Vần và nhịp trong thơ Việt Nam đương đại
Phạm Nữ Nguyên Trà
Từ sự
kiện cách mạng lớn là Đại hội Đảng lần VI (12/1986), đời sống văn học nghệ
thuật Việt Nam đã được thổi một luồng gió mới về không khí dân chủ, tạo điều
kiện cho sự cởi mở trong đời sống cũng như sự tự do sáng tạo. Khái niệm thơ
Việt Nam đương đại dùng ở đây được hiểu là thơ Việt từ cái mốc Đổi Mới 1986
này.
Thơ ca từ
những năm 1986 trở lại đây đang sải những bước chân mạnh mẽ trên con đường hiện
đại hóa từ nội dung đến hình thức với sự đa dạng về tư duy nghệ thuật, về
khuynh hướng thẩm mỹ cũng như về bút pháp và ngôn ngữ. Nhiều nhà thơ đắm mình
trong truyền thống, nhưng cũng nhiều nhà thơ có lối viết cách tân táo bạo theo
kiểu phương Tây. Chỉ riêng trong khoảng 1990-1994, đã có nhiều tập thơ thu hút
sự quan tâm của dư luận như Ba mươi sáu bài thơ (Lê Đạt – Dương Tường), Sự
mất ngủ của lửa (Nguyễn
Quang Thiều), Ngựa biển và Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng)... Tiếp theo đó là một
loạt các sáng tác của các nhà thơ trẻ như Khát và Linh (Vi Thùy Linh), Cỏ
trắng (Ly Hoàng Ly), Nằm
nghiêng (Phan Huyền
Thư), Khí hậu đồ vật (Nguyễn Quốc Chánh),...
Thơ Mới
trước đây chịu ảnh hưởng của thơ ca Lãng mạn, Tượng trưng Pháp đã tạo ra một
cuộc cách mạng thơ ca, thoát khỏi những sáo mòn khuôn thước của truyền thống.
Thơ ca hôm nay cũng với mong muốn bứt phá khỏi những giá trị truyền thống, đã
tiếp thu ảnh hưởng từ rất nhiều những trường phái, khuynh hướng khác nhau: chủ
nghĩa Tượng trưng Siêu thực, chủ nghĩa Hiện sinh, chủ nghĩa Hình thức, chủ
nghĩa Hậu hiện đại và mới đây nhất là chủ nghĩa Tân hình thức. Song dù theo
trường phái, khuynh hướng nào thì chúng ta cũng nhận thấy một xu thế đang ngày
càng được khẳng định và mở rộng trong thơ Việt Nam hôm nay là: tính hiện đại và
tư duy nghệ thuật Hậu hiện đại – một trào lưu tư tưởng và văn hóa có tính toàn
cầu. Chính những ảnh hưởng đó đã làm mới thơ Việt Nam đương đại cả về nội dung
lẫn hình thức.
Xã hội
ngày càng phát triển và thế giới ngày càng “phẳng” hơn, chính vì thế mà mối quan
tâm của con người ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Thời gian để tâm vào thơ
không còn nhiều. Chưa kể cách đọc thơ hiện nay của quần chúng còn quá hờ hững
và phụ thuộc. Họ phụ thuộc vào các nhà phê bình và báo chí, họ chỉ đọc những
tác phẩm đã được giải thưởng hay được báo chí lên tiếng vì một scandal nào đó,
vì thế, độc giả đang dần mất những nhận định chủ quan.
Nhìn về
sự phát triển mạnh mẽ của thơ đương đại Việt trong gần 30 năm qua (1986-2012),
và kể từ khi văn chương mạng ra đời (2002), có thể khái quát sự phát triển thơ
Việt theo bốn dòng chính:
- Thơ
truyền thống có giao thoa với hiện đại, có phần mang hình thức cổ điển với nội
dung đương đại: Ý Nhi, Phạm Thị Ngọc Liên, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Lâm
Thị Mỹ Dạ,...
- Thơ Tân
hình thức (new formalism poetry), là phong trào thơ do Khế Iêm khai sinh ở Mĩ
vào năm 2000 (chủ yếu đăng ở Tạp chí Thơ, Hoa Kì), truyền bá sang Việt Nam,
được các thi sĩ không chính lưu (như nhóm Ngựa Trời, nhóm Mở miệng,...) ở TP.
Hồ Chí Minh tích cực hưởng ứng, tạo không khí thơ sôi động một thời. Khế Iêm
cho rằng, Tân hình thức trong thơ Việt có những đặc tính chính: cách nói thông
thường, vắt dòng, kỹ thuật lặp lại và tính kể chuyện. Tuy nhiên, thơ Tân hình
thức dường như khó được chấp nhận và bị dị nghị trên thi đàn Việt Nam, họ đang
đổi khác để tồn tại.
- Thơ Thị
giác (visual poetry) trong đó thơ trình diễn (poetry performance) là một nhánh
nổi bật. Về kiểu thức này,có thể kể đến các tên tuổi sau: Dương Tường, Hoàng
Hưng, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Vũ, …
- Thơ
chịu ảnh hưởng của trào lưu thơ Hiện đại và Hậu hiện đại: được khơi mào từ giữa
thập niên cuối của thế kỉ XX và nở rộ cùng văn chương mạng tiếng Việt. Nó có
các đại diện tiêu biểu như Lê Đạt, Hoàng Hưng, Dương Tường, Nguyễn Quang Thiều,
Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư... Cùng với đó là sự phát triển của
thơ mạng với Đặng Thân, Lê Anh Hoài, Mai Văn Phấn, Bùi Chát, Khải Minh, Đỗ
Quyên, Nguyễn Đức Tùng,... Các nhà thơ này vận dụng nhiều thủ pháp tiếp nhận từ
đồng nghiệp trên thế giới để sáng tạo nhiều loại thơ chưa từng có mặt trong
truyền thống thơ ca Việt Nam trước đó: phỏng nhại, liên văn bản, vắt dòng, siêu
hư cấu sử kí, thơ phụ âm, thơ graphic, thơ thực hiện, thơ cụ thể, thơ phân
thân, thơ động tác, thơ tịnh tiến,...
Tuy phát
triển theo nhiều dòng thơ, nhưng thơ đương đại vẫn mang những đặc điểm chính
sau:
Cuộc sống
xã hội nhiều thay đổi, ngổn ngang hơn với bao mối quan hệ phức tạp đa diện,
công chúng không còn ưa lối nói một chiều nữa, mà đòi hỏi lý giải, cắt nghĩa
nhiều dữ kiện của đời sống, nhận thức lại nhiều vấn đề. Các nhà thơ không thể
nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với những thay đổi nhiều
khi chóng mặt của cuộc sống. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ
thuật thơ.
Thơ ca tự
ý thức chính mình, không quay lưng với bất kỳ thể loại nào, vận động theo hướng
dân chủ, lấy tinh thần nhân bản và ý thức thức tỉnh cá nhân làm cảm hứng chủ
đạo, vận động cùng chiều với nền văn học thế giới. Đồng thời, thơ ca khám phá
cái tôi trên nhiều phương diện đời sống tình cảm, đời sống bản năng, đời sống
tâm linh.
Thơ ca
thời kỳ này có xu hướng nhạt dần cảm hứng sử thi, chuyển hướng quan tâm đến số
phận đời tư, đời thường. Cái nhìn của các nhà thơ gần gũi với đời sống thường
ngày hơn nhưng giàu chất suy tư, là sự tỉnh táo của bề ngoài của một nỗi đam mê
lớn phía bên trong. Nhà thơ không phải là những người rao giảng đạo đức hay
minh họa cho một tư tưởng sẵn có mà anh ta phải góp phần đánh thức những khát
khao, những niềm trắc ẩn của con người trên cơ sở trình bày cảm nhận của mình
về các giá trị.
Thơ
đương đại như bỏ lại sự khúc chiết; sự rõ ràng, rành mạch duy lý không còn được
coi trọng. Với việc cá thể hóa cao độ, bộc lộ khát vọng bản năng một cách tối
ưu, dẫn dến thơ ca có phần vô thức, ẩn ảo với cả những trực giác, những tiềm
thức con người mà vốn dĩ bị tư duy duy lý che lấp suốt nhiều thế kỷ. Con người
được phản ánh trong thơ ca giai đoạn này là con người bị ảnh hưởng bởi chủ
nghĩa Hậu hiện đại: “được
nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã
hội, con người với lịch sử, con người của gia đình gia tộc, con người với phong
tục, với thiên nhiên, với những người khác với chính mình… được khám phá, soi
chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư
tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng
tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ
quát” [38].
b. Về hình
thức:
Về thể
loại, trong đời sống thơ ca đương đại, thơ tự do luôn chiếm ưu thế, thậm chí áp
đảo các thể thơ khác. Điều này khẳng định khả năng vượt trội của thể thơ trong
việc cho phép nhà thơ tự do triển khai tự do hơn những phức hợp cảm xúc cá
nhân, tổ chức nhịp điệu linh hoạt hơn, mở cửa cho chất văn xuôi vào thơ, đồng
thời cho thấy tính hiện đại trong thơ.
Các thể
thơ truyền thống như thơ lục bát, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ vẫn tồn tại những đã
được nới lỏng cấu trúc. Ở thơ 5 chữ và 7 chữ, tính “điệu nói” được gia tăng
thêm một bước nữa, cấu trúc thể loại dựa vào nhịp nhiều hơn vần, giọng điệu thơ
ít gân guốc hơn, các liên tưởng thơ ít tuân theo quan hệ nhân quả hơn. Thể thơ
lục bát được cách tân về trình bày văn bản và giọng điệu:
Ta tìm
tịch lặng trong
không
hương
trầm
ngâm
khói
mỏi lòng
chồn chân.
Mệt nhoài
dạt bước phù vân
chuông
gieo
một tiếng
trong ngần vào ta
(Nguyễn
Anh Vũ)
Ngoài đổi
mới thể loại thơ cùng với vần, niêm luật, nhịp điệu, hình thức biểu hiện trong
thơ cũng được đổi mới. Cấu trúc ngôn ngữ trong một số bài thơ được biểu hiện
theo dạng khổ hai câu như Đồng dao cho người lớn của Nguyễn Trọng Tạo,Giọt trời của Nguyễn Duy và nhiều bài thơ của Lê
Đạt; hoặc khổ ba câu như rất nhiều bài thơ của nhà thơ Lê Thị Mây: Giọt
lệ, Trao nhẫn, Im lặng, Nỗi buồn, Cây gai tàn, Đêm tối,… Theo hướng
tăng cường chức năng biểu đạt và mở rộng sự biểu đạt bằng cách sử dụng cấu trúc
thơ. Nhiều bài thơ có cấu trúc mới lạ biểu hiện ở cách ngắt câu xuống dòng đặc
biệt, được xếp hình bậc thang, vắt dòng, hoặc trình bày lạ mắt:
chia cho em một đời
thơ
một lênh đênh
một dại khờ
một tôi
chỉ còn cỏ mọc
bên trời
một bông hoa nhỏ
lặng rơi mưa dầm
(Chia - Nguyễn Trọng Tạo)
Mưa ngâu
đêm
nghe lâu
buồn thêm…
buồn thêm!
Cỏ trần gian
lắng im
an ủi
Thương tình yêu đắm
say
mang tội
Thương con người
dễ lầm lỗi
khổ đau…
(Buồn - Nguyễn Bình Phương)
Hiện nay,
các nhà thơ lại tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi
biểu tượng và các biểu tượng ấy nhiều khi không dễ nhận ra bằng sự cảm nhận
thông thường.
Điểm đáng
chú ý về hình thức cấu trúc ngôn ngữ thơ sau năm 1986 là xuất hiện nhiều trò
chơi ngữ nghĩa với tổ chức âm/nghĩa mới lạ, độc đáo. Cách xếp đặt ngữ âm trong
thơ giai đoạn này được tác giả Nguyễn Đăng Điệp ví như một “trò
chơi”. Một số cây bút có nhiều bài thơ tiêu biểu cho cách tổ chức
trò chơi ngữ âm này là Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Lê Đạt,… Trò
chơi ngữ âm trong thơ đã góp phần tạo nên sự thú vị cho người thưởng thức:
Mây may thu mắt
thủy mặc đồ
Nét thảo biếc đậm
mày quá khứ
Nắng nhạt bước
thon hè tình sử
Jin xổ dài
khăn chấm đỏ
bụi mưa
(Thủy mặc – Lê Đạt)
Tuy
nhiên, một khi quá lạm dụng, hình thức tổ chức ngôn ngữ này sẽ gây phản cảm,
người đọc khó chấp nhận, như bài thơ sau của nhà thơ Dương Tường:
Noel lụa len len
đêm tổ tông truyền
Hồ bờ len người
len đèn len liễu loan mắt
Loen màu nhen răm
răm gaine men
Lòng đổ chuông
llềnh lluềnh nước
lli
lluâng
lloang llưng
llênh llinh
lluông buông boong
ad lllibitum”
Một trong
những đặc điểm thơ đương đại, đó là nhà thơ đã chú trọng đến vấn đề biểu đạt
của ngôn ngữ. Trường từ ngữ trong thơ đã được mở rộng đến gần như không có giới
hạn nào. Những từ thông tục, khẩu ngữ, biệt ngữ đã có mặt khá thường xuyên
trong thơ của nhiều tác giả, nhất là lớp trẻ. Thơ ca trở lại vị trí thực của nó
giữa cuộc đời và nhu cầu tự biểu hiện của con người, đặc biệt nhấn mạnh bản
chất nghệ thuật ngôn từ của thơ, xem việc làm thơ là “làm chữ”… Hai con đường
làm mới ngôn ngữ thơ: Một là đưa vào thơ những từ ngữ mới xuất hiện trong đời
sống, hai là tạo nghĩa mới cho từ cũ và tạo hẳn chữ mới.
NHỊP TRONG THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Nếu vần thơ dường như ít xuất hiện, phân bố tự do, linh hoạt hơn
trong thơ đương đại thì nhịp thơ lại càng quan trọng hơn, nhằm nổi bật tính hòa
âm của chữ trong thơ. Có thể, thơ không thể hiện rõ quy luật nhịp điệu, nhưng
thực chất trong logic hình thức của thơ, nó không bao giờ chối từ nguyên tắc cấu
trúc nhịp điệu. Bởi đây vốn dĩ tạo nên tính nhạc cho thơ, đưa thơ, rõ hơn là
thơ văn xuôi khác với văn xuôi.
Thơ có thể không vần, nhưng không thể không có nhịp điệu – quy luật nội tại của thơ. Sự tồn tại của nhịp mang tính tất yếu, phổ quát, bắt buộc. Không có nhịp thì chưa tạo thành thơ. Thơ đương đại có thể có câu dài, câu ngắn, mạch thơ có thể liên tục hoặc ngắt ra nhiều câu ngắn, có thể trình bày theo bậc thang hay bắc cầu. Nhưng dù có biến hóa thế nào đi nữa, thơ đương đại vẫn giữ được sự hài hòa của nhịp điệu. Đoàn Ánh Dương từng cho rằng: “Thơ đương đại có thể coi là thơ nhịp điệu” [7].
Thơ có thể không vần, nhưng không thể không có nhịp điệu – quy luật nội tại của thơ. Sự tồn tại của nhịp mang tính tất yếu, phổ quát, bắt buộc. Không có nhịp thì chưa tạo thành thơ. Thơ đương đại có thể có câu dài, câu ngắn, mạch thơ có thể liên tục hoặc ngắt ra nhiều câu ngắn, có thể trình bày theo bậc thang hay bắc cầu. Nhưng dù có biến hóa thế nào đi nữa, thơ đương đại vẫn giữ được sự hài hòa của nhịp điệu. Đoàn Ánh Dương từng cho rằng: “Thơ đương đại có thể coi là thơ nhịp điệu” [7].
1.2. Mối quan hệ giữa nhịp thơ và cảm xúc tâm hồn của tác giả
Nhà nghiên cứu Trần Thiện Khanh cho rằng nhịp thơ được cấu trúc
trên nền tảng dòng thơ: “Một dòng thơ ngắn có thể tương ứng với
một khuôn nhịp. Nhưng thường thì một câu thơ, dòng thơ có nhiều nhịp. Nhịp thơ
không nhất thiết phải đều đặn, cố định. Nhịp thơ đổi thay theo nhu cầu biểu
hiện ý tình; theo nhiệm vụ tái hiện sự vận động của sự vật, hiện tượng;
theo ngữ điệu phát ngôn ở từng nhân vật. Mỗi dòng thơ, câu
thơ được tổ chức theo quy luật câu hát. Ngâm thơ cũng luyến láy, ngừng nghỉ,
kéo dài và lướt nhẹ một số âm tiết nào đó” [20].
Ngày nay,
trong thơ Việt Nam đương đại, khi mà các thể loại thơ đan cài, giao thoa nhau,
nhà thơ có khi “viết như nói” thì nhịp điệu câu thơ không còn bị ràng buộc chặt
chẽ bởi những quy luật. Những nhịp thơ chẵn, những nhịp điệu quen thuộc, những
câu ngâm vịnh, những điệu ru mơ, những khúc tâm tình, với những gì yên ả, nồng
nàn, đẹp đẽ nên thơ ít xuất hiện hơn. Thay vào đó, nhịp thơ tồn tại tự do trong
tổ chức câu thơ, đoạn thơ và bài thơ, do cảm xúc của nhà thơ chi phối. Nhịp thơ
đương đại là nhịp lòng của nhà thơ, nhịp của tâm hồn rung lên trước hiện thực,
sẵn sàng bộc lộ những cảm xúc, những suy ngẫm về cuộc đời.
Nhà phê
bình Nguyễn Đăng Điệp đã tiến hành phân biệt các khái niệm hữu quan như ngữ
điệu, nhịp điệu, nhạc điệu. Ở đấy, tác giả cho rằng nhịp điệu chịu sự chi phối
của giọng điệu, giọng điệu được bộc lộ qua nhịp điệu và ngữ điệu bởi bất cứ câu
thơ nào cũng chứa điệu hồn tác giả. Theo đó, tìm hiểu nhịp điệu trong thơ là
cần thiết, và có thể được tiến hành ở các cấp độ: sự bố trí các âm vị, hình vị
trên dòng ngữ lưu và trên bề mặt văn bản thơ; hoặc mối quan hệ giữa việc phát
ngôn với biểu ý khi làm thơ, đọc thơ. Điều này cho thấy, tìm hiểu nhịp điệu khó
có thể tách rời với ngôn điệu và giọng điệu. Câu thơ dài ngắn, nhịp thơ nhanh –
chậm phụ thuộc vào hơi thở, điệu hồn của người sáng tạo. Giọng điệu, ngôn
điệu thế nào thì nhịp thơ thế ấy. Không phải ngẫu nhiên khi giọng điệu chậm
rãi, buồn bã thì nhịp thơ rời rạc; khi giọng điệu hào hùng thì nhịp thơ gọn
chắc.
Như vậy,
nhịp thơ đương đại chính là nhịp diễn xuất, nhịp tự do của trái tim đương đại,
là nhịp của chủ thể, biểu hiện rõ ràng cá tính của chủ thể, bộc lộ tư duy và
cảm xúc sống động của chủ thể.
Nhìn vào các tác phẩm của các nhà thơ đương đại, ta thấy thơ của
Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, nhóm Mở miệng… là thơ hướng đến các trò
chơi ngôn ngữ; thơ của Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến, Vi Thùy
Linh,… là thơ hướng đến các trò chơi ngữ nghĩa. Thơ của Nguyễn Trọng Tạo hướng
đến trò chơi diễn trò như đồng dao và hướng về thể thơ lục bát truyền thống của
dân tộc. Trong khi đó, thơ Ly Hoàng Ly lại hướng đến trò chơi trình diễn, dán
ghép,... Ở mỗi trò chơi, nhịp điệu thơ được hiểu như là vận động của sinh thể
nghệ thuật đều bộc lộ những điểm độc đáo, mới mẻ, mang đậm dấu ấn phong cách của
nhà thơ.
Thử đọc
những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo, ta thấy nhịp thơ 2 – 3 xen kẽ nhau trong
những dòng thơ đã đẩy hơi thơ nhanh, mạnh và dồn dập hơn. Cái tình yêu mà
Nguyễn Trọng Tạo muốn thể hiện được những nhịp thơ nhanh mạnh ấy làm bật dậy
những cảm xúc mãnh liệt. Câu thơ cuối với nhịp được giãn ra dài hơn, chính là
quá khứ êm đềm đang hiện về trong tâm tưởng của Anh và Em:
Xanh nụ hôn// khẽ chạm// mỉm cười xanh
hồn xoáy lốc// nồng nàn// đường cong// thân thể bão
em// như em// mười bảy
anh// như vừa hai mươi
lá còn xanh// đêm Hoàng Việt trinh nguyên// âm nhạc// bỗng xanh về
(Xanh - Nguyễn Trọng Tạo)
Với Nguyễn Trọng Tạo – con người đa tài khi bén duyên với cả văn
thơ và âm nhạc – ông cứ “nâng trên tay những
âm thanh, nhịp điệu kết thành con chữ luôn luôn ngọ nguậy, chấp chới vỗ cánh chỉ định bay lên mà bay xa, khoan thai chững
chạc như chẳng có gì vội vã. Anh đã đi những bước chân vững chắc và đĩnh đạc của số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng trĩu lướt trên số phận cuộc sống mỗi con người, tựu trung là những bước đi định sẵn rất ráo riết và quyết liệt” [4]:
tạ từ.// Ai// tạ từ// tôi
chập chờn// Tiên Nữ// nói cười xa xăm
(Tạ từ - Nguyễn Trọng Tạo)
Nhà
thơ tạo ấn tượng thính giác bằng cách đổi cấu trúc nhịp thơ 2/2/2 ở câu 6 sang
nhịp 2/1/2/1 khiến tiết tấu câu thơ dường như rất mới, thấy được tâm trạng vừa
đứt quãng, vừa dồn nén trong phút tạ từ. Trong một đoạn khác, Nguyễn Trọng Tạo
lại sử dụng thơ theo nhịp đứt khúc, tạo ấn tượng mới trong cấu trúc đoạn:
em!
bức tranh// tình không năm tháng
em!
mùa xuân// chiếm hữu// sắc màu tôi
(Bức
tranh tình – Nguyễn Trọng Tạo)
Thơ
Nguyễn Trọng Tạo mang tâm hồn đa mang, sầu cảm nên thơ của ông chứa đầy nhạc
tính. Và những nhịp lẻ, đứt khúc chỉ là số ít trong thơ ông. Nguyễn Trọng Tạo
làm thơ du dương, vang động đầy tính nhạc, đầy những rung động tinh vi khi hầu
hết sử dụng nhịp chẵn của thơ ca truyền thống, của cái loại nhịp gắn liền với
ngôn điệu Việt Nam:
Có cha// có mẹ// có trẻ// mồ côi
Có ông trăng tròn// nào phải mâm xôi…
Có thương// có nhớ// có khóc// có cười
Có cái chớp mắt// đã nghìn năm trôi
(Đồng dao cho người lớn – Nguyễn Trọng Tạo)
Hay:
cỏ may// không hẹn// mà xanh
tim ta//
khâu vá// cho lành nhớ thương
ngang trời//
hoa cỏ// đẫm sương
lanh
quanh sân thượng// mà thương cánh đồng
Câu, chữ lục bát cứ ngân nga, dặt dìu khiến người đọc như không dứt
ra được giai điệu nhẹ nhàng, trầm lắng mà tự nhiên, da diết của nó. Câu thơ
mang nhịp chẵn cứ trôi một cách ung dung thư thái, nhưng lại mang nhiều lắng đọng,
gợi ra trước mắt những suy nghĩ nhẹ nhàng nhưng không kém phần khiến người đọc
phải trăn trở. Nguyễn Trọng Tạo đã đến với thơ đương đại bằng những thể thơ lục
bát truyền thống mang hơi thở của đương đại, nội dung của đương đại. Những nhịp
chẵn, nhịp lẻ thổn thức trong thơ ông như chính trái tim ông vậy: trăn trở và
suy nghĩ về cuộc đời, và đem cái trăn trở ấy gieo vào lòng người đọc, lúc nhẹ
nhàng an nhiên, lúc lại trúc trắc gập ghềnh, khiến độc giả không khỏi cuốn theo
những suy nghĩ của nhà thơ.
Không nhẹ
nhàng như nhịp chẵn trong thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhịp trong thơ Vi Thùy Linh
biến hóa đa dạng, khôn lường, thể hiện sâu sắc giọng điệu của một nhà thơ với
tiếng nói của tự do, của ngổn ngang và rậm rạp một nguồn cảm xúc dữ dội, cuồng
nhiệt, của bản năng, của ý thức về phái tính, mang âm hưởng nữ quyền cao.
Vi Thùy
Linh dùng nhịp thơ chẵn, nhịp 2/2, nhưng không phải nhịp của sự êm ái, mà là
nhịp mang sức nặng mạnh mẽ của sự phân đôi, sự chia cách. Một bên là Em với nỗi
khát khao trên con đường tìm Anh, một bên là Anh xa hơn “mặt trời” để em vẫn
mãi đuổi theo:
Em // vẫn tìm Anh
Tìm trong// bóng đêm
Tìm ngày// nắng rát
Hơi thở// cũng lạnh
Mặt trời// mặt trời
Mặt trời// quá xa
Anh// còn xa hơn
Em tìm// bằng tim
Anh// đừng đi nữa
(Nhật thực – Vi Thùy Linh)
Hay đôi khi
quay về nhịp chẵn 2/2 vui tươi, hồn nhiên, trong sáng của thơ đồng dao:
Nu na// nu nống
Trái đất// nằm trong
Trẻ con// quay vòng
Nối liền// thế giới
Mùa đông// thật ấm
Noel// cho em
Noel //lung
linh
Binh boong// náo nức
Xoa dịu// đớn đau
Vỗ về// thiếu thốn
Xua tan// tủi sầu...
(Giáng sinh con – Vi Thùy Linh)
Bên cạnh
đó là nhiều bài thơ với những dòng thơ dài, nhịp thơ được kéo giãn để thể hiện
trọn vẹn mạch cảm xúc đang dâng trào của thi sĩ:
Nếu cả thế giới// loài người đều yêu nghệ thuật và thơ hay, // sẽ
không còn cái ác//
Nhốt lại những trái ngang,// đổi đời cho những bà goá bụa// những
ông trắng tóc héo da cô độc,// những người thất cơ lỡ vận đói khát thiên thai
tha hương,// những kẻ lưỡng tính mất phương hướng,// những nông dân mất mùa
ngón chân gầy như củ lạc còi bấm vào ruộng cạn//
Thế giới thiếu chất thơ// nên loài người bi kịch//
(Hãy phủ thơ khắp thế giới của em – Vi Thùy Linh)
Lại có
những bài thơ với cách đột nhiên xuống dòng với nhịp thơ bị ngắt đứt từng nhịp
một, làm ta sửng sốt, ngỡ ngàng trước cảm xúc của nhà thơ:
Em//
Rơi//
Theo từng tiếng nấc// bơ vơ
(Nơi ánh sáng – Vi Thùy Linh)
Hay:
Em tức tưởi// trở về //khoảng trời bóng đỏ
Bóng// chèn nhau
vỡ
Lòng em
vỡ
Em lầm lũi// lại đến
trước nhà Anh// nhặt
xác// nỗi buồn
vừa rơi
Đốt lên// thành lửa
Rồi đi
Sau lưng em// ngày nắng
tắt
(Từ
phía ngày nắng tắt –
Vi Thùy Linh)
Nhịp thơ
không liên tục, không đều đặn mà bị vỡ ra thành những phần mảnh, đan xen nhịp
chẵn – lẻ, dài – ngắn, cho chúng ta thấy được tâm trạng đau đớn, dằn vặt trong
lòng người thiếu phụ.
Mỏng mòng mong// bánh xe
Xe// mỏng mòng mong// bánh xe
Gói mưa// vào lá chuối
Hôm sau// ra chợ bán
Lá chuối khô// mưa //mốc
Người bán hàng// mặt hốc
Gói đêm// vào lá chuối
Ban trưa// ra chợ bán
Lá chuối héo// đêm bay đi
Người bán hàng// ngơ ngẩn// ngẩn ngơ
(Mỏng mòng mong – Ly Hoàng Ly)
Hay lúc
thì mạnh mẽ và cương quyết với nhịp thơ ngắn, lúc lại nhẹ nhàng dàn trải với
những nhịp thơ dài:
Tôi muốn
Căn nhà tôi ở// tỏa hương ngào ngạt
Những cành lá trong vườn// giũ chất diệp lục lên da mặt
Để tôi// lúc nào cũng xanh men mét
Tôi muốn
Biến thành thiên thần xanh// trên cao bồng bềnh
Nhìn ổ trứng cuộc đời// nở trên những người thân của tôi
Trong căn nhà// ngộp hương hoa
Tôi sẽ chỉ nhìn
Và lặng im// vĩnh viễn
Tôi muốn
Đêm đào đất lên ăn // đất cào đêm xuống nuốt
Đất,// đêm// hòa làm một
Đen,// đen
Mù mịt
Sình sịch
Những cơn mê quất vụt!
(Tôi muốn – Ly Hoàng Ly)
Với giọng
điệu giàu suy ngẫm, nhịp thơ Nguyễn Quang Thiều cũng kéo dài ra như chính những
nghĩ suy triền miên của ông. Những bài thơ của Nguyễn Quang Thiều hầu hết đều
chứa những câu thơ dài, nhịp điệu thư thái, chất chứa nhiều tâm sự. Những nhịp
ngắn, nhanh, mạnh mẽ, dứt khoát hầu như rất ít xuất hiện trong thơ ông:
Đâu đấy//,
một cánh bướm run rẩy//, trong hơi thở tháng Giêng
Một cánh
bướm như không có// bởi mỏng hơn cả sự mơ hồ
Nhưng đã
mở ra//, ở đâu đó//, một cánh bướm có thật
Không bởi
màu sắc rực rỡ// mà bởi như hơi nước đang tỏa
Thơ triết
lý Nguyễn Quang Thiều với những nhịp thơ dài tạo nỗi niềm man mác, cái buồn da
diết khi mong nhớ về một miền đất mẹ. Nhịp thơ dài đẩy câu thơ dài ra hơn, như
chính cái niềm mong nhớ không có điểm dừng:
Đâu đây// có tiếng nói mê đàn ông// bên mái tóc đàn bà
Đâu đây// thơm mùi sữa bà mẹ// khe khẽ tràn vào đêm
Đâu đây// những bầu vú con gái tuổi mười lăm// như những mầm cây
đang nhoi lên khỏi đất
Và đâu đây// tiếng ho người già// khúc khắc
Những trái cây chín// mê ngủ// tuột khỏi cành// rơi xuống
Góc vườn khuya// cỏ thức một mình
(Bài hát về cố hương –
Nguyễn Quang Thiều)
Như vậy,
nhịp trong thơ đương đại là nhịp diễn xuất. Vì không bắt buộc theo những khuôn
nhịp cứng nhắc, nên nhịp trong thơ Việt Nam đương đại không những trôi tự do
theo cảm xúc của người sáng tác, mà nó còn thể hiện rõ phong cách, giọng điệu
riêng của từng nhà thơ. Đồng thời, ngược lại, chính phong cách, giọng điệu và
cảm xúc của nhà thơ là yếu tố chi phối, quyết định nhịp thơ đương đại.
Thông
thường nhịp điệu truyền thống bao giờ cũng có áp lực lớn lôi kéo người đọc,
nhất là người đọc không phải là nhà thơ. Theo quán tính cứ gặp những thể thơ
quen thuộc, trong tâm thức người Việt lại vang lên nhịp điệu có sẵn 2/2 (thơ 4
chữ), 3/2 hay 2/3 (thơ 5 chữ), 2/2/3 (thơ 7 chữ), 2/2/2… (thơ lục bát). Chạm
vào thơ đương đại với tinh thần cách tân, mang nhiều cái mới của phương Tây,
cùng với đó là yêu cầu đọc bằng mắt bởi sự phát triển của “thế giới phẳng” và
sự đổi mới “con mắt người thơ”, do đó, như một sự cách tân về phương thức tổ
chức tác phẩm, cấu trúc nhịp thơ cũng thay đổi, cũng hòa tan vào toàn bộ cơ thể
tác phẩm nghệ thuật thơ. Dù trong thơ tự do, thơ lục bát hay những thể thơ 4
chữ, 5 chữ, 7 chữ, nhịp thơ đương đại vẫn không rõ ràng, không theo khuôn khổ
quy củ, mà bị chi phối bởi giọng đọc, điểm dừng ngữ nghĩa.Ngoài 10 nguyên tắc ngắt
nhịp đã nêu ở chương một, nhìn một cách tổng quát, nhịp thơ đương đại được chi
phối bởi những hình thức ngắt nhịp hiện đại trên ba cơ sở chính: hình thái văn
bản, cú pháp và dấu câu. Đây là những hình thức ngắt nhịp phổ biến và là những
nét mới trong đặc điểm nhịp thơ đương đại.
1.3.1. Ngắt
nhịp trên cơ sở hình thái văn bản
Nhịp điệu
được kết hợp bởi những chi tiết thị giác và âm thanh ngôn ngữ. Khi cú pháp cũng
như những niêm luật trong thơ bị phá vỡ, ngôn ngữ thơ sẽ rơi thành từng phân
mảnh. Nó mất đi cái nền để chuyển động, và như một quán tính, nó sẽ hòa nhập
cùng dạng thức thị giác, nương theo chiều dài của hơi thở và âm vực mỗi âm tiết
để khơi dậy cảm xúc và tưởng tượng bên trong nhà thơ và người đọc.
Ảnh hưởng
từ chủ nghĩa Hậu hiện đại cũng như những lối thơ kết hợp các thể loại nghệ
thuật, cùng với đó là nhu cầu đọc thơ bằng mắt của thời đại công nghệ thông
tin, các nhà thơ càng lúc càng “để ý” hơn tới hình thức thơ, tận dụng hình thái
văn bản thơ để hỗ trợ đắc lực cho ý thơ của mình.
Chính vì
thế, ở thơ đương đại, ngoài sự kết hợp giữa âm thanh âm tiết và cú pháp văn
phạm, còn có thêm nhịp điệu thị giác. Đọc thơ đương đại, bước đầu phải nhìn và
ghi nhớ hình dạng bài thơ, cách ngắt dòng, dãn dòng, khoảng cách của từng dòng…
khi nghe, hình dạng bài thơ hiện ra trong ký ức và người đọc cùng một lúc tiếp
nhận được cả nhịp điệu thị giác lẫn thính giác.
Vận dụng
hình thái văn bản thơ để phân phối nhịp điệu trong bài thơ là việc khá phổ biến
trong thơ đương đại, nhất là những cây bút viết theo chủ nghĩa Tân hình thức.
Trên trang mạng xã hội của thơ Tân hình thức xuất hiện khá nhiều bài thơ được
trình bày theo dạng hình tròn, hình vuông,... với những ký tự “lộn xộn” như
ngôn ngữ mật thư khiến người đọc khó tiếp nhận; một số bài thơ được trình bày
theo dạng bậc thang liên tiếp như sau:
Tao không muốn mầy làm thơ tình buồn
Tao không muốn mầy làm thơ tình
Tao không muốn mầy làm thơ
Tao không muốn mầy làm
Tao không muốn
Tao không
Tao
T
(Ở nơi ấy, nhà thơ - Cảm tác từ Apghanistan)
Hình thái
thơ bậc thang theo từng bậc ngắn dần có tác dụng thúc đẩy nhịp thơ ngắn dần,
hơi thở thơ càng lúc càng nhanh, càng gấp khiến người đọc có cảm giác tức nghẽn
nơi cổ họng, không tìm ra được lối thoát. Đó cũng là cảm giác giằng xéo, đấu
tranh giữa hai thái cực: không muốn nhưng mà muốn đấy, muốn đấy nhưng mà lại
không muốn.
Tuy nhiên
những hình thái văn bản thơ như đã nhắc ở trên không chiếm đa số và nhiều hình
thái còn chưa được sự đón nhận của đa số những người làm nghệ thuật. Phương
thức được sử dụng nhiều nhất để hỗ trợ cho nhịp điệu của thơ đương đại đó chính
là cách trình bày thơ theo dạng bậc thang không liên tiếp. Qua khảo sát 659 bài
thơ của bốn tác giả, có 39 bài thơ sử dụng cách trình bày dạng bậc thang, tạo
nên 137 dòng thơ bậc thang, chi phối quy luật ngắt nhịp trong thơ đương đại.
Chúng ta
bắt gặp cách trình bày thơ bậc thang trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Dù trong thơ
Nguyễn Quang Thiều, những suy ngẫm về đời cùng những nhịp thơ dài với câu thơ
văn xuôi rất hiếm khi xuất hiện:
Ra đi từ hồ nước cũ
Con đường
Con đường
Con đường
(Lễ tạ - Nguyễn Quang Thiều)
Lối thơ
bậc thang này khiến nhịp thơ được ngắt ra rõ ràng, dù vẫn là nhịp 2/2/2 ở ba
dòng cuối, nhưng từ cách nhìn đến cách phát âm, ta có cảm giác nhịp thơ sau dài
hơn nhịp thơ trước, nối tiếp nhịp thơ trước. Nhờ đó mà tính nhạc được vang lên
ngân nga, hình ảnh con đường cứ dài ra dài ra, con đường này nối con đường kia
đến xa tít.
Nguyễn
Trọng Tạo đến hiện đại từ truyền thống, dù lựa chọn sự trở về với “ngôn ngữ thơ
ca nhịp chẵn của dân tộc”, vẫn làm thơ ở thể lục bát như một cơ duyên tiền
định, Nhưng ở trên nền thơ lục bát ấy, ông không chỉ làm mới nội dung thơ mà
còn lạ hóa khuôn hình sáu tám bằng hình thức xuống thang:
Như là// tôi đã một lần
nói yêu em
dọc mùa xuân
hai người
(Thư tình gửi người không quen – Nguyễn Trọng Tạo)
Hình thức
xuống thang của câu tám không chỉ là cách làm lạ hóa mang tính hình thức mà là
hình thức mang tính nội dung, tạo nên hiệu ứng từ cách ngắt nhịp đến sự thay
đổi giọng đọc. Những câu chữ tác động đến giọng điệu, giọng điệu lại khơi bật
những cung đường cảm xúc. Và do đó, cảm xúc được truyền trực tiếp từ ý thơ đến
người đọc. Người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu có chút dè dặt nhưng sâu
lắng của nhân vật trữ tình qua ý nghĩa của ngôn từ mà còn qua ấn tượng thị
giác.
Những
biến chuyển trong “phép chia” lạ thường dưới đây không chỉ tác động đến chúng
ta qua ý nghĩa ngôn từ mà còn qua con mắt nhìn văn bản thơ:
chia cho em // một đời tôi
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn //cái xác không hồn
cái chai không rượu //tôi còn // vỏ chai
chia cho em //một đời say
một cây si
với
một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa //đam mê
trời chang chang nắng // tôi về héo khô
(Chia – Nguyễn Trọng Tạo)
Ta còn
bắt gặp hình thức thơ bậc thang không liên tiếp này khá nhiều trong thơ Vi Thùy
Linh và Ly Hoàng Ly:
Không biết lạc vào đâu
Con
rơi
xuống
dòng sông đỏ đang chuyển dịch bóng những vì sao
(Những đối lập – Vi Thùy Linh)
Đổ
chiều
từ
trên
cao
Sài Gòn// theo lối về // men dần lòng chảo
(Thung lũng Anh và Em – Vi Thùy Linh)
Những bậc
thang thơ đã hình thành từng nhịp 1, tạo nhịp thơ gọn, nhanh, đẩy hình ảnh thơ
lên sự chơi vơi, hụt hẫng giữa không trung không có lấy một điểm tựa. Thể hiện
mạnh mẽ cảm xúc của nhà thơ.
Trên cơ
sở cú pháp, ngoài những nguyên tắc ngắt nhịp truyền thống theo cấu trúc ngữ
pháp của dòng thơ như đã đề cập ở chương 1, trong thơ đương đại, chỗ ngắt nhịp
còn được chú ý bởi những yếu tố vắt dòng và yếu tố điệp cú pháp.
1.3.2.1. Yếu tố vắt dòng
Thơ đương
đại không còn kết cấu khổ vuông như thời kì trước đây nữa mà hầu như ở các bài
thơ đều có hình thức thể hiện là những câu thơ dài ngắn đan xen. Hiện tượng vắt
dòng diễn ra trong 219 bài thơ trên tổng số 659 bài thơ được khảo sát, xuất
hiện trên 1782 dòng thơ. Khi dùng cách vắt dòng, nhà thơ phá đi cách đọc dừng
lại ở cuối dòng, người đọc bị thúc đẩy đi tìm lại phần đã mất của câu thơ với
tốc độ đọc nhanh hơn, và phải đọc bằng mắt. Cái khoảng trống được tạo ra bởi
hai thành phần cấu trúc gắn liền nhau của dòng thơ. Thế nhưng cái khoảng trống
lại chẳng trống không vì những chuyển động không ngừng của cái biết và chưa
biết, đè lấp lên nhau. Lối viết vắt dòng tạo nên sự đột biến cảm trong cảm xúc
thơ. Các khoảng lặng gây sự chú ý kéo dài. Điều đó dẫn tới trường hợp có những
bài thơ trong tập thơ không có lấy một chữ viết hoa dù là chữ đầu dòng, đầu
câu. Thơ đã bật lên từ sự vặn vẹo và phức tạp của văn phạm và cú pháp, tạo
thành nhịp điệu thơ.
Ta hãy
đọc một đoạn thơ của Ly Hoàng Ly:
Nhạc cuốn vào người// sóng
Nhạc xiết lên da thịt // như dây thép
Không nói không rằng
Những son môi // sượt miệng Heineken
Xanh sóng sánh
để lại chất
dính dính
(Discotheque - Ly Hoàng Ly)
Nếu không
có sự vắt dòng ở bốn dòng cuối, có lẽ người đọc dễ ngắt nhịp như sau: “Những son môi// sượt miệng Heineken
xanh óng ánh// để lại// chất dinh dính”. Và khi đó, câu thơ sẽ
không mang được nhịp điệu thơ, không có chất thơ, mà mang đậm màu sắc của văn
xuôi. Một câu thơ chẳng có gì đặc biệt. Tuy nhiên, sử dụng phương thức vắt
dòng, Ly Hoàng Ly gợi ra nhịp điệu của hồn thơ, tạo một sợi dây liên kết nối
giữa tác giả và người đọc, nhấn mạnh hình ảnh thơ “xanh óng ánh” và trạng thái
“dinh dính”. Chính hai hình ảnh được nhấn mạnh này làm toát lên tính chất của
một đêm nhạc disco với những điệu nhảy, những cảm xúc da thịt.
Đọc bài
thơ Lô Lô, những
cảm xúc căng thẳng, dồn nén, đứt đoạn được thể hiện một cách rõ ràng trong việc
đếm những hạt mưa. Chị không đếm theo nhịp “hai
mốt// hai hai// hai ba//..” mà lại đếm theo nhịp “hai// mốt// hai// hai// hai// ba//...”:
Đêm nay
có bao nhiêu hạt mưa nhỉ// một – //hai –//ba
bốn –// năm – //sáu – //bảy
tám - //chín
mười – //mười một –// mười hai – //mười ba – //mười bốn – //mười
lăm – //mười sáu – //mười bảy
mười chín – //hai mươi
hai
mốt
hai
hai
hai
ba
hai
bốn
hai
lăm
hai
sáu
hai bảy //hai tám //hai chín
Chỉ có hai mươi chín hạt mưa rơi //cũng thành bão rối
Hai mươi chín hạt mưa rơi //cũng làm đầy sắc đêm
(Lô lô – Ly Hoàng Ly)
Trong
suốt bài thơ “Cầu nguyện ở
thánh đường Thomas More”, những câu thơ vắt dòng trải dài hết tác
phẩm của Nguyễn Quang Thiều:
Thế gian// những dòng sông chảy,// những cây thông thì thầm,// những
đứa trẻ khóc,// những chàng trai chết,// những đàn bà//
sợ hãi,// những ô cửa chạy trốn vào những hốc mắt.//
Thánh đường Thomas More// ngọn nến run rẩy.// Những ngôi sao//
xa xôi.// Một con đường ngập máu// một bàn tay nhỏ bám chặt những
ngọn cỏ như bám tóc người mẹ.//
Thế gian// vẫn trôi một nửa trong bóng tối//. Một con chim//
trong lùm cây không ngủ// đều đều tiếng kêu buồn bã.//
lời nguyện cầu// và // người đàn ông xa lạ vẫn đứng trong góc tối
thánh đường// đôi mắt khép lại như thiếp ngủ.
(Cầu nguyện ở thánh đường Thomas More – Nguyễn Quang Thiều)
Giữa
những câu thơ kéo dài như văn xuôi, nhịp thơ cũng kéo dài, Nguyễn Quang Thiều
đã sử dụng phương thức vắt dòng, tạo những nhịp thơ ngắn xen kẽ với ý nghĩa thơ
bị đứt đoạn. Người đọc vừa phải dừng lại, vừa phải đọc nhanh hơn để đi đến ý
thơ còn bỏ ngỏ. Nhịp thơ dài ngắn đan xen đã khiến câu thơ có điểm nhấn, khiến
cho những hình ảnh liên tiếp được nhắc đến vẫn có cái bị gằn lại. Câu thơ trở
nên trúc trắc hơn, thể hiện tâm trạng hoang mang, đa cảm của nhà thơ.
Vi Thùy Linh khi thể hiện tình yêu nồng thắm, cô đã dùng cách thức
thơ vắt dòng, nhịp cứ vắt từ dòng này sang dòng khác, thể hiện sự khao khát có
Anh một cách trọn vẹn, để Anh không biến mất khỏi Em trong bất cứ giây phút
nào:
Cứ thế // họ
đối diện với cỏ
Sẽ thấm thía hơn //về đời sống của mình
Khi// em
Biết nhắm mắt lại
Ảo tưởng //Anh nằm bên
Em
có Anh //cả khi đóng mắt
Và khi //các đôi lứa
Biết quý //từng giây phút
Thế giới cứ mãi //mùa màng cứ mãi
(Phối cảnh của ký ức – Vi Thùy Linh)
Còn đây
là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Những bông tường vi //nở lẫn cùng hoa giấy
những con đường
đi
không dấu chân
viên sỏi nhỏ //trong gót giày //đêm đêm
sẫm nâu// và mòn trơn.
(Thành phố không người quen – Nguyễn Trọng Tạo)
Nguyễn
Trọng tạo đã rất tài tình khi vắt dòng để tạo nhịp thơ theo: “những con đường// đi// không dấu chân”.
Nếu để chúng nằm trong một dòng thơ, người đọc thường sẽ ngắt nhịp 4/3: “Những con đường đi// không dấu chân”.
Như vậy, câu thơ sẽ không diễn đạt được ý mà nhà thơ hướng đến: ở con đường nơi
thành phố không người quen ấy, người khách lữ hành đang độc bước, và dù anh có
đi qua, con đường ấy vẫn không dấu chân anh, bởi nó quá xa lạ, có đi qua thì
cũng như là người mới tới. Nhịp thơ gắn liền với ngữ nghĩa, mỗi cách ngắt nhịp
lại cho ta một cách cảm thơ khác nhau.
Việc sử
dụng câu thơ vắt dòng không chỉ giúp tác giả thể hiện hết những cung bậc cảm
xúc của mình mà ở đây, như một yếu tố của nghệ thuật sắp đặt, các tác giả thơ
đương đại còn trình bày với người đọc (người xem) một trò chơi câu chữ, những
dòng thơ dài ngắn khác nhau với những câu thơ được tách ra thành nhiều dòng
biến người đọc trở thành khán giả trước sân khấu. Cũng vì thế, nhiều tác phẩm
thơ đương đại không chỉ để ngâm, để nghe mà còn để đọc, để ngắm, để thấm thía
từng câu chữ và để tâm hồn mình lặng vào những cảm xúc của nhà thơ.
Yếu tố điệp cú
pháp
Phương
thức thứ hai hỗ trợ sự phân bố nhịp điệu đó chính là phương pháp điệp cú pháp.
Bài thơ được tổ chức bởi những dòng âm tiết, mỗi âm tiết là một nhịp đập. Khi
sử dụng phương pháp điệp cú pháp, số nhịp đập và âm tiết sẽ cùng lặp lại, hình
thành những chùm âm thanh, tạo sự hài hòa, vang vọng.
Thực tế,
trong thơ ca Việt Nam trước đây, phương pháp này đã xuất hiện, là một trong
những biện pháp tu từ, tạo tiếng nhạc cũng như sự liên kết chặt chẽ cho ý thơ.
Tuy nhiên, phương pháp lặp cú pháp thật sự phát triển mạnh mẽ nhất là trong thơ
đương đại hiện nay. Khi mà vần điệu được nới lỏng, hiệp vần ít hơn, câu thơ
được buông thả tự do thì việc lặp cú pháp là một trong những phương thức hình
thành nên nhịp điệu của bài thơ, có phần thay thế cho vai trò của vần đối với
nhịp điệu.
Khảo sát
các tập thơ, người viết nhận thấy các nhà thơ thường sử dụng cấu trúc điệp
trong các bài thơ, đặc biệt là ở thể thơ tự do. Trong số 659 bài thơ có 102 bài
thơ sử dụng cấu trúc điệp cú pháp. Tỉ lệ số dòng thơ chứa cấu trúc điệp này
chiếm 2,69% so với 17 169 dòng thơ đã khảo sát.
Trong Bài
ca những con chim đêm, cuộc sống được nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đổ
đầy bằng từng đời sống riêng biệt của từng sự vật:
Như chỉ còn// con tàu nhỏ ngủ im lìm trên bến....
Như chỉ còn //sóng rì rầm,// như chỉ còn// lại nước
Như chỉ còn// xa xăm thiêm thiếp những quả đồi
Như chỉ còn// gió đi qua rừng bạch đàn thẫm tối...
Như chỉ còn// một người già đau răng âm ỉ...
Như chỉ còn //một mình tôi,// như chỉ còn// một bàn tay
(Bài ca những con chim đêm – Nguyễn Quang Thiều)
Cấu
trúc “Như chỉ còn + mệnh đề” lặp lại 13 lần đã đánh dấu
nhịp thơ, tạo cách ngắt nhịp thơ đều đặn giữa các dòng, hiển hiện lên một thế
giới trống rỗng, các sự vật bị cầm tù, đơn độc. Thế giới tưởng chừng như đã
chết. Nhưng rồi giữa cõi âm u, đổ nát ấy, nhà thơ bỗng lắng nghe tiếng chim
đêm, tiếng ca trong giấc mơ mong manh của bầy trẻ. Thế giới như bừng tỉnh trong
tiếng chim khai sáng, những giá trị trinh nguyên của buổi ban sơ được phục sinh
thoát khỏi những tha hoá và ngộ nhận, ảo tưởng. Thế giới trở nên một cái nền
thanh bình câm lặng để vút lên tiếng chim rền rĩ “xối
vào không
gian”, “rống lên làm hoảng sợ những vòm cây”. Tiếng chim đêm bỗng trở nên dữ
dội, bi hùng tạo ấn tượng về sự quật khởi, bi hùng của cái đẹp.
có ông trăng tròn// nào phải
mâm xôi.
có cả đất trời // mà không nhà ở
có vui nho nhỏ// có buồn
mênh mông.
mà thuyền vẫn sông// mà xanh vẫn
cỏ
mà đời vẫn say // mà hồn vẫn gió.
có thương// có nhớ// có khóc// có cười
có cái chớp mắt// đã nghìn
năm trôi.
(Đồng dao cho
người lớn –
Nguyễn Trọng Tạo)
Điệp
từ “có” giống
như từ khóa cho những nhịp thơ, đánh dấu cho những nhịp thơ chẵn xuyên xuốt cả
bài thơ, tạo nhịp thơ sóng đôi 2/2/2/2 hay 4/4.
Hay trong bài Không dưng, Nguyễn Trọng Tạo
cũng đã sử dụng điệp từ để bộc lộ nhịp lòng của mình:
không dưng// em// khóc dưới cội me
không dưng// tôi// dừng lại lắng nghe
không dưng// tiếng vạc// kêu thảm thiết
không dưng// đang// buồn
vui ly biệt
(Không
dưng – Nguyễn Trọng Tạo)
Tôi// trong phòng trắng
Tại sao// to tiếng với tôi
Tại sao// nhìn tôi hằn học
Tôi// trong phòng trắng
Tại sao// õng ẹo với tôi
Tại sao// cầm tay tôi// rồi giật giật
Tôi// trong phòng trắng
Tại sao// uống nước mắt tôi
Tại sao// cài tóc tôi vào lược
Tôi// trong phòng trắng
Tại sao// bẹo má tôi
Tại sao// rót đầy bia vào giày tôi
Tôi// kêu gào
Không ai// nghe thấy tôi
Không ai// nhìn thấy môi tôi cử động
Tôi // trong phòng trắng
Tại sao// giận dữ với tôi
Tại sao// ném rau xanh vãi khắp người tôi
Tôi// trong phòng trắng
Tại sao// đi ngang qua tôi mà không thèm nhìn
Tại sao// làm cho tôi thương tổn
Tôi// trong phòng trắng
Không ai// nhìn thấy tôi
Không ai// nhìn thấy phòng trắng
Tôi// cũng không nhìn thấy tôi
Tôi //cũng trắng như phòng trắng
Tại sao //tôi lại trắng// và lại trong phòng trắng
Đó mới chính là câu hỏi phải được hỏi// ngay từ đầu
Nhưng vì đầu tôi cũng trắng// nên tôi không có câu trả lời.
(Phòng trắng - Ly Hoàng Ly)
Với việc
lặp lại hàng loạt các cấu trúc tạo nhịp chẵn (2) và nhịp lẻ (1) đã làm bài thơ
mang âm thanh của một phần điệp khúc trong bài hát nào đó. Bài thơ mở ra nhiều
hướng suy nghĩ cho người đọc. Đây không phải là một giấc mơ, tuy nhiên để cho
nhân vật trữ tình bộc lộ sự dằn vặt, day dứt, dày vò đối với bản thân mình.
Nhân vật tôi độc thoại với chính mình, cũng là đối thoại với mọi người. Mỗi lời
thoại là một cung bậc âm thanh và tâm trạng, có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt,
có khi tủi thân, có khi van nài, có khi thất vọng: “Không ai nhìn thấy tôi / Tôi cũng không nhìn thấy tôi /
Tôi cũng trắng như phòng trắng”.
Thơ đương đại không có nhiều vần được gieo, nhất là vần chân và vần
lưng không nhiều, nên ngôn ngữ thơ đã phát triển theo quán tính của nó. Nó chọn
thêm cho mình những hình thức thơ vắt dòng, những điệp cấu trúc, điệp cú pháp để
nhấn mạnh sự ngừng nhịp. Nhu cầu thể hiện nhịp lòng qua nhịp thơ của các nhà
thơ càng cao, trong khi vần thơ càng được tự do thì hình thức thơ vắt dòng cùng
các cách điệp thơ sẽ càng phát triển.
Ngắt nhịp trên cơ sở dấu câu
Cũng
giống như phương thức điệp trong thơ, việc sử dụng các loại dấu câu nhằm nhấn
mạnh nơi ngắt nhịp thơ từ lâu đã có mặt trong thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, trong
thơ truyền thống việc dùng dấu câu (ngoài dấu phẩy) rất hạn chế. Thơ ca truyền
thống cho rằng, nếu trong thơ sử dụng dấu ngang nối, chấm phẩy hay chấm hỏi…thì
sẽ làm cho câu thơ bị phá vỡ niêm luật. Trong thơ đương đại,với ước mơ khám
phá, thể hiện được tốt nhất những cảm xúc, tình cảm của mình, các nhà thơ đã
sáng tạo, tìm tòi tạo ra được những câu thơ đặc biệt, phối hợp nhịp nhàng cùng
cấu trúc nhịp điệu của câu thơ. Việc mang dấu câu vào trong thơ không chỉ đơn
thuần là thực hiện chức năng ngữ pháp mà còn là một ý đồ nghệ thuật đưa lại cho
câu thơ, bài thơ giá trị thẩm mỹ, giá trị về nhịp điệu, tăng khả năng biểu cảm
cho câu thơ, bài thơ của mình.
Sau khi
nghiên cứu, khảo sát cách ngừng nhịp trong nội bộ dòng thơ đương đại, người
viết thấy rằng, thơ đương đại có dùng các dấu câu để ngắt nhịp. Trong số 17.169
dòng thơ đã khảo sát trong 659 bài thơ, có sự xuất hiện 1423 các thể loại dấu
câu dùng để ngắt nhịp. Bao gồm: dấu chấm (.), dấu chấm hỏi (?), dấu hai chấm
(:), dấu chấm than (!), dấu chấm lửng (…) và dấu ngang nối (-), với số lượng cụ
thể như bảng sau:
Bảng 2. Các loại dấu câu trong thơ đương đại
STT
|
Dấu câu
|
Số lượng
|
Tỉ lệ
(so với số lượng dòng thơ)
|
1
|
Dấu chấm (.)
|
269
|
1,57 %
|
2
|
Dấu chấm than (!)
|
165
|
0,96 %
|
3
|
Dấu chấm hỏi (?)
|
181
|
1,05 %
|
4
|
Dấu hai chấm (:)
|
94
|
0, 55 %
|
5
|
Dấu chấm lửng (…)
|
358
|
2,85 %
|
6
|
Dấu ngang nối (-)
|
274
|
1,59 %
|
Tổng cộng:
|
8,57
|
Dấu chấm (.)
Trong thơ
đương đại, cùng với thể thơ văn xuôi và hiện tượng vắt dòng là hiện tượng xuất
hiện dấu chấm câu đột ngột giữa dòng thơ, nó chiếm tỉ lệ 1,57% so với số lượng
dòng thơ. Các nhà thơ sử dụng dấu chấm như một hình thức tu từ, nhằm nhấn mạnh
chỗ ngắt nhịp thơ, đồng thời tạo sự bất thường từ hình thức đến ngữ nghĩa của
câu thơ để đạt được mục tiêu thể hiện trọn vẹn nhất cảm xúc.
Đọc một
đoạn thơ của Nguyễn Trọng Tạo, dấu chấm câu giữa dòng thơ đã tạo ra hiệu ứng
ngắt nhịp khác nhau một cách mới lạ:
rồi xa lắc.// Bỏ một trời
thương nhớ
ơi mùa thu// áo ấm đã mặc chung
rồi biền biệt.// Hoa vàng như hơi thở
mimôza.// Giọt nắng.// Có theo cùng?...
(Mùa thu áo ấm – Nguyễn Trọng Tạo)
Những
dấu chấm đột ngột ngắt câu không chỉ gây sự chú ý về hình thức mà còn nhằm nhấn
mạnh một ý định, một tâm sự nào đó. Các từ “vàng” với cách viết hoa như đứng
đầu một câu càng nhấn mạnh hơn sự héo úa và tàn tạ của một buổi chiều:
chiều rơi.// Vàng tóc. //Vàng da
vàng cây.// Vàng đá.//
Vàng ta.// Vàng người
(Chiều rơi –
Nguyễn Trọng Tạo)
Nhiều
khi, trong cùng một dòng thơ các câu thơ như bị xé lẻ ra như cách viết của Vi
Thùy Linh:
Đêm.// Lại
ngày.// Lại
đêm.// Lại đêm
Sự phân thân
(Hai miền hoa Thuỳ Linh – Vi Thùy Linh)
Bằng việc
sử dụng bốn câu đơn đặc biệt trong một dòng thơ với nhịp thơ 1/2/2/2, nhà thơ
đã cho độc giả thấy được sự lặp lại đến nhàm chán của thời gian. Qua đó, càng
làm nổi bật được tâm trạng cô đơn, buồn tủi của em.
Dấu chấm hỏi (?)
Trong
những dòng thơ mang dáng dấp văn xuôi, cùng với dấu chấm, dấu chấm hỏi mang vai
trò nhấn mạnh nhịp thơ, đồng thời tạo ra những nhịp điệu nhanh – chậm, thể hiện
rõ ràng hơn những cảm xúc thơ so với thơ truyền thống.
Những nhà
thơ tự do lựa chọn cho mình những dấu câu phù hợp, để tạo nhịp thơ dồn dập bằng
những câu hỏi tu từ:
Đi qua những thế kỷ mất mắt,// thân người lại tiếp kiếp mệt nhọc
trong mùa đông cuối cùng//
Họ hớt hải giữa vòng xoáy nóng bức của thế kỷ// - năm cuối cùng
Họ chờ đợi gì?// Tìm kiếm gì?// Đánh mất gì?
Tiếng đàn một dây
ngả dọc Việt Nam
- đất nước// mang hình người đàn bà hơi khụy chân,// ngửa mặt
(Mùa đông cuối cùng – Vi Thùy Linh)
Hoặc:
không có ai? // Hay có có không không?// Tôi cứ nghe tiếng gọi
ôi cỏ non! //Chẳng lẽ lại là ngươi?
tôi nằm // ngập cỏ non // ngập hương trinh trời đất
tiếng sáo xanh// ve vuốt tinh mơ chưa hiện rõ mặt trời
lưỡi mùa xuân// liếm nhẹ thịt da tôi...
(Tinh mơ – Nguyễn Trọng Tạo)
Dấu chấm than (!)
Dấu chấm
than dùng để ngắt nhịp thơ, nhấn mạnh nhịp thơ, đồng thời thể hiện rõ ràng hơn
những cảm xúc thơ.
Lúc thì
vội vàng ra lệnh:
mi xanh // Buồn cứ long lanh
gặp long lanh // thấy mong manh là Buồn
buồn đừng đi! // Buồn đừng tan!
mất Buồn // còn lại tro tàn mà thôi
(Sonnê buồn – Nguyễn Trọng Tạo)
Khi thì
cô đơn ca tức tưởi, tự cười, tự trào bởi những nhịp thơ 4/4, ngăn cách và chia
đôi hai sự đối nghịch của niềm vui và nỗi đau, giữa tiếng cười và tiếng khóc:
Rồi lại cô đơn ca:
Này mình ta hề! // Lạnh lùng một kiếp!
Này hạnh phúc hề! // Cố cười thành khóc!
Này mùa đông hề! // Sống bằng hy vọng!
Này cách xa hề! // Ngàn câu khản giọng!
Và đôi
khi, đó là những cảm xúc rất riêng của nhà thơ, chợt muốn ra dấu im lặng để
lắng nghe âm thanh của cuộc sống, là nhịp thơ gấp nhưng mang hơi hướng dàn trải
nhằm tạo không gian cho sự lắng đọng của tâm hồn:
Mưa rơi //lên bọc trắng
Mưa rơi //lên bọc đen
Có gì khác?
Suỵt
Im lặng!
Hãy bịt tai nghe
Hãy bịt mũi ngửi
Hãy nhắm mắt nhìn
Rất khác!
(Hành xác và thể nghiệm – Ly Hoàng Ly)
Có lúc
lại sử dụng cả ba dấu chấm than, tạo giọng thơ hụt hẫng, nhịp thơ ngắt lại
nhưng cứ muốn dài ra:
Bỗng nhiên
Anh thay đổi!!!
(Sự im lặng - Vi Thùy Linh)
Dấu hai chấm (:)
Khi khảo
sát thơ Việt Nam đương đại, người viết nhận thấy dấu hai chấm xuất hiện khá
nhiều trên các tác phẩm. Dấu hai chấm không những chứa đựng lời giải thích cho
từ - ngữ đứng trước, dấu hai chấm trong các dòng thơ đương đại còn mang vai trò
làm điểm ngắt nhịp cho thơ. Khi đọc những dòng thơ có xuất hiện dấu hai chấm,
người đọc buộc phải dừng lại. Do đó, từ - ngữ sau dấu hai chấm được nhấn mạnh
hơn, nhịp điệu dòng thơ sẽ như ngân vang hơn.
Ta xem xét
hai ví dụ sau:
Ta cưỡi // giấc mơ
Con ngựa ô // bờm dài
Lao qua đồng cỏ
Cỏ nằm đếm vó
Ngửa mặt:// thinh không
(Độc mã – Vi Thùy Linh)
Là khi// tỉnh giấc trong đêm
một mình// ta thấy ngồi bên:// Nỗi buồn
là khi// cạn một ly tràn
đáy ly// ta lại thấy làn mi xanh
(Sonnê buồn – Nguyễn Trọng Tạo)
Ở ví dụ
thứ nhất, nhịp thơ cứ đều đều ở nhịp 4 hoặc 5 đến hết dòng thơ. Riêng câu thứ
5, nhịp thơ được phân thành nhịp 2/2. Nhịp ngắn hơn so với cả đoạn thơ đã khiến
hình ảnh “thinh không” được nổi bật hơn.
Ở ví dụ
thứ hai, các câu thơ đều có nhịp đầu là nhịp 2, nhịp sau là một nhịp kéo dài
(có thể là nhịp 4 hoặc nhịp 5). Riêng dòng thơ thứ hai với sự xuất hiện của dấu
hai chấm, nhịp thơ được chia thành 2/4/2. “Nỗi buồn” đã được nhấn mạnh hơn, tạo
thành trung tâm của tâm trạng thơ.
Dấu chấm lửng (...)
Dấu chấm
lửng chiếm tỉ lệ xuất hiện khá cao (2,85%), có mặt trong đa số các bài thơ
đương đại, tạo chỗ ngắt nhịp dài hơn, lâu hơn, thể hiện những cảm xúc sâu lắng.
Đọc những câu thơ sau của Vi Thùy Linh, ta thấy nhịp thơ nhanh, dồn
dập ở câu đầu bỗng đột ngột chuyển điệu, cảm xúc lắng lại, dàn trải ra ở chuỗi
thời gian “từng ngày” trôi qua một cách nhàm chán:
Đừng bao giờ// xô mùa đông về em!
... Từng ngày...
... Từng ngày...
Liêu phiêu// em đợi
(Đầu tiên và cuối cùng – Vi Thùy Linh)
Hay câu
thơ của Nguyễn Trọng Tạo đang êm ái lướt đi trên nhịp chẵn của câu 6, đến câu 8
bỗng khựng lại ở cách ngắt nhịp 2/2/3/2. Nhịp thơ trải ra, rồi dừng lại ở nhịp
thơ lẻ, vừa có tác dụng nói lên sự nhớ nhung tha thiết nhưng chưa được gặp khi
chờ đợi người yêu, vừa có tác dụng làm nổi bật danh từ “Em” khi nó chỉ đứng một
mình:
Bao nhiêu chờ đợi// trên đời
Bỗng dưng// anh hiểu// khi ngồi đợi... //Em!
(Đợi – Nguyễn Trọng Tạo)
Dấu chấm
lửng còn thể hiện sâu lắng cảm xúc của nhà thơ, tạo một vòng quay tuần hoàn cho
nhịp thơ và cho ý thơ:
Nỗi đau // lịm dần... //lịm dần
Nỗi đau //gượng dậy... //gượng dậy
Trong những tia cười dao sắc// và thơ
(Mười một khúc cảm – Nguyễn Quang Thiều)
Dấu gạch nối (-)
Dấu gạch
nối xuất hiện với tỉ lệ 1,59% so với số lượng dòng thơ đã khảo sát trong thơ
Việt Nam đương đại, nhất là trong thơ của Vi Thùy Linh. Ngoài chức năng ngắt
nhịp trong thơ, ở mỗi vị trí, mỗi ngữ cảnh khác nhau, dấu gạch nối thể hiện cảm
xúc của nhà thơ, tác động trực tiếp đến giọng điệu thơ.
Nó có thể
nhấn mạnh từ giữa hai dấu gạch nối, bởi nó tạo ra nhịp thơ đơn cho từ đó:
Vục tay xuống lòng sông//, tôi dâng lên// xòe rộng
Phù sa nhiễu dài //– MÁU// – chầm chậm// và rên rỉ
Vục tay xuống lòng sông//, tôi dâng lên//, xòe rộng//, ban mai túa
đầy
Mí mắt tôi// bơ thứ ba màu mỡ // bóng tối chuyển động
(Chiếc bình gốm – Nguyễn Quang Thiều)
Trong bài
“Thèm chồng” của Vi Thùy Linh, dấu gạch nối
tách dòng thơ 5 chữ thành nhịp 1/1/1/1/1, giọng điệu nhấn mạnh, như muốn giẫm
đạp vào hiện thực từng bước mạnh mẽ để xác định được rằng “mình đang sống”:
Đầu rỗng
Tôi // tập Chết
Để - //biết – //mình – //đang –// sống
(Thèm chồng – Vi Thùy
Linh)
Trong bài
thơ “Thở” thì đó lại là dấu gạch nối tạo
ra một dòng ngăn cách cho từng cặp hình ảnh thơ đối lập nhau. Nhịp thơ được
dừng lại ở từng hình ảnh một:
Những bộ quần áo// mới// –// cũ,// phẳng// – //nhàu// cùng đối thoại
(Thở - Vi Thùy Linh)
Hoặc
trong thơ Nguyễn Trọng Tạo, nó lại là phương tiện vừa chia cắt thành phần câu,
vừa tạo thành hai cột dọc của sự so sánh. Nhịp thơ chẵn được phát triển dần dần
theo mô hình: 2/4 - 2/4 - 2/6 vừa tạo được nhạc tính nhẹ nhàng êm ái cho thơ,
vừa đẩy cảm xúc thơ lên tầng mới mạnh mẽ hơn với sự dài hơn của nhịp 6 ở câu
cuối:
khát nước – //mời cạn ly đầy
khát men – //mời cạn rượu này
khát tình – //uống cạn //tháng ngày buồn tênh
(Ý nghĩ – Nguyễn Trọng Tạo)
Vai trò của nhịp
trong thơ Việt Nam đương đại
Nhịp
trong thơ Việt Nam đương đại không bắt buộc tuân thủ theo một khuôn nhịp nào,
mà là nhịp lòng, là cảm xúc của tác giả. Vì thế, vai trò đầu tiên của nhịp thơ
là góp phần diễn tả vận động đời sống tâm hồn, gia tăng cảm xúc thơ. Đó là nhịp
tự do của trái tim đương đại, là nhịp của chủ thể, biểu hiện rõ ràng cá tính
của chủ thể, bộc lộ tư duy và cảm xúc sống động của chủ thể. Cách ngắt nhịp
thường gắn với các trạng thái cảm xúc và cảm hứng sáng tạo của con người. Với
mỗi cách ngắt nhịp khác nhau sẽ có các tiết tấu, cung bậc khác nhau cho câu
thơ. Nhịp thơ ngắn tạo điệu thơ thanh, dồn dập. Nhịp thơ dài tạo sự dàn trải.
Nhịp chẵn tạo cảm giác bình yên, phẳng lặng. Nhịp lẻ tạo sự trúc trắc, gập
ghềnh,...
Ví dụ như
trong bài “Đồng dao cho
người lớn” của
Nguyễn Trọng Tạo, với cách ngắt nhịp từng cặp chẵn 2/2/2/2 hoặc 4/4 tạo ra sự
chia cắt, phân đôi, giống như sự chênh vênh của tác giả giữa cái “có” và cái
“không”. Trong thơ 8 chữ, nhịp thơ sẽ nhanh hơn, khó biểu đạt những ẩn ý đối
chiếu, so sánh. Nhưng cách ngắt nhịp chẵn đã thể hiện được cái u uẩn, nhòe mờ
trong tư tưởng tình cảm tác giả khi viết về cuộc sống phức tạp, ngổn ngang:
có cha// có mẹ// có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn// nào phải
mâm xôi.
có cả đất trời // mà không nhà ở
có vui nho nhỏ// có buồn
mênh mông.
mà thuyền vẫn sông// mà xanh vẫn
cỏ
mà đời vẫn say // mà hồn vẫn gió.
có thương// có nhớ// có khóc// có cười
có cái chớp mắt// đã nghìn
năm trôi.
Vì là nhịp của tâm hồn nên nhịp thơ có nhiệm vụ điều chỉnh ngữ điệu,
ngữ nghĩa cho thơ. Nhịp tạo ra nghĩa mới theo nhịp điệu tâm hồn, tạo những
nghĩa mà bản thân từ vựng không diễn tả hết.
Ví dụ, những bậc thang trong thơ Vi Thùy Linh đã tạo ra nhịp
1/1/1/10. Nếu hình thức thơ tương ứng hình ảnh rơi của nhân vật trữ tình thì nhịp
thơ vang lên lại dừng lại ở từng âm tiết một, nhấn mạnh hình tượng rơi từ trên
cao xuống, không điểm tựa, không gì níu kéo, và rơi xuống một không gian rộng lớn,
lạc lõng:
Con
rơi
xuống
dòng sông đỏ đang chuyển dịch bóng những vì sao
(Những đối lập – Vi Thùy Linh)
Trong thơ
đương đại, sự xuất hiện của vần thơ không nhiều. Do đó, vai trò kết cấu, tổ
chức văn bản thơ và tạo nên giọng điệu, tính nhạc cho thơ của nhịp càng được
nhấn mạnh hơn. Những cách thức ngắt nhịp bằng hình thức thơ bậc thang, bằng
hiện tượng vắt dòng hay điệp cấu trúc là những yếu tố tạo mối liên hệ giữa nhịp
thơ dòng trước và nhịp thơ dòng sau. Từ đó, tạo sự liên kết ý thơ và tạo nên âm
hưởng bao quát cả bài thơ.
Sự tự do
trong hình thức văn bản thơ của thơ đương đại dẫn đến sự tự do của vần và cả
của nhịp điệu thơ. Trong thơ đương đại, nhịp thơ không còn bị ràng buộc chặt
chẽ bởi những khuôn khổ mà tồn tại tự do trong tổ chức câu thơ, đoạn thơ và bài
thơ, do cảm xúc của nhà thơ chi phối. Nhịp thơ đương đại phong phú, đa dạng và
linh hoạt trong cách ngắt nhịp. Đó chính là nhịp điệu diễn xuất, phụ thuộc vào
sự sáng tạo, cách tân của người sáng tác.
Từ sự chi
phối của cảm xúc người viết, nhịp thơ đương đại được ảnh hưởng bởi những hình
thức ngắt nhịp hiện đại trên ba cơ sở chính: hình thái văn bản, cú pháp và dấu
câu. Trong đó yếu tố vắt dòng, điệp cú pháp chiếm tỉ lệ cao trong việc quy định
nhịp thơ. Ngoài ra, khác với thơ truyền thống vốn dĩ hạn chế sự xuất hiện của
các loại dấu câu (trừ dấu phẩy), thơ đương đại có gần 1500 dấu câu trong 17169
dòng thơ. Đây chính là một sự đổi mới hình thức của thơ đương đại, là cơ sở
giúp tổ chức nhịp thơ chặt chẽ, nhịp nhàng hơn trong những câu thơ tự do và thơ
văn xuôi.
hãng bay eva
ve may bay eva di my
hãng máy bay korean airline
vé máy bay đi mỹ giá rẻ nhất
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich
eva air vn
giá vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
lịch bay của korean airlines
mua ve may bay di my hang korea
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich