ tóc mẹ thì Hữu Nhân thoáng bâng khuâng với chùm
bông mận trắng khi em bình yên bên nhà chồng. Nếu Lê Minh Hùng mê mẫn
với canh chua cá lóc Tam Nông mà nhớ hoài mắt em; như hỏi: chịu hông? thì
Phan Ngọc Quang vui với tuổi thơ bằng bữa cơm nhà chòi để say mê xé
lá làm gạo; chẳng có lửa hồng; mà cơm vẫn chín; thơm lừng cả sân… Tiêu biểu cho
đề tài này là Thu Nguyệt với hàng chục bài thơ như: Dấu chân ba; Với cầu
tre; Tản mạn; Cội nguồn; Hát về con mương nhỏ; Hoài bão…Có thể nói, đây cũng
chính là nét phong cách đáng ghi nhận của nhà thơ nữ này. Còn Trần Quốc Toàn,
là người Hà Nội nhưng bén rễ xanh cây ở phương Nam, anh đã trở thành nhà
thơ thứ thiệt của miệt vuờn với: Cưới giữa vườn; Lội bộ qua cồn; Một chục
mười tám trái xoài…mà người đọc không thể không tin anh là dân Nam bộ
chính gốc.
Điều đáng nói là, trong những bài thơ này, hầu hết các tác giả
đã bớt đi lối miêu tả và ca ngợi trực diện như thường thấy trước đây mà chọn
con đường đi sâu bộc lộ nét đẹp của quê hương qua thao tác chiêm nghiệm, liên
tưởng, suy luận: Dáng đứng nông phu; Từng vạch nhịp; Nối đều khoảng cách;
Giữ cho bản sonate Đồng Tháp Mười; Dạt dào muôn sau (Huyền khúc Đồng Tháp
Mười - Thai Sắc) - Tôi lớn lên và đi qua biết bao cánh đồng bạt ngàn
mưa nắng; Vẫn còn đó những phận người suốt đời phải bám vào phận lúa; Những phận
người; Bám vào cổ tích; Lừng lững lớn lên (Nơi tôi lớn lên - Hữu
Nhân) - Miệt cồn xanh rẫy bốn mùa; Cồn Cỏ thành một ca từ rất riêng; Bao
nhiêu hạt cát sông Tiền; Tôn nền cho một kỉ nguyên đổi đời (Về Hồng Ngự
nghe Lý mười thương - Khắc Chu)…
Nói đến quê hương Đồng Tháp không thể không nói tới một đặc
trưng: mùa lũ (hay lụt?) và những bài thơ viết về nó. Cái mới của thơ trong phạm
vi đề tài này gần đây là các tác giả gần như không xoáy sâu miêu tả nỗi cơ cực
của người dân vùng lũ như lệ thường, ngược lại nhiều vần thơ quan tâm đến mặt
tích cực của lũ - điều ít nhiều gắn với thực tiễn cuộc sống và nỗi niềm của nhà
nông vùng sâu từ ngàn đời. Vì thế, vượt lên gian nan, vất vả, thậm chí nguy cấp,
tình người, tình quê bừng sáng lấp lánh trong nhiều câu thơ. Khi lũ về, con người
biết sống chung với lũ bao đời đã không giấu giếm niềm khấp khởi: Quê
mình giờ khát lũ lắm em ơi; Hôm nước tràn đồng mẹ mừng khôn kể (Dưới đám
mây sẫm màu - Nguyễn Giang San). Trong lũ, niềm tin chân chất, giản dị về
một ngày mai tươi sáng của nhà nông dường như ngấm sâu vào giọt giọt phù sa: Có
một niềm tin lan tỏa; Đi khắp những hạt phù sa; Ôi quê hương mùa lụt bão; Lúa vụ
ba thơm ngát đồng (Niềm tin cao hơn nước lũ - Bùi Hữu Nghĩa). Niềm
tin ấy cũng ánh lên trong những dòng nước mắt: Soi nước mắt đắp bờ kinh; Bắt
con lũ lớn cúi mình sống chung (Thủy chung trước lũ - Khắc Chu)…
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng là một mảng đề tài lớn
mà hầu hết là do các tác giả đã từng kinh qua những năm tháng đánh giặc giữ nước
viết nên. Có những bài được viết từ những năm tháng hào hùng ấy nay mới được in
trên báo chí hay xuất bản thành tập, nhưng đa phần là được viết sau giải phóng
trong một cách nhìn trầm tĩnh và có chiều sâu hơn về chiến tranh cách mạng và sự
mất mát, hi sinh. Trong âm điệu của tiếng mõ đồng khởi hôm qua mà thao
thức một vầng trăng hôm nay, Lý Thuận Khanh đã viết nên những dòng thơ rất
hiện thực mà cũng rất lãng mạn: Những đêm đánh địch công đồn; Ven rừng
trăng đợi, bến sông trăng chờ; Đường về xa lắc xa lơ; Trăng hôn đầu
súng, trăng xô mái chèo. Bằng tư thế phất cờ tiến công ngày đánh
giặc, người chiến sĩ trở về trong hòa bình lắng nghe hơi con thở thuở
nào, cảm nhận sâu sắc nỗi đau mất mát mà Công Đoàn đã có những câu thơ xúc động: Ba
vuốt tóc con; Sờ trái tim tìm hơi thở…; Đã thấy rồi! Phải đâu con nằm
yên tại chỗ; Con đang đi, đi giữa đoàn quân; Sứ mạng vẻ vang con đã làm
tròn. Như thấy có lỗi với rừng xưa, nơi từng chỡ che mình bao
năm ra trận, nơi còn có nhiều đồng đội mãi mãi nằm lại, để nghe vang vọng lời
nhắn nhủ về thăm bạn ở Trường Sơn mà Thai Sắc đã viết những dòng thơ
cháy lòng: Về thăm bạn ở Trường Sơn; Rưng rưng…chẳng biết gì hơn…lòng
thành; Chắp tay cầu với thiên thanh: Trường Sơn thành nghĩa - trang -
xanh, bạn nằm.
Thơ nhân tình thế thái cũng là một mảng đậm nét trong tiến
trình thơ Đồng Tháp hơn ba mươi lăm năm qua. Đây cũng là nét đặc sắc của thơ Việt Nam trong
thời kì đất nước bước vào công cuộc đổi mới mà Đồng Tháp không là một ngoại lệ.
Không ít tác giả viết nhiều về đề tài này với trách nhiệm của một công dân như
Hữu Nhân, Thai Sắc, Lê Minh Hùng, Hạc Thành Hoa, Lại Trí Huệ, Phước Hồng, Đỗ
Ký, Thanh Dũng, Hữu Phước… và ít nhiều đạt được thành công đáng ghi nhận. Thai
Sắc đã có hẳn một nửa tập thơ trong Đối thoại với trái tim thuộc đề
tài này. Lại Trí Huệ có những dòng thơ ân tình mà cảm khái: Lênh đênh trên
chuyến đò đời; Bâng khuâng nhìn bốn phương trời: nắng, mưa; Vui buồn
đan chéo dòng tơ; Mồ hôi thấm mặn : con đò, dòng sông (Đò chiều). Còn
Hạc Thành Hoa thì đau đáu một nỗi niềm khát khao đầy chất triết lí: Có chiếc
thuyền nằm im trong tủ kiếng; Buồm giương cao chờ đợi buổi ra khơi; Giấc
mơ đó xa vời như cổ tích; Nên đêm ngày thương nhớ biển không nguôi.(Chiếc
thuyền). Hữu Phước đã có một tứ thơ không lạ nhưng khi phát triển ý thì để
lại những dòng thơ khiến ta thảng thốt: Cuối đường trời sẽ mưa tuôn; Hòa
vào nước mắt đời thường thế thôi; Rời xa xứ sở mặt trời; Vào miền bóng tối
không lời tri âm (Chắt lòng). Chiêm nghiệm về sự tồn tại ngắn ngủi và mong
manh của con người trên trái đất, Lê Minh Hùng nhắn nhủ: Đất chỉ một trái;
Người chỉ một loài; Đất không rộng ra; Người ơi dừng lại (Đất và người).
Luận về quí hồ tinh bất quí hồ đa, Minh Hoàng đã có lối trình bày bằng lục
bát giản dị nhưng thấm đẫm nhân văn: Chỉ cần một ít ít thôi; Bớt đi một ít
cái tôi với người; Một ít chữ, một ít lời; Giản đơn mà vẫn vẽ vời cõi mơ (Một
ít)…
Nói đến thơ Đồng Tháp (1975 - 2012), không thể không đề cập đến
mảng thơ tình yêu. Đã có nhiều bài thơ hay viết về tình cảm gia đình, nhất là
viết về mẹ. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả vẫn là những bài thơ viết về tình yêu đôi
lứa. Đây là đề tài muôn thuở và dường như cây bút sáng tác thơ ở bất kì lứa tuổi
nào ở đây, cũng đã có những bài thơ thành công. Thu Nguyệt viết về tình yêu với
một giọng điệu riêng, dịu dàng, nhỏ nhẹ, đôi khi xen một chút táo bạo, nổi
loạn. Thai Sắc có những dòng thơ về sự cách chia, cháy bỏng khát khao đoàn tụ
mà bài thơ Có còn kịp đến, đạt giải nhất cuộc thi thơ tình lục bát do Báo Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 1997 - 1998 là một ví dụ. Cái khát
khao ấy cũng đã được Trần Thị Hoàng Anh viết thành những ý thơ riêng, hồn hậu: Em
ngủ những đêm con gái; Gío lùa hương tóc xanh xao; Trong mơ tiếng anh
thầm gọi; Giật mình - giá đừng chiêm bao. (Không đề). Còn ở Đỗ Ký thì
mênh mông xa vắng: Kể từ em ngóng người yêu; Chân mây quen cứ mỗi chiều
lại mưa… (Kể từ tháng bảy).
Trong hơn ba mươi lăm năm thơ Đồng Tháp, thơ viết cho thiếu
nhi cũng là một thành công đáng ghi nhận. Không kể thơ do chính thiếu nhi viết
với cả ngàn bài đã được đăng trên báo chí, chỉ tính riêng thơ do các cây bút
sáng tác của Hội Văn học Nghệ thuật cũng đã có hàng trăm bài, trong đó có những
tập thơ được đánh giá tốt của Trần Quốc Toàn, Thanh Phúc, Phan Ngọc Quang…
Bằng cái nhìn trẻ thơ, cố thi sĩ Thanh Phúc đã có nhiều bài thơ khá hay viết về cây trái, sản vật đặc trưng của vùng đất Nam bộ: Ánh trăng lung linh; Thắp ngọn đèn sáng; Mặt nước lấp loáng; Trong đôi mắt xuồng. (Chiếc xuồng). Cũng như vậy, Phan Ngọc Quang viết: Cây gòn trước nhà em; Đến mùa thu hoạch trái; Em trèo lên cành hái; Mây trắng vờn dưới chân. (Cây gòn nhà em).
Bằng cái nhìn trẻ thơ, cố thi sĩ Thanh Phúc đã có nhiều bài thơ khá hay viết về cây trái, sản vật đặc trưng của vùng đất Nam bộ: Ánh trăng lung linh; Thắp ngọn đèn sáng; Mặt nước lấp loáng; Trong đôi mắt xuồng. (Chiếc xuồng). Cũng như vậy, Phan Ngọc Quang viết: Cây gòn trước nhà em; Đến mùa thu hoạch trái; Em trèo lên cành hái; Mây trắng vờn dưới chân. (Cây gòn nhà em).
Nói rộng rộng hơn, mảng thơ học đường trong thời gian qua đã
có những bước phát triển mạnh mẽ, ở đó bền vững một phong trào và sản sinh được
những gương mặt thơ mới cho tỉnh nhà. Đáng kể nhất là cuộc thi sáng tác thơ -
truyện ngắn định kì hàng năm của Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội Văn học
Nghệ thuật, Trường Đại học Đồng Tháp và các ngành hữu quan. Trong hàng vạn bài
thơ dự thi và hàng ngàn tác giả nhí, chúng ta cũng đã tìm được nhiều cái
tên để bồi dưỡng phát triển như Nguyễn Thị Kim Tuyến, Nguyễn Giang San, Phạm Thị
Ngọc Bích, Lê Minh Chánh…, chưa kể nhiều tác giả nhí đạt giải nay
đang công tác khắp mọi miền Tổ quốc.
Nói đến thơ Đồng Tháp hơn ba mươi lăm năm qua là nói đến một
gương mặt toàn diện, phong phú của nhiều thể loại thơ, từ thơ Đường luật cho đến
thơ tự do, từ ngũ ngôn, thất ngôn…cho đến thơ lục bát. Đáng kể nhất là thành
công của nhiều bài thơ lục bát và thơ tự do, đã đem lại một sắc diện mới cho
thơ ở đây, có những bài thơ được đánh giá cao, đạt giải thưởng ở các cuộc thi lớn.
Nét phong cách đậm đà nhất của thơ ở đây là tuy không thiếu những ý tưởng và
cách thể hiện táo bạo, mang tính đột phá song nhìn chung, giọng điệu thơ trước
sau vẫn là lời tâm tình đôn hậu, mộc mạc gắn với tính cách một vùng đất.
Xét riêng về mặt thi pháp, thơ Đồng Tháp hơn ba mươi lăm năm
qua, tuy đây đó có lóe lên đôi chút về sự đổi mới cách thể hiện, cung cách, thể
loại, ý tứ…và cũng có vài tác tác phẩm mang tính cách tân theo xu hướng hậu hiện
đại (mặc dù như vậy chưa chắc đã hay !), song nhìn chung, nó vẫn hòa vào dòng
chảy hiền hòa của thơ Việt Nam - cái dòng chảy vốn định hình từ ngàn năm nay.
Trong dòng chảy ấy, để nhận ra ngay phong cách thơ nơi các tác giả Đồng Tháp quả
là khó, nhưng không phải là không tìm được ở họ nét riêng của mỗi người.
Nhìn vào những cây bút thường xuyên xuất hiện gần đây, ta thấy,
nếu Hữu Nhân thiên về phong cách tự sự với những bài thơ dài mà trong đó, bức
tranh hiện thực trữ tình hiện lên nhiều tầng nhiều lớp, khiến người đọc không
chỉ cảm mà còn phải luận mới đón nhận trọn vẹn ý tưởng tác phẩm thì Lê Minh
Hùng với lối diễn đạt chắt lọc từ ngữ đến mức tối đa trong những bài thơ ngắn,
xen lẫn khẩu ngữ và phong vị Nam bộ, đây đó phảng phất màu sắc phồn thực dân
gian, chất khơi gợi của tác phẩm đã đạt đến độ tinh nhạy nhất định, cần có những
tâm hồn đồng điệu đích thực mới cảm thụ được cái hay của những bài thơ như thế.
Nếu thơ Hữu Phước là thơ ngôn từ giản dị trong ý tưởng bác học thì thơ Ngọc Điệp
là thơ chữ nghĩa trau chuốt trong những nội dung mộc mạc, gần gũi. Thế mạnh của
Nguyễn Giang San, Lê Minh Chánh là thơ lục bát với những bài thơ gieo vần khá
chuẩn. Còn Phạm Thị Ngọc Bích, Hà Thị Thanh Nga thiên về thơ tự do với lối diễn
đạt khoáng đạt, mềm mại…
Giọng điệu chủ đạo của thơ Đồng Tháp hơn ba mươi lăm năm qua
là khúc hát ngợi ca thành tựu kiến thiết, xây dựng quê hương, trong đó vẳng lên
âm điệu sô lô của tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với con người của cái tôi
trong sáng mỗi nhà thơ. Không hề bắt gặp đâu đó trên nền thơ này giai điệu lạc
lõng, trái khoáy, dù có thể do ý tưởng cách tân tạo ra như nhiều trang thơ khác
hiện nay. Tôi không cho rằng vì thế mà thơ Đồng Tháp nhàm chán, tẻ nhạt. Như đã
nói ở trên, thơ hay chưa hẳn là do dụng công nghệ thuật mà còn do cái tâm, nơi
phát xuất một hồn thơ đích thực.
Để đánh giá toàn diện, sâu sắc chặng đường hơn ba mươi lăm
năm của thơ Đồng Tháp (1975 - 2012) ngay tại thời điểm này là một việc không dễ.
Tuy vậy, với những dòng này, cũng có thể bước đầu nhận diện được một nền thơ,
một chặng đường thơ đang trên đà khởi sắc. Tuy không tránh khỏi những hạn chế
nhất định, song thành công của thơ Đồng Tháp hơn ba mươi lăm năm qua là rất
đáng ghi nhận và tự hào. Đó là tiền đề tốt đẹp cho sức vươn lên mạnh mẽ của thơ
Đồng Tháp trong chặng đường mới…
Thai Sắc
Đọc "Một cách nhìn thơ Đồng Tháp 1975-2012""của nhà thơ Thai Sắc,điều đáng trân quí là anh đã công phu đọc,tập hợp, khá đầy đủ diện mạo thơ. tác giả và tác phẩm,những người đã từng sống và viết về quê hương Đồng Tháp một cách khách quan nhưng không kém phần gan ruột,thuyết phục.Vâng trang viết của nhà thơ Thai Sắc, anh đã đồng hiện ,đồng sáng tạo cùng đội ngũ trong thi đàn văn chương ĐồngTháp rất chân,rất thiện, luôn vươn mình tiệm cận đến sự cao đẹp.
Trả lờiXóaThân ái!