Như đã nói, nguồn cảm hứng của Trịnh Công Sơn
không chỉ ở trong môi trường phẫn nộ, hoặc bàng bạc trong tình yêu với tuổi
trẻ hư không, nó còn quay nhìn thân phận. Những ca khúc viết về thân phận
cũng chỉ là đi tìm cái hữu hạn của kiếp sống. Sự hiện diện của mỗi số phận
bắt buộc phải đi qua một khoảng thời gian nào đó, do định mệnh an bài và cái
không gian vô tình phải nhận diện. Theo Phật lý, đó là nhân quả, là luân hồi,
là sự sinh trưởng không ngơi nghỉ và biến hoá vô cùng để phát triển, tạo nên
cái “nghiệp” cho số phận. Con người đã ai thoát khỏi vòng: sinh, bệnh, lão,
tử và ba chữ: tham, sân, si dễ gì tránh được? Nên cái thân phận khốn khó mà
mỗi kiếp người phải mang nặng, không nằm trong phạm trù riêng, nó trải rộng
ra cả thế gian này với những sai biệt xuyên qua cung số.
Cát bụi lại trở về cát bụi, câu nói nhuốm đầy
bi quan nhưng rất thực tế. Vì:
… Ta ở, ta đi đời vẫn vô tình
Như ta chửa bao giờ có mặt!…
(Thơ Hoàng Trinh)
Chính vì sự vô tình của cuộc sống cũng như
thiên nhiên, đối với mỗi cá nhân nên mới có người chán đời quyết giã từ cõi
sống. Trịnh Công Sơn chưa đi vào con đường tuyệt vọng đó, nhưng những ca khúc
viết về thân phận ít nhiều gì cũng mang nặng trong nó, nỗi thống khổ của
riêng mình trước bao canh trần gian.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi
Hạt bụi nào hoá kiếp trong tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi…
(“Cát bụi”)
Rồi những năm, những tháng, kiếp người phải
kéo lê trong vòng cương toả của xã hội với bao cố gắng, bao đam mê, bao thất
vọng. Nhìn cuộc đời có đấy với lá úa, với mái tóc như vôi, với mặt trời soi
sáng con tim, hun nóng từ ngày này qua ngày khác để biến tình yêu thành đá
cuội, và cái vũng hư không lúc nào cũng mở ra chào đón con người trở về cát
bụi. Nhưng con người, sự thực, vẫn không chấp nhận dễ dàng quan điểm đó. Nó
vượt lên bằng ánh sáng tâm linh, nó phản đối lại cái hữu hạn bằng cách tìm
miên viễn qua ý thức, nó trộn lẫn hai miền sống chết để thấy rõ ý nghĩa Vô
thường. Do đó, nó tồn tại trong dòng sống như một vòng quay không đứt đoạn,
nối tiếp và nối tiếp…
Tiếng khóc than vây quanh đây đó. Từng ngày
rồi từng ngày trôi đi. Quạnh hiu quá chăn chiếu trần gian, dù trần gian có
mắt ai đẹp, có môi ai xinh, cũng chỉ là quạnh hiu! Đang ở giữa tuổi thanh
xuân, Trịnh Công Sơn đã nhìn thấy trăm năm, với vóc dáng nghĩa trang trước
mặt, mỗi khi nghĩ về kiếp sống. Lời trăn trối đó gửi đi từ đáy thẳm tâm linh
cũng chỉ là tiếc thương im vắng!
Con người ở đâu, từ đâu tới và trở về đâu, câu
hỏi đó hình như chưa ai trả lời minh triết được, nên băn khoăn vẫn còn nguyên
vẹn. Cuộc hành trình đi tìm Vô cùng vẫn giữ kín trong vóc dáng hai chàng Lưu
Nguyễn thuở nào. Từ hoang xưa tới hiện tại, vẫn nhịp đời đó thôi, và con
người, được Sơn hình dung như một vật vô tri lăn mình giữa cuộc thế, với
phiến đá ưu phiền có in dấu chân muông thú.
… Người đi phiêu du từ đó chưa thấy quê nhà,
rộng đôi cánh ta chờ mong
Người đi chợ nhớ mình như đá
Đá lăn, vết lăn buồn…
… Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt than van xin lời thánh đêm…
(“Vết lăn trầm”)
Nghĩ về thân phận tức là truy nguyên nguồn gốc
sự sống, muốn tìm về an ủi trong nỗi bơ vơ, sợ hãi. Người đi lên đồi cao,
bước xuống lũng thấp, đi hỏi mưa, hỏi gió, hỏi rừng, hỏi mây, hỏi suối, hỏi
sông, hỏi thăm về đời mình hoang vu, hỏi dòng nước lũ rời nguồn gặp đại
dương, đại dương nói thầm về kiếp người với ăn năn và rêu phong, nên người
thắp nến trong đêm thay mặt trời để soi tỏ Hư vô. Người đi trong cay đắng,
người cúi xuống cho máu ngược dòng để làm nước tưới cho cây khô cành lá, cho
bóng mình làm xót xa mặt trời, nghe tim rạn vỡ, nghe lòng bâng khuâng.
… Cúi xuống thật buồn cho nước sông cuồn cuộn
Hai mươi năm no tròn tuổi biết đau thương
Cúi xuống cho tắt nụ cười cho chút da thịt
người
Tuy tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang…
(“Cúi xuống thật gần”)
Có buổi nào đó, khi thức giấc chẳng nhìn thấy
mặt trời, những hình bóng người vây quanh hôm trước nay bỗng nhiên vắng mặt.
Ngay cả cuộc tình cũng mất tiếng cười. Con người cảm thấy mình lạc loài, bơ
vơ. Bàn tay mẹ hiền cũng không còn nữa va chiếc nôi trống rỗn không ấm lời
ru:
… Hôm nay thức dậy ôi ngẩn ngơ tôi
Hôm nay thức dậy mê mỏi thân tôi…
Trịnh Công Sơn đang sống, đang đuổi bắt mộng
đời qua những vòng hoa ân thưởng. Cuộc sống ồn ào quấn chặt mỗi con mồi vào
đấu trường rực lửa. Từng con mắt đỏ đọc, từng cặp môi mím lại, từng hàm răng
nghiến chặt, từng thân người như những thân cây dựng lên thành luỹ. Và những
tiếng kêu, những cơn gào thét, những lời nguyền rủa, những câu khóc than,
những chuỗi cười ô nhục, tất cả như mê mải, như hối thúc đi vào những ô không
gian dành riêng cho chúng. Nhưng ngoài chúng, đích thực, còn có những phút im
lặng, những ngượng ngùng e thẹn, những tủi nhục không nói nên lời, những khắc
khoải buông trôi qua tiếng thở dài não nuột của nhiều khuôn mặt đang cúi
xuống!… Vì:
Chúa đã bỏ loài người
Phật đã bỏ loài người
Này em, em cứ phụ người
Này em, xin cứ phụ tôi…
… Này em có nhớ cuộc đời
Này em có biết loài người
Này em có nhớ gì tôi…
(“Này em có nhớ”)
Niềm tin cuối cùng đã mất, từ đây Trịnh Công
Sơn có thể làm một kẻ lãng du vô trách nhiệm đi rong chơi giữa cuộc sống. Cái
vòng lẩn quẩn sáng, trưa, chiều, tối kia nó bắt buộc con người phải tuân hành
luật thời gian. Biết rằng phi lý, vẫn cứ phải níu lấy phi lý mà hành động.
Tiếng chân mình gõ lên nền sỏi đá hôm nay là in dấu chân mình hôm trước để
ngày mai đây, bước lại nhịp đầu. Con người muốn tung mình lên, muốn vứt mình
qua khỏi sự nhàm chán đó, nhưng cơm áo ngày ngày bắt mình cúi đầu chấp nhận:
Một ngày như mọi ngày, em trả lại đời tôi
Một ngày như mọi ngày, ta nhận lời tình cuối
Một ngày như mọi ngày, đời như mây như khói
Một ngày như mọi ngày, mang nặng hồn tả tơi…
Một ngày như mọi ngày, từng mạch đời trăn trối
Một ngày như mọi ngày, đi về một mình tôi…
… Một ngày như mọi ngày, từng chiều lên hấp
hối
Một ngày như mọi ngày, bóng đổ một mình tôi…
(“Một ngày như mọi ngày”)
Tiếng nhạc Trịnh Công Sơn hôm trước, như lả
vào khung trời bi thảm của cô đơn. Những ca khúc với cung bậc chan hoà máu lệ,
với cơn giận dữ khôn nguôi, với muôn vàn hệ luỵ, rốt cuộc, vẫn chỉ tiếng than
van của một tấm lòng tích luỹ quá nhiều đau đớn, quá nhiều cay đắng. Từng âm
thanh nấc nghẹn như tiếng khóc thầm với lời ca nấn nuối của kẻ đi vào thất
vọng! Nhưng Trịnh Công Sơn hôm nay, qua những ca khúc mới nhất trong tập nhạc
Như cánh vạc bay và Cỏ xót xa đưa đã dấn thân vào một tìm kiếm. Trịnh Công
Sơn muốn kinh qua sự nhàm chán của hoàn cảnh cũng như nghệ thuật. Vì nghệ
thuật là tiến hoá, là sự vươn tới không ngừng của ý thức. Những ca khúc gần
đây nhất đã cho người thưởng tâm thấy có sự “chuyển mình” trong nét nhạc cũng
như ngôn ngữ. Đúng, Trịnh Công Sơn đang cố gắng viết đơn giản từ lời ca đến
câu nhạc. Các giai điệu (mélodie) đã bớt dần tính cách mô tả để nghiêng dần về
nhạc kể (récilatif) hơn. Sự kiện này rất quan trọng, vì ở thể mô tả, nét nhạc
được tỏ bày bằng những âm giai lê thê, để nói hết những gì, nội dung muốn đạt
tới hay cần phải chuyển tới người nghe. Ở thể nhạc kể, nét nhạc cô đọng, hàm
chứa trong nó hiệu năng truyền cảm không bị gò bó bởi phách, do đó, ý thức
nghệ thuật cao và giản dị hơn. Tính chất mới trong nhạc Trịnh Công Sơn hôm
nay, ở một vài ca khúc có các đoạn ngắn, một, hai phách (mesure) và âm tiết
(accent) nghiêng về biểu hiện, để diễn đạt một vài nội dung của lời ca. Trịnh
Công Sơn muốn tránh bớt cái tính chất gọi là “hát hò” quanh một nội dung buồn
bã.
Đối với Trịnh Công Sơn, hơn 10 năm làm nhạc,
với những ca khúc đã nổi tiếng trong và ngoài nước, Sơn chỉ coi như giai đoạn
tập dượt, học hỏi và thử thách. Sơn đang suy nghĩ và tìm kiếm chiều hướng mới
cho nét nhạc của mình. Sự tìm kiếm đòi hỏi nhiều điều kiện trong đó có phần
tự vượt. Trịnh Công Sơn hiểu rõ điều ấy, nên rất thận trọng và âm thầm nghiên
cứu, tìm tòi để tiến bộ. Ý thức được tiến hoá, nên Trịnh Công Sơn không bao
giờ chủ quan trong vấn đề sáng tác. Vì cuộc sống không làm gì có chân lý
tuyệt đối, ngay cả nghệ thuật. Montaigne, nhà đạo đức học của Pháp ở thế kỷ
XVI, đã khám phá ra sự bất lực của con người trong vấn đề đi tìm chân lý và công
bằng rồi đó! Tìm chân lý không thấy, con người đi tìm tiến hoá. Điều kiện
tiến hoá làm cuộc sống đổi thay, suy nghĩ đổi thay, nghệ thuật đổi thay v.v…
Âm nhạc cũng đổi thay không ngừng từ thể nhạc, cách cấu tạo, hình thức phô
diễn tư tưởng cũng như nhạc ngữ. Cái bí ẩn của đời sống vốn là một bất toàn
(imparfait) và ngược lại, vì thế, người nghệ sĩ phải tìm Tuyệt đối trong
Tương đối, tìm Vô hạn trong Hữu hạn, tìm Vô thể trong Hữu thể. Vấn đề này
được biểu hiện rõ trong địa hạt nghệ thuật mới hôm nay, nói chung.
Trịnh Công Sơn ý thức được tiến hoá, tức là đã
đi vào chiều hướng mới. Người yêu nhạc Trịnh Công Sơn có thể đoán biết qua
ngôn ngữ bình dị, thứ ngôn ngữ bắt nguồn từ đời sống, vì ngôn ngữ không có
đời sống không làm ai rung động. Đúng như vậy, các ca khúc của Sơn hôm nay nó
thanh thoát, giản dị hơn nhiều, dù rằng những âm tiết vẫn uất nghẹn, thê
thiết vì thế cuộc, nhưng nó chỉ là một khởi đầu, một thành hình chưa toại.
Trịnh Công Sơn còn trẻ lắm. Tương lai còn đầy
ắp phía trước nên những mơ ước, dự tính đều được thời gian ủng hộ. Những bất
ngờ đang chờ đón trong ca khúc Trịnh Công Sơn ngày mai, với ân tình thắm
thiết trong lòng những yêu nhạc như yêu đời sống của mình.
Tất cả mọi người đều biết, các ca khúc viết về
chiến tranh của Trịnh Công Sơn bị chính phủ cấm hát ở Đài Phát thanh và vô
tuyến truyền hình từ mấy năm nay, vì nó phản chiến, làm phương hại đến thời
gian đấu tranh của dân tộc. Sự cấm đoán đã gây xúc động mạnh mẽ trong dư
luận. Được ký giả J. C. Pomonti hỏi về vấn đề này, Trịnh Công Sơn đã thẳng
thắn trả lời: Trong chế độ dân chủ, tôi có quyền viết, và cấm là quyền của
chính phủ (En démocratie j’ai le droit d’écrire et le gouvernement celui
d’interdire. Le Monde No. 7570, 17-5-1969). Cũng trong bài báo đó, ký giả
Pomonti cho biết Đài Phát thanh Hà Nội phổ biến nhạc của Sơn chỉ nhằm vào mục
đích tuyên truyền và hàng ngàn đĩa hát, băng nhạc được đưa ra ngoại quốc lén
lút do các con buôn. Nhưng Pomonti cũng phải nhận rằng, chính quyền không quá
khắc nghiệt đối với Trịnh Công Sơn. Nhạc của Sơn vẫn bày bán ở các tiệm sách
tại Đà Nẵng và Huế sau 1 tháng bị cấm.
Báo Chính Luận số ra ngày 13-2-1969 cũng bày
tỏ ý kiến:
… Xét nhạc Trịnh Công Sơn, dưới cái nhìn Trịnh
Công Sơn trước hết phải là một công dân với tất cả nghĩa vụ và quyền hạn của
một công dân đối với tập thể. Có thể trách Trịnh Công Sơn đã không đặt đúng
tầm quan trọng của “quan điểm chính trị” mà mỗi công dân phải có, tức là phải
có tư tưởng dứt khoát và minh bạch đối với cuộc kháng chiến chống cộng sản
xâm lược.
Thế nhưng trong một chế độ được coi là tự do
thì vấn đề “quan điểm chính trị” không nên khe khắt như trong các chế độ độc
tài và cộng sản. Chẳng hạn trong chế độ cộng sản khi mà cộng sản còn khai
thác chiêu bài yêu nước thì bài:
Người về nay đã cụt tay (“Nhớ người thương
binh cua Phạm Duy”) được coi là liều thuốc kích thích hữu hiệu, nhưng khi dân
chúng giác ngộ về sự lợi dụng của cộng sản mà hết say mê thần tượng “cụt tay”
vì đẫy là cụt “cho Đảng” không phải “cho nước”, thì bài đó bị liệt vào loại
“phản động” làm nản lòng chiến sĩ.
Trịnh Công Sơn khi khóc than trước cái cảnh
chết hai lần (một lần chết vì đại bác quốc gia, một lần chiết vì mìn của cộng
sản) nếu về phương diện chính trị có thể bị coi là đã “không phân biệt bạn,
thù” thì về phương diện triết lý của sự sống đã nói lên được phần nào thân
phận bi đát của miền Nam bị kẹp giữa các thế lực quốc tế và để sống còn, vì
không có đủ sức lực “trực tiếp trả miếng” nên đã phải tiến, lui, tránh né, để
gián tiếp phản công mà tự vệ. Nhạc Trịnh Công Sơn nên được hiểu theo tinh
thần phản chiến đó.
… Chính trị của Việt Nam Cộng hoà, nghĩa là
của chính trị của một chế độ dân chủ đã làm trọn nhiệm vụ có nó hay chưa. Đó
mới là vấn đề trong vụ: nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn.
(Chính Luận)
Việc cấm nhạc Trịnh Công Sơn còn gây nên phản
ứng ở các báo chí ngoại quốc. Những bản tin đánh đi, ít nhiều gì cũng bênh
vực Trịnh Công Sơn nhất là đối với dư luận nước Mỹ, vì nhạc của Sơn đã lôi
kéo sự chú ý của dân chúng Hoa Kỳ từ khi tờ New York Times đăng tải một bài
của thông tín viên Bernard Weinraub tại Sài Gòn với nhan đề: “Một người Việt
Nam trẻ đã ca về nỗi buồn của chiến tranh”.
Trần Văn Dĩnh đã nói điều trên ở bản tin, nhan
đề “Bob Dylan của Việt Nam” (The Bob Dylan of Vietnam) trong Peace News ngày
8-11-1968. Vậy Bob Dylan là ai? Bob Dylan là nhạc sĩ Mỹ trẻ, thuộc thành phần
phản chiến. Bob Dylan không phải là tên thật, chỉ là biệt hiệu. Nguyên do
chàng nhạc sĩ này mê thơ của một thi sĩ tiền phong Mỹ: Thomas Dylan, nên lấy
tên của thi sĩ này đặt cho mình. Cách đây mấy năm, các ca khúc của Bob Dylan
đã gây ảnh hưởng rất lớn trong giới thanh niên Hoa Kỳ với nếp sống hippy thác
loạn. Bob Dylan mê hút cần sa, chất ma tuý này đã làm thần kinh Bob Dylan mau
suy sụp, đến bây giờ hình ảnh Bob Dylan phẫn nộ, cuồng mê, phản chiến đã chìm
dần vào dĩ vãng, vì nước Mỹ “nghiến” nhân tài rất nhanh và tàn nhẫn!
Trong các thông tin quốc tế có mặt tại miền
Nam ở thời gian nhạc Trịnh Công Sơn bị cấm, có lẽ chỉ Crystal Erhart là có
cái nhìn khách quan khi nói về đời sống và nhạc Trịnh Công Sơn,
… Sau cuộc chiến ở Huế, Trịnh Công Sơn, một
nhạc sĩ cũng là ca sĩ 28 tuổi, đã viết lên những ca khúc cảm động: “Bài ca
dành cho những xác người”:
… Xác người nằm trôi sông
Phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố
Trên thềm nhà hoang vu…
Trong những ngày của cuộc chiến ở Huế, Sơn đã
ngồi trong nhà, nhìn những người lính Bắc Việt di chuyển qua khu vườn nhà
Sơn, và sau đó, sống với những người dân tị nạn trong những căn nhà ẩm mốc cả
tháng trời, nhìn những nấm mộ tập thể được tìm thấy, những thành luỹ bị bom
đạn và sự chết, Sơn đã viết bài hát này với xúc động sâu kín, chỉ có thể so
sánh với những bài hát của những người dân nô lệ miền Nam Mỹ:
… Xác người nằm quanh đây
Trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu
Có xác còn ngây thơ
Bên những vồng ngô khoai…
Ca khúc này nói lên tâm hồn người Việt Nam sau
biến cố Tết Mậu Thân 31 tháng Giêng. Trịnh Công Sơn, một ca sĩ và nhà soạn
nhạc hiện đang nổi tiếng. Người được dân chúng Việt Nam kính trọng, nhất là
giới học sinh, sinh viên, bởi vì nhạc của ông là kết hợp những lời rền rĩ,
oán than của người Việt Nam ngày xưa với nét nhạc mới Tây phương. Ngôn ngữ
trong ca khúc của ông giống như ca dao, những ca dao Việt Nam có từ hàng ngàn
ăm trước đây ảnh hưởng đạo Lão, chữ dùng nhiều khi cụ thể, giản dị, đôi lúc
có tính cách tưởng tượng.
Trịnh Công Sơn đã xuất bản 3 tập nhạc về dân
ca và sẽ xuất bản thêm một tập mới nữa, mang nhan đề Sau ngày hưu chiến.
Trước Tết, Sơn đã có nhiều cuộc hoà nhạc tại đại học đường, khi mà một số tự
do tối thiểu nào đó của sinh viên, học sinh vẫn còn. Nhiều bài hát hiện đang
bị chính phủ cấm, vì có tình cách phản chiến,
… Một ngày dài trên quê hương đang đến với
Việt Nam…
Những ca khúc của Trịnh Công Sơn cũng đã được
xuất bản và thâu băng tại Hoa Kỳ (trong một phim ngắn thuật về đời ông ở Huế,
nơi ông cư ngụ với gia đình đang được Dispatch thực hiện và sẽ chiếu cho công
chúng xem trong tương lai gần đây).
Thiết bị những đến Sài Gòn, ông ta đã ở tại
một căn nhà cũ kỹ sau Hội Hoạ sĩ trẻ Việt Nam, đường Lê Thánh Tôn. Ba phía
tường bằng xi măng, còn một phía bằng gỗ. Một cái dù trên trần nhà để che
mưa, quần áo mắc đầy tường, một cái bàn gỗ mộc, hai ghế bố, một cái đi-văng
gỗ rộng, và cái trạn đựng thức ăn v.v… Ánh sáng đi vào từ cửa sổ mở, một bóng
đèn tròn được bao quanh bằng cái chụp giấy.
“Tôi được sinh ra ở cao nguyên miền Trung Việt
Nam”, Trịnh Công Sơn nhấn mạnh: “tôi chưa bao giờ học nhạc ở một lớp nhạc
nào. Tôi đã tự học, tại Huế, Sài Gòn và Đà Lạt. Tôi sống để sáng tác nhạc.”
Sơn đã đậu tú tài ban Triết, tại trường
Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Cha Sơn đã chết, và gia đình gồm một mẹ già, 2
anh trai, 5 em gái hiện ở tại Huế.
Sơn đã trở lại Huế sáng tác tập nhạc: Những ca
khúc mới. – Tôi thích sáng tác ở Huế, Sơn cười buồn, bởi vì dù thành phố này
bị tàn phá, nhưng nó rất yên lặng, không ồn ào, bụi bậm như Sài Gòn.
Bây giờ, tất cả cảm hứng của tôi đều đến từ
khuôn mặt thật của chiến tranh, những lời ca và ý nhạc đều được hình thành vì
nỗi buồn mà tôi được chứng kiến. Sơn đã viết về nỗi buồn này trong bài hát
“Ngủ đi con”, bài này làm cho một bà mẹ hát để ru ngủ đứa con đã chết:
Con ngủ, ngủ đi con
Đứa con của mẹ da vàng
Ru con ru đạn nhuộm hồng vết thương
Hai mươi năm đàn con đi lính
Đi rồi không về
Đứa con da vàng của mẹ
Ngủ đi con
Ru con ru đã hai lần
Ôi tấm thân này ngày xưa bé bỏng
Mẹ mang đầy bụng, mẹ bồng trên tay
Hò… ho… ho…
Sao ngủ tuổi hai mươi
(“Ngủ đi con”)
Khi Sơn hát và chơi đàn, căn phòng trở nên u
tối, cơn mưa sớm buổi chiều bắt đầu. Một vài người bạn đã đến, nghe Sơn hát.
“Cái gì tôi lo sợ nhất cho quê hương tôi”, Sơn
nói, “đó là nếu quê hương trở thành nô lệ, thì những người dân Việt Nam sẽ bị
chia cắt tận gốc từ màu da thật sự của họ, hơn nữa, tôi sợ phần lớn những
tầng lớp xã hội này sẽ bị phân hoá dần dần bởi sự oán giận và hờn ghen.”
“Sau chiến tranh”, Sơn tiếp tục, “cái tôi sợ
nhất là sự bắt đầu của một cuộc chiến khác, vì thế, thật là khó khăn để mộng
mơ đến hoà bình, thống nhất sẽ được thực hiện trên quê hương chúng ta.”
Những bài hát của ông luôn luôn diễn tả sự hy
vọng sẽ có hoà bình và thống nhất. Những bài hát này, như “Tôi sẽ đi thăm” đã
không làm cho ông ta có cảm tình với chính phủ miền Nam Việt Nam,
… Khi đất nước tôi hoà bình
Tôi sẽ đi không vội vã
Từ Sài Gòn ra Nghệ An
Từ Hà Nội xuống Phan Rang…
“Tôi nghĩ rằng, những ca khúc của tôi không
được chính quyền yêu thích”, ông ngượng ngập nói lời trên. Lý do, những ca
khúc đó than van về những đau khổ của chiến tranh, như vậy, đã trái với đường
lối của chính phủ.
Những bài hát tình cảm, dầu sao, như bài “Gia
tài của mẹ” đã được trình diễn trên Đài Phát thanh Việt Nam và ở những quán
cà phê ta thường được nghe,
… Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày…
Mưa bắt đầu nặng hạt và nước bắt đầu tràn vào
nhà. – “Căn nhà này thấp hơn mặt đường”, Sơn giải thích, nên phòng này luôn
luôn bị lụt khi trời mưa. Mọi người đều cười, để chân lên ghế hay giường, đốt
thuốc lá và yêu cầu Sơn hát nữa. Sơn đã hát lại một cách hồn nhiên.
“Tôi chưa có dịp để nghe những ca sĩ dân ca
Hoa Kỳ trình diễn nên chưa biết thích ai cả tuy nhiên, tôi có một tape nhạc
Joan Baez. Tôi thích Joan Baez bởi vì giọng hát của cô chuyển đạt được hết
những dư âm buồn Đông phương.”
Sau những ca khúc khác, Sơn nói: “Khi tôi viết
những ca khúc để nói lên một tình trạng nào đó, thí dụ như thân phận buồn rầu
của dân Việt Nam, tôi mơ rằng, những bài hát của tôi sẽ làm những người có
cùng thân phận gần lại nhau hơn và khám phá ra những phương pháp để chữa trị
vết thương chung mà 20 năm nay chúng ta phải chịu đựng.”
Mọi người đều yên lặng, nghe mưa rơi, Trịnh
Công Sơn đang dạo nhạc và lựa hoà âm. Tai của Sơn sát với thùng đàn. Với 28
tuổi đời, Sơn đã có một tước vị cao trọng của một người khi hát lên những đau
khổ của cả một dân tộc.
Văn Trịnh Công Sơn
Huế hôm nay
Một cửa sổ của căn phòng bẩn thỉu nơi tôi đang
sống đã nhìn ra phía ngoài một góc thành phố đông đúc. Trong một buổi chiều,
tôi nằm dài yên lặng trên ghế bố, nhìn ra ngoài cửa và tôi nhớ Huế.
Từ cửa sổ ngó ra, Huế, là hai cây bông bụt đỏ
ối, những làn mưa nghiêng nghiêng trong một bầu trời ảm đạm.
Mỗi năm vào tháng này, tôi đi Huế. Đi ở đây,
có nghĩa là trở về với những cái gì tầm thường như quý giá: một căn nhà chật
hẹp, một tô bún bò gạo giã, bạn bè tại những quán cà phê nhỏ Mệ Tồn và giữ
Huế trong tay suốt mùa hạ. Bản chất của Huế nằm trong kích thước nhỏ bé của
nó. Nó không ồn ào và bận rộn. Những lề đường của Huế thân mật. Trên con
đường của thành phố, bạn có thể giơ tay vẫy bạn bè suốt ngày. Khách lạ mới
tới Huế có cảm tưởng rằng tất cả mọi người ở Huế đều có họ hàng với nhau.
Trước hết, tôi trở về để thưởng thức những vật
tầm thường nhỏ bé đó. Tôi đã thưởng thức nó trong một thời gian ngắn trước
khi biến cố Mậu Thân xảy ra.
Một sự sợ hãi lớn lao đã đến với Huế. Thật là
điều khó khăn đối với tôi để quên, mùi xác thịt thối rữa trên đường Lê Lợi
khi tôi cùng gia đình tản cư ngang qua đó. Hai hàng cây trước kia che chở đại
lộ bằng những bóng mát cũng bị tróc gốc và trở thành những chướng ngại vật
cho chúng tôi.
Nhìn vào Huế tháng Hai, tôi thấy một bộ mặt
sụp đổ của thành phố cổ kính. Tôi nghe giọng buồn nhất ở khắp nơi trong địa
ngục kéo dài suốt tháng này. Họ là những người còn sống sót trong những cuộc
chém giết, dường như họ chỉ còn thân xác mà không còn hồn. Nỗi buồn trốn mất
khi nỗi đau khổ quá lớn. Tất cả dân Huế sống cùng với nhau trong suốt khoảng
thời gian nguy hiểm nhất, đều đã thở bầu không khí bẩn thỉu nhất của trại tị
nạn. Tất cả đều đã được biết sự tận cùng của đau khổ. Tôi nhìn những căn nhà
bên kia sông bị nổ tung vì đạn đại bác, tạc đạn rơi trên dòng sông Hương, làm
mặt nước tung bọt trắng xoá. Trong những ngày đầu của trận chiến, gia đình và
tôi ngồi yên lặng trong nhà. Buổi sáng đi qua trên những khuôn mặt khổ não.
Các anh tôi và tôi ngồi nhấp nháp rượu trong khi đạn réo ngang đầu. Qua khung
cửa, chúng tôi nhìn thấy những người lính Bắc Việt di chuyển, nấu ăn, đào hố
trong vườn trước mặt nhà. Đó là những ngày đẹp trời của mùa xuân, với những
giọt mưa nhẹ như sợi chỉ đan vào nhau và không khí lành lạnh. Tôi muốn tản bộ
dọc theo những con đường đầy bóng mát trước cửa nhà. Tôi muốn có cốc cà phê ở
một tiêm bên kia sống, trong nội thành, đằng trước Trường Âm nhạc và Mỹ
thuật.
Nhưng tôi đã ngồi bất động hơn 15 ngày. Anh
tôi và tôi ví những ngày của chúng tôi với những ngày của Anne Frank.
Tôi không biết bây giờ những gì có thể tìm
thấy, khi tôi trở về Huế. Những cây cầu bắc ngang qua dòng sông nhỏ đã bị
gãy. Tất cả mọi cây cầu An Cựu, Khe Ron, Phú Cam, Bến Ngự, Nam Giao v.v… Một
trong những cây cầu này đã chứng kiến sự trưởng thành của người bạn gái thân
nhất, những dấu chân của nàng đã in hằn trên đó khi đi đến trường.
Khu nhà tôi ở bây giờ đã trở thành bãi dây kẽm
gai. Căn nhà tôi, một phần lớn bị tàn phá, đã đầy rác. Ngày đầu tiên tôi trở
về. Tôi ngồi duỗi dài chân tay trên một cái giường bị gãy và nhìn giọt mưa
nhỏ rơi trên tôi, từ chỗ trống của mái nhà, tôi nghĩ rằng đang mơ. Thật sự,
Huế chẳng còn gì cả. Bầu không khí thanh lịch, ấm áp của ngày xưa sẽ không
bao giờ trở lại. Các kho tàng cổ kính và quý giá của Huế đã bị bom đạn đốt
cháy.
Chỉ trong vòng hai tháng, tất cả mọi người dân
của thành phố Huế đều trở thành những công nhân. Tập quán cổ truyền có từ lâu
của một lối sống vương giả ở những gia đình ngày xưa đã bị xoá đi mất. Tôi đã
nhiều lần bước ngang qua cầu Tràng Tiền gãy đổ nhiều nhịp. Tôi qua dòng sông
Hương với con thuyền đầy người. Còn đâu sự êm đềm trong tâm hồn thành phố.
Rất khó kiếm thấy một chỗ không bị lỗ chỗ bởi những hố bom.
Những con đường tráng nhựa sạch sẽ thuở nào
nay đã trở nên lộn xộn, bẩn thỉu. Từng đám bụi bay lên cao suốt ngày ở hai
con đường chính. Một bảng quảng cáo của rạp hát Châu Tinh vẫn còn treo ở
trước cử chợ Đông Ba. Phim này dường như cũng là một điềm gở: Le Temps du
Massacre.
Máu đã chảy và thấm xuống đất thành phố. Tôi
đã mất nhiều thời gian ngồi trong quán cà phê trên đường Trần Hưng Đạo để
quan sát những người qua lại buồn phiền, những người đã thăm được chiều sâu
của sự buồn phiền. Tôi nhớ rằng tôi đã không tắm, không thay quần áo và không
cạo râu cắt tóc trong hai tháng.
Sau giờ giới nghiêm, thành phố còn trở nên bi
thảm hơn. Cửa nội thành đóng, đường phố bị bao phủ bởi một bầu không khí lạnh
lẽo của bãi tha ma. Những ngôi mộ mới mọc lên như nấm dóc theo những con
đường và lề đường trong công viên, trong vườn cam Tây Lộc và trong những cánh
đồng nơi đàn bò ăn cỏ. Những bức tường của thành nội cũng đầy những vết đạn.
Có lẽ hương hồn của những vị vua chúa ngày xưa và những quan lại cũng sợ hãi.
Huế luôn luôn được nếm mùi bất hạnh. Từ lụt lội, bão tố trong quá khứ cho đến
sự tàn phá của hàng ngàn căn nhà, hàng ngàn gia đình trong cuộc chém giết tàn
nhẫn ngày hôm nay, người dân Huế đã phải học cách sống trong kiên nhẫn. Huế
dường như bị cột chặt vào định mệnh khắc nghiệt. Sẽ không bao giờ có thành
phố Huế cổ kính ngày xưa nữa. Tại đây, dân chúng không bao giờ có dịp để làm
giàu một tháng hay một ngày. Cần phải 4 thế hệ: ông, cha, con và cháu, mới có
thể xây dựng một căn nhà. Căn nhà được truyền từ đời nọ sang đời kia, và
những người nào phải xa nhà, đều vẫn có thể nhớ từng cột nhà, từng sà nhà,
từng bậc cửa.
Vì thế phải cần một thời gian lâu, mọi người
có thể nhìn Huế mà không nhìn thấy khuôn mặt bị tàn phá. Huế của ngày xưa đã
biến mất đi khi mái cao của cửa Thượng Tứ và cửa Đông Hoà đã bị tàn phá và
đầy lỗ thủng.
Tôi bước dọc theo đường thành nội nơi mà hàng
ngàn căn nhà đã bị đốt cháy rụi.
Tôi đi lên An Hoà, đứng trên ngọn đồi Uông Voi
và nhìn chung quanh, cạnh những hố bom sâu hơn 10 thước. Nơi đây là nhà của
hàng ngàn những gia đình nghèo khó. Họ đã trở về để nhìn lại những cây chuối
non, những cột gỗ, những lăng tẩm, từng bậc đá ghi lại những dấu vết của
những cái gì đã một lần ở đó.
Tất cả mọi thứ đều bị tàn phá. Huế đã phải lo
cúng bái thêm nhiều linh hồn con đi lang thang. Huế đã có một ngày giỗ chung
cho tất cả mọi người chết, ngày mà người ta nhìn thấy nhiều đống xác người.
Nhưng bây giờ lại có thêm nhiều thân người nữa. Sự tàn phá cũng càng ngày
càng nhiều. Nước mắt của người dân Huế đã đủ để làm dòng suối nhỏ. Những ngôi
mộ ở chùa Áo Vàng, tại Bãi Dâu, tại Kim Long, tại Long Thọ, là những dấu vết
của một bạo lực hung ác, không có thể quên được trong tâm hồn những người còn
sống.
Nhớ những ngày ở Huế trong tháng Giêng và
tháng Hai, tôi không bao giờ có thể quên được những người mẹ chạy theo xe chở
xác, đã mang đứa con trai của bà và trong khi chạy, bà đã vỗ tay cười suốt
con đường lầy lội đất đỏ.
Tôi cũng sẽ không bao giờ quên được những
người lính Mỹ ngồi dài trên lề đường, nhìn bà ta cười ngạo nghễ. Tôi cũng nhớ
một người đàn ông già, bước những bước nặng nề, trên vai ông một cỗ quan tài
bé, trên quan tài có cắm ba nén hướng đang cháy.
Huế đã sống qua những ngày tàn nhẫn. Hàng đoàn
người đã đào lỗ để tìm xác cha, anh, mẹ hay chị. Những tiếng khóc của đám ma
có thể làm rung chuyển cả núi rừng. Nhiều cái chết do sự ác độc của loài
người gây nên. Ngày kia tôi lẩn trốn trong một thư viện của Viện Đại học Huế,
tâm hồn tôi là một tảng băng. Chung quanh tôi mọi vật đều bị tàn phai. Tôi
không thể nói được gì cả, khi đời sống chỉ là một trò đùa. Trong một tháng,
tôi đã sống ở nơi ẩm ướt, lạnh lùng, trong bầu không khí ảm đạm của thư viện.
Tôi không biết phải làm cái gì với cảnh tàn phá này. Căn bản luân lý của
chiến tranh đã ra khỏi giới hạn của năng lực loài người để chịu đựng.
Huế ơi! Tôi hy vọng có một ngày thanh bình nào
đó, tôi có thể trở về để ăn bánh bèo ở cây Phượng, bún bò thịt nướng ở Kim
Long, bún bò tiệm bà Rốt. Tôi muốn quay trở lại để ngủ đêm trên dòng sông
Hương và gọi ông Bê mang cho tôi một bát bún, rất cay, cay đến chảy nước mắt.
Tôi sẽ gọi cô con gái trên thuyền mang cho tôi một con mực nướng khô, một cốc
rượu nhỏ, thật nhỏ để làm cho đêm trở nên ấm hơn, những bài hát nửa đêm trở
nên hay hơn và giấc ngủ hiền hoà hơn trong lúc sông lặng lờ trôi…
(Dispatch News Service International Inc,
1968, bản dịch từ Anh ngữ của T.K. Dung)
--------------------------------
1. F. Scott Fitzgerald (1897-1941), nhà văn
lớn của Mỹ, đã bị khủng hoảng thần kinh trong khoảng thời gian 1935-1936, khi
đang viết The Crack up (Điên đầu). Sau khi ông mất, di cảo này do nhà New
Directions, New York ấn hành. Nội dung gồm những đoản văn có tính cách tự
thuật với suy nghĩ qua tình yêu đổ vỡ, cuộc sống bi đát và ám ảnh của những
đêm dài ghê rợn, xen kẻ những câu ngạn ngữ. Các tác phẩm: This Side of
Paradise, The Great Gatsby, Tender Is the Night, The Last Tycoon, đều được
phiên dịch qua Pháp ngữ.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét