Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

Đời mưa gió 2

Đời mưa gió 2

VII. Một buổi chiều trong những buổi chiều Tuyết ngồi một mình buồn tẻ, ngây ngất trông qua cửa sổ nghĩ tới hiện tại và tương lai. Sự lo ngại vẩn vơ vừa thoáng qua tâm hồn nàng khiến nàng cảm thấy - tuy cảm thấy một cách lờ mờ - sự trống rỗng của đời nàng.
Chương đi dạy học ở trường tư chưa về. Đã mấy tuần nay vì muốn thực hành bản chương trình tiết kiệm, nàng khuyên Chương dạy học tư để kiếm thêm tiền.
Chương vẫn tỏ lòng cám ơn nàng về việc ấy, mà nàng vẫn lấy làm tự phụ đã giúp Chương được việc ấy. Nhưng chiều hôm nay, nàng nhận thấy rằng đó là một sự bủn xỉn, nhỏ nhen:
"Tiền! Can chi mình phải nghĩ đến tiền!".
Có ai cười nói từ ngoài cổng đi vào. Nghe tiếng quen quen, Tuyết nhìn ra, rồi vui vẻ đứng dậy chạy vội xuống sân, kêu:
– Trời ơi! May quá, mời hai chị vào chơi.
Tuyết tưởng như hai người bạn đem lại cho nàng sự vui đã mất, những ngày sáng sủa đẹp đẽ của quãng đời phóng đãng khi xưa.
Trong hai người đến chơi, một người, cô Thúy, là bạn láng giềng cũ của Tuyết, khi Tuyết còn thuê nhà ở riêng trong một khu phố hẻo lánh kia:
Thúy lúc đó là đang là vợ một viên đội Tây kiết.
– Lâu nay không gặp, nhớ quá.
Tuyết chẳng biết nói câu gì để trả lời Thúy, nhắc đi nhắc lại mãi:
– Quý hóa quá, quý hóa quá!
Thúy nhìn bạn, hơi lấy làm lạ:
– Học đâu được cái giọng quê mùa ấy thế?
– Quý hóa là cái quỷ gì?
Bấy giờ Tuyết mới nhận ra rằng thói quen, nàng đã nhiễm cử chỉ và ngôn ngữ của tình nhân. Bẽn lẽn, nàng nhìn bạn, nói lảng:
– Chị Lan bây giờ ở đâu nhỉ?
– Chẳng ở đâu cả, vẫn ở nhà thôi.
Tuyết cười:
– Thế lại còn bảo chẳng ở đâu cả.
– Ở nhà thì sao gọi ở đâu được?... À này, hôm nay gặp Văn.
Tuyết, cặp má đỏ ửng, nhìn ra sân, vờ lơ đãng không nghe. Lan nói luôn:
– Hôm qua gặp Văn, Thúy với "moa" đương lởn vởn ở "Luy-xi" thì Văn gọi.
Hắn đi với... với ai, Thúy nhỉ?
– Hanh.
– Ừ, với Hanh. Rồi cả đêm hôm qua, bốn đứa lu bù ở tổ quỷ đằng Hàng Đẫy.
Tuyết rùng mình, lo lắng nhìn đồng hồ treo.
– Ấy, Văn nói chuyện "moa" mới biết "toa" ở đây đấy chứ... Nhưng làm gì mà lấm la lấm lét, nhìn ngược nhìn xuôi thế?
Thật vậy, Tuyết luôn luôn xem giờ và ngó ra cổng.
– Nhà tôi sắp về.
Tuyết cho là mình nói hớ chữa liền:
– Chương sắp về.
– Sắp về thì sao? Cậu sợ nó thế kia à?
– Nó ghen lắm kia.
Thúy vỗ tay cười rộ:
– Ồ! Khá nhỉ! Ngày nay Tuyết lại sinh ra nhát nhiếc nữa kia đấy.
Lan cũng cười, nói tiếp:
– Trời ơi! Chị Tuyết tôi mà lại sợ nó ghen!
Tuyết muốn lảng sang chuyện khác, cầm vạt áo Thúy ngắm nghía:
– Hàng bom bay này nhã lắm nhỉ?
– Xoàng chứ nhã gì mà nhã, chị cứ giễu mãi ... Nhưng này, sao bây giờ chị ăn mặc lôi thôi thế? Với lại không có tiền mua phấn hay sao mà mặt để mộc mạc trông như cô bé nhà quê thế kia?
– Tôi ở nhà nên không đánh phấn đấy chứ.
– Vậy đánh phấn đi, rồi lại chơi đằng này với chúng tớ một lát.
Tuyết ngần ngại:
– Hắn sắp về ... Thôi, để khi khác.
Lan lạnh lùng kéo Thúy đứng dậy:
– Thôi vậy, chúng tôi về vậy.
Tuyết ngẫm nghĩ. Nàng bỗng có dáng quả quyết bảo bạn:
– Hai chị ngồi chờ tôi một tí, tôi xuống ngay nhé.
Rồi nàng chạy tuốt lên gác. Khi điểm trang xong, và trông vào gương thấy nhan sắc đổi khác hẳn, nàng mơ màng nhớ ngay tới quãng đời vui sướng. Cô thiếu nữ đứng trong gương đối với nàng như người xưa hiện về, một người chết sống lại, và hoạt động trong lành không khí mịt mùng, huyền bí. Cho đến cả cái hoàn cảnh xưa cũng như đương bao bọc lấy mình nàng.
Một dịp cười dưới nhà đưa lên ròn rã. Tuyết đăm đăm nhìn vào gương, tưởng tượng hiện lên và đứng quây quần lấy nàng, hết thảy những bạn chơi bời thuở trước. Nàng cũng cất tiếng cười đáp lại, cảm thấy tâm trí nhẹ nhàng, khoan khoái lâng lâng.
Vừa hát nghêu ngao, nàng vừa bước xuống gác. Một phút quên lãng sự giả dối, sự gìn giữ buộc đã khiến linh hồn chân thật, phóng đạt, sùng sục, sôi nổi trong trái tim, trong mạch máu.
Thấy vẻ mặt nàng tươi tắn, đôi má nàng hồng đào, cặp mắt nàng sáng quắc, Thúy thì thầm bảo Lan:
– Cơn điên nó đã lên đấy. Ngày xưa ở gần nhau, mỗi khi cơn điên nó lên là nó làm đến buồn cười.
Tuyết phưỡn ngực đi lại chỗ hai người:
– Hai cậu xem tôi có còn là Tuyết năm xưa nữa không?
Thúy nghiêng đầu ngắm nghía, khen:
– Hơn! Đẹp hơn!
Lan nói tiếp:
– Ừ, "toa" đẹp hơn thật đấy! Có lẽ vì độ này ít thức đêm, ít lu bù chứ gì.
Thúy cười:
– Chuyện! Bây giờ đã là bà đốc thì phải chững chạc ra phết chứ!
Tuyết vẫn hát huyên thuyên, chẳng lưu ý đến những lời bình phẩm. Lan kéo tay nàng:
– Có em đi cho người ta bảo cái này không. Bây giờ thì đi chơi thôi!
– Đi đâu?
– Lại đằng Hàng Đẫy.
Thúy vui vẻ:
– Ừ, phải đấy! Đi!
Tuyết ngây người suy nghĩ một phút rồi hỏi:
– Nhà ai đấy nhỉ?
– Nhà Bàng. Ồ! Chị chưa lại chơi lần nào à?
Tuyết lại mơ mộng như ban nãy. Theo chị em bạn đến những nhà không quen biết rồi ngủ một hai đêm ở đấy, ngày xưa Tuyết cho là rất thường. Ngay bây giờ, nàng còn tưởng tượng thấy mùi khói thuốc phiện thơm ngào ngạt, mùi men sâm-banh bốc nồng nàn ở trong một căn phòng nhỏ, ấm cúng, trang hoàng theo kiểu tối tân. Trong khi Tuyết như đương sống lại một quãng đời qua, thì tiếng Lan thỏ thẻ dịu dàng bên tai:
– "Moa" nghe nói bây giờ "toa" khổ sở, nghèo kiết lắm, phải không?
Tuyết đứng im, không trả lời. Lan lại nói:
– "Moa" cũng chịu "toa" gan thật, ở mãi được với lão giáo gàn ấy ... Hắn nợ như chúa chổm, phải không? "Moa" thấy Hanh bảo thế. Có nhan sắc như "toa".
thì làm một bà hoàng, mới xứng đáng.
Tuyết vẫn không trả lời, Lan nói tiếp:
– À, "toa" có nhớ Hanh không nhỉ? Hắn bảo hắn gặp "toa" ở Đồ Sơn. Hắn giàu lắm, "toa" ạ. Hôm nọ ra Hải Phòng, sáu đứa chúng "nu" xếp như cá hộp lên ô-tô của hắn. Buồn cười quá!
Lan ghé tai Tuyết thì thầm mấy câu, khiến Tuyết càng do dự. Lúc bấy giờ có tiếng giày ở cổng đi vào. Tuyết giật mình như tỉnh giấc mộng. Nhưng Lan không biết, vẫn còn nói:
– Đi! Lại ngay chẳng họ chờ!
Tuyết bấm Lan bảo im. Chương đã vào đến phòng khách ngả đầu chào rồi đăm đăm nhìn Tuyết, hỏi:
– Mình định đi chơi đâu đấy?
Tuyết luống cuống trỏ hai bạn, giới thiệu với tình nhân:
– Chị Lan, anh ấy làm ... anh ấy buôn bán ở Hải Phòng. Còn đây là Thúy làm ... bà đỡ. Chương lại ngả đầu chào một lần nữa:
– Mời hai bà ngồi chơi.
Chàng toan bước lên gác thì Lan cố lấy giọng nhu mì, chân thật nói với chàng:
– Chúng tôi xin phép ông cho bà đi chơi với chúng tôi một lát ...
Nhoẻn một nụ cười rất tình, nàng nói tiếp:
– Có được không ạ?
Chương cũng cười, đáp lại một cách rất thẳng thắn:
– Thưa bà được.
Tuyết nhìn Chương lo ngại thì chàng lại bảo:
– Kìa, sao mình không đi chơi với các bà ấy?
Rồi chàng nói với Lan và Thúy:
– Lâu nay nhà tôi chẳng đi chơi đâu.
Thúy cười:
– Vâng, tôi biết. Bây giờ chị tôi tu lắm.
Tuyết rùng mình. Cái giọng giả dối của cánh bạn chơi bời, nàng nhận thấy trái ngược hẳn với giọng thành thật, không một chút nghi kỵ của Chương. Hối hận, nàng nhìn Chương, như van chàng giữ mình ở nhà. Nhưng Chương ung dung bước lên gác. Lan khúc khích cười bảo Tuyết:
– Thằng già ngốc tệ! Bảo sao cũng nghe ... Vậy ta đi thôi.
Tuyết lắc đầu:
– Thôi, hai chị đến, tôi bận không đi được.
Thúy chau mày:
– Bận cái gì?
Hai người bạn cố nài nì, nhưng Tuyết nhất định từ chối. Nàng không muốn lừa dối một người dễ tin như Chương ...
Mười lăm phút sau, Chương ở trên gác xuống thấy Tuyết chống tay vào cằm, ngồi mơ mộng. Chàng lại gần sẽ đụng vào vai nàng, khiến nàng giật mình quay lại.
– Mình không đi chơi?
– Không.
– Sao lại không đi?
– Không muốn đi.
– Mình sao vậy?
– Chẳng sao cả.
Cái tính khó chịu của Tuyết thường có. Chương đã quen lắm. Chàng không hiểu mà cũng không tìm ra để hiểu vì sao Tuyết bỗng có lúc buồn rầu, cáu kỉnh như thế.
Nhưng trái với mọi lần nàng ủ rũ, ngây ngất vì nhớ lại những ngày vui thú đã qua, lần này nàng chỉ khó chịu vì tính quá thật thà của Chương. Lừa dối một người đa nghi, hay ghen, hay nói bóng nói gió, nàng cho là một sự rất thường, xứng đáng với hạng đàn ông ấy. Nhưng lừa dối, một người không hề lưu ý đến sự lừa dối, coi kẻ lừa dối mình như vẫn trung thành thì thật là làm một việc rất ghê tởm, xấu xa. Chương nhắc lại câu hỏi:
– Nhưng Tuyết làm sao thế mới được chứ?
– Đã bảo chẳng làm sao cả mà lại.
– Mặc kệ vậy!
– Phải đấy, cứ để mặc xác tôi là hơn hết.
Chương lảng ra sân. Một lúc sau vào, chàng vẫn thấy Tuyết ngồi y nguyên như cũ. Chàng đến gần, âu yếm:
– Hình như Tuyết khó ở thì phải.
Bấy giờ Tuyết hơi hối hận về lời nói không được ôn hòa của mình, yên lặng ngồi nghe.
– Anh xem ra hơn tuần lễ nay, Tuyết kém ăn, kém ngủ. Nếu Tuyết cần uống thuốc thì anh đưa lại chữa ở bệnh viện của một người bạn ...
Hai chữ bệnh viện khiến Tuyết rùng mình nghĩ đến Văn. Chương lại nói tiếp:
– Phải đấy. Tuyết nên chữa cho được khỏe mạnh ...
– Nhưng tốn tiền lắm, mình ạ.
– Không đâu. Minh là bạn của anh ...
– Được!
Tuyết đứng dậy hấp tấp lên gác như để lấy vật gì đó bỏ quên. Chương có ngờ đâu rằng vì nghe thấy chàng đọc đến tên một anh tình nhân cũ. Tuyết đã vội vàng bỏ chạy.
VIII. Một người bà con của Chương có cái ấp ở làng Khương Thượng, rộng độ ba, bốn mẫu và giao cho vợ chồng một người nhà quê có họ xa ở đấy trông coi.
Chủ ấp cũng chưa nghĩ gì đến mở mang trồng trọt, chỉ cốt có một nơi thoáng đãng, mát mẻ để thường thường đưa bạn bè về chơi nơi thôn dã. Vì thế, ông ta mới dựng tạm một cái nhà gỗ tạp lợp lá, và xây một cái sân quần bằng gạch vụng trộm với vôi, cát, để thỉnh thoảng cùng anh em về tập dượt tiêu khiển.
Trước kia, khi còn hoàn toàn theo chủ nghĩa độc thân,Chương không một chủ nhật nào không đến ấp nghỉ ngơi. Sáng sớm chàng rủ một vài người bạn thân đem sách, vác cần câu, cưỡi xe đạp, mang theo cả thức ăn nữa, rồi anh em xuống ở đây cho mãi tới gần tối mới trở về Hà Nội.
Đã luôn mấy tháng nay Chương không đến ấp. Chàng không muốn phô Tuyết với anh em bạn. Hai lần Tuyết bỏ đi với tình nhân cũ khiến chàng ghê sợ đám bạn bè. Một lẽ nữa. Chương cho rằng rủ Tuyết về chơi vùng thôn quê là một sự mai mỉa đối với nàng. Tấm linh hồn khô khan với một đời vật dục còn biết cảm động gì, còn biết hưởng sao được những thú thi vị, còn biết sao ngắm được những cảnh nên thơ?
Nhưng sáng hôm nay, Chương chợt có tư tưởng ngộ nghĩnh, muốn đưa Tuyết về chơi ấp.
Là vì chàng thấy Tuyết buồn mà chẳng biết làm thế nào để Tuyết vui. Đã hai, ba lần chàng moi óc tìm những câu chuyện khôi hài ngớ ngẩn, nên cái cười miển cưỡng ở cặp môi không thoa sáp của nàng chỉ là bông hoa héo rũ dưới ánh nắng mùa hè gay gắt.
Nhân Chương nói chuyện đến người nhà quê, Tuyết cũng chêm liều một câu bình phẩm để tỏ vẻ với chàng rằng mình vẫn nghe:
– Ồ! Nhà quê thì thú lắm nhỉ!
Mắt Chương long lanh hy vọng. Chàng tưởng đoán được lòng sở thích của người yêu. Đã mấy hôm nay, chàng chỉ săn đón muốn biết Tuyết ưng mua gì, bằng lòng đi chơi đâu, cho được khỏi buồn. Vì thế, khi nghe Tuyết tỏ ý mến quê, chàng liền hỏi:
– Mình yêu phong cảnh thôn dã lắm, phải không?
Tuyết như vừa tỉnh ngủ, ngớ ngẩn hỏi lại:
– Thế à?
– Vậy thì ta về quê chơi nhé?
Tuyết tỏ ý khó chịu:
– Về quê anh?
– Không, về chơi một làng gần đây thôi.
Tuyết, giọng khinh bỉ:
– Lại về chùa Làng như những cặp tình nhân hay mộng hay mị ấy chứ gì!
– Không, về nhà quê thực kia.
Chương liền kể cho Tuyết nghe lai lịch cái ấp Khương Thượng rồi vui vẻ bảo nàng sửa soạn trang sức để cùng về chơi. Tuyết uể oải vâng lời. Nàng chán nản đến nỗi mấy ngày nay chẳng thèm cãi lại hay làm phật ý Chương nữa.
Nhưng khi trên xe điện bước xuống, khi rẽ sang một con đường đất để vào làng, Tuyết bỗng trở nên vui sướng, cười khanh khách bảo Chương:
– Mình ạ, lâu lắm, em mới lại trông thấy nhà quê. Thú quá nhỉ?
– Thế à?
Rồi Tuyết nói huyên thuyên, cười luôn luôn, hỏi tên từng cây, từng con chim, từng con trùng. Có khi nàng rẽ xuống ruộng, xòe bàn tay se sẽ xoa lên những cây lúa mới cấy, màu xanh vàng trông mơn mởn non tươi. Chương đứng trên đường mỉm cười ngắm nghía nàng chạy nhảy như đứa trẻ mà hồi tưởng lại thời kỳ còn nhỏ. Nhất, khi thấy nàng lom khom, một tay kéo cao ống quần, một tay rình chộp con châu chấu, thì chàng không thể nhịn được bật cười được.
– Tuyết của anh còn bé bỏng quá.
Tuyết cười như nắc nẻ, vờ bẽn lẽn lấy khăn lau tay, bảo Chương:
– Ở nhà quê sung sướng lắm, mình ạ.
– Hay ta về quê ở đi?
Tuyết nũng nịu:
– Ồ, phải đấy, mình ạ.
Một lát sau, hai người tới cổng ấp, một cái cổng chống ken bằng cành rào.
Chương quen hết thảy mọi người ở coi ấp, cất tiếng gọi.
– Na ơi!
Tức là tiếng sủa dữ dội của mấy con chó đáp lại liền. Tuyết sợ cuống quýt, ôm chầm lấy tình nhân.
– Trời ơi! Nó cắn chết em bây giờ.
Bấy giờ một đứa con gái chừng mười lăm tuổi chạy vội ra, vui mừng chào Chương:
– Ô kìa ông giáo! Lạy ông ạ.
– Thầy u em có nhà không?
– Bẩm ông, u con có nhà. Hôm nay ông về có một mình?
Tuyết ở sau tiến lên nói:
– Chẳng hay mình là gì đây, em?
Na cười, chào:
– Lạy bà ạ. Nhưng mọi khi ông giáo về chơi với nhiều ông khác nữa cơ.
Nghe tiếng ồn ào, một đứa con gái nhỏ ẵm nách một thằng bé vào khoảng hai, ba tuổi, cùng một thằng nữa, độ lên bốn, lên năm ở trong nhà chạy ra.
Chúng nó nhận ra ngay được Chương và reo mừng vui vẻ, quây quần lấy chàng.
Tuyết chun mũi tỏ ý ghê tởm. Vì đứa con gái và thằng bé nó ẵm trong tay một cách nặng nề như con mèo tha con mới đẻ, đều chốc và đau mắt. Còn thằng bé đi bên cạnh thì gầy còm tựa bộ xương trên cổ có chắp cái đầu kếch xù, mà nặng nề quá, hình như chỉ chực rơi.
– Na con, lấy tao mượn hai cái cần câu thật tốt rồi tao cho tiền.
Con bé ẵm em vội vàng vừa chạy vừa quay cổ lại nói:
– Con lấy cần câu của thầy con cho ông nhé?
Chương đưa Tuyết đi qua sân để lên nhà trên thường vẫn đóng cửa nếu không có chủ hay bạn hữu của chủ về ấp chơi. Vợ người coi ấp đang mở các cửa sổ, chạy ra hiên chắp tay chào.
– Bác Na vẫn mạnh đấy chứ?
– Cảm ơn ông bà, nhờ trời cũng khá.
Cả gia đình bác Nàng (người nhà quê thường gọi nhau bằng tên con) tấp nập rộn rịp, nào kẻ đi lấy thau, nào người đi đun nước vì ai ai cũng hiểu rằng mỗi khi có khách của chủ về ấp đánh quần hay câu cá là một dịp kiếm được lời.
Nhất là đối với Chương, họ lại càng xoắn xít, hầu hạ chu đáo, vì họ biết bao giờ Chương cũng rộng rãi.
– Na ơi, đun nước mau lên. Chất to vào cho chóng sôi.
Tuyết tò mò ngắm nghía bác Na, một người đàn bà đảm đang, nhanh nhẹn tuy tuổi có lẽ đã ngoài bốn mươi.
– Này bác, bác trai đi đâu?
– Thưa bà, nhà tôi đi cúng giỗ ở đằng ông lý.
Rồi chẳng đợi Tuyết hỏi, bác Na đem chuyện mình kể cho nghe. Bác lấy chồng từ năm mới mười bảy. Mười tám đẻ con. Nhưng số bác vất vả, hữu sinh vô dưỡng đến bốn lần. Mãi năm bác hai mươi bảy tuổi mới đỗ con đầu, cái Na, năm nay mười lăm tuổi.
Tình cảnh nhà bác? Nào có ra sao, chồng bác nghèo. Bác phải nai lưng ra làm ăn vất vả quanh năm. Ngày xưa còn khỏe thì bác đi mò cua, bắt ốc, có khi chung phần với chị em thuê tát một vài cái ao, cái chuôm. Nhưng bây giờ, bác yếu lắm rồi, bác không thể làm việc nặng nữa, chỉ đi bắt sâu cho cây hay vun xới nhì nhằng mấy luống rau quanh nhà mà thôi.
– Thưa bà, đẻ mười một bận rồi còn gì.
Tuyết nghe câu nói mà rùng mình. Trời ơi, đẻ như thế thì có khác gì con lợn nái? Nếu người đàn bà mà chỉ có việc đẻ thì đời thật tẻ ngắt. Buột mồm, Tuyết hỏi:
– Bác đẻ làm gì lắm thế?
Ngây thơ, bác Na đáp:
– Còn biết làm thế nào để giữ được cho không đẻ nữa?
Tuyết hơi ngượng về câu hỏi vô lý của mình, nhất người mà Tuyết hỏi chuyện lại là một người đàn bà nhà quê chất phác, chẳng hiểu chi như Tuyết những lạc thú của ái tình nhục thể. Tuyết càng ngượng khi bác Na hỏi lại một cách rất tự nhiên:
Thưa bà, bà được mấy các cậu, các cô?
Tuyết quay mặt nhìn ra sân nói sẽ:
– Chưa.
– Thảo nào mà trẻ đẹp thế. Người ta đẻ nhiều chỉ tổ chóng già.
Đó là một câu an ủi khéo. Người nhà quê họ rất giỏi về khoa nói chuyện, mà ta không ngờ. Khi họ lỡ lời, họ chữa đến tài để khỏi làm phật lòng kẻ khác nhất là đối với bác, kẻ ấy lại là một bà sang trọng sắp sửa cho bác tiền.
Tuyết thì Tuyết vụt nghĩ đến con, thằng bé mà nàng xa cách đã năm năm nay, từ đó nhẫn nay không một lần nàng nhìn thấy mặt. Ngoài sân sau, mấy đứa trẻ ở bên đống rạ, Tuyết nghĩ lẩn thẩn, lẩm bẩm nói một mình:
– Có lẽ năm nay nó cũng chạy chơi lon ton như thằng bé kia rồi.
Tưởng Tuyết hỏi chuyện, bác Na trả lời liều:
– Thưa bà, vâng, các cháu nghịch lắm ạ.
– Thằng bé tên gì thế bác?
– Thưa bà, tên cháu là Rô. Ấy, hôm ấy tôi đi bắt được một giỏ cá rô về thì sinh hạ cháu. Vì thế tôi đặt tên cháu là Rô.
Tuyết cười ngất, quên cả sự buồn rầu khi nãy. Lịch sử những người nhà quê thật là giản dị, mà tư tưởng họ thật là thẳng thắn và gần những sự xảy ra hằng ngày quá.
– Sắp ở cữ, bác còn đi bắt cá ư?
– Thưa bà, chả làm thì lấy gì mà ăn. Nằm ổ được năm, sáu hôm là nhiều. Rồi lại phải đi làm để kiếm ăn.
– Thế bác trai? Bác a bĩu môi một cách khinh bỉ:
– Nhà tôi thì nói làm gì? Chả biết một việc gì. Ấy thưa bà, các bác khóa dở dang như thế cả đấy, đi cày không biết, đi làm thợ, làm thuyền cũng chẳng xong. May mà ông chủ giao cho coi cái trại này, không thì cũng đến khổ, đến đói nheo nhóc với đàn con.
– Vậy bác không có nhà cười?
– Ấy, trước cũng có đấy. Nhưng bây giờ bán cho ông chủ ấp rồi, vì ông chủ đây có họ ....
Bác Na, ghé tai nói nhỏ:
– Kể ra thì ông chủ còn là cháu họ nhà tôi cơ đấy. Nhưng giàu làm chị, khó làm em, phải không thưa bà? Mình nhờ vả người ta thì cũng phải lễ phép chứ.
Bác Na nói huyên thuyên, kể lể chẳng thiếu chuyện, luôn mồm viện những câu tục ngữ, phong dao để chứng thực cho lời mình nói. Thí dụ bác muốn tỏ cho Tuyết biết tại sao bác phải vất vả làm việc thì không thể nào bác quên câu "vì chàng, thiếp phải bắt cua, những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng".
Giữa lúc ấy, Chương ở ngoài vườn trở về, tay cầm hai cái cần câu, bảo Tuyết:
– Đi câu đi.
– Ồ, thú nhỉ. Đi câu.
– Bẩm ông bà có mồi chưa? Hay để con bảo cháu đi đào giun.
Chương đáp:
– Cảm ơn bác, tôi đã có đủ các thứ rồi. À, bác có nón cho mượn một cái.
– Bẩm bà dùng nón phải không? Để lấy nón cháu Na. Nó vừa mua được cái nón mới đẹp lắm.
Bác Na chạy xuống nhà dưới. Một lát bác mang lên một nón ba tầm rất xinh xắn đưa cho Tuyết. Tuyết đội lên đầu, đứng khoanh tay, hỏi Chương:
– Có đẹp không, mình?
Chương ngắm nghía người yêu, trong lòng vui sướng:
– Mình đẹp lắm!
Bác Na thấy vợ chồng ông giáo nói chuyện với nhau như trẻ con, thì lấy làm ngượng, đi lảng ra phía sau.
Chương và Tuyết đến ngồi câu bên gốc cây sung. Thân và cành cây xù xì vì trẻ con luôn luôn băm chặt để lấy nhựa. Lá sung to bản rủ rườm rà xuống mặt nước, và trông sấp bóng thành những chấm đen vẽ đậm nét lên nền trời xanh trong, vờn mây trắng. Nước ao yên tĩnh. Thỉnh thoảng một con cá quẫy hay một quả sung rụng làm mặt nước đương phẳng lặng rạn ra một chỗ, rồi vết rạn lan tròn rộng mà dần dần biến mất.
– Anh Chương!
– Suỵt, im!
Chương vừa thấy cái phao nút chai nhỏ động đậy nhấp nhô. Tuyết nín thở, ngồi chờ, thì Chương đã giật lên ở đầu dây câu một con cá nhỏ, vừa bằng ngón tay cái. Tuyết chạy lại reo hỏi:
– Ồ thích nhỉ! Cá gì thế anh?
Chương cầm con cá trong tay, ngắm nghía có vẻ tự đắc lắm.
– Con cá rô!
Tuyết nhớ tới câu chuyện bác Na kể ban nãy, câu chuyện đặt tên con là Rô vì hôm đẻ nó bác bắt được một giỏ cá rô. Buồn rầu, nàng trở về chỗ cũ ngồi thừ người mơ mộng ...
– Mình sao thế?
– Không! Em có sao đâu?
Đã lâu nay, Tuyết không hồi tưởng lại thời còn nhỏ. Sống cái đời hiện tại, náo nức, tưng bừng, nàng bị những khoái lạc vật chất lôi kéo như khúc gỗ lềnh bềnh bị dòng nước chảy xuôi lôi kéo đi nơi vô định. Vì thế, không mấy khi nàng được tĩnh tâm, tĩnh trí mà nghĩ tới mình, mà nhớ tới quãng đời đã qua.
Nay ở giữa một nơi thôn quê lặng lẽ, xa hẳn chốn thành thị huyên náo. Tuyết bỗng thấy như vẽ ra trước mắt một cảnh tượng quen quen. Nàng tưởng đã sống ở nơi đó một thời gian quá khứ mà chỉ nhớ mang máng như trong giấc mộng mơ hồ.
Cái ao nước tù trong xanh, cây sung rễ mọc nổi trên mặt đất tựa như con rắn trăn, đã mốc thích, khóm chuối lá to bảng màu xanh vàng như một đám tàn quạt phe phẩy theo ngọn gió và che mát rợp hẳn một góc vườn bên những luống khoai lang, khoai sọ; cảnh đó gợi trong ký ức Tuyết, nhiều câu chuyện ngây thơ thuở xưa. Tuyết cảm thấy sự buồn chán dần dẫn đến lấn tâm hồn. Nàng rùng mình, tự hỏi:
"Ta còn cảm động được ư?".
Nào có chi lạ! Những kẻ giàu tính tình lãng mạn, phóng đãng, khi sống theo lòng sở thích của mình thì tưởng rằng mình đã trở nên trơ như sắt đá. Kỳ thực đó chỉ là một cách tự dối mình, một cách sống ồ ạt để cải bản tâm yếu đuối của mình không biểu lộ ra được:
sự sống của liều, sau khi đã trót lầm lỡ, hay bị thất vọng về tình duyên.
Vì thế, nay ngắm một cảnh dịu dàng êm ái ở chốn thôn quê, Tuyết bỗng thấy nảy ra trong tâm hồn những tính tình mà lâu nay nàng không có nữa:
Thương tiếc, nhớ nhung, lo lắng, cho đến cả lòng hối hận ...
Chương gác cần câu lên cọc cầu ao, rón rén lại sau lưng Tuyết đương ngồi mơ mộng trên đám rễ sung, mắt đăm đăm nhìn cái phao hơi rung động. Chương vỗ tay lên vai tình nhân, hỏi sẽ:
– Mình nghĩ gì vậy?
Tuyết quay lại chau mày gắt:
– Làm em giật mình? Không, em không nghĩ gì cả.
– Tuyết ngắm cảnh nhà quê, có nhớ ngày còn bé không? ... À, mà ngày còn bé, em có ở nhà quê không nhỉ?
Tuyết nói dối:
– Không, anh ạ.
– Anh thì ngày còn bé, tết nào và kỳ nghỉ hè nào, anh cũng về quê. Vui thú lắm, chiều mùa hè cùng bọn trẻ chăn trâu ra cánh đồng thả diều. Dãi nắng người đen thui, nhưng khỏe lắm.
Tuyết buột mồm đáp:
– Thế thì giống anh cả em quá! Anh ấy cũng vậy, chỉ thích chơi diều. Ai cho bộ sáo thì mừng hí hửng có khi đến quên cả ăn.
Chương cười:
– Ồ, thế à? Bây giờ anh Tuyết ở đâu? ... Làm gì?
Tuyết sa sầm nét mặt. Nàng thấy Chương nói đến chuyện thả diều thì nàng cũng bàn góp, có ngờ đâu chuyện ấy lại miên man dính dáng tới gia đình nàng!
Đã bốn năm nay, nàng không được tin tức về cha mẹ, về anh em và nàng vẫn cố quên nhãng hẳn đi, không hề bận trí tưởng nhớ đến. Nghe câu hỏi của Chương, và lấy làm ngượng ngùng xấu hổ, nàng liền nói lảng:
– Em thì ngày còn nhỏ, em chỉ thích ăn mầm hồng.
Chương cười:
– Mầm hồng, chồi lạc ấy ư?
Tuyết cũng làm ra vui vẻ cười theo.
– Không, mầm cây hồng kia! Không phải hồng quả đâu, hồng hoa ấy. Cái chồi non của nó vừa mập vừa mềm, tước vỏ đi, ăn ngọt lắm. Thấy em yêu hoa hồng lắm, trong vườn cảnh trồng rất nhiều. Buổi trưa, khi thầy em nghỉ, em cùng em gái ra vườn tìm mầm hồng ăn.
– Lúc bấy giờ, thầy em ở đâu?
– Thầy em tri huyện ở huyện ...
Tuyết bỗng im bặt. Định nói lảng để tránh chuyện nhà, nàng không ngờ lại đụng tới chuyện nhà. Chương hỏi:
– Huyện nào thế, Tuyết?
– Em quên mất rồi ...
Hai người ngồi im lặng suy nghĩ. Cái đời dĩ vãng của Tuyết. Chương vẫn không muốn biết hay hỏi dò để biết. Nhưng chàng không hiểu sao, mỗi lần hơi đá động đến là Tuyết đánh trống lảng. Cho đến cả gia đình của Tuyết cũng vậy.
Tuyết che đậy ghê gớm. Mà nào gia đình Tuyết có kém hèn gì? Cứ những mẫu chuyện Tuyết vô tình thốt ra thì cha Tuyết hẳn là một người sang trọng, giàu có một thời. Hay Tuyết bịa đặt ra để khoe khoang, cái đó cũng là một sự thường đối với các cô gái giang hồ. Nhưng sao đã bịa đặt lại còn bưng bít, giấu giếm?
Thật Chương phân vân khó hiểu.
Còn Tuyết, Tuyết vẫn có tính khẳng khái và tự trọng, tuy Tuyết đã sống một đời xấu xa, nhơ nhuốc. Tuyết cho dù tấm thân Tuyết dơ bẩn đến đâu, Tuyết cũng không có quyền để ai bình phẩm được danh dự nhà Tuyết, của cha mẹ Tuyết. Mình lầm lỗi thì mình chịu, nhà mình làm gì nên tội mà để kẻ khác chỉ trích, mỉa mai? Nghĩ đến cha mẹ, tâm hồn Tuyết trở nên ủy mị:
Tuyết mất hết tính bướng bỉnh, liều lĩnh của cô gái phiêu bạt:
Hai giọt lệ đọng trên gò má.
Chương vỗ về, an ủi, thì thầm hỏi:
– Sao em buồn thế?
Tuyết không trả lời. Chương lại nói:
– Em chả nên buồn. Anh yêu em, sao em còn buồn?
Tuyết vội lau nước mắt, rồi tính lãng mạn vốn có sẵn trong lòng, bừng bừng biểu lộ ra. Nàng cười cười, nói nói:
– Thế nhé, anh yêu nhé? Linh hồn em ngày nay chỉ còn như mảnh ván nát trôi sông, như chiếc lá úa lìa cành. Trời ơi! Nếu anh thật bụng yêu em thì có lẽ em sung sướng được chăng, em còn có thể hưởng hạnh phúc ở đời này được chăng? Nhưng anh có thật bụng yêu em không anh?
Chương âu yếm cầm tay Tuyết:
– Em không trông thấy ư? Anh tưởng anh em bạn không nên ngờ lòng yêu thương của anh một tí nào mới phải.
Nhưng Tuyết vẫn như không nghe thấy gì, mê man nói:
– Thật vậy, anh ạ! Em chỉ như chiếc lá úa lìa cành. Em không còn cha mẹ, anh em em vẫn sống ở đời. Gia đình em đối với em như một bọn thù hằn độc địa. Mà họ thù hằn cũng phải, anh ạ. Trong một gia đình trong sạch, đời đời cao quý, em chỉ là một con hủi bẩn thỉu xấu xa.
Chương cười:
– Đối với anh, em đẹp như nàng tiên nga giáng thế.
Không lưu ý đến lời bông đùa của tình nhân Tuyết hỏi luôn:
– Những ý tưởng trong các tiểu thuyết thái tây dạy em rằng em hoàn toàn của em, em được tự do hành động như lòng sở thích. Nhưng hình như không phải thế hay sao ấy, anh ạ. Hình như người ta phải có gia đình, phải chịu sự ràng buộc của nhiều dây liên lạc thân ái. Nếu không, ta sẽ thấy cô độc, đời ta trống trải, không ký vãng, không tương lai. Ta có thể chỉ sống cái đời hiện tại của ta được không?
– Mình nghĩ lôi thôi lắm. Sao lại không có gia đình? Sao lại không có tương lai? Anh với em lại không đủ là một gia đình hay sao? Lại không thể gây lấy một cuộc đời tương lai tốt đẹp hay sao? Em không tin anh thì em không tốt. Hay em muốn anh ra đốc-lý làm phép cưới lấy nhau? Tuyết kêu rú lên:
– Không được!
Rồi Tuyết nũng nịu:
– Anh thành thật yêu em cũng đủ lắm rồi.
Chương thong thả nói:
– Con người lập gia đình cũng như con chim làm tổ. Một con trống, một con mái, đó là gia đình. Một người đàn ông, một người đàn bà, đó là gia đình. Can chi em phải nghĩ xa xôi?
– Nhưng em muốn phải có sự thiêng liêng ràng buộc được mình. Có lẽ sự thiêng liêng đó ở trong cả một đời dĩ vãng ...
– Không ở trong sự cưới xin được ư?
Tuyết không trả lời. Nàng biết rằng sự cưới xin, sự lấy nhau theo lễ nghi không đủ sức mạnh giữ nổi ở trong giới hạn bổn phận người đàn bà quá tự do, quá sống đời phóng đãng như nàng. Mà cái chứng cứ chắc chắn là sự bỏ nhà chồng, trốn đi. Chương lại nói:
– Ái tình chân thật không đủ sức thiêng liêng để khiến người đàn bà yêu mến gia đình ư?
Tuyết vẫn im lặng. Nàng nhớ tới hai lần nàng rời Chương ra đi, đi với tình nhân cũ. Ái tình, nàng có còn tin ái tình được không? Mà yêu nhiều người như nàng thì còn có thể nào nếm được hạnh phúc của ái tình? Nàng như hiểu lờ mờ rằng, trừ những khoái lạc hằng ngày ra, nàng không còn nên hy vọng những hạnh phúc đâu đâu. Gia đình? Một người như nàng không có quyền tưởng đến gia đình. Sự mơ ước của nàng đã quá muộn.
Tuyết càng cảm thấy tâm hồn chán nản và đời mình trống rỗng. Nàng nhăn mặt, liếc nhìn Chương ngôi bên. Không bao giờ nàng ghét Chương hơn lúc bấy giờ, ghét một cách độc địa. Nàng toan tỏ ý khinh bỉ, đứng dậy lảng xa Chương ra thì một sự chẳng ngờ đến cứu hai người thoát khỏi tình thế khó khăn:
Cái cần Chương gác trên cọc cầu ao bị con cá mắc lưỡi câu, lôi chúc đầu xuống nước, Tuyết trông thấy trước, vội kêu:
– Kìa nó lôi!
Chương không hiểu, hỏi:
– Cái gì?
– Con cá kia kìa!
Chương tất tả chạy lại cầu ao, giựt cần lên:
Một con cá lớn đã mắc ở đầu dây.
Tuyết chạy theo lại hỏi:
– Cá gì vậy, mình?
Chương vừa lúng túng tháo con cá ở lưỡi câu, vừa trả lời:
– Cá chép, mình ạ.
Hai người ngắm nghía sờ mó con cá coi như nó là một vật sạch sẽ, thơm tho.
Tuyết nói:
– Cá chép béo ăn ngon lắm đấy.
Rồi Tuyết và Chương cười vui vẻ, hầu như đã quên hẳn câu chuyện buồn rầu ban nãy.
Vào khoảng năm giờ, Tuyết kêu đói. Mà các thứ đem theo thì bữa sáng ăn đã hết. Chương muốn về Hà Nội ăn cơm chiều, nhưng Tuyết nũng nịu đòi ăn một thứ gì cho đỡ đói rồi hãy về. Chương chợt có ý tưởng ngộ nghĩnh, bảo Tuyết:
– Hay ta nhờ bác khóa Na làm cơm?
Tuyết chau mày đáp:
– Mình ăn sao được cơm rau nhà quê?
– Ăn được chứ. Ta thử nếm mùi cơm hẩm xem sao.
– Ừ phải đấy.
Chương liền gọi bác Na lên đưa đồng bạc, nhờ làm hộ một bữa cơm xoàng.
Hơn một giờ sau, cái Na bưng lên một cái mâm gỗ trong đựng đĩa giò, đĩa chả, đĩa thịt quay, đĩa đậu phụ rán, các thứ ấy bác Na đã mua ở Ngã tư Sở về.
Tuyết nhìn Chương mỉm cười, vì nàng thấy các món ăn chẳng có tí gì là nhà quê hết. Cho đến trong niêu đất, nàng ghé mắt dòm cũng chỉ thấy một thứ cơm rất trắng:
ý chừng bác Khóa đã đi vay gạo tám về thổi.
Ăn cơm xong mới gần bảy giờ. Nhưng vì hôm đó nhằm ngay mười ba ta, nên trăng mọc sớm, đã lấp ló sau giậu tre thưa. Luồng gió mát như vừa theo bóng trăng trong đến hây hây thổi, rì rào ngọn lá cau và tầu lá chuối. Bên cạnh Tuyết, Chương ngồi ở thềm, hút thuốc lá, tâm hồn bình tĩnh như trời chiều ở thôn dã. Chàng bảo Tuyết:
– Hay ngủ lại đây một tối?
Uể oải, Tuyết trả lời:
– Cũng được.
Chương liền gọi bác Na hỏi xem nhà có màn không thì may sao chủ ấp đã sắm sẵn đủ cả, để thỉnh thoảng về đấy ngủ đêm.
Một lúc sau, trăng đã tỏ và lên cao, lơ lửng như rung động trên ngọn cành tre mềm mại. Chương tưởng tượng ra một cái cần câu lớn cùng để câu chị Hằng Nga. Câu thí dụ khiến tuyết bật cười.
Tiếng dế kêu ri rỉ bên hiên càng làm tăng vẻ yên lặng. Thỉnh thoảng tiếng chó sủa ở các xóm gần xa đáp lại nhau. Tuyết cặp mắt mơ mộng nhìn trời, nói:
– Cảnh tĩnh mịch nhỉ. Ở Hà Nội quen, về nhà quê thấy khó chịu.
– Mình khó chịu à? Ta trở về Hà Nội vậy.
– Thôi, đã định ở lại thì ở lại.
Thật ra, sự yên tĩnh khiến Tuyết càng cảm thấy sự trống rỗng trong lòng.
Tuyết đương buồn bực thì Chương lại đỏ thêm dầu vào lửa cháy:
– Tuyết ngắm xem:
trăng sáng, trời trong, vũ trụ như đúc bằng pha lê.
Tuyết cười chua chát đáp lại:
– Chỉ thân em là đục.
Nàng ngừng vài giây, rồi Chương chưa kịp tìm lời an ủi, nàng đã tiếp luôn, giọng nói có vẻ thành thật:
– Em càng nhìn thấy, em càng ngẫm đến sự trong sạch, thì em lại càng thấu rõ rằng đời em nhơ nhuốc.
Chương mắng yêu:
– Em hay nghĩ lôi thôi lắm!
IX. Từ hôm về nhà quê chơi, Tuyết càng cảm thấy tâm hồn chán nản, và nhận thấy đời nhạt nhẽo, buồn tênh. Là vì sự ước mong thèm muốn, nhớ tiếc làm cho Tuyết hằng ngày tưởng tượng ra một cuộc đời không phải lý tưởng, nhưng may ra còn có thể thích hợp được với tính tình, với quan niệm của nàng.
Tuyết không tiếc cái thời quá khứ ngắn ngủi, cái thời chung sống với người chồng chất phác, ngu đần. Nếu chàng có chịu khuất phục cảnh cơm ngon, canh ngọt thì ngày nay, nàng cũng đến giống như bác Na kia mà thôi, tuy cái gia đình của nàng có thể cao quý hơn vài chục bậc, sự sinh hoạt của nàng có thể sung túc hơn một tí. Nàng nghĩ đến đàn con nheo nhóc nhà bác Na mà nàng kinh hãi, mà nàng tạm gượng vui được với cái hiện tại chơ vơ của nàng.
Nhưng Tuyết vẫn nhớ tiếc, nhớ tiếc mơ màng. Nàng như có cái cảm tưởng đã phung phí mất một quãng đời tốt đẹp, đã bỏ qua mất một chuỗi ngày xuân sáng sủa, vui tươi. Nàng sống mà nào nàng có kịp nghĩ nàng sống ra sao!
Mấy năm ròng rã với cái đời phóng đãng, bị những lạc thú vật dục nó lôi kéo, nó in nếp răn ở mặt, những nếp răn mà khi soi gương, đánh phấn nhìn thấy, Tuyết vẫn rùng mình, lo lắng. Chỉ một ý tưởng già là khiến được nàng đoái tưởng tương lai. Nay nàng mới hăm ba tuổi, đời hẳn còn dài. Nhưng dài với cái già ấy thì dài cũng vô ích ... Lúc bấy giờ nàng sẽ ra sao, nàng sẽ làm thế nào để tự an ủi?
Tuổi già là tuổi mến cảnh gia đình. Nhưng Tuyết còn mến sao được cảnh gia đình? Nàng bỗng nhớ tới thằng con, thằng Hỉ. Song chẳng qua vì cái ý tưởng gia đình mà nghĩ đến con mà thôi. Chứ nào có phải vì tình mẫu tử? Mà cho đến cả khổ mặt con, nàng cũng không thể phác họa ra được trong trí nhớ.
Có buổi chiều ngồi một mình, mơ mộng liên miên, trí nàng cố tự tạo ra một quãng đời tương lai mà nàng còn có thể hưởng được.
Nàng thấy nàng là vợ chính thức của Chương và cùng Chương sống một cách đơn sơ, giản dị. Chồng đi dạy học, vợ ở nhà thêu thùa may vá, trông nom việc dọn dẹp, bếp nước. Được như thế phỏng có khó gì! Những người không có một chút học thức còn làm nổi thì sao Tuyết lại không làm nổi?
Lúc bấy giờ một cái ô-tô qua cổng, đi rất thong thả. Trên xe, hai người đàn ông cùng hai người con gái chơi bời mà Tuyết quen biết, đương cười đùa vui thú. Tuyết vụt tỉnh mộng. Không, Tuyết không còn được phép nghĩ tới lạc thú êm đềm nữa. Có một quãng chông gai nó ngáng đường không cho Tuyết trở lại với cái đời trinh tiết.
Thì người ta như thế cả, đã sao? Chán vạn gái giang hồ trở nên những bà trưởng giả. Tuyết bĩu môi khinh bỉ những kẻ giả dối, những bọn đạo đức quê mùa. Tuyết bỗng mỉm cười, thì thầm tự nhủ:
"Chà! Một liều, ba bảy cũng liều, cầm như con trẻ chơi diều đứt dây!" Tuyết muốn rời bỏ nhà Chương ngay mà đi, mà lăn lộn với cuộc đời mưa gió. Tiếng gọi chốn xa xăm, huyền bí hình như lại đến làm rung động tâm hồn phiêu lưu của nàng.
Nhưng nàng vụt nhớ hai lần trước nàng xa Chương, rồi nàng lại quay về với Chương. Nếu lần này đi mà không đi được hẳn thì ê chề biết bao, thì dơ dại biết bao? Nàng sợ, sợ những cái đâu đâu, sợ cái đời nay đâu, mai đó.
Vơ vẩn nhìn lên tường, mắt nàng không sao rời được bức tranh thủy họa mà Chương vừa mua mấy hôm trước.
Cảnh vẽ trong tranh là một trái đồi chè ở vùng trung châu Bắc Việt. Lưng chừng đồi, một căn nhà tre lợp lá gồi, ẩn núp dưới bóng mấy câu trầu. Có đồi xanh tươi, lá cây xanh thẫm, da trời xanh nhạt màu lam.
Ngắm tranh, Tuyết tưởng tượng ra biết bao cảnh êm đềm đầy lạc thú:
cảnh mặt trời mọc, cảnh mặt trời lặn, cảnh sáng trăng trong ... Hai người yêu nhau ở nơi hẻo lánh ấy, còn hạnh phúc nào bì kịp? Tâm trí nàng thì thầm với nàng rằng hai người ấy là Chương và Tuyết.
Tuyết đăm đăm suy nghĩ:
Nàng muốn xa ngay Hà Nội, cùng Chương đi tìm nơi ẩn dật. Được thế, nào có khó gì, chỉ bảo Chương làm giấy xin đổi lên vùng trung châu hay tìm một giáo sư quen biết ở một tỉnh lỵ nhở nào đó mà đổi lẩn với người ta. Rồi ở đấy cùng người yêu sống lại hẳn một cuộc đời mới, giản dị mà sung sướng, không tham muốn, không ước mong, chỉ để cho ngày xanh lặng lẽ trôi đi như dòng nước từ từ chảy xuôi.
Hơn nữa, Tuyết sẽ khuyên Chương cần kiệm để dành tiền tậu một cái ấp, rồi năm năm, mười năm sau xin về hưu hay xin từ chức cùng nhau ở đấy chăm nom việc cày cấy, trồng trọt ...
Hốt nhiên cái ấp ở làng Khương Thượng lại vẽ ngay ra trước mắt Tuyết với những sự nhỏ nhen, khốn nạn của nó, với cái gia đình nheo nhóc của người coi ấp:
"Chẳng lẽ trở nên một cặp vợ chồng quê mùa như vợ chồng bác Na?".
Trong mấy tháng trời, ngày ngày Tuyết loay hoay những ý nghĩ tương phản như thế. Tuyết mới có một quan niệm vừa mới nhóm ở trong trí đã bị một quan niệm khác trái ngược hẳn đến xóa nhòa ngay. Tuyết cố hy vọng một cuộc đời đầy đủ hạnh phúc, song mỗi lần Tuyết hy vọng thì hình như cái quãng đời quá khứ lại hiện ra mà cản trở. Đến nỗi Tuyết cáu bẳn, tự hỏi:
"Một người đã lầm lỗi một lần thì không thể sung sướng được nữa chăng?".
X. Nhất là từ khi hết hè, Chương đi dạy học, mỗi ngày hai buổi, thì Tuyết sinh buồn bực, càng có những tư tưởng hắc ám. Một ngày, năm sáu giờ ngồi một mình, thì tránh sao khỏi nghĩ liên miên.
Đã nhiều lần, Tuyết lấy tiểu thuyết của Chương ra xem để cố giải khuây, nhưng cảnh người trong truyện dù sung sướng hay khổ sở đều làm cho Tuyết càng thấy rõ rệt sự khốn nạn đời mình.
Về sau Tuyết không dám mó tới sách nữa. Nàng định sửa soạn, thu dọn may vá để quên. Song những việc làm bằng tay, nàng chỉ thấy nặng nhọc, vô vị.
Đến một thứ rất giản tiện mà nàng tưởng có thể giúp nàng đỡ khổ được là "ngủ", ngủ liên miên, ngủ suốt ngày, cũng vô công hiệu nốt. Nằm trên giường không ngủ được thì tâm trí càng thêm loay hoay với ý nghĩ. Mà có ngủ được thì nhiều lần lại bị những chiêm bao ghê tởm, xấu xa ám ảnh.
Một buổi sáng. Chương đi dạy học đã lâu mà Tuyết còn nằm lì ở giường. Hai lần con sen lên gác nói có khách. Nhưng mãi mơ mộng, Tuyết vẫn không nghe thấy gì. Mãi lúc hai người nóng ruột đi thẳng lên buồng ngủ. Tuyết mới chịu trở dậy mặc quần áo.
Khi hai người bạn ngỏ lời rủ Tuyết lại nhà đánh tổ tôm vui mừng và lấy làm lạ rằng sao mấy tháng trước nàng không nghĩ đến cách tiêu khiển ấy.
Từ đó, Tuyết ham mê cuộc đời đỏ đen và qua được mỗi ngày mấy giờ buồn tẻ.
Những cuộc bài bạc hội họp ở nhà bạn dần dần trở nên một thói quen của Tuyết, đến nỗi ngày chủ nhật và chiều thứ năm. Chương ở nhà, Tuyết không đi được, lấy làm bực tức, khó chịu, tình nhân hỏi chẳng buồn thưa.
Buổi đầu, một hôm Chương được nghỉ một giờ trước giờ tan học, về không thấy Tuyết. Khi hỏi Tuyết, Tuyết tìm cách nói dối quanh. Nhưng sang tuần lễ thứ hai, Tuyết đã thuộc lòng bản chương trình của Chương. Biết hôm nào Chương nghỉ sớm thì nàng cũng về sớm. Giờ dạy học và giờ đánh bạc của hai người từ đó đi đôi với nhau.
Nhưng, giấu giếm Chương thì hẳn là Tuyết không sẵn tiền để đánh bạc, vì nàng đã trót ngõ lời cùng tình nhân thi hành bản chương trình tiết kiệm.
Nàng liền vay mượn chị em rồi một ngày kia dựt tạm mấy người đàn ông thường gặp ở đám bạc. Trong bọn, có một người hễ nàng hỏi vay là đưa liền, nhiều lần lại đưa gấp đôi số tiền nàng cần dùng. Trước nàng còn trả ngay, sau thấy người kia dễ dãi, nàng sinh trây lười để nợ hàng tuần, hàng tháng.
Thế là hai người có cảm tình với nhau. Tuyết tìm cách khôn khéo giới thiệu chàng với Chương, đưa chàng về nhà, mời chàng ăn cơm. Chàng là một nhà thương mại giàu có ở Hà Thành, tính tình hào phóng, rất giỏi khoa tán gái mà lại có tài giao thiệp. Vì thế, chẳng bao lâu, chàng trở nên người bạn thân của Chương.
Và chẳng bao lâu, gia đình Chương trở thành gia đình tay ba. Chương, người tình nhân chính thức, và Giang, tên nhà thương mại, người tình nhân phụ, ba người ở với nhau rất là ôn hòa, vui vẻ. Chương không những không biết một tí gì, mà thấy Tuyết trở lại cái tính đùa bỡn, tinh nghịch, lanh lẹ như xưa, chàng còn lấy làm sung sướng.
Tuyết chia hẳn thời giờ ra làm hai phần. Tan giờ dạy học của Chương thì nàng ở nhà và là người nội trợ rất đảm đang, âu yếm. Trong giờ dạy học, thì nàng đi với Giang, nghiễm nhiên là tình nhân của chàng, chẳng thèm giấu giếm chị em bạn. Mà chị em bạn thấy nàng dụ được một anh chàng giàu có, dễ dãi thì cũng mừng cho nàng và cho cả bọn.
Những gia đình tay ba thường vẫn được hòa thuận, vui vẻ. Biết mình có ngoại tình là có lỗi, người vợ cố ở với chồng được chu đáo để chuộc tội lỗi mình và khiến người chồng không ngờ vực. Anh tình nhân hiểu rằng muốn ngoạm quả cấm thì phải hết lòng chiều chuộng người có quả. Cho đến người chồng cũng hí hửng vui mừng vì thấy vợ mình âu yếm mình và bạn mình quý mến mình.
Cái tình thân giả dối của ba người đối với nhau nhiều khi có thể trở nên thành thật được.
Nhưng bao giờ cũng vậy, nếu người đàn bà dễ ghét người chồng thì họ cũng dễ ghét tình nhân. Khi còn xa nhau tưởng tính tình hợp lắm, song càng gần nhau, càng thấy những nét xấu, những chỗ trái ngược biểu lộ ra ...
Vì thế chẳng bao lâu Tuyết chán ghét Giang, mà đời nàng càng thêm buồn tẻ:
Còn chút hy vọng cuối nào, nay tiêu tán hết.
Không những nàng ghét Giang mà nàng còn khinh Chương nữa. Có lúc nàng cáu có, gắt gỏng thốt ra lời oán trách chung cả bọn đàn ông:
"Họ mù hết!".
Mùa thu với da trời vàng úa với tiết trời bắt đầu hơi lạnh đem lại cho Tuyết những tư tưởng hắc ám, âu sầu. Có khi ngồi trên gác, nhìn qua cửa sổ, Tuyết nghĩ lẩn thẩn muốn đâm đầu xuống sân cho vỡ sọ ra. Rồi lần nào, nàng cũng như sực tỉnh, tự cho mình là điên gàn mà cất tiếng cười lanh lảnh.
Lại có lần giữa lúc mưa gió sấm sét nàng vụt có cái hy vọng lạ lùng. Nàng thì thầm có một mình:
"Giá sét đánh chết quách ta đi thì sung sướng cho ta biết bao!". Phải, nàng muốn chết mà không bao giờ dám can đảm quả quyết lìa đời.
Rồi hết thu sang đông, Tuyết như người không hồn, bám hờ lấy sự sống.
Đối với nàng, Chương càng ân cần chăm sóc, mua thuốc bổ về ép nàng uống, mua thuốc tiêm về tiêm cho. Có khi nàng cũng cảm bụng tốt của Chương, cố hớn hở cười đùa để làm vui lòng chàng. Song cái vui gượng không thể chống cự nổi cái buồn chán nản nó như mọc rễ trong tâm hồn.
Những đêm hai người ngồi đối diện nhau bên lò sưởi nóng, Chương đọc sách, nàng đan áo. Tuyết thoáng thấy hiện ra cái cảnh êm đềm của một gia đình thân mật. Những lúc đó, nàng cảm động quá, hối hận quá, muốn thú hết với Chương cái tính giả dối của nàng. Nhưng hễ nàng ứa hai hàng lệ, hé môi ngập ngừng toan thú tội, thì Chương đã đem những ý tưởng triết lý đâu đâu ra giảng, đem những lời nhạt nhẽo khô khan ra vỗ về, khuyên can, an ủi.
Nàng khó chịu, lãnh đạm ngồi nghe, âm thầm cảm thấy mình khinh bạc và không thể yêu thương được người mình đã khinh.
Rồi lòng khinh bạn chẳng bao lâu lại đổi ra lòng tự khinh mình. Nàng cho dẫu sao Chương cũng tốt hơn nàng. Một người thẳng thắn, thành thật như Chương, nàng so sánh sao được, vì nàng nhận thấy nàng chỉ là một đứa giang hồ man trá, phản trắc, đắm đuối trong vực sâu mà không chịu để ai cứu vớt ...
Thế rồi một buổi sáng, buổi sáng hôm mồng ba tết trong khi tiếng pháo hãy còn vui mừng đón chào xuân mới, một buổi sáng mưa phùn, gió bay, Tuyết lặng lẽ bỏ Chương ra đi. Thà liều thân với một đời mưa gió, khổ sở, đê tiện, nàng cho còn hơn là sống mãi cái đời lừa dối, bên cạnh một người mà nàng đã cạn tình yêu và trong một gia đình bình tĩnh, êm ấm nó luôn luôn nhắc nàng nhớ rằng địa vị nàng không phải ở đấy.
XI. Ở Hải cảng, trong căn nhà số... Sông Lấp, ba trang công tử và hai gái làng chơi đương thi nhau nô đùa cười như pháo nổ.
Nhà không có gác và chia ra hai ngăn. Một bên là buồng ngủ và buồng tắm, một bên là phòng khách. Ở đó, trong cái khảm lớn, kê một cái sập thấp, cả đều kiểu tàu cổ, chạm trổ rất tỉ mỉ và nước sơn đen đã nhạt, màu vàng thếp đã phai.
Trên sập, một khai đèn thuốc phiện bằng pha lê, cực kỳ sáng sủa, bóng lộn với những móc những tiêm bằng bạc, bằng vàng, với những lọ bằng sứ nhỏ xíu, những gác tiêm bằng ngà, bằng ngọc. Hết thảy mọi vật ấy đều kiểu Tàu, cũng như những bức tranh, những bức tứ bình có chữ Phùng Quốc Tài treo nhan nhản trên tường và gần đấy, bộ bàn ghế gỗ trắc lưng tựa bằng đá Vân Nam, một cái bình phong cũng bằng trắc, dùng để chia phòng khách ra hai ngăn. Cho cả đến những nệm vứt là liệt trong phòng trên một tấm thảm cổ cũng may bằng gấm vóc Thượng Hải.
Đó là nơi nhà riêng cực kỳ lịch sự của Hanh để cùng bạn bè hội họp chơi bời.
Hôm ấy có cuộc đón tiếp long trọng. Trên cái bàn trải khăn ăn, dưới ánh lù mù của ngọn đèn trong cái khung cổ kiểu Tàu, thấy bày rất nhiều chai sâm banh và cốc uống rượu cùng là những món ăn nguội và hoa quả đủ thứ.
Hanh nhìn đồng hồ treo tường, bảo người bạn gái nằm đối diện bên kia khay đèn thuốc phiện:
– Yến ạ, anh lo lắm, có lẽ Tuyết không đến chăng? Gần mười hai giờ rồi mà chưa thấy gì.
Yến ngưng tay tiêm thuốc, trả lời:
– Anh nóng nảy quá. Thì hãy chờ một lát nữa nào?
Xuyến thở phào khói thuốc lá ăng-lê, nói tiếp:
– Anh phải biết, Tuyết đã hứa một lời thì như đinh đóng cột.
Tiến đương lim dim mơ màng với sự say thuốc phiện, cất giọng buồn ngủ, khàn khàn bẻ lại:
– Xuyến nói chí phải. Đinh đóng cột thì lấy kìm nhổ lên rất dễ, phải không anh Tâm? Tâm ngồi lọt vào trong đống nệm ở cái "đi-văng" bên cạnh, uể oải, vươn vai ngáp dài và đáp lại:
– Phải, nhất là cái cây cột ấy lại chỉ xây bằng gạch với cát.
Yến hầm hầm tức giận, vứt dọc tẩu với tiêm thuốc xuống sập:
– Các anh có giỏi thì chốc nữa đối đáp với chị Tuyết. Thật tôi truyền đời cho các anh biết trước mà tránh những cái tát tay nên thân.
Mọi người cười ồ. Rồi Hanh bắt Yến kể lại cho nghe sự gặp gỡ của nàng với Tuyết.
Sáng hôm ấy, Yến đang đưng hỏi mua một hộp phấn trong hiệu Gô-đa, bỗng có ai vỗ vai. Yến quay thì là Tuyết, Tuyết vui vẻ hỏi thăm tin tức các chị em bạn ở cảng. Lâu nay Yến không gặp Tuyết, nhưng vẫn biết rằng Tuyết ở với Chương. Nàng chưa kịp hỏi thăm thì chính Tuyết gợi chuyện ra mà bảo cho nàng biết rằng Tuyết đã bỏ tình nhân rồi. Yến nói:
– Em xem ra khi chị ấy thuật lại câu chuyện ly biệt thì chị ấy buồn lắm, cặp mắt chị ấy muốn khóc, cái mồm cười như mếu. Em tìm lời an ủi, khen ngợi lòng quả quyết của chị ấy. Thật ra, chị ấy ở với Chương được đến hơn nửa năm, em cũng lấy làm lạ. Với cái tính tự do, bạt mạng của chị ấy thì xưa nay chị ấy chỉ có yêu ai được một tuần lễ bao giờ đâu ...
Hanh cười lơi lả, ngắt lời:
– Thế rồi có yêu anh được ba ngày không?
– Đốt anh đi! Để người ta kể nốt cho mà nghe đã nào. Muốn cho chị Tuyết khỏi nhớ tiếc Chương, vì em tưởng Chương đuổi Tuyết đi để lấy vợ, em liền nói xấu thậm tệ cái ông giáo đạo đức ấy, Tuyết chau mày đăm đăm ngẫm nghĩ. Rồi chị ấy bảo em rằng chị ấy vẫn yêu Chương.
Hanh lại ngắt lời:
– Vẫn yêu Chương?
– Vẫn yêu Chương. Chị ấy bảo em:
"Khổ nhất cho bọn chúng mình là phải yêu người như Chương, hạng người luôn luôn mơ màng tới những tính tình trong sạch".
Mọi người cười chế nhạo, Tâm nói:
– Trong sạch thì chắc bọn chúng mình không trong sạch rồi; phải không hai em?
Một cái tát yêu giòn trên má Tâm. Tâm cười nhí nhảnh.
Hanh nóng nảy, chắp hai tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng rồi ném mạnh điếu thuốc lá vào lò sưởi, bảo Yến.
– Quá nửa đêm rồi đấy. Đánh lừa tôi thì đừng trách.
– Thì anh làm cái thớ gì?
Hanh đấu dịu:
– Thế Tuyết hỏi thăm anh thật à?
– Lại chả thật. Em hỏi chị ấy định đi đâu, chị ấy mỉm cười nói một cách khôi hài rằng chị ấy muốn xuống chơi đáy Hồ Tây, nhưng chỉ sợ làm thối mất nước hồ. Em nghe mà ghê sợ. Thời chị ấy cười xòa mà hỏi ngay sang chuyện khác:
"Yến có quen ông Hanh không nhỉ?" Em bảo cái thằng nhãi ranh ấy thì chị em ở cảng ai mà không nhẵn mặt.
– Chỉ láo!
– Thôi vậy, không kể nữa.
– Anh xin lỗi, vâng, thằng nhãi ranh này nhãi ranh thật. Thế rồi sao nữa?
– Em hỏi sao chị ấy biết anh, thì chị bảo có gặp anh một lần ở Đồ Sơn, rồi chị ấy vừa cười vừa nói đùa rằng:
"Anh si tình lắm, ngày ấy tán tỉnh chị ấy riết, nhưng chị ấy yêu Văn hơn, vì Văn là tình nhân cũ của chị ấy". Em liền khoe khoang những cái hay của anh.
– Cảm ơn em!
– Nếu em không có Tâm (Tâm cười) thì em cũng chẳng giới thiệu hai người làm gì. Nhưng em đã có Tâm mà anh thì góa bụa, em thương hại quá. Em liền tìm cách chấp nối hai người, vì em biết anh mà được chị Tuyết yêu thì thật là phúc bảy mươi đời nhà anh ... Thế rồi em mời Tuyết về nhà chơi. Em tả cái "garconnière" này của anh cho Tuyết nghe, nhưng hình như Tuyết không thích lắm hay sao ấy, vì em thấy cặp mắt Tuyết mơ màng như nghĩ đi đâu. Bỗng Tuyết đưa tay ra bắt tay em hẹn sẽ đi chuyến xe lửa tối về đây.
Hanh lo lắng:
– Hay Tuyết không tìm thấy nhà?
– Không, em đã biên phố và số nhà cẩn thận đưa cho Tuyết rồi.
Bấy giờ có tiếng càng xe đặt ở ngoài cửa. Hanh vội vàng chạy ra. Tuyết ung dung đi vào, bắt tay Hanh rồi đưa mắt nhìn quanh phòng, khen:
– Đẹp! Đẹp nhỉ! Chào tất cả anh em, chị em!
Hanh mời Tuyết ngồi, rồi đánh thức Tiến và Tâm đương nằm thiu thiu ngủ ở trên sập.
– Được, để anh ấy ngủ. Kìa, chị Xuyến xuống đây bao giờ thế?
– Em vẫn ở với ... chồng em đấy chứ.
Nàng vừa nói vừa trỏ Tiến, Tuyết nghe mà rùng mình, vơ vẩn nghĩ đến Chương:
– Thế à?
Hanh săn sóc bên mình Tuyết:
– Em đưa "măng-tô" anh cất. Em có lạnh không?
– Cảm ơn anh, cũng hơi lạnh thôi.
Hanh liền lúi húi bỏ củi vào lò sưởi.
Tuyết lại ngồi lên sập, bảo Tiến:
– Anh tiêm cho em vài điếu ...
Khi đã hút luôn hai điếu thuốc phiện. Tuyết thấy trong mình nhẹ nhàng khoan khoái, đứng lên bảo Hanh:
– Đã lâu lắm, em mới lại được nếm mùi ả phù dung đấy.
Rồi chợt lưu ý đến những chai rượu sâm-banh, nàng hí hửng vui mừng như trẻ con.
– Ồ, thích nhỉ! Có rượu kia đấy à? Sao chưa ai uống?
Hanh âu yếm:
– Còn đợi em chứ.
– Thế à? Vậy em mở nhé?
Vừa nói, Tuyết vừa cầm lấy một chai sâm-banh, vặn dây thép. Tiếng nổ ròn làm cho Tuyết sung sướng cười khanh khách và mọi người ngồi nhỏm dậy, tỉnh ngủ hẳn.
Rượu rót ra cốc, màu vàng sáng và trong, Tuyết nâng cốc mời rồi quay ra hỏi Hanh:
– Có diễn thuyết không?
Hanh cười đáp:
– Có chứ!
Chàng liền đứng dậy, giơ cao cốc sâm-banh:
– Hôm nay là ngày ...
Tuyết chữa:
– Là đêm ...
– Hôm nay là đêm sung sướng nhất trong đời tôi. Hôm nay là tối tân hôn của vợ chồng chúng tôi. Có chén rượu nhạt ...
Tâm ngắt lời:
– Sao lắm!
– Vậy có chén rượu nồng mời anh em, chị em đến chứng kiến cho ... nghĩa là đến ăn cưới mừng cho chúng tôi.
Tuyết bĩu môi, vẻ mặt khinh bỉ:
– Ông đi mau quá. Trước khi cưới còn phải hỏi, trước khi hỏi còn phải dạm, trước khi dạm còn phải chạm mặt nữa chứ?
Mọi người đều cười, khiến Hanh bẽn lẽn ngồi xuống.
Bỗng Tuyết đặt cốc rượu xuống bàn và ngồi phịch xuống ghế. Mọi người nhìn nhau ... Thấy mắt Tuyết có ngấn lệ, Yến thì thầm bảo Hanh:
– Chị ấy vẫn thế đấy, đương vui, buồn ngay được.
– Hay Tuyết giận tôi? Tuyết giận anh đấy à?
– Không.
Thật vậy, Tuyết chẳng giận Hanh. Chỉ vì câu nói mai mỉa cưới xin đã gợi trong trí nhớ Tuyết biết bao sự buồn tẻ. Tuyết tưởng tượng trông thấy người nhà chồng đứng trước mặt, hai tay bưng quả sơn son đặt lên bàn, và câu đường mật ... Rồi ngày ăn hỏi Tuyết, ngày ăn cưới Tuyết bỗng lại như vẽ ra trước mắt.
Bữa tiệc hôm nay càng nhắc Tuyết nhớ lại một cách rõ rệt, hầu như mọi sự vừa mới xảy ra.
– Nhưng Tuyết sao thế?
Bỗng Tuyết cười sằng sặc, nâng cốc nói:
– Việc vui mừng! Việc vui mừng!
Rồi nàng uống một hơi cạn cốc. Hanh vội vàng rót đầy cốc khác. Tuyết mặt đỏ hây hây, vẫn cười nắc nẻ, với quả táo, không gọt đưa vào mồm cắn ngốn ngấu. Mọi người lây cái vui của Tuyết, cũng cất tiếng cười vang. Thì Tuyết đã lại dốc cạn cốc rượu thứ hai. Xuyến khen:
– Giỏi nhỉ!
– Chuyện! Câu châm ngôn của người ta khi uống rượu là:
Rót đầy cốc cạn, Uống cạn cốc đầy, Để cốc không bao giờ đầy, Mà cũng không bao giờ cạn.
Ai nấy vỗ tay, Yến bảo Hanh:
– Hễ Tuyết vui quá độ thì liệu hồn.
Tuyết nghe không rõ, quay lại bảo bạn:
– Ô hay! Sao chị cứ đổ riết cho người ta buồn?
Yến cãi lại:
– Nào ai bảo chị buồn?
– Phải, nếu tôi buồn thì tôi không vui, mà nếu tôi vui thì hẳn là tôi không buồn.
Mọi người cùng cười. Yến nói:
– Các anh ạ, chị Tuyết có bài bình bán tây hay lắm kia đấy ...
Tuyết hình như say quá lim dim cặp mắt hỏi:
– Bài hát gì?
– Bài hát tiếng tây ... Nếu tôi sung sướng thì tôi không khổ sở ấy mà.
– À! Nhớ rồi.
Tuyết liền đứng dậy, tay cầm cốc, tay cầm con dao, vừa gõ nhịp vừa hát:
Quand je suis heureure, Je ne suis pas malheureuse, Quand je suis malheureuse, Je ne suis jamais très heureuse, Heureux et malheurux, Sont deux choses différentes.
Compren` qui veut comprendre, Car je ne chanteral plus ...
Dứt câu, Tuyết gõ nhịp sau cùng mạnh quá đến nỗi cái cốc sâm-banh vỡ tan rơi xuống bàn. Trong khi nghe Tuyết hát, ai nấy nằm bò ra cười, cả Yến là người không hiểu chữ Pháp. Tiếng kêu xoảng khiến mọi người ngẩng đầu lên ngơ ngác nhìn Tuyết. Tuyết làm bộ tiếc cái cốc:
– Chết chửa! Hoài của!
Hanh vội an ủi:
– Không sao. Cái cốc ấy được hân hạnh em đánh vỡ là may cho nó lắm rồi.
Vả lại trong một bữa tiệc, vỡ cốc là một sự hay.
Tuyết vờ ngớ ngẩn hỏi lại:
– Thật à?
– Lại chẳng thật!
– Nhưng em không có cốc uống rượu thì làm thế nào?
Hanh đứng dậy mở tủ lấy cái cốc khác, rồi vừa rót rượu, vừa nói:
– May mà lại mua cả tá.
Tuyết cười:
– Nghĩa là em còn có thể làm được năm sự hay nữa, phải không thưa anh?
– Phải lắm.
Cả sáu người cùng vỗ tay cười. Tuyết nâng cốc nói:
– Nhưng hình như cốc rượu này rót đầy đã lâu mà chưa cạn.
Dứt lời, nàng dốc một hơi, rồi tung mạnh cốc xuống bàn cho vỡ tan mà nói rằng:
– Một sự hay thứ hai.
Tâm, Tiến, Yến, Xuyến đưa mắt nhìn nhau có ý khó chịu về cách chơi quá nhã của Tuyết, nhưng Hanh vẫn vui vẻ đi lấy ngay cái cốc khác đặt trước mặt Tuyết và thì thầm âu yếm bảo nàng:
– Đây lại là sự hay thứ ba. Nó chờ em ban cho nó cái hân hạnh được vỡ.
Tuyết mỉm cười đáp:
– Tay em mơn trớn đến đâu là vỡ đến đấy.
Hanh cũng mỉm cười:
– Trái tim anh cũng muốn vỡ lắm.
Xuyến thấy Tuyết say quá mà đồng hồ đã đánh hai giờ từ lâu, liền bèn ra sập hút thuốc phiện, ngồi quây quần cho ấm, Tuyết đứng dậy lảo đảo, phải vịn vào Hanh mới đi được vững. Khi mọi người đã ngồi yên chỗ. Tiến bảo Tuyết:
– Ấy, ông thần nha phiến thiêng lắm cơ đấy, đừng đập phá mà lão bóp cổ chết tươi.
Tuyết nhìn Hanh không thấy chàng nói gì, liền bảo:
– Anh quý bộ bàn đèn của anh lắm, phải không?
– Có em đây thì anh chỉ quý mình em.
Tuyết cười ngất:
– Tình nhỉ!
Rồi đột nhiên, nàng hỏi:
– À, này, đám cưới sao không có pháo?
– Hai giờ sáng ai còn đốt pháo?
– Đốt pháo mồm vậy.
Tuyết đứng lên sập, mồm kêu lẹt đẹt mà sau rốt, cúi xuống cầm rọc tẩu phang mạnh vào cái chụp đèn thuốc phiện mà bắt chước tiếng pháo đùng.
Rồi nàng ngả ngay ra nằm gục xuống cái ghế nệm dài kế bên cạnh sập. Hanh thì thầm bảo mọi người:
– Thôi để yên cho Tuyết ngủ.
Thấy diện tẩu và đèn thuốc phiện đã vỡ, Tâm, Tiến cũng chán ngắt, cáo từ Hanh, dắt tình nhân về.
ĐOẠN KẾT
I. Mồng một tết Nguyên đán.
Tiếng pháo cúng cơm chiều, xa gần nổ ran khắp nơi, từ phố khách, phố ta đưa tới.
Chau mày tỏ dáng khó chịu, Chương đứng dậy đóng hết các cửa chớp, cửa kính, rồi vặn đèn điện, lại ngồi bên lò sưởi, mở tập tuần báo số tết ra đọc.
Nhưng cũng như buổi tối hôm trước, mới ngó qua một lượt, chàng đã uể oải vứt tập báo lên bàn, tuy nhiều bức tranh hí hước đã làm cho chàng phải bật cười.
Trí chàng chán nản, gặp ngày tết, càng thêm chán nản. Lòng chàng trống trải, chàng cảm thấy càng thêm trống trải giữa sự lạnh lùng, thờ ơ của làn không khí khó thở, chứa đầy hương thủy tiên.
Lần này là lần thứ hai, mùi hoa thủy tiên làm rạo rực lòng Chương. Lần thứ nhất là ngày tết năm trước. Vì đã hai năm Tuyết bỏ nhà ra đi, đã hai năm, Chương lủi thủi một thân trơ trọi, sống với sự nhớ tiếc vẩn vơ, với những kỷ niệm êm đềm và cay đắng.
Có lẽ đó chỉ là một thói quen, cái thói quen chung sống với đàn bà, cũng như cái thói quen chơi hoa thủy tiên trong những ngày tết mà Tuyết đã truyền lại cho Chương.
Năm ngoái, ngày mồng ba tết, ngày kỷ niệm đau đớn, ngồi trước mấy bát thủy tiên tỏa hương thơm ngát, Chương rào rạt tình thương, nỗi nhớ, rồi Chương thì thầm tự nhủ:
nhất định năm sau không chơi hoa nữa, nhất là hoa thủy tiên, mà Tuyết trong một lúc nồng nàn tự ví với tấm thân của mình.
Chương mỉm cười, nhớ lại điều đó, vì chàng cho rằng không một sự so sánh nào không đúng bằng sự so sánh Tuyết với hoa thủy tiên.
Cánh cửa xuống nhà bếp bỗng mở mạnh ra. Một tràng tiếng pháo nổ inh tai, gắt gỏng ùa vào phòng. Theo sau, người vú già chậm chạp bước. Chương cau mặt hỏi:
– Cái gì thế?
– Bẩm ông, con bưng cơm.
– Hãy thong thả. Đóng cửa lại!
Vú già khép cửa toan xuống nhà. Chương lại gọi giật lại bảo:
– Vú có đói cứ ăn trước đi.
Người vú già ấy, Chương nuôi vừa được hai năm, đúng với thời gian Tuyết bỏ đi. Năm ấy, mấy ngày trước tết, vô cớ, Tuyết đuổi con sen, rồi nhờ chị em bạn tìm hộ một người vú già. Nhưng người vú già mới về ở năm hôm thì Tuyết đi biệt. Tưởng chóng chầy thế nào nàng cũng về, Chương giữ nuôi người vú già và nhận trả công ba đồng một tháng.
Chờ mãi, Tuyết đi không trở lại. Nhưng người vú già chàng thấy chăm chỉ, cẩn thận, lại biết làm cơm, nên một hôm trong lúc gắt gỏng, bực tức, chàng đuổi bếp Vi để nuôi một người đàn bà. Từ đó, mấy lần người ấy đưa con đến xin hầu.
Chương đều từ chối, nói không cần nuôi đầy tớ trai nữa. Chàng cho vú già là người đầy tớ hoàn toàn, đủ các đức tính mà quý nhất là cái đức tính không còn phải lòng trai nữa.
Cái ý tưởng trai gái lại bắt đầu nhớ đến Tuyết, và làm cho chàng sa sầm nét mặt. Ở đời chàng có nhiều sự ngẫu nhiên nhưng chàng cho sự gặp gỡ Tuyết là sự ngẫu nhiên vô lý hơn hết.
Ngày nay nghĩ tới Tuyết, Chương không còn cảm thấy sự thương tiếc nồng nàn như buổi đầu. Hai năm xa cách đã đủ làm phai nhạt sự nhớ nhung:
Tuyết chỉ còn để lại bên lòng chàng chút kỷ niệm êm đềm như hương thủy tiên đượm mùi chè ướp, xa xăm như tiếng đàn nghe trong giấc mộng, không ai oán, tựa giọng cười vui tươi bên lò lửa đối với người khách qua đường ...
Hai năm!
Hai năm không tin tức ... Không một bức thư!
Hay Tuyết chết? Cái ý nghĩ Tuyết chết khiến Chương buồn rầu, ngậm ngùi thương kẻ phiêu lưu trên con đường mưa gió. Lẩn thẩn, chàng tin theo số mệnh.
Số Tuyết là số một gái giang hồ thì thế nào làm cho nàng tránh được cái đời vô định, cũng như số chàng là số một người sống đời trơ trọi thì chàng tất phải đành yêu chủ nghĩa độc thân.
Tư tưởng ấy an ủi được lòng Chương, cho dẫu nó làm cho chàng nhớ đến Thu. Chương không còn biết phân biệt, trong sự yêu thương, tình trong sạch với xác thịt nữa, đến nỗi một lần bà phủ mời chàng sang đánh tổ tôm, chàng đã đáp lại sự âu yếm kín đáo của Thu bằng cái bắt tay lả lơi trước mặt mọi người. Từ đó bà phủ đã lặng lẽ xa lánh chàng và chẳng bao lâu, Thu đã nhận lời lấy Khiết ...
Phải, chính vì Tuyết mà chàng không lấy được Thu. Song chàng không oán hận Tuyết, người thứ nhất dạy chàng yêu. Trong hai năm nay, thỉnh thoảng chàng vẫn tìm quên ở trong lòng bạn gái một đêm, nhưng tình hờ của bọn tục tằn chỉ làm cho chàng thêm nhớ tiếc người tình cũ. Rồi càng ngày càng chán nản, phiền muộn, chàng đã quay về với cái đời lạnh lùng, trơ trọi thuở xưa.
Lần thứ hai, vú già lên mời chàng ăn cơm.
Ngước mắt nhìn đồng hồ treo, chàng thấy đã quá tám giờ.
– Ừ được, cứ bày bàn đi. Tôi chưa đói, nhưng cũng ăn cho xong bữa.
Trông thấy nào giò chả, nào thịt đông, nào dưa hành. Chương mỉm cười bảo vú già:
– Có vẻ tết lắm nhỉ!
– Bẩm ông, còn phải mua trữ giò chả. Vi ba ngày tết không có chợ.
Cao hứng. Chương mở một chai rượu nho. Vì Tuyết, chàng đã ưa cái thú say sưa.
Một cốc, lại một cốc, chàng uống gần cạn chai. Mặt nóng bừng, mắt lim dim, chàng nâng cốc mời đùa người đứng trong bức hình treo trên tường:
– Em xơi với anh một cốc.
– Bẩm, ông say lắm rồi.
Chương ngơ ngác nhìn, tưởng nghe lời đáp của Tuyết ở trong ảnh. Quay lại thấy vú già đứng sau lưng, chàng hỏi:
– Vú có biết uống rượu không?
– Bẩm ông không?
– Ngày tết cho phép vú uống một cốc. Đấy trong chai còn thừa rượu, cho vú cả, đem xuống nhà mà uống.
– Bẩm ông, đàn bà ai lại uống rượu!
Câu trả lời của vú già khiến Chương càng nghĩ tới Tuyết.
Cơm xong, Chương thây bứt rứt, khó chịu, men rượu bốc lên làm cho chàng nhức đầu, chóng mặt, nhất lúc ấy trong lò sưởi, củi đã tàn, hơi than nóng gấp bội. Chương liền mở cửa sổ đứng tì tay, nhìn ra đường.
Tiếng pháo đã ngớt. Nhưng thỉnh thoảng một tiếng nổ đùng của chiếc ống lệnh còn đến làm rung động cái cửa kính kêu rè rè như tiếng ngân bên tai chàng.
Cây đèn điện bên giậu sắt chiếu một luồng sáng nhảy múa trong cái màn mưa phùn tha thướt bay lướt theo chiều gió. Sát cửa sổ, cây động đình lắc lư cái thân mềm yếu, chòm lá cứng rầu rĩ than thở không thôi và tí tách nhỏ giọt mưa xuống lối đi lát sỏi.
Chương vụt có những tư tưởng buồn chán về tết. Cái hình ảnh tết là những dãy phố cửa đóng kín mít, những đàn bà con gái cân nhắc trong bộ quần áo còn nếp, mới lấy ở hòm ra hay mới may. Còn linh hồn tết phải chăng là mùi thơm hoa thủy tiên, phải chăng là sắc thắm hoa đào, hoa cúc, phải chăng là khói hương ngào ngạt ở các chùa, các đền? Hay linh hồn tết là sự sum họp của gia đình?
Chương chỉ cảm thấy trơ trọi, lạnh lùng, vì từ nay, có lẽ mỗi tết nguyên đán lại sẽ nhắc chàng tưởng đến tới sự biệt ly cùng Tuyết.
Ngày thường, bận về việc dạy học, chấm bài, chàng ít rảnh thì giờ mà mơ màng, hồi tưởng tới quãng đời đã qua. Và có nhớ đến Tuyết thì chàng cũng tìm đủ lẽ phải, đủ lý luận để ghét được, để quên được một cô gái giang hồ nhơ nhuốc. Nhưng trong mấy ngày tết, mọi sự đều biến đổi, cho đến cả tính tình của ta. Người mà ta yêu khi xưa dù là người dơ bẩn vụt hiện hình ra, trong sạch, đứng trong cái khung mộng ảo của hoa đào thắm trên cái nền trắng dịu của cánh thủy tiên ...
Vì thế mà Chương âu yếm nhớ tới Tuyết.
Sự ao ước được gặp Tuyết, dù gặp trong khoảnh khắc, chàng có ngay từ tối hôm qua, giữa lúc băn khoăn không ngủ được, chàng nghe tiếng pháo giao thừa đưa xuân tới, mà chàng cảm thấy xuân phơi phới giục chàng yêu. Trí tưởng tượng của chàng phác vẽ Tuyết ra một cô thiếu nữ trăm phần xinh tươi đằm thắm hơn xưa.
Rồi sáng hôm nay thức dậy thật sớm, chàng lang thang khắp các phố, tò mò đến các đền, các chùa Hà Nội. Chàng đi tìm Tuyết.
Có nhiều lần, gặp người đàn bà trông sau lưng như hệt Tuyết, chàng rảo bước vượt qua, rồi quay lại nhìn tận mặt khiến người ta phải lấy làm khó chịu.
Mười hai giờ trưa, chàng trở về nhà, mũ và áo tơi nặng trĩu nước mưa, lòng ngao ngán thất vọng.
– Hay Tuyết chết rồi?
Câu hỏi ấy, Chương thì thầm nhắc tới lần này không biết là lần thứ mấy, lòng trắc ẩn khiến Chương không giữ nổi một tiếng thở dài.
Hạt mưa bay tạt vào mặt làm cho Chương giật mình lùi lại. Chàng đóng cửa sổ, lại bên lò sưởi nhưng lửa tắt đã lâu, và trong lò chỉ còn một lớp tro trắng xám. Chương thấy lạnh, lạnh thân thể, lạnh cả tâm hồn:
Sự trơ trọi càng rõ rệt, càng đau đớn. Chàng liền mở cửa gọi vú già lấy thêm củi.
Một lát, hơi nóng bốc ra, than nổ lẹt đẹt như tiếng pháo, nhựa củi sôi như reo, bụi hồng lấm tấm như nhảy múa, khiến Chương lại vui vẻ ngồi sưởi mà mơ mộng liên miên tới những sự mong manh của đời người...
Có tiếng chuông ở cổng. Chương nhìn đồng hồ, lẩm bẩm:
"Mười giờ đêm, ai còn đến chơi thế?... Lại thằng Phương hẳn thôi".
Một lát vú già vào nói:
– Bẩm ông có một người đàn bà đến thăm ông, nhưng con chưa mở cổng.
Chương cau mày:
– Một người đàn bà?
– Vâng.
– Tên người ta là gì?
– Bẩm con hỏi, người ta không chịu nói tên, người ta bảo người ta là em ông, nhưng con không tin.
Chương nghĩ ngay đến Tuyết:
– Sao lại không tin? Ừ phải đấy. Mở cổng cho cô ấy vào.
II. Chương chăm chắm nhìn lửa cháy trong lò sưởi, ngồi chờ. Cảm động, chàng đang tìm cách nào tránh được hay giấu được sự cảm động, không để biểu lộ ra trên nét mặt. Vì đoán chắc rằng người đàn bà đến chơi khuya như thế chỉ có là Tuyết. Chương cảm thấy hai tính tình hiện ra trong tâm hồn:
tình yêu thương rào rạt và lòng căm tức dữ dội. Sự dịu dàng của hơi than hồng ấm áp, giữa cảnh đêm đông mưa phùn, gió lạnh như ôm ấp trái tim khô héo của chàng và âm thầm âu yếm gợi tình yêu. Nhưng sau hai năm cách biệt, những sự lừa dối với bao nhiêu kỷ niệm đau đớn còn sùng sục sôi ở trong lòng.
Một lúc sau, vẫn không thấy vú già trở vào. Chương sốt ruột quay đầu lại, định cất tiếng gọi, thì, kinh ngạc xiết bao, in lên hoa màu xanh tấm cánh cửa hé mở, hình một người đàn bà run lẩy bẩy trong cái áo nhiễu dài màu nâu sẫm.
Chương thừa biết rằng đó là Tuyết, song cũng vờ đứng dậy nói:
– Mời bà ngồi chơi. Thưa bà muốn hỏi tôi điều gì?
Chương vẫn tưởng Tuyết lại sẽ vui vẻ cười khanh khách như xưa và sẽ đem hết những chuyện bịa đặt ra kể cho chàng nghe. Nhưng không, Tuyết chỉ cúi mặt nhìn xuống, như bẽ bàng, xấu hổ, như hối hận, sợ hãi. Cái vui khinh bạc ngày xưa không còn nữa. Lòng trắc ẩn bỗng bị xúc động. Chương chẳng giữ nổi mãi vẻ lạnh đạm, se sẽ gọi:
– Tuyết! Tuyết!
Từ từ, Tuyết ngẩng mặt. Chương giật mình, giương cặp mắt ngạc nhiên đăm đăm nhìn. Xa cách nhau có hai năm mà chàng thấy Tuyết già hơn đến vài chục tuổi. Cặp mắt sắc sảo long lanh này đã mờ đã sạm như mất hết tinh thần, chôn trong hai cái quầng đen sâu hoắm. Lớp phấn không đủ dầy để che đôi má hóp và những nếp nhăn trên trán. Màu son thẫm bôi môi càng làm rõ rệt nỗi điêu linh của bộ mặt nhợt nhạt, xanh xao. Cái nhan sắc diễm lệ thuở xưa đã tàn tạ như đóa hoa rã rời sau những ngày mưa gió.
Chương không ngờ, thật Chương không ngờ rằng cái đời trụy lạc đưa con người tới cõi già mau chóng đến như thế. Thốt nhiên hiện ra trước mắt Chương những cảnh tượng ghê gớm, những hình ảnh các gái giang hồ bán vui trong một đêm qua ... Lòng trắc ẩn đối với Tuyết đổi ngay ra lòng khinh bỉ, và mấy phút trước, chàng nóng nảy muốn gặp mặt Tuyết bao nhiêu thì bây giờ chàng sốt sắng muốn tránh mặt Tuyết bấy nhiêu. Có sắc đẹp mới có thể khiến được kẻ giận mình tha thứ. Nếu không thì van lơn cũng là vô ích. Có lẽ biết thế chăng, nên khi thấy Chương cau mày tỏ ý khó chịu, Tuyết chỉ yên lặng cúi đầu đứng đợi.
– Cô còn đến đây làm gì?
Tuyết quay lại đóng cửa, vì luồng gió lạnh lọt qua làm cho nàng rét buốt đến xương. Tưởng đó là cử chỉ tự do thường có của Tuyết. Chương cười nhạt ngồi xuống ghế, không thèm hỏi nữa.
Lúc ấy, vú già ở dưới nhà đi lên để cất cốc chén vào tủ bát đĩa. Chương hất hàm nói:
– Vú hỏi xem cô ấy muốn cái gì?
Chừng Tuyết cho đó là một cách đối đãi quá khiếm nhã, trợn mắt căm tức nhìn Chương, rồi lặng lẽ mở cửa đi ra. Nhưng vì người yếu và bụng đói quá, Tuyết suýt ngã gục xuống, phải víu vội lấy cánh cửa. Bấy giờ vú già mới nhận ra được Tuyết:
– Ô kìa, bà mà nãy con không biết.
Hai hàm răng đập vào nhau lập cập, Tuyết vừa thở dài, vừa nói:
– Vú làm phúc ... cho tôi ... xin một chén nước nóng.
– Nhưng bà đứng ở đây có gió. Vào trong này, con khép cửa cho đỡ lạnh.
Miệng nói, tay dắt Tuyết vào, rồi đóng cửa lại.
Cách cử chỉ của vú già làm cho Chương sinh ngượng. Chàng lại gần, hỏi Tuyết:
– Có việc gì không?
Giọng từ tốn, Tuyết khẽ đáp:
– Cảm ơn ông ... em có sao đâu!
Thấy Tuyết gầy gò trong bộ quần áo rộng thênh thang và rét run đứng không được vững. Chương thương hại bảo vú già dắt nàng lại ngồi bên lò sưởi, rồi ôn tồn hỏi:
– Tuyết lạnh lắm phải không?
– Vâng.
– Tuyết ốm?
– Vâng.
Vừa trả lời, Tuyết vừa lúng túng giấu chỗ rách ở khuỷu tay, e lệ khép hai tà áo lại để cố che những lỗ thủng của ống quần lĩnh thâm bạc màu. Nhưng quá chậm rồi, Chương đưa mắt đã thấy mấy vết trắng tròn ở chiếc quần lót lộ ra.
– Quần áo Tuyết ướt cả. Tuyết có thay không?
– Cảm ơn ông. Em ngồi sưởi một tí sẽ ráo ngay.
– Trông Tuyết có dáng mệt nhọc lắm. Tuyết cần nghỉ một lát.
Một nụ cười đau đớn nở trên cặp môi Tuyết:
– Vâng, quả thật em đến đây cũng chỉ định xin ngủ nhờ ông một đêm, nhưng sợ không tiện, nên chưa dám ngỏ lời.
Chương vụt nghĩ đến tình cảnh kẻ khốn nạn, không cửa, không nhà, lặn lội trên con đường đầy mưa gió, giữa lúc mọi người vui vẻ đón chào xuân. Quay lại, chàng bả vú già:
– Vú lấy cái màn ren mắc ở buồng bên cho bà ấy nghỉ. Rồi lên nhà, mở tủ lấy chăn chiên. Còn gối thì lấy một cái ở giường tôi ấy. Giường tôi vẫn có một đôi đấy.
Tuyết cúi gầm mặt, không dám nhìn lên. Trong hai năm ở lại một mình, Chương vẫn còn để nguyên đôi gối bên cạnh nhau. Mà cái tình chu đáo của Chương, ngày xưa nàng rất ghét, ngày nay chỉ làm cho nàng cảm động.
Hai người yên lặng nghe tiếng củi nổ, và vẩn vơ mơ mộng nhìn ngọn lửa cháy lom rom trong lò ...
– Anh có nước nóng đấy chứ? (lần đầu Tuyết gọi Chương là anh. Có lẽ Tuyết ngẫm nghĩ nhận thấy tiếng ông không được tự nhiên).
– Có ... nhưng cô cứ ngồi đây mà sưởi để tôi lấy cho.
Rồi Chương đứng dậy đến gần bàn ăn rót một cốc nước chè nụ đưa cho Tuyết:
Tuyết uống một hơi cạn cốc nước đầy:
– Cô khát lắm nhỉ. Cô uống nữa, tôi rót?
– Cảm ơn anh. Em xin đủ.
– Chắc Tuyết đói?
Sợ làm phật lòng Tuyết. Chương nói chữa:
– Vì về mùa rét, ăn đến chóng đói.
– Thưa anh không, em vừa ăn cơm xong.
Thật ra, từ chiều hôm trước, từ lúc ta bắt đầu nghĩ đến bữa ăn của người chết cũng như bữa ăn của người sống, Tuyết chẳng có một hột cơm nào trong bụng.
Mười phút sau, khi Tuyết hơi hoàn hồn, vú già vào nói đã mắc màn xong.
– Quần áo cô hãy còn ướt, cô có muốn thay không?
Tuyết ngơ ngác nhìn Chương cho câu chàng nói là một câu mỉa mai chua cay. Nhưng nghiễm nhiên, Chương bảo vú già:
– Vú lên gác mở tủ lấy bộ quần áo mà tôi để ngăn cuối cùng ấy.
Tuyết thổn thức ứa hai hàng lệ. Sau hai năm, những quần áo nàng để lại khi ra đi, chàng còn giữ gìn cẩn thận. Nàng nghĩ thầm:
"Nếu ta biết chàng yêu ta đến thế thì ta đừng đến nhà chàng có hơn không. Chàng sẽ mãi sống với hình ảnh không già của ta. Nhưng nay chàng đã trông thấy ta rồi, thì từ đây, ta sẽ không còn chiếm được một chỗ cỏn con trong tâm hồn chàng nữa".
Chương vờ đứng dậy rót nước uống vì chàng không muốn để Tuyết nhận biết chàng cảm động...
III. Một giờ sau, Tuyết vẫn băn khoăn không sao ngủ được, dù thân thể Tuyết mệt nhọc, đau đớn như dần.
Ở buồng bên, ngọn đèn điện dưới cái chụp lụa đỏ vẫn chiếu ánh sáng lờ mờ, ủ rũ. Tuy không nghe tiếng động nhỏ. Tuyết cũng đoán rằng Chương còn thức, và đương ngồi nguyên chỗ cũ ở bên lò sưởi.
Tuyết trở dậy, hé cửa dòm sang:
quả nhiên, Chương vẫn còn ngồi trong chiếc ghế bành, hai tay ôm đầu nghĩ ngợi. Rón rén, nàng lại gần. Lửa trong lò và than đã hầu tàn.
Tuyết ngồi xuống, se sẽ bỏ thêm củi vào lò, rồi lại bồ giấy vụn lấy mấy cái phong bì cũ nhóm lửa.
Nghe tiếng động, Chương mở mắt trông thấy Tuyết, liền hỏi:
– Tuyết chưa ngủ?
– Khuya rồi, mời anh cũng đi nghỉ thôi.
– Được, mặc tôi. Tuyết cứ đi ngủ.
Ngập ngừng, Tuyết nói:
– Anh tha tội cho em.
Chương không trả lời, yên lặng nhìn lửa cháy:
– Thưa anh, em chả đáng được anh giận ... Em chỉ đáng để anh khinh bỉ mà thôi.
Chương không trả lời, nét mặt thản nhiên, lạnh lùng. Tuyết ngượng nghịu, nói lảng sang chuyện khác:
– Những bát thủy tiên anh gọt khéo nhỉ?
Chương đáp lại khen ngợi bằng cái mỉm cười gượng. Tuyết vuốt lá thủy tiên nói tiếp:
– Nhưng anh tỉa lá hơi muộn. Để lá dài quá như thế thì hoa kém ức, mà rễ cũng kém phần trắng. Còn kiểu gọt thì rất khéo, trông như cô tiên trắng nuột chắp bộ cánh phượng màu xanh mà bay là trên mặt nước.
Chương nhìn Tuyết bằng cặp mắt mỉa mai, vì chàng lại nhớ đến sự so sánh vô lý của Tuyết ngày năm xưa, Tuyết bỗng ôm ngực cúi xuống ho sù sụ. Từ lúc mới đến, Tuyết đã húng hắng ho nhưng nàng vẫn cố giữ không để cho Chương biết.
Chương thương hại, lại gần hỏi:
– Tuyết mệt lắm?
– Anh ... cho em ... xin một chén nước. Không sao đâu anh ạ. Có lẽ vì em gặp lạnh.
– Sao trời rét mà Tuyết đi chơi khuya thế?
Thản nhiên, Tuyết đáp:
– Em không có chỗ trọ.
– Không có chỗ trọ?
– Không có chỗ trọ. Ngày tết, ai người ta thèm chứa.
Chương đứng dậy nhường ghế cho Tuyết:
– Em ngồi cái ghế này có nệm êm và ấm hơn.
Lần đầu, Chương âu yếm gọi Tuyết là em, khiến Tuyết vừa cảm động vì lòng trắc ẩn của Chương, vừa tủi cực cho tấm thân nhơ nhuốc của mình, bưng mặt khóc thút thít ... Gầy sọp trong bộ "pyjama" rộng lụng thụng. Tuyết giống như cái bù nhìn trong vườn dưa.
Rồi sụt sùi, Tuyết kể cho Chương nghe cái đời khốn nạn trong ba tháng gần đây.
Đã ba tháng, Tuyết ốm. Tuyết ho. Người càng ngày càng gầy, càng yếu, nhan sắc một ngày một phai. Buổi đầu, Tuyết còn gượng, nay đi chơi với người này, mai vui thú với người khác. Nhưng sau không sao kham nổi, mà cũng chẳng có ai còn yêu chuộng được mình. Tuyết đến ở nhờ nhà một người chị em bạn, người mà xưa kia Tuyết vẫn thường cưu mang.
Gần hai tháng trời, Tuyết cùng người ấy chia nhau gian phòng chật hẹp.
Người ấy cũng chẳng giàu có gì mà lo được tiền thang thuốc cho Tuyết. Giúp một ngày hai bữa cơm đã quá lắm rồi.
Sáng hôm sau, chẳng biết vì muốn lánh xa Tuyết hay vì lý tài quẫn bách, người bạn về quê ăn tết, giao gian phòng trả lại cho chủ nhà.
Tuyết, bệnh đã bớt, gượng ra đi, lang thang trên vệ hè thành phố, dưới mưa phùn, gió lạnh, để cố tìm một người bạn ...
Nhưng, than ôi! Một cô gái giang hồ hết duyên thì làm gì còn có bạn?
Vì thế, đã hai hôm nay, không một hột cơm trong bụng, không một chút hy vọng trong lòng. Tuyết đi, Tuyết đi tới nơi vô định. .... Giọng đầy nước mắt, Chương ngắt lời:
– Thế hôm qua em ngủ ở đâu?
– Trong vườn Bách thú.
– Khốn nạn! .... Nhưng sao em không đến ngay đây?
– Em xấu hổ ... em không dám đến ...
Trước lò lửa, hai cặp mắt nhìn nhau, nhỏ lụy.
Tuyết bỗng ngồi thẳng dậy, lau ráo nước mắt, gượng cười bảo Chương:
– Chúng mình trẻ con quá nhỉ?
Chương như sực tỉnh giấc mơ, đăm đăm ngắm Tuyết không nói.
– Anh ạ, mồng một mà khóc thì rồi khóc quanh năm. Giá cười được vẫn hơn.
Nghe Tuyết nói đùa, Chương chau mày tỏ ý khó chịu, vì chàng lại nhớ cái tính nhẹ dạ của Tuyết.
– Phải đấy, anh cười đi với em!
Rồi Tuyết cười the thé.
Chương thở dài, cái thở dài vừa thương hại, vừa oán trách ...
Nhưng Tuyết như say mê đắm đuối với sự sung sướng mới mẻ vừa trở lại trong tâm hồn, nũng nịu bảo Chương:
– Em không cười được vui và vì em đói quá.
– Ồ nhỉ, suýt nữa tôi quên.
Chương đứng dậy mở tủ lấy ra một hộp bánh. Tuyết múa tay reo mừng:
– Ồ, bánh bích quy, thích nhỉ. Để em mở cho.
Những cử chỉ ngây thơ của Tuyết mà trước kia Chương cho là rất có duyên, ngày nay chàng chỉ thấy vụng về, dơ dại. Tuyết tưởng làm vui lòng chàng, ngờ đâu khiến chàng thêm ghét, thêm khinh. Là vì ... sắc đẹp đã tàn, ngày xanh mòn mỏi, thì còn đâu là ái tình, họa chăng còn lại bên lòng chút tình trắc ẩn đối với kẻ phiêu lưu khốn nạn.
Nhìn ra vẻ mặt lãnh đạm, thản nhiên của Chương, Tuyết chợt hiểu. Trái tim khô héo của Tuyết càng khô héo thêm.
– Tuyết ăn đi chứ. Sao lại ngồi mà nhìn hộp bánh thế?
– Mời anh xơi.
– Tôi vừa ăn cơm, còn no lắm.
Tuyết nhách một nụ cười đau đớn:
– Vậy chờ lát nữa anh đói, cùng ăn một thể.
Cho là Tuyết dối, Chương liền nhắc một chiếc bánh mà nói rằng:
– Ừ thì ăn.
Ngắm Tuyết nhai ngốn ngấu, Chương động lòng thương. Ă luôn một lúc hơn mười chiếc bánh sữa, Tuyết chừng đã hoàn hồn, ngồi nghỉ và thở cho đỡ mệt, rồi ngây thơ bảo Chương:
– Ồ, ăn bánh mà cũng no nhỉ?
Chương cười gượng. Tuyết tay vân vê mấy cành hoa thủy tiên, nói để gợi chuyện, vì nàng biết rằng một làn không khí ảm đạm đương bao bọc hai người.
– Kể các thứ hoa thì đến thủy tiên là đẹp hoàn toàn, đẹp cả hương, cả sắc.
Chương nói đùa:
– Hương thì hẳn không đẹp được!
Chương chỉ có ý bắt bẻ một chữ sai của Tuyết, nhưng Tuyết lại cho đó là lời mỉa mai, ngước nhìn người tình xưa như có chiều oán trách. Rồi cười mũi, lạnh lùng, ỡm ờ, nàng nói:
– Bây giờ anh mới biết thế? ... Phải, khi đóa hoa còn mơn mởn tốt tươi thì ong bướm đi về, nào có tưởng nó vô hương với lòng bạc bẽo của khách chơi hoa.
Chương cười vui vẻ-cái cười không có ẩn một ý nghĩa mờ ám- bảo Tuyết:
– Trời ơi! Dễ thường Tuyết đã trở nên một nhà thi sĩ.
– Chính! Đời khổ sở lắm, lấm bùn, khốn nạn là đời một nhà chân thi sĩ ...
Rồi tiếng cười khô khan, Tuyết tiếp luôn:
– Vâng, em thật là một nhà thi sĩ, kể cái đời em cũng là một bài thơ tuyệt tác rồi... Sáng hôm nay, trong lúc người ta vui mừng chào đón xuân, trong lúc người ta sum họp một nhà, cha, mẹ, anh, em đông đủ thì ngoài đường phố vắng, lang thang, thất thểu một tấm linh hồn phiêu bạt... không cửa, không nhà, không thân, không thích, không một chút tình thương để thầm an ủi...
Giòng châu rơi lã chã, Tuyết vẫn cười:
– Có phải thế là làm thơ không anh?.. - Tuyết!
– Dạ!
– Tuyết có muốn ... làm lại đời Tuyết không?
Tuyết cười:
– Trời ơi! Anh tây quá, ai lại nói làm lại đời bao giờ?
Nét mặt nghiêm nghị, Chương giơ bàn tay lên bảo Tuyết im.
– Đừng đùa! Anh rất thành thật mà hỏi Tuyết câu ấy. Tuyết có muốn từ nay sống một đời khác hẳn trước, một đời yên lặng, êm đềm, kín đáo.
– Một đời mà được như thế chỉ có một cách:
nằm trong áo quan.
– Kìa! Tuyết đã lại nói đùa! Tôi biết Tuyết là một người rất tốt ... Nhưng Tuyết nhẹ dạ lắm. Muốn tránh sự buồn tẻ, Tuyết đi tìm sự mới lạ, Tuyết không biết rằng cái vui, cái buồn của con người như chuỗi hạt đuổi theo nhau:
sau cái vui, trong cái vui, bao giờ cũng có cái buồn... Nhưng thôi, tôi lại giảng triết lý với Tuyết rồi.
Tuyết sung sướng đáp lại:
– Anh cứ giảng đi, Tuyết ngày nay không còn là Tuyết ngày xưa nữa.
– Anh thương Tuyết, anh muốn cứu vớt Tuyết từ lâu... Nhưng thôi, chuyện cũ kể lại làm chi thêm đau lòng. Bây giờ, anh chỉ hỏi Tuyết câu này:
Tuyết có bằng lòng ở lại đây với anh không?
Tuyết kinh ngạc nhìn Chương rồi quỳ xuống đất úp mặt vào lòng Chương mà khóc, khóc nức nở, khóc thổn thức. Giòng châu như thuốc rịt dịu vết thương của trái tim, của linh hồn.
Chương lấy tay mơn xoa đầu Tuyết rồi nâng Tuyết dậy bảo ngồi xuống ghế mà hỏi lại:
– Tuyết có bằng lòng thế không?
Tuyết lau nước mắt, ngẫm nghĩ tìm câu trả lời. Bỗng lờ mờ in vào trong chiếc nắp hộp bánh nàng cầm ở tay, cái hình khổ mặt gầy gò, hốc hác, với đôi má hóp nhăn nheo. Nàng vội lim dim nhắm mắt lại, thở dài.
– Sao? Em nghĩ sao?
– Em nghĩ rằng:
em như nhuốc, xấu xa lắm, chẳng đáng được anh đoái thương nữa, mà cũng chẳng nên còn đến quấy rối cuộc đời bình tĩnh của anh.
Chương cố tìm lời an ủi:
– Em không nên nghĩ xa xôi.
Buột miệng Tuyết nói:
– Nhưng em già mất rồi!
Cái ý già luôn luôn vẩn vơ trong trí Tuyết, ngay từ lúc nàng biết rằng Chương còn yêu mình.
Chương lắc đầu:
– Không, em không già đâu. Còn như em ốm thì thuốc thang rồi sẽ khỏi.
Một cơn ho sù sụ của Tuyết đáp lại câu khuyên giải của Chương. Rồi Tuyết chống tay đăm đăm suy xét ... Lửa than trong lò sưởi lách tách nổ ... Tuyết bỗng vui vẻ bảo Chương:
– Em xin cảm ơn anh và xin vâng lời anh.
– Ừ, có thế chứ. Em Tuyết vẫn ngoan lắm!
Tuyết cười thẳng thắn.
– Em Tuyết của anh lại còn phải nói! Vậy bây giờ em xin mời anh lên gác nghỉ, chẳng đêm khuya rồi. Còn em, đêm nay em xin ngủ một mình ở giường bên để sám hối hết tội lỗi xưa. Đời trước các cụ ta khi sắp làm một việc long trọng phải ăn chay nằm mộng ba đêm. Ngày mai sẽ bắt đầu cuộc đời mới của em, em cũng xin ăn chay nằm mộng đêm nay.
Chương cười, Tuyết cũng sung sướng cười theo.
– Thôi, xin mời anh đi ngủ. Sáng mai, chúng ta còn nhiều chuyện kể cho nhau nghe.
– Cũng được. Vậy em nghỉ thôi, chẳng mệt. Mai anh đi mời thầy thuốc. Chỉ một tuần lễ là khỏi ngay, em đừng lo.
Rồi hai người chia tay.
IV. Mấy năm sau - cũng chẳng nhớ là mấy năm - trong một bữa tiệc ồn ào đầy những tiếng cười và lời đùa bỡn là lời hai người nói chuyện:
– Anh có biết Tuyết bây giờ ở đâu không?
– Không.
– Đã lâu lắm rồi không gặp mà cũng không nghe ai nói đến.
– Hình như một năm, giữa tối mồng một tết, Tuyết ốm, ho lao, mò đến nhà một người tình cũ, ngủ nhờ một đêm. Sáng hôm sau dậy sớm, lấy hết các bức ảnh của mình treo trên tường xé vứt vào lò sưởi, rồi đi biệt. Từ bấy đến nay không thấy đâu nữa.
Thoáng nghe câu chuyện của hai người, một trang thiếu niên ngồi bên nâng cao cốc rượu sâm-banh mời và nói:
– Xin ai nấy uống cạn với tôi một cốc rượu. Còn như câu chuyện cô Tuyết nào đó của hai anh đây thì xin hai anh xếp mau lại cho. Sống ngày nay nhớ đến chi ngày xưa, tưởng chi đến ngày mai. Cô Tuyết ấy có chết đi đã có các cô Tuyết khác đẹp, xinh tươi hơn. Phải không các em?.
– Phải lắm! Phải lắm!.
Mọi người vỗ tay cười vang.
Năm 1934 
Khái Hưng - Nhất Linh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...