Nền tân nhạc Việt Nam
Bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX
Bối cảnh ra đời
của tân nhạc là Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Đây là giai đoạn có nhiều
thay đổi trong nghệ thuật văn học Việt Nam nói chung. Tân nhạc xuất hiện sau
phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.
Sau Thế chiến
thứ nhất, ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp tư sản. Chủ
nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam gây
nên những xáo trộn lớn trong xã hội. Nhiều giá trị tư tưởng bền vững mấy ngàn
năm trước đó lại bị giới trẻ có Tây học xem thường, thậm chí trở thành đối
tượng để mỉa mai của nhiều người. Một tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị hình
thành.
Giai cấp tư sản
và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có một lối
sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà
lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư
sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần
áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi
về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng
mạn Pháp.
Giống như những
nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng
mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền chiến chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Giai đoạn tượng hình
Giai đoạn trước
1937 được xem là giai đoạn chuẩn bị của Tân nhạc. Trong bài Lịch sử Tân nhạc
Việt Nam nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là "giai đoạn tượng hình".
Còn Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là "thời kỳ đi tìm nhạc
ngữ mới".
Âm nhạc của
châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là
những bài thánh ca của nhà thờ. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm
nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó người dân được làm quen với "nhạc
nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giầu có ở thành phố được tiếp xúc
với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây.
Từ đầu thế kỷ
20, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78
vòng rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu
chơi mandoline, guitare và cả violon, piano.
Thời kỳ này một
số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là "bài
tây theo điệu ta". Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi,
tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên và
soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong
các vở sân khấu như: Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói
trái tim, Tango mystérieux trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ chung
tình... Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là Hoài tình rất được ưu
chuộng.
Không chỉ các
nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài
hát của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... mà họ yêu
thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của
người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời
gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à
Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime
éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola,
Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella...
mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như
Goodbye Hawaii, South of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca
tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô
danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt được giới trẻ yêu thích, đã có những hội
Ái Tino được thành lập ở Hà Nội, Hải Phòng.
Từ giữa thập
niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng
tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, ba thành viên của nhóm Tricéa đã viết nhiều
ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn
trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung. Tại
Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản Trên sông Hương năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng
cũng có Xuân năm xưa năm 1936.
Giai đoạn từ
1935 tới 1938 được nhạc sĩ Phạm Duy gọi là "thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc
Việt Nam".
Giai đoạn thành lập 1938-1945
Năm 1938 được
coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của Tân nhạc Việt Nam với những buổi
biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Nhạc sĩ Nguyễn
Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Ái nhạc
(Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đoạt được cảm tình của báo chí và
radio. Năm 1937 ông phổ một bài thơ của bạn ông và viết thành ca khúc đầu tiên
của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có
đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới
thiệu ông với Thống đốc của Nam Kỳ (Cochinchine). Thống đốc Nam Kỳ khi đó
Pagès[1] nghe ông hát và mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng
Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại đề nghị và được
thống đốc Pagès tài trợ đi một vòng Việt Nam tới Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên
cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musique renovée).
Tới Hà Nội vào
tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc
vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một
phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn
nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là
thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn ở đây.
Tại hội Trí Tri
Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người,
nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một
vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân
kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu
bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong
bài Bông cúc vàng.
Tiếp đó tháng 9
năm 1938, tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín khi ấy, cho đăng những
bản nhạc đầu tiên Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bình minh của
Nguyễn Xuân Khoát, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh,
Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc...
Nhạc tiền chiến
Sau thành công
của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ của báo chí, nhiều nhóm nhạc
được thành lập và các nhạc sĩ phổ biến rộng rãi những tác phẩm của mình. Và
ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ tài năng đã ghi dấu ấn với các nhạc phẩm trữ
tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ nền tân nhạc Việt Nam giai
đoạn này, phổ biến nhất là "nhạc tiền chiến". Dòng nhạc tiến chiến
còn kéo dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam.
Những bài hát
cải cách nhanh chóng được giới trẻ sinh viên, trí thức ái mộ đón nhận, tuy vậy
nó cũng gây nên nhiều ý kiến khác nhau. Các trí thức phong kiến thì chỉ trích
còn giới dân nghèo thì thờ ơ. Với phong cách trữ tình lãng mạn, các ca khúc
tiền chiến có lời ca mang tính văn học cao. Ngoài các ca khúc về tình yêu, chủ
đề lịch sử, yêu nước là những đề tài chính của nhạc tiền chiến.
Các nhóm nhạc
Vì nhà cầm
quyền Pháp không cho mở lại trường dạy nhạc Conservatoire français
d'Extrême-orient, nên trước sự phát triển của phong trào âm nhạc cải cách, có
hai tổ chức đào tạo nhạc sĩ ra đời. Đó là Hội Khuyến Nhạc với người đứng đầu là
Nguyễn Văn Giệp và Nhạc Đường Học Xá của Lưu Quang Duyệt.
Mặt khác, có
những thanh niên tự học nhạc phương Tây rồi tập trung để cũng thảo luận về âm
nhạc, với những sinh hoạt văn nghệ có tình chất "salon". Trong số này
có hai nhóm nổi danh nhất là nhóm Tricéa và nhóm Myosotis.
Nhóm Tricéa
được thành lập từ rất sớm với ba thành viên Lê Yên, Văn Chung và Doãn Mẫn. Họ
đã có những sáng tác từ trước khi Nguyễn Văn Tuyên ra Hà Nội quảng bá nhạc cải
cách. Nhóm đã để lại nhiều ca khúc giá trị như Văn Chung với Bóng ai qua thềm,
Lê Yên với Bẽ bàng, Ngựa phi đường xa, Xuân nghệ sĩ hành khúc và thành công hơn
cả là Doãn Mẫn với Biệt ly, Hương cố nhân.
Nhóm Myosotis
với hai thành viên chính là Dương Thiệu Tước và Thẩm Oánh. Myosotis có chủ
trương sáng tác rõ rệt: Thẩm Oánh với nhạc theo âm hưởng dân tộc và Dương Thiệu
Tước với những sáng tác theo ngữ nhạc Tây Phương. Giai đoạn này Myosotis rất
nhiều nhưng về sau ít được nhắc tới. Tồn tại một thời gian, Myosotis không còn
là một nhóm thuần nhất. Các thành viên chia tay, tiếp tục đi theo con đường
sáng tác riêng. Dương Thiệu Tước tiếp tục với những ca khúc lãng mạn và ghi dấu
ấn trong lịch sử tân nhạc với Ngọc lan, Đêm tàn bến Ngự, Tiếng xưa.
Ở Hải Phòng,
năm 1939, nhạc sĩ Hoàng Quý thành lập nhóm Đồng Vọng. Đồng Vọng quy tụ nhiều
nhạc sĩ tài năng như Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân, Tô
Vũ mở ra dòng nhạc hùng với Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Tiếng chim
gọi đàn, Bóng cờ lau, Nắng tươi, Chiều quê của Hoàng Quý, Về đồng quê của Văn
Cao, Ngày xưa của Tô Vũ. Riêng Hoàng Quý còn một ca khúc trữ tình rất nổi tiếng
là Cô láng giềng.
Một nhóm khác
cũng chủ trương nhạc hùng là Nhóm Tổng hội Sinh viên của Lưu Hữu Phước khởi đầu
trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó sinh viên miền Nam tỏ ra nhiều khả năng
văn nghệ. So với Đồng Vọng, nhạc của Tổng hội Sinh viên mang tính chính trị
nhiều hơn. Nhóm chủ trương dùng tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống
Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước đã viết nhiều ca khúc Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử
sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn sông Gianh... và về
sau trở thành một trong những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc đỏ.
Các nhạc sĩ độc
lập
Ngoài các nhóm
nhạc, ở miền Bắc khi đó còn nhiều nhạc sĩ độc lập hoặc trong những nhóm nhạc
rồi tách ra và ghi dấu ấn riêng.
Nhạc sĩ Lê
Thương là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Khi đó ông dạy học ở Hải
Phòng và có tham gia cùng Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Canh Thân. Thời kỳ này, Lê
Thương đã để lại dấu ấn với các truyện ca như Bản đàn xuân, Nàng Hà Tiên, Một
ngày xanh, Thu trên đảo Kinh Châu và đặc biệt bộ ba ca khúc Hòn vọng phu, được
xem như một nhạc phẩm bất hủ của tân nhạc. Về sau Lê Thương di cư vào miền Nam,
tiếp tục sáng tác các ca khúc thể loại khác như thiếu nhi, hài hước. Bài Thằng
Cuội của ông trở thành một ca khúc thiếu nhi rất quen thuộc.
Ở miền Bắc,
ngoài Hà Nội và Hải Phòng, Nam Định cũng là nơi có nhiều nhạc sĩ sáng tác tân
nhạc như Hoàng Trọng, Bùi Công Kỳ. Tiêu biểu nhất cho các nhạc sĩ Nam Định là
Đặng Thế Phong. Sớm rời Nam Đinh, Đặng Thế Phong lên Hà Nội và học dự thính tại
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Sau đó, đầu năm 1941 ông vào miền Nam rồi
sang Nam Vang mở một lớp dạy nhạc rồi lại quay về Hà Nội và mất ở Nam Định vào
năm 1942 khi 24 tuổi. Đặng Thế Phong chỉ sáng tác ba nhạc phẩm và cả ba đều nổi
tiếng: Đêm thu, Con thuyền không bến, Giọt mưa thu. Đặc biệt với hai nhạc phẩm
bất hủ Con thuyền không bến và Giọt mưa thu, Đặng Thế Phong được xem như một
trong những nhạc sĩ tiền chiến tiêu biểu nhất.
Nhạc sĩ Văn Cao
ở Hải Phòng và cũng từng tham gia nhóm Đồng Vọng. Từ năm 16 tuổi Văn Cao đã có
ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu rất được ưu chuộng. Năm 1941, theo lời khuyên
của Phạm Duy, Văn Cao lên Hà Nội. Thời kỳ này, ông đã viết nhưng ca khúc vượt
thời gian như Thu cô liêu, Suối mơ, Bến xuân và đặc biệt Trương Chi và Thiên
Thai. Tham gia Việt Minh, cuối năm 1944, Văn Cao viết Tiến quân ca, ca khúc trở
thành bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh rồi quốc ca của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và quốc ca của Việt Nam hiện nay. Đến năm 1947, ông viết Trường ca
Sông Lô ca ngợi chiến thắng sông Lô. Trương Chi, Thiên Thai và Trường ca Sông
Lô của Văn Cao được công nhận nằm trong số những ca khúc hay nhất của Tân nhạc
Việt Nam.
Một nhạc sĩ nổi
tiếng khác ở Hà Nội là Đoàn Chuẩn. Là một người say mê Hạ Uy cầm, Đoàn Chuẩn
viết nhạc và để lại hơn 10 ca khúc, hầu hết đều nói về mùa thu, trong đó nhiều
bài giá trị như Đường về Việt Bắc, Lá đổ muôn chiều, Gửi người em gái... Nhạc
phẩm Vĩnh biệt của ông cũng được sáng tác trong thời gian đó, nhưng đến cuối
thập niên 1990 mới công bố và được ca sĩ Ánh Tuyết thể hiện.
Nhiều ca khác
của các nhạc sĩ khác cũng ghi dấu ấn cho giai đoạn tiền chiến như Ngày về, Mơ
hoa của Hoàng Giác, Giáo đường im bóng của Nguyễn Thiện Tơ, Em đến thăm anh một
chiều mưa của Tô Vũ, Nỗi lòng của Nguyễn Văn Khánh, Trách người đi của Đan
Trường, Đêm đông của Nguyễn Văn Thương, Ai về sông Tương của Văn Giảng, Trầu
cau của Phan Huỳnh Điểu, Xuân và tuổi trẻ của La Hối, Dạ khúc của Nguyễn Mỹ Ca,
Nhớ quê hương của Phạm Ngữ, Tình quê hương của Việt Lang, Màu thời gian của
Nguyễn Xuân Khoát...
Vào thời kỳ đầu
tiên, Phạm Duy với vai trò ca sĩ trong gánh hát Đức Huy là một trong những
người góp phần phổ biến tân nhạc. Ông là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên
đài Radio Indochine ở Sài Gòn vào năm 1944, mỗi tuần trình bày 2 lần. Phạm Duy
có ca khúc đầu tay Cô hái mơ năm 1942 phổ từ thơ Nguyễn Bính. Sau đó, với rất
nhiều các ca khúc, ông là một trong những nhạc sĩ Việt Nam có sức sáng tác mạnh
mẽ nhất và thuộc nhiều thể loại.
Những giọng ca
khác của tân nhạc thời kỳ đầu có thể kể tới Thương Huyền, tài tử Ngọc Bảo...
Giai đoạn kháng chiến 1945-1954
Từ năm 1945,
tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô và
những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng một số vẫn ở lại trong vùng
kiểm soát của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại
thành phố.
Với đề tài
kháng chiến, ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết Du kích sông Thao, Nhớ chiến khu, Hoàng
Vân có Hò kéo pháo, Văn Chung viết Quê tôi giải phóng, Lê Yên viết Bộ đội về
làng... Ở miền trung có Bình Trị Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thương, Lời
người ra đi của Trần Hoàn, Đoàn vệ quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh
Điểu, Du kích Ba Tơ của Dương Minh Viên... Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ
hơn như Hoàng Việt với Lên ngàn, Nhạc rừng, Nguyễn Hữu Trí với Tiểu Đoàn 307,
Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng, Con kênh xanh xanh của Ngô Huỳnh. Một đề tài
sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca ngợi Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt
Nam. Lưu Hữu Phước đã viết Chào mừng Đảng lao Động Việt Nam, Lưu Bách Thụ viết
Biết ơn Cụ Hồ. Tham gia kháng chiến, Văn Cao đã sửa lời Bến xuân thành Đàn chim
Việt và viết Trường ca Sông Lô, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch.
Các ca khúc này
đánh dấu sự ra đời thực sự của nhạc kháng chiến, hay "nhạc đỏ". Tuy
vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca
khúc lãng mạng và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như Sơn nữ ca của Trần
Hoàn, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình quê hương của
Việt Lang.
Ở các vùng đô
thị thuộc kiểm soát của Pháp, những nhạc sĩ vẫn sáng tác nhạc lãng mạn như Văn
Giảng với Ai về sông Tương, Lâm Tuyền với Tiếng thời gian, Văn Phụng với Mơ
khúc tương phùng... Lê Thương vào miền Nam viết các bản nhạc hài hước, trào
phúng Hòa bình 48, Liên Hiệp Quốc. Ở Hà Nội, năm 1947 Nguyễn Đình Thi viết ca
khúc Người Hà Nội.
Trong giai đoạn
này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951, hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa
nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh[3], Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý
những ca khúc Hội nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm
Duy, Tiếng thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan
Trường...
Giai đoạn 1954-1975
Hiệp định
Genève năm 1954 tạm chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự để chờ tổng
tuyển cử toàn quốc năm 1956. Chính quyền Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa
từ chối thi hành tổng tuyển cử theo hiệp định, hành động này đã chia Việt Nam
thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.
Tại miền Bắc,
nhạc kháng chiến tiếp tục và cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể
loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến
năm 1975 ở miền Bắc. Các ca khúc nhạc đỏ để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến
sĩ, phục vụ chiến tranh, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích
tình yêu lý tưởng cộng sản, cũng có cả những bài hát trữ tình, thể hiện tình
yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng.
Ở miền Nam, với
sự tự do, đa dạng hơn trong sáng tác nghệ thuật, các nhạc sĩ đã viết các ca
khúc thuộc nhiều thể loại. Dòng nhạc tiền chiến được Cung Tiến, Phạm Đình
Chương tiếp tục. Một số nhạc sĩ trẻ như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên
Phương, Vũ Thành An sáng tác các bản tình ca mới. Dòng "nhạc vàng"
xuất hiện với các tên tuổi tiêu biểu Hoàng Thi Thơ, Trúc Phương, Lam Phương.
Văn hóa Âu Mỹ tràn ngập miền Nam dẫn đến sự hình thành dòng nhạc trẻ. Bên cạnh
đó là các phong trào Du ca và dòng nhạc phản chiến. Một nhạc sĩ tiêu biểu cho
dòng nhạc phản chiến này và cả tình ca là Trịnh Công Sơn.
Miền Bắc
Tại miền Bắc,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam, tân nhạc
cũng như điện ảnh, có nhiệm vụ chính là cổ vũ chiến đấu. Dòng nhạc Cách mạng
chiếm vị trí độc tôn, các nhạc sĩ lãng mạn như Văn Cao, Đoàn Chuẩn hầu như
không còn sáng tác. [cần dẫn nguồn] Song song với lớp nhạc sĩ đầu như Lưu Hữu
Phước, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới Doãn Nho, Tô Hải, Hồ Bắc, Huy
Thục, đã xuất hiện một số nhạc sĩ trẻ hơn Trọng Bằng, Cao Việt Bách...
Việc một số
nhạc sĩ được gửi đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc...
và nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các quốc gia Liên Xô và Đông Âu tới Hà
Nội trình diễn đã tạo nên sự ảnh hưởng tới tân nhạc Việt Nam. Bốn chủ đề sáng
tác chính của các nhạc sĩ miền Bắc thời kỳ này là:
* Hồ Chí Minh
Ca ngợi hình
ảnh lãnh tụ được thể hiện qua nhiều bài hát như Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm
Tuyên, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người của Trần Kiết Tường, Ðôi dép Bác của Văn
An, Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ, Lời ca dâng Bác của Trọng Loan, Trồng cây lại
nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận, Ca ngợi Hồ chủ tịch của Văn Cao, Tình Bác sáng đời
ta của Lưu Hữu Phước...
* Phong cảnh và
tâm hồn Việt Nam
Một số ca khúc
như Quảng Bình quê ta ơi của Hoàng Vân, Vàm Cỏ Ðông của Trương Quang Lục, Tây
Nguyên bất khuất của Văn Ký, Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh, Trường Sơn Ðông,
Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh của Nguyễn
Văn Tý, Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long của Huỳnh Thơ, Cô gái Sài Gòn đi
tải đạn của Lư Nhất Vũ...
* Dân tộc thiểu
số
Do hoàn cảnh
chiến tranh, một số nhạc sĩ có những tiếp xúc với các dân tộc thiểu số và đã
viết các ca khúc như Tiếng đàn ta lư (Huy Thục), Cô gái cầm đàn lên đỉnh núi
(Văn Ký), Bản Mèo đổi mới (Trịnh Lai), Em là hoa Pơ Lang (Ðức Minh), Bóng cây
kơ nia (Phan Huỳnh Ðiểu)...
* Kháng chiến
chống Mỹ, giải phóng miền Nam
Tân nhạc với
nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, đây là đề tài chính của nhiều bài hát: Anh vẫn hành
quân (Huy Du), Chào anh giải phóng quân (Hoàng Vân), Lời anh vọng mãi ngàn năm
(Vũ Thành), Bài ca năm tấn (Nguyễn Văn Tý), Lá thư hậu phương (Phạm Tuyên),
Trai anh hùng, gái đảm đang (Ðỗ Nhuận), Bài ca may áo (Xuân Hồng), Hành khúc
giải phóng (Lưu Nguyễn Long Hưng, tức Lưu Hữu Phước), Giải phóng miền Nam
(Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước)... trong đó bài Giải phóng miền Nam được
dùng làm bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
từ năm 1960 tới năm 1975.
Ngoài các ca
khúc phổ thông, nhiều thể loại khác cũng được các nhạc sĩ thể nghiệm. Ảnh hưởng
bởi các màn hợp xướng do các đoàn văn nghệ Liên Xô và Đông Âu trình diễn ở Hà
Nội, một số nhạc sĩ Việt Nam đã soạn các ca khúc cho nhiều bè như năm 1955 có
Hò đẵn gỗ của Đỗ Nhuận, Sóng cửa Tùng của Doãn Nho, Chiến sĩ biên phòng của Huy
Thục, năm 1956 và 1957 có Ta đã lớn, Hò kiến thiết của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng
chim của Lưu Cầu, Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy của Tô Hải năm 1958...
Một số vở thanh
xướng kịch cũng xuất hiện: Vượt sông Cái của Nguyễn Xuân Khoát viết năm 1955,
Nguyễn Văn Trỗi của Đàm Linh theo lời thơ Chu Điền năm 1965. Một vài thể loại
nữa là các ca kịch nhỏ (như Tục lụy của Lưu Hữu Phước), kịch hát nói (Căn nhà
màu hồng ngọc của Hoàng Vân).
Sự xuất hiện
các bộ phim điện ảnh cách mạng cũng dẫn tới nhiều ca khúc cho phim được sáng
tác. Tác giả nhạc phim đầu tiên là Nguyễn Đình Phúc với phim Chung một dòng
sông và Lửa trung tuyến. Tiếp đó tới các nhạc sĩ khác như Trọng Bằng với Cù
Chính Lan, Biển lửa, Hồng Đăng với Hà Nội mùa chim làm tổ, Hoàng Vân với Con
chim vành khuyên...
Miền Nam
Khác với miền
Bắc, ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 các nghệ sĩ về cơ bản được tự do sáng tác
các loại nhạc, trừ nhạc phản chiến,[cần dẫn nguồn] nhạc cách mạng, và các nhạc
phẩm thân Cộng hoặc có xu hướng chống Mỹ nói chung. Cũng như điện ảnh, tân nhạc
ở miền Nam thời kỳ này hình thành một thị trường sôi động. Các dòng nhạc tiến
chiến, tình khúc, nhạc vàng đều có đông đảo người nghe và các nghệ sĩ riêng.
Dòng nhạc tiếng chiến được các giọng ca hàng đầu như Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ
Thu, Hà Thanh, Duy Trác tiếp tục. Nhạc vàng của các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Trần
Thiện Thanh, Lam Phương được các ca sĩ Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh
Tuyền thể hiện. Các tình khúc mới của Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Từ Công
Phụng, Vũ Thành An được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt qua các tiếng hát Khánh
Ly, Lê Uyên, Lệ Thu. Một số ca sĩ, nhạc sĩ, ban nhạc trẻ xuất hiện đánh dấu sự
ra đời của dong nhạc trẻ như Elvis Phương, Nguyễn Trung Cang, Quốc Dũng, Lê Hựu
Hà. Các băng nhạc Sơn Ca, Trường Sơn, Shotguns... được phát hành đều đặn.
Dòng nhạc tiền
chiến
Một số nhạc sĩ
di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng... hoặc từ trước đó như
Lê Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung
Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.
Những nhạc sĩ
này trong khoảng 1954 đến 1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca
khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến. Một số tác phẩm nổi
tiếng như Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng dương của Phạm Đình Chương, Hương
xưa của Cung Tiến. Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và
thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu như Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu, Duy Trác,
Hà Thanh...
Tình khúc
Một lớp nhạc sĩ
trẻ hơn xuất hiện với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường
mượn cảnh mùa thu, mưa... để nói lên tình cảm của mình, những nhạc sĩ này có
cách thể hiện trực tiếp hơn như Vũ Thành An với các Bài không tên, Lê Uyên
Phương với các ca khúc...
Giai đoạn này,
bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác đều đặn những ca khúc giá trị
(Cỏ hồng, Trả lại em yêu, Mùa thu chết...). Còn xuất hiện thêm những nhạc sĩ
với phong cách riêng.
Năm 1965, Vũ
Thành An viết ca khúc đầu tay Tình khúc thứ nhất, phổ thơ Nguyễn Đình Toàn.
Ngay từ ca khúc đầu tiên này, Vũ Thành An được nổi danh. Tiếp sau đó, ông viết
một loạt Bài không tên được đánh số cùng một vài ca khúc có tên như Em đến thăm
anh đêm 30. Những nhạc phẩm của Vũ Thành An được yêu thích rộng rãi ở miền Nam
khi đó, thường xuyên được nghe thấy trong các quán cà phê, trên sóng đài phát
thanh, trong các băng nhạc.
Ngô Thụy Miên
bắt đầu với Chiều nay không có em được viết năm 1963, nhưng đến với công chúng
vào năm 1955. Tiếp theo, ông phổ nhạc cho một số bài thơ của thi sỹ Nguyên Sa
và giành được thành công rực rỡ. Các ca khúc Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Áo lụa
Hà Đông đã ghi dấu ấn của Ngô Thụy Miên trong thời kỳ đó. Năm 1974, Ngô Thụy
Miên thực hiện băng nhạc đầu tay Tình Ca Ngô Thụy Miên gồm 17 tình khúc đã được
viết trong khoảng thời gian 1965 tới 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ danh
tiếng Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan... và nhạc sĩ hòa âm
Văn Phụng, cuốn băng tạo được thành công rực rỡ.
Từ Đà Lạt, đôi
nghệ sĩ Lê Uyên và Phương xuất hiện mang đến cho tân nhạc những sắc thái mới
với các ca khúc khắc khoải, nồng nàn. Bắt đầu từ nhạc phẩm đâu tay Buồn đến bao
giờ viết năm 1960 tại Pleiku, Lê Uyên Phương với những Bài ca hạnh ngộ, Còn
nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng
ta... được giới trẻ nồng nhiệt đón nhận.
Một gương mặt
nổi danh nữa của dòng nhạc này là nhạc sĩ Từ Công Phụng. Khởi sự từ ca khúc đầu
tay Bây giờ tháng mấy, các nhạc phẩm tiếp theo của Từ Công Phụng đều mang không
khi mang mác như Lời cuối, Trên ngọn tình sầu, Mùa xuân trên đỉnh bình yên,
Giọt lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người... Đặc biệt sau 1975 ở hải ngoại, các ca
khúc của Từ Công Phụng còn được biết đến nhiều hơn qua giọng ca Tuấn Ngọc trình
bày rất thành công.
Một số nhạc sĩ
khác cũng viết các tình khúc nổi tiếng rát được ưa chuộng vào thời gian này như
Hoàng Nguyên với Ai lên xứ hoa đào, Cho người tình lỡ, Quốc Dũng với Đường xưa,
Cơn gió thoảng, Nguyễn Ánh 9 với Không, Buồn ơi xin chào mi, Văn Phụng với Yêu,
Tình; Khánh Băng với Sầu đông, Vọng ngày xanh; Y Vân với Buồn, Thôi, Ảo ảnh,
Anh Bằng với Khúc Thụy du, Nỗi lòng người đi; Trần Trịnh với Lệ đá; Nguyễn Văn
Đông với Chiều mưa biên giới, Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp; Phạm Trọng Cầu,
học ở Paris, cũng đã viết Mùa thu không trở lại...
Phạm Đình
Chương cũng có Nửa hồn thương đau phổ từ thơ Thanh Tâm Tuyền rất nổi tiếng, hay
Người đi qua đời tôi phổ thơ Trần Dạ Từ. Lê Trọng Nguyễn nổi danh với Chiều bên
giáo đường, Lá rơi bên thềm và đặc biệt Nắng chiều, ca khúc còn được biết đến ở
Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Hàng Trọng thành công với các bài hát theo
điệu tango Ngỡ ngàng, Lạnh lùng, Tiến bước sang ngang.
Nhạc vàng
Bên cạnh các
tình khúc, dòng nhạc vàng cũng đặc biệt phổ biến. Với các bài hát giai điệu nhẹ
nhàng, đơn giản, dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân.
Trong hồi ký của mình[4], Phạm Duy viết: "Đầu thập niên 70 là lúc Nhạc
Việt, trong phạm vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có sự thành công của những
bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc
vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu
phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho
vài tầng lớp xã hội trong thời chiến."
Từ trước 1963,
các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Lam Phương đã soạn các bản như Gạo trắng trang
thanh, Chiều hành quân... Nhưng phải tới sau 1963, khi nền Đệ nhị Cộng hòa Việt
Nam bắt đầu thì các bài hát về Tình và Lính mới trở nên thực sự phổ biến. Đây
cũng là hai đề tài chủ yếu của nhạc vàng.
Hoàng Thi Thơ
là một nhạc sĩ thành công trong nhiều lĩnh vực. Ông từng là trưởng đoàn nghệ
thuật của Việt Nam Cộng hòa đi trình diễn ở một số nước. Hoàng Thi Thơ cũng
từng tham gia sản xuất điện ảnh với phim Người cô đơn nói về đề tài âm nhạc.
Trên lĩnh vực sáng tác ông viết nhiều bản với âm hưởng dân tộc như Trăng rụng
xuống cầu, Rước tình về quê hương, Tình ca trên lúa, Đám cưới trên đường quê,
các bản tình cảm như Chuyện tình người trinh nữ tên Thi, Đường xưa lối cũ...
Ông còn soạn một vài vở kịch hát Cô gái điên, Ả đào say.
Lam Phương được
biết tới với các bản nhạc tình Bài tango cho em, Em là tất cả, Tình bơ vơ...
hoặc các bài chủ đề khác như Đoàn người lữ thứ, Cho em quên tuổi ngọc, Kiếp
nghèo, Chuyến đò vỹ tuyến...
Các ca khúc với
chủ đề Lính, người tiêu biểu nhất là Trần Thiện Thanh. Vốn cũng là một ca sĩ
với nghệ danh Nhật Trường, ông đã sáng tác và tự trình diễn nhiều bài hát về
hình ảnh người lính Việt Nam Cộng hòa: Biển mặn, Chiều trên phá Tam Giang, Hoa
trinh nữ, Rừng lá thấp, Tâm sự người lính trẻ, Tình thư của lính... Một số ca
khúc khác của ông cũng rất phổ biến như Chiếc áo bà ba, Khi người yêu tôi khóc,
Gặp nhau làm ngơ, Mùa đông của anh. Một tác giả viết về lính khác là Trúc
Phương, tác giả của Đò chiều, Kẻ ở miền xa, Tàu đêm năm cũ, Trên bốn vùng chiến
thuật... và Ai cho tôi tình yêu, Đôi mắt người xưa, Thói đời, Mưa nửa đêm, Tình
thắm duyên quê...
Những bản nhạc
tình bi lụy còn có Châu Kỳ với Giọt lệ đài trang, Được tin em lấy chồng, Sao
chưa thấy hội âm, Con đường xưa em đi. Một vài bản khác rất nổi danh như Người
yêu cô đơn của Đài Phương Trang, . Ngoài ra còn một số ca khúc như Phiên gác
đêm xuân của Nguyễn Văn Đông, Người yêu của lính của Anh Chương, Sang ngang của
Đỗ Lễ, Căn nhà ngoại ô của Anh Bằng...
Giọng ca tiêu
biểu của nhạc vàng, đầu tiên có thể kể đến Duy Khánh. Tiếp theo là ca sĩ Chế
Linh, cũng là tác giả của ca khúc Đêm buồn tỉnh lẻ[5]. Các giọng ca nữ có Thanh
Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh. Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này
cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc
tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
Nhạc trẻ
Vào cuối thập
niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt đầu thâm nhập thị trường miền Nam.
Một số thanh niên trẻ con các thương gia, các học sinh học theo chương trình
của Pháp thường nghe các ca khúc của Mỹ và Pháp. Nhưng phải tới khoảng thời
gian 1963-1965 thì phong trào nghe các ca khúc phương Tây này mới thực sự bành
trướng qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka,
Elvis Presley, The Platters... của Anh như Cliff Richard, The Shadows, The
Beatles, The Rolling Stones... của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan,
Françoise Hardy, Christophe, Dalida... trở thành thần tượng của giới trẻ Sài
Gòn.
Đầu những năm
1960 thì nhạc trẻ trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam. Những ban nhạc
trẻ kích động như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The
Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và
Billy Shane) và một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên
Việt như Elvis Phương, Pauline Ngọc, Prosper Thắng, Julie Quang, Carol Kim...
nổi danh với các bạn nhạc ngoại quốc hát bằng lời Anh hoặc Pháp. Những hộp đêm
Mỹ ngày càng nhiều từ năm 1968 khuyến khích nhiều ca sĩ hát nhạc Mỹ. Nhiều bản
nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng
Giang, Trường Hải... đặt lời Việt.
Không chỉ dừng
lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bạn nhạc kích
động. Một trong những người đầu tiên có thể kể tới là Khánh Băng với Sầu đông,
Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi. Các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Nguyễn Trung
Cang, Lê Hựu Hà cũng là những người đầu tiên Việt hóa thể loại nhạc này.
Tới năm 1971,
đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang
và Nam Lộc tổ chức. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã
đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ. Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp
tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người
nghe, năm 1974 tại sở thú với trên 20.000 khán giả.
Cho tới sau
1975, nhiều bản nhạc nước ngoài vẫn ăn khách trong cộng đồng người Việt ở hải
ngoại. Một vài ca khúc còn được các ca sĩ trẻ trong nước hát, như Bang bang do
Phạm Duy đặt lời Việt được Mỹ Tâm hát lại vào những năm đầu thập niên 2000.
Nhạc phản chiến
Khi cuộc chiến
tranh Việt Nam ngày càng lan rộng, ở miền Nam, không chỉ có các nhạc sĩ sáng
tác các bài hát ca ngợi người lính Việt Nam Cộng hòa mà còn xuất hiện nhiều ca
khúc phản chiến. Người tiêu biểu nhất cho phong trào nhạc phản chiến này là
Trịnh Công Sơn.
Bắt đầu từ
khoảng năm 1966, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn qua tiếng hát Khánh Ly đã
chinh phục giới trẻ, đánh trúng tâm lý chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa
bình. Năm 1968, sau sự kiên Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn tung ra tập nhạc Kinh
Việt Nam. Năm 1969, Trịnh Công Sơn cho ra tiếp tập Ta phải thấy mặt trời, rồi
sau đó là Ca khúc da vàng. Với các ca khúc Nối vòng tay lớn, Bài ca dành cho
những xác người, Gia tài của mẹ... Trịnh Công Sơn kêu gọi mọi người ngừng chiến
tranh, nêu lên một hình ảnh Việt Nam đau thương vì cuộc chiến.
Song song với
nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, sau Tết Mậu Thân năm 1968, mầm mống chống
đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu nẩy nở ở các trường đại học tại Sài
Gòn. Nhạc sĩ Miên Đức Thắng đã sáng tác các ca khúc như Hát từ cách đồng hoang,
Lớn mãi không ngừng. Phong trào học sinh và sinh viên xuống đường xuất hiện
cùng với Hát cho đồng bào tôi nghe, trong đó hai nhạc sĩ tiêu biểu là Trần Long
Ẩn và Tôn Thất Lập. Năm 1971, một tập nhạc khác xuất hiện là Hát cùng đồng bào
ta. Những bài hát xuống đường được giới sinh viên học sinh hát nhiều nhất lúc
đó là: Sức mạnh nhân dân của Trương Quốc Khánh, Tình nghĩa Bắc Nam của Nguyễn
Văn Sanh, Dậy mà đi của Nguyễn Xuân Tấn... Phạm Thế Mỹ cũng viết Hoa vẫn nở
trên đường quê hương, Thương quá Việt Nam.
Phạm Duy cũng
sáng tác một số ca khúc phản đối cuộc chiến tranh Kỷ vật cho em, Chuyện hai
người lính, Khi tôi về, Tình khúc trên chiến trường tồi tệ, Thầm gọi tên nhau
trên chiến trường tồi tệ, Tưởng như còn người yêu... Trong đó ca khúc Kỷ vật
cho em phổ từ thơ Linh Phương trở nên rất nổi tiếng, được các danh ca của Sài
Gòn khi đó như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly hát thường xuyên tại các phòng tra,
vũ trường gây nên các tác động mạnh mẽ tới khán giả.
Lê Hựu Hà cũng
là một người có nhiều sáng tác trong phong trào phản đối chiến tranh tiêu biểu
là bài hát Hãy nhìn xuống chân...
Năm 1966, hai
nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Đinh Gia Lập thành lập phong trào Du ca, là một
đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ cộng đồng, xuất hiện cùng lúc
với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên, học sinh. Chủ tịch phong trào
từ 1967 là dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ và đến năm 1972 được thay thế bởi Đỗ Ngọc
Yến. Trưởng xưởng Du ca do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang điều hành, đến năm 1972
được thay thế bởi Ngô Mạnh Thu. Phong trào được Bộ Quốc gia Giáo dục và Thanh
niên Việt Nam Cộng hòa công nhận chính thức và cấp giấy phép hoạt động trên
toàn quốc kể từ ngày 24 tháng 1 năm 1969.
Du ca quy tụ
khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong
trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Trần Tú, Nguyễn Quyết
Thắng... Phạm Duy cũng có đóng góp trong phong trào du ca với một số bài như
Sức mấy mà buồn, Thôi bỏ đi tám.
Du ca ra đời
đúng lúc mọi người đang đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới
lạ. Những loại nhạc mà phong trào du ca thường sử dụng là Thanh niên ca, Thiếu
nhi ca, Sinh hoạt ca, Nhận thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát ca ngợi tình
yêu con người và thân phận quê hương. Nhiều bài hát của du ca đã trở nên quen
thuộc như Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của
Nguyễn Đức Quang, Hát từ tim, hát bằng hơi thở của Nguyễn Quyết Thắng, Anh sẽ
về của Nguyễn Hữu Nghĩa, thơ Kinh Kha, Xin chọn nơi này làm quê hương của
Nguyễn Đức Quang.
Những ca khúc
trong phong trào du ca có mục đích kêu gọi thanh niên hãy tự hào, tin tưởng và
hy vọng nơi tương lai. Trước năm 1975, phong trào du ca có tác dụng sâu mạnh
đối với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như Con Sáo Huế, Du ca Áo Nâu, Du ca
Lòng Mẹ, Du ca Trùng Dương... Họ trình diễn ở khắp nơi miền Nam khi đó, trong
trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn, hướng đạo, hay
Thanh sinh công, Gia đình Phật tử.
Du ca cũng đã
phát hành một số tuyển tập nhạc như: Tuyển tập Du ca 1, Du ca 2, Du ca 3, Những
bài ca khai phá, Ta đi trên dòng lịch sử, Những điều trông thấy, Những khuôn
mặt Duca, Hát cho những người sống sót, Anh hùng ca, Sinh hoạt ca.
Các nhạc sĩ
khác
Trong thời kỳ
từ 1954 đến 1975, Phạm Duy vẫn là một trong những nhạc sĩ có sức sáng tác mạnh
mẽ nhất và các ca khúc của ông cũng thuộc nhiều thể loại. Tiếp tục những ca
khúc "dân ca mới", Phạm Duy còn sáng tác nhiều tình khúc như Nghìn
trùng xa cách, Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Nha Trang ngày về, Cỏ
hồng, Mùa thu chết, Nước mắt mùa thu... Ông còn có các bài hát Bé ca dành cho
thiêu nhi: Ông trăng xuống chơi, Chú bé bắt được con công, Thằng Bờm, Bé bắt
dế, Đưa bé đến trường, Đốt lá trên sân
Các trường ca
Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam cũng được Phạm Duy viết trong thời kỳ này.
Ngoài ra có thể kể đến Đạo ca, Tâm ca... Trong các phong trào Nhạc trẻ, Du ca,
Nhạc phản chiến Phạm Duy đều có tham gia với nhiều ca khúc.
Trịnh Công Sơn,
ngoài các ca khúc phản chiến, ông là tác giả của rất nhiều tình khúc, giúp ông
trở thành một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ đó và cả sau này.
Từ sáng tác được coi là đầu tay Ướt mi xuất bản năm 1959, Trịnh Công Sơn tiếp
tục thành công với Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Tình xa, Tình nhớ... Cùng với tiếng
hát Khánh Ly, các bản tình ca của Trịnh Công Sơn đã chinh phục giới thanh niên
miền Nam khi đó, trở thành một hiện tượng của tân nhạc.
Một điểm khác
biệt giữa âm nhạc miền Bắc và miền Nam khi đó là trong khi ở miền Bắc, các ca
khúc chỉ được phát trên đài phát thanh, qua các buổi biểu diễn của những đội
văn công... thì tại miền Nam, âm nhạc hình thành một thị trường sôi động với
nhiều hãng băng đĩa. Các ca khúc được phát trên sóng phát thanh, truyền hình,
được trình diễn tại các vũ trường, phòng trà và các đại nhạc hội.
Những người đi
đầu trong việc sản xuất băng đĩa có thể kể đến Phạm Mạnh Cương, Nguyễn Văn
Đông, Tùng Giang... Những băng nhạc Sơn ca, Trường Sơn, Nhã ca, Nhạc trẻ,
Shotguns, Sóng nhạc... được phát hành đều đặn. Với lợi nhuận từ các băng nhạc,
tập nhạc, các nhạc sĩ nổi tiếng có được thu nhập rất cao.
Phòng trà và vũ
trường là hai điểm trình diễn phổ biến của Sài Gòn giai đoạn đó. Những phòng
trà như Đêm Màu Hồng, Queen Bee... là điểm yêu thích của nhiều khán giả nghe
nhạc.
Giai đoạn sau 1975
Trong nước
Nhạc đỏ
Nhạc trẻ
Hải ngoại
Các nhạc sĩ của
Sài Gòn sau 1975 định cư tại nước ngoài vẫn tiếp tục sáng tác và cùng với những
nhạc sĩ trẻ hơn đã tạo nên dòng nhạc hải ngoại.
Những nhạc sĩ
tên tuổi đầu tiên rời Việt Nam khoảng cuối năm 1975. Trong những năm đầu, một
chủ đề sáng tác chính của họ là nỗi nhớ quê hương và Sài Gòn như Nam Lộc với
Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt, Khi xa Sài Gòn của Lê Uyên Phương, Đêm nhớ về Sài gòn
của Trầm Tử Thiêng... Chủ đề thân phận lưu vong cũng được nói đến với Tị nạn ca
của Phạm Duy, Người di tản buồn của Nam Lộc, Ai trở về xứ Việt của Phan Văn
Hưng, Một chút quà cho quê hương của Việt Dũng... Một chủ đề phổ biến nữa là
"phục quốc kháng chiến" nói lên mong muốn được quay trở lại miền Nam
của ca sĩ Nguyệt Ánh.
Từ khoảng đầu
thập kỷ 1980, một số nhạc sĩ sau thời gian cải tạo tại Việt Nam ra định cư ở
nước ngoài. Họ viết nhiều ca khúc tả lại thời gian cải tạo ở Việt Nam như Hà
Thúc Sinh với tập Tiếng hát tủi nhục năm 1982, Châu Đình An với Những lời ca
thép năm 1982... Phạm Duy cũng sáng tác 20 bài lấy tựa là Ngục ca phổ từ thơ
của Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ Tiếng vọng từ đáy vực
Đến giữa thập
niên 1980, các nhạc sĩ bắt đầu bỏ chủ đề "phục quốc kháng chiến" quay
lại viết các bản tình ca. Ở giai đoạn này, những nhạc sĩ tiêu biểu có thể kể
đến Đức Huy với "Và Con Tim Đã Vui Trở Lại", "Đừng Xa Em Đêm
Nay", Trần Quảng Nam với "Mười Năm Tình Cũ", Hoàng Thanh Tâm với
"Tháng Sáu Trời Mưa", Trúc Hồ với "Trái Tim Mùa Đông", Ngọc
Trọng với "Buồn Vương Màu Áo", Trịnh Nam Sơn với "Dĩ Vãng",
"Quên Đi Tình Yêu Cũ" ... Ngô Thụy Miên tại hải ngoại cũng có nhiều
sáng tác, trong đó nổi tiếng hơn cả là Riêng một góc trời viết năm 1997.
eva air vn
giá vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
lịch bay của korean airlines
mua ve may bay di my hang korea
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich