Xuân Diệu "phê" ...thơ
…
Nón che chung trời mưa lổ đổ\Đôi môi hương sấu chín dịu chua. Và đây là lời
“phê” của Xuân Diệu : “Trời lổ đổ mưa, che chung một nón, giúp cho hai cái đầu
gần nhau, cho nên “đôi môi hương sấu chín…” thế là nên thơ quá rồi!
Người ta đã nói nhiều về
tài thơ Xuân Diệu. Người ta cũng đã nói nhiều về tài bình thơ của ông. Nhưng có
một phương diện khác ít được nhắc đến, song vẫn lồ lộ trên mỗi trang viết của
ông, đó là tài “phê” thơ.
Xuân
Diệu bình thơ rất hay, rất tinh tế. Có những câu thơ, bài thơ qua lời bình của
ông như có lửa, có điện. Đoạn Tú Bà mắng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Xuân Diệu hạ mấy lời bình thật thấm thía : “Tú Bà nói chưa đầy nửa phút mà bọt
mép văng mãi ngàn năm. Gớm cái con hổ cái. Nó nói như muốn xé xác người ta, như
muốn xé rách trang giấy Truyện Kiều”. Những lời bình như thế không hiếm trong
các bài bình thơ của Xuân Diệu.
Nhưng
Xuân Diệu phê thơ cũng hay không kém. Cái tinh tế để cảm nhận được những câu
thơ hay, những bài thơ hay những là cái tinh tế để ông phát hiện ra những câu
thơ dở, những bài thơ dở. Có những câu thơ, những bài thơ, người đọc bình
thường cảm thấy cũng “đọc được”, thì con mắt tinh đời của Xuân Diệu có thể chỉ
ra chỗ chưa đạt một cách chắc chắn.
Có nhà
thơ nọ viết :
… Nón
che chung trời mưa lổ đổ
Đôi môi
hương sấu chín dịu chua.
Và đây
là lời “phê” của Xuân Diệu : “Trời lổ đổ mưa, che chung một nón, giúp cho hai
cái đầu gần nhau, cho nên “đôi môi hương sấu chín…” thế là nên thơ quá rồi !
Chữ hương hợp với sấu chín và cũng hợp cho đôi môi, nhưng thêm dịu chua vào thì
hỏng toi ! Sấu chín vừa ngọt dịu vừa chua, như thế nó vẫn cứ ngọt và càng ngon.
Nhưng hai tiếng dịu chua chỉ dùng được cho sấu chín mà thôi, không thể dùng
được cho đôi môi, đôi môi mà chua, thì là người đang ốm mệt hoặc là… chưa súc
miệng !… Trừ phi là văn trào phúng, chứ trong văn trữ tình, nên tránh đừng để
chữ môi gần bên chữ chua, vì chua còn có nghĩa là chua ngoa, môi em ăn nói chua
ngoa quá…”.
Xuân
Diệu rất sành trong việc cảm nhận thơ hay, mà cũng rất sành trong việc phát
hiện ra thơ dở. Một câu thơ lạc điệu, một ý thơ khập khiểng, một tứ thơ lỏng
lẻo hay một từ dùng không đúng chỗ đều được ông chỉ ra và bình luận khá thấu
đáo.
Một lần
nọ, trong một bài thơ dự thi đăng trên báo Văn nghệ, miêu tả việc đưa điện về
nông thôn, có câu :
Tôi bước
dưới những hàng ống sứ
Rất
trắng tròn như cổ tay em…
Xuân
Diệu bình luận : “Những cái ống sứ trắng tròn như cổ tay em thì có xinh không ?
So sánh như vậy có làm vinh dự cho thiếu nữ, có tôn cái đẹp của thiếu nữ lên
không ? Người con gái nào mà lại thích cổ tay của mình đẹp như ống sứ mắc dây
điện ? Ống sứ trắng và tròn nhưng cứng nhắc và trơ trẽn lắm !”
Trong
một tập thơ được Giải thưởng của Hội nhà văn, có bài kể chuyện hai người yêu
nhau đi xem Viện bảo tàng, có đoạn :
Em thấy
chăng ? Nghĩa Cương
Núi xanh
màu cổ kính
Gặp thạp
đồng Đào Trịnh
Vui hình
người giao hoan.
Xuân
Diệu nhận xét đấy là một đoạn thơ thiếu mất sự thanh nhã. Ông viết : “Tạo hình
người giao hoan được, thì nói chuyện ấy cũng được, không nên phong kiến theo
Khổng Tử. Tuy nhiên “em” ở đây là ở mức “già nhân ngãi, non vợ chồng”, có thể
suồng sã một tý cũng được. Nhưng nếu “em” ở đây là cô gái trắng trong mới đi
với mình vài lần đầu, mà lại nói với cô ấy “hình người giao hoan”, nhất là nói
trong thơ thì có còn trang nhã không ?”
Xuân
Diệu không chỉ tinh tế trong việc chỉ ra cái dỡ, cái chưa được của thơ. Mà ông
cũng rất tinh tế, rất độc đáo trong cách chê. Giọng chê của ông có một chút hóm
hỉnh, có một chút đùa vui. Chính cái giọng hóm hỉnh đùa vui này đã làm cho việc
phê thơ của ông không nặng nề như ở nhiều bài phê bình khác. Người đọc thú vị mà
tác giả bị chê cũng chấp nhận được.
Chẳng
hạn trong bài thơ Đường cày mới thẳng của một tác giả nọ có đoạn :
Lúc nghỉ
anh đứng nhìn
Đường
cày trông đã đẹp
Em chỉ
đôi chim chích
Trên
cành thông ven sông
Chim
đang đứng rỉa lông
Trông
sao vui mắt lạ
Xuân Diệu
hóm hỉnh chỉ ra cái vô lý của ý thơ : “Theo tôi đọc, thì tác giả bài thơ này
tưởng tượng ra đấy thôi, chứ tác giả chưa dạy cho cô gái nào cày sất cả. Vì
trong đời thực, một người con gái có giáo dục, có ý tứ, có sự tế nhị, hơn nữa
một cô gái quê, muốn tỏ tình với người con trai, lại đi chỉ trỏ cho người con
trai thấy đôi chim kia đang “chim” nhau hay sao ? Ai lại trơ trẽn, lộ liễu
thế.” Suy bụng ta ra bụng người”, hoặc giả anh con trai có lộ liễu thế chăng ?
Lộ liễu như vậy là “liễu ngõ hoa tường”, phai mất đi cái thiêng liêng e ấp của
tình yêu ban đầu”.
Cũng có
khi cái hóm hỉnh của ông là dẫn ra những bài thơ dở, buồn cười, không bình luận
gì nhiều. Chẳng hạn : “Tôi xin lỗi bạn đọc kể vào đây một sự thiếu ý tứ đến nỗi
như là một sự cố ý; bài “ca dao” dự thi :
Đêm nay
phục kích trên đồi
Lòng anh
nhớ tới người anh thương
Giặc còn
chếch cháng bên đường
Thương
em để bụng, anh giương súng chờ !
Xin miễn
bình luận !”
Có người
trách ông trong khi viết, trong khi nói hay “cù” người đọc, người nghe cười.
Ông chỉ tủm tỉm đáp lại : “Ấy cũng phải khích động như thế cho người nghe,
người đọc sôi nổi lên, đỡ chán”. Điều này đã làm cho những bài viết có tính
chất phê phán của ông bao giờ cũng dí dỏm, đọc rất thú vị.
Xuân
Diệu hóm hỉnh, đùa vui cho việc phê thơ không nặng nề kinh viện, chứ không phải
là ông dễ dãi với việc phê thơ. Phải nói rằng trong lĩnh vực này ông là người
quyết liệt và sòng phẳng. Nếu là thơ dở, thì dù là của ai, dù được tặng giải
thưởng gì đi nữa, ông cũng phê. Ông là người đã giới thiệu thơ của nhà thơ thần
đồng Trần Đăng Khoa với nước ngoài, với trong nước. Nhưng ông cũng là người phê
tập “Khúc hát của người anh hùng” của Trần Đăng Khoa một cách không nhân
nhượng. Với ông, khen ngợi hay phê phán là phải nói được bản chất đích thực của
nó, chứ không phải đúng một cách cầu an. Có lần ông tâm sự : “Trong sự khen chê
tôi không chủ trương một cách chung chung là “phải có chừng mực”; đó là một sự
chiết trung rất cầu an; tôi nghĩ rằng phải cố gắng nhận xét, cân nhắc xem tác
phẩm nó có thế nào, nó đến đâu, tất cả vấn đề của sự đánh giá là phải xác đáng.
Chê phủ phàng, chê vùi dập là không nên đối với nền văn học mới còn trẻ tuổi;
mặt khác nói khuyết điểm mà đúng huyệt và chí tình, còn làm cho một tác giả có
bản lĩnh khoái và cảm động hơn là một lời khen quá thặng lên như một cái áo
rộng, thậm chí một cái áo thụng, “tiếng khen như gió thoảng ngoài” (Bàn về chất
lượng của thơ, 1977).
Có khi
Xuân Diệu phê rất nặng. Ông chê người này viết như thế “trơ trẽn lắm”, ông phê
người kia “viết thế e vô lễ”, thậm chí có khi ông chê là không biết làm thơ…
Nhưng không mấy ai nỡ giận ông, bởi vì đằng sau những lời phê đó là một tấm
lòng nhân hậu, một tấm lòng chí tình, hết mình với thơ, với đời. Xuân Diệu sống
hồn nhiên, mãnh liệt, mà khen chê cũng hồn nhiên, mãnh liệt, có sao nói vậy,
không đưa đẩy, làm xiếc bằng ngôn từ. Có lẽ điều đó đã làm cho ông đến được với
mọi người, dù có khi ông có phê phán họ.
Ở Xuân
Diệu dù làm thơ, viết văn hay viết phê bình văn học bao giờ cũng là nỗi “khát
khao giao cảm với đời” (Chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh). Và kỳ lạ thay những lời
thơ, những lời bình của ông sống với bạn đọc đã đành, mà những lời phê bình của
ông những sống được với bạn đọc, thậm chí có khi còn được thêu dệt thành những
giai thoại văn chương đầy thú vị.
Xuân
Diệu đã ra đi. Nhưng những gì ông để lại vẫn sống, vẫn tiếp tục giao cảm với
đời như nỗi khát khao của ông hằng mong lúc còn sống.
Trả lờiXóaeva air booking
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
hãng máy bay korean air
tìm vé máy bay đi mỹ
đặt vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch