Học làm thơ
Thơ
là một loại hình nghệ thuật của ngôn từ, âm thanh của thơ có vần có điệu nhịp
nhàng. Lời lẽ của thơ ngắn gọn, hàm chứa, súc tích. Một bài thơ hay có thể làm
người đọc rung cảm bởi tiết tấu, bởi nội dung, bởi hình thức thể hiện. Muốn làm
thơ hay, các bạn phải có ý tưởng mới lạ, hoặc cái nhìn mới lạ về những sự vật,
sự việc quen thuộc. Ngoài ra bạn phải có bố cục hay, tìm từ đắt giá. Một bài
thơ lý tưởng, là bài thơ làm cho người đọc có cảm xúc sâu sắc và ấn tượng khó
phai với bài thơ đó.
HỌC LÀM THƠ
TẠI SAO TA CẦN ĐỌC THƠ VÀ LÀM THƠ?
THƠ là một loại hình nghệ thuật của ngôn từ, âm thanh của
thơ có vần có điệu nhịp nhàng. Lời lẽ của thơ ngắn gọn, hàm chứa, súc tích. Một
bài thơ hay có thể làm người đọc rung cảm bởi tiết tấu, bởi nội dung, bởi hình
thức thể hiện.
Giá trị nghệ thuật của Thơ làm người đọc vui thích vì cái
hay, cái đẹp của ngôn từ. Đọc thơ hay, người đọc có xúc cảm nghệ thuật, cảm
nhận được Cái Đẹp Tinh Thần, tạo thói quen nhận thức những giá trị tinh thần
trong cuộc sống, dần loại bỏ khuynh hướng thực dụng, tôn vinh những giá trị vật
chất đơn thuần, khiến con người sa đoạ trong vật chất. Có thể làm thơ hay,
người sáng tác thơ dần làm phong phú tâm hồn mình bởi những quan sát, thấu hiểu
để có thể phô diễn một cách biểu cảm, sâu sắc và tinh tế những tình huống, cảm
xúc trước cuộc đời, từ đó dần nâng tâm hồn mình thăng hoa lên, trên nấc thang
tiến hoá của sự sống.
Về hình thức, Thơ có nhiều thể loại, chúng ta có thể kể đến những
loại thơ đã được biết đến như : Đường Luật (Thất Ngôn Bát Cú), Lục Bát, Song
Thất Lục Bát, Thất Ngôn, Ngũ Ngôn, Tứ Tuyệt v.v..... Sau này chúng ta có
thêm Thơ Tự Do.
PHƯƠNG PHÁP LÀM CÁC LOẠI THƠ
Trước tiên chúng ta đề cập đến một loại hình khá phổ biến
VĂN VẦN
Cần phân biệt Thơ với Văn Vần, vì văn vần chỉ đơn giản là
những câu văn ngăn ngắn, được liên kết với nhau có vần, có điệu nhằm thể hiện
một nội dung nào đó, mà không mang tính nghệ thuật như THƠ.
Ví dụ : Các bài văn vần dành cho trẻ em, ngắn gọn, vui vẻ,
dễ nhớ
Hôm nay trời nắng chang chang
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì
Chỉ mang một cái bút chì
Và mang một mẩu bánh mì con con
Hoặc các bài Ca Dao như :
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi cho tôi mượn cái gàu sồng
Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên
Chúng ta thường gặp các loại bài văn vần như thế và không nên nhầm
lẫn với Thơ
Đường Luật là một loại thơ cổ. Các thi sĩ Việt Nam ngày xưa
thường hay sáng tác theo thể loại này.
Thơ Đường Luật (Có tám câu, mỗi câu có bảy chữ ) tuân theo
các quy định về luật Bằng Trắc , luật Đối Ngẫu và Vần, Nói chung là Niêm Luật.
Luật Bằng Trắc
Bằng là những từ có dấu huyền và không dấu. Trắc là những từ
có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng. Ký hiệu Trắc là T, bằng là B.
Từ thứ hai của câu thứ nhất nếu là T, từ thứ bảy của câu thứ nhất
là B, thì bài thơ là luật Trắc vần Bằng . Ngược lại, từ thứ hai của câu thứ
nhất là B, từ thứ bảy của câu thứ nhất là T, thì bài thơ là luật Bằng vần
Trắc
Từ câu thứ hai đến câu thứ tám, tuân theo quy luật :
Nhất, tam, ngũ bất luận
Nhị, tứ, lục phân minh
Nghĩa là từ ở vị trí một, ba, năm không nhất thiết phải theo luật
bằng trắc. Nhưng từ ở vị trí hai, bốn, sáu buộc phải theo luật cân đối bằng
trắc (Nếu từ ở giữa (số bốn) là Trắc thì hai từ ở vị trí số hai và sáu phải là
Bằng (và ngược lại).
Luật Đối Ngẫu
Trong tám câu của bài thơ thì câu thứ ba và câu thứ tư, câu thứ
năm và câu thứ sáu đối nhau cả về hình thức lẫn nội dung.
Vần
Vần gieo ở cuối các câu một, hai, bốn, sáu, tám thì buộc
phải cùng âm với nhau, hoặc na ná giống nhau. Cuối các câu ba, năm, bảy thì có
thanh ngược lại.
Thơ Đường có thể làm theo các loại :
1/ Luật
Trắc vần Bằng
Đơn cử một bài thơ luật Trắc vần Bằng của Bà Huyện Thanh
Quan
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
T T
B B
T T B
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
B
T
B B
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
B
T
B T
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
T
B
T B
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
T
B
T T
Thương nhà mỏi miệng cái da da
B
T
B B
Ngừng đây ngắm cảnh trời non nước
B
T
B T
Một mảnh tình riêng, ta với ta
T
B
T B
Đối nhau về hình thức
Câu thứ ba và câu thứ tư
B B T T B B T
T T B B T T B
Câu thứ năm và câu thứ sáu
T T B B B T T
B B T T T B B
Đối nhau về nội dung
Câu thứ ba và câu thứ tư
Lom khom đối với Lác đác, dưới núi đối với bên sông
Tiều vài chú đối với Chợ mấy nhà
Câu thứ năm và câu thứ sáu
Nhớ nước đối với Thương nhà, đau lòng đối với mỏi miệng
Con Quốc Quốc đối với Cái Gia Gia
2/ Luật Bằng vần Bằng
Ví dụ : Một bài thơ nổi tiếng của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn
Khuyến
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
B B T
T T
B B
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
T
B T B
Sóng biếc đưa làn hơi gợn tÍ
T
B
T T
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
B
T
B B
Tầng mây lơ lửng trời trong vắt
B
T
B T
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
T
B
T
B
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
T
B
T T
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
B
T
B B
Đối nhau về hình thức
Câu thứ ba và câu thứ tư
T T B B B T T
T B T T T B B
Câu thứ năm và câu thứ sáu
B B B T B B T
Đối nhau về nội dung
Câu thứ ba và câu thứ tư
Sóng biếc đối với Lá vàng; đưa làn đối với trước gió
Hơi gợn tí đối với khẽ đưa vèo
Câu thứ năm và câu thứ sáu
Từng mây đối với Ngõ trúc; lơ lửng đối với quanh co
Trời trong vắt đối với Khách vắng teo
Trong bố cục thơ Đường, hai câu đầu : Giới thiệu đề tài, bốn
câu kế tiếp : triển khai nội dung, hai câu cuối : kết luận.
Thơ Đường Luật là một thể loại thơ khó làm và khó hay, bởi
quy luật chặt chẽ về âm vận, ứng đối và bố cục một bài phải gói gọn trong tám
câu. Thi sĩ nào dám chọn thể thơ này để làm là chấp nhận thử thách tài năng của
mình, nếu thành công (sáng tác được một bài thơ hay) thì điều đó chứng tỏ được
sự tài giỏi và tinh tế trong văn chương của họ.
THƠ LỤC BÁT
Thơ Lục Bát là thể thơ quy định hai câu liên tiếp một câu
sáu chữ, một câu tám chữ và số câu thì không giới hạn. Thơ Lục Bát nổi tiếng
bởi tác phẩm nổi tiếng thế giới “Đoạn Trường Tân Thanh” của Đại Thi Hào NGUYỄN
DU. Thơ Lục Bát là một thể thơ rất dễ làm bởi luật thơ rất đơn giản và tự do.
Do không quy định bắt buộc về số câu trong bài thơ, nên bố cục được “mở” cho
người làm thơ. Ngoài ra, các âm bắt vần cho hai câu không bắt buộc phải khớp với
nhau một cách chặt chẽ, bởi một âm na ná tương tự cũng có thể chấp nhận được.
Nguyên tắc thơ lục bát
Âm của chữ thứ 6 của câu số 6 vần với âm của chữ thứ 6 của
câu số 8. Chữ thứ 8 của câu số 8 vần với chữ thứ 6 của câu thứ 6 tiếp theo. Chữ
thứ 6 của câu thứ 8 tiếp theo vần với chữ thứ 6 của câu thứ 6 kế trên. Chữ thứ
8 của câu thứ 8 này vần với chữ thứ 6 của câu thứ 6 tiếp theo . v.v….
Mô hình thơ lục bát như sau
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6 7 8
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6 7 8
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6 7 8
Trích đoạn thơ Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) của Nguyễn Du
để minh hoạ thơ lục bát
….Đầu lòng hai ả Tố Nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý
Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang………
Qua đoạn thơ trên, chúng ta thấy âm vận trong thơ lục bát
không quá khắt khe. Nếu khi thuận lợi cho ý thơ, có thể sử dụng âm vần nhau một
cách chặt chẽ như : Nga, là – Vân, thần, phân. Nhưng cũng có thể sử dụng những
âm tương tợ để hợp với ý câu, như : mười, vời, ngài…
Thơ lục bát là thể loại thơ dễ làm, nhưng không vì thế mà nó kém
giá trị sử dụng. Với tài văn chương của những thi sĩ hàng đầu, các tác giả vẫn
có thể tạo nên những tác phẩm thơ tuyệt bút.
THƠ THẤT NGÔN
Thất Ngôn là thể loại Thơ mỗi câu có bẩy chữ, số lượng
câu không giới hạn. cách gieo vần trong thơ Thất Ngôn cũng rất đơn giản và
“thoáng” có nghĩa là vần na ná tương tự cũng có thể chấp nhận được, miễn là đọc
lên nghe xuôi tai, không chỏi là được.
Hai câu đầu tiên bắt buộc : Chữ cuối của câu thứ nhất
vần với chữ cuối của câu thứ hai (thường là âm Bằng)
Câu thứ ba,
âm cuối là vần Trắc .
Câu thứ tư, âm cuối là vần Bằng.
Sau đó cứ một câu vần Trắc lại một câu vần Bằng.
MÔ HÌNH THƠ THẤT NGÔN
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
Một bài thơ minh hoạ :
…Dải lụa nào hay áo em bay
Cho lòng ta bỗng ngất ngây say
Tình ơi, em đã bao nhiêu tuổi
Để nhớ để thương suốt tháng ngày
Ai gõ vào tim từng tiếng đập
Cho hồn ta vỡ giấc mơ hoang
Em là Thiên Sứ đem ánh sáng
Từ thuở hồng hoang cõi địa đàng…
THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Giống như thể loại thơ Thất Ngôn, nhưng Thất Ngôn Tứ
Tuyệt là thơ chỉ có bốn câu. Sự khác biệt của thể loại thơ này là
bố cục bài thơ được gói gọn trong bốn câu, còn quy luật thì cũng giống như thơ
Thất Ngôn.
Ví dụ một bài thơ thuộc thể loại này :
Vạn pháp phù du khéo huyễn bày
Vô thường cho đến cả cỏ cây
Trăng non đương độ rồi trăng khuyết
Trong mắt em
Ngàn năm mây bay
THƠ THẤT NGÔN & THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Đây là cách làm thơ phối hợp hai thể loại Thất Ngôn lại với
nhau.
Ví dụ một bài thơ minh hoạ :
TRỞ LẠI
Cho tôi trở lại mái chùa xưa
Với ngói rêu phong đã mấy mùa
Với cả hồ sen hương bát ngát
Với chiều tịch mịch tiếng chuông đưa
Cho tôi trở lại mái chùa xưa
Trở lại dòng sông mát bóng dừa
Trở lại đồi thông vang tiếng gió
Có rặng hoa vàng ngủ giữa trưa
Cho tôi trở lại mái chùa xưa
Dầu đã phong trần trải nắng mưa
Dẫu lớp sóng đời ô tuổi ngọc
Dẫu bao cay đắng nếm chưa vừa
Cho tôi trở lại ngày thơ ấu
Nhặt lá bên hiên quét cổng chùa
Tôi học bài kinh quên từ độ
Xuôi dòng thế tục nếm cay chua
Cho tôi trả lại Người – nhân thế -
Trả những oan khiên, những nợ nần
Trả những lợi danh và phú quý
Trả tình yêu lại kẻ Tình Chân
Cho tôi góp lại muôn lầm lỗi
Làm gói hành trang trở lại chùa
Cho tôi kính cẩn dâng Chư Phật
Lễ vật tâm thành đắt giá mua
Cho tôi xin được yên nghỉ mãi
Dưới rặng thông ngàn vướng vít mây
Cho hồn tôi quyện hồn cỏ dại
Thênh thang cánh gió hướng trời Tây.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ làm theo thể Thất Ngôn Tứ Tuyệt các
khổ thơ còn lại làm theo thể Thất Ngôn.
Song Thất Lục Bát là loại thơ gồm hai câu bẩy chữ, một câu sáu và
một câu tám chữ. Mỗi khổ thơ có bốn câu như vậy và không hạn chế số khổ
thơ. Quy luật và âm vận được phối hợp như sau :
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5
6 7
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6 7 8
Ví dụ hai khổ thơ minh hoạ :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Nào ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống trường thành lung lay bóng nguyệt
Khói cam tuyền mờ mịt thức mây
Bốn lần tên bắn trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh….
THƠ NGŨ NGÔN
Ngũ ngôn là thể loại thơ năm chữ, không hạn chế số câu. Quy
luật thơ như sau :
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
…………..
Chữ cuối của câu đầu là vần trắc, chữ cuối của câu tiếp theo là
vần Bằng. Sau đó cứ một câu vần Trắc, một câu vần Bằng…
Ví dụ minh hoạ :
Mùa Vu Lan năm ngoái
Anh tặng đoá hoa tươi
Em cài lên áo mới
Như mang một nụ cười
Mùa Vu lan năm ấy
Hoa nở ngập đường vui
Em đi trên mộng ước
Như đi giữa giòng đời
Mùa Vu Lan năm ấy
Mắt mẹ vẫn sáng ngời
Như mặt trời rực rỡ
Cho mùa xuân em tươi ....
THƠ TỨ NGÔN
Thơ Tứ Ngôn là loại thơ bốn chữ. Giống như các loại thơ khác, mỗi
khổ thơ gồm 4 câu , nhưng tuỳ theo bố cục bài thơ, ý thơ mà số câu nhiều ít
khác nhau.
Chữ cuối các câu 2, 3, 6, 7,… là âm Bằng và vần với nhau. Chữ cuối
các câu 1, 4, 5, 8, 9, …là vần Trắc. Nói chung, từ câu thứ hai trở đi, cứ
2 câu âm Bằng lại kèm 2 câu âm Trắc…
Quy luật thơ bốn chữ :
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
Ví dụ minh hoạ
Trong phòng hương toả
Khói thuốc nhạt nhoà
Hương khói quyện hoà
Như ta quấn quýt
Anh là khói thuốc
Em thỏi hương trầm
Đôi ta phù vân
Cùng nhau chấp cánh.
THƠ LỤC NGÔN
Thơ lục ngôn là thơ sáu chữ. Quy luật thơ không khó lắm,
nhưng làm theo thể loại này, thơ khó hay, trừ khi nhà thơ phải thật tài năng.
Luật thơ : Chữ cuối các câu 1 và các câu chẵn 2, 4, 6, 8…thuộc âm
Bằng . câu lẻ 3, 5, 7,…thuộc âm Trắc. Chữ thứ tư của câu dưới thường vần với
chữ thứ 6 của câu trên.
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6
1 2 3 4 5 6
Tôi yêu, tôi yêu rất nhiều
Tôi yêu, yêu biết bao nhiêu
Tôi yêu tuổi thơ trong trắng
Tôi yêu ánh nắng mùa xuân
Tôi yêu chùm hoa hoang dã
Tôi yêu câu nói …ngại ngần
Tôi yêu trời xanh màu áo
Tôi yêu tiếng sáo hư không
Tôi yêu giòng sông mây trắng
Tôi yêu một cánh diều say
Tôi yêu bàn tay thân ái
Tôi yêu một chiều mưa bay …
THƠ BÁT NGÔN
Thơ bát ngôn là thơ tám chữ. Cách gieo vần cho thơ giống thơ Tứ
ngôn như sau :
Chữ cuối các câu 2, 3, 6, 7,….âm Bằng, chữ cuối các câu 1,
4, 5, 8, 9…âm trắc .Nói chung, sau câu 2, 3, cứ cách 2 câu âm trắc lại là 2 câu
âm bằng.
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
1 2 3 4
5 6 7 8
Ví dụ minh hoạ
…..Tình như gió bắt đầu cơn bão nổi
Tình như mây báo hiệu trận phong ba
Tình như men thiêu đốt suốt xương da
Tình nồng thắm mặn mà hoa đương độ
Gió đưa thuyền về bến sông kỳ ngộ
Đời đưa ta vào mê lộ tình yêu
Linh hồn ta nhắm mắt để bước liều
Không biết nữa Thiên Đường hay Địa Ngục
THƠ TỰ DO
Thơ tự do là thể loại thơ không quy định bắt buộc số chữ trong
câu, số câu trong một bài, cũng không quy định âm luật cho bài thơ. Vì vậy, thơ
tự do tuỳ thuộc vào sự gieo vần ngẫu hứng của tác giả.
Ngày nay, nhiều người tưởng mình làm “thơ tự do” nhưng thực ra chỉ
là sự ghép nối những câu văn xuôi ngăn ngắn, bởi vì Thơ chỉ được gọi là Thơ khi
đọc lên có vần có điệu, cho dù đó là thơ tự do đi nữa.
Ví dụ minh hoạ :
NẰM BÊN TRÁI
Anh có cái đầu
và một trái tim
Cái đầu ở giữa nhưng trái tim không chịu nằm ở giữa
Cái đầu dùng công lý xét soi
nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó
Nó không cần sự biết điều hợp lý
Nó tự do như gió như mây,
như cánh chim Hải Âu thênh thang trên những dải núi non hùng vĩ
Có những khi cái đầu reo vui
thì trái tim rên rỉ
Cái đầu nói đúng thì nó bảo sai, cái đầu muốn thôi
thì nó bảo rằng cứ nữa
Ôi trái tim
nó che dấu bao nhiêu điều kỳ bí
Mà cái đầu không bao giờ hiểu được đến nơi
Chàng hoa tiêu ở trên phải nghe lệnh ông chủ điên cuồng ở dưới
Bởi vì khi cái đầu bóp nát trái tim
thì có nghĩa là nó theo nhau về nơi chín suối
Khi anh nói yêu em
đó là điều nghịch lý
Nhưng biết làm sao được
vì
tim anh nằm bên trái
Em ơi!
Muốn làm thơ hay, các bạn phải có ý tưởng mới lạ, hoặc cái
nhìn mới lạ về những sự vật, sự việc quen thuộc. Ngoài ra bạn phải có bố cục
hay, tìm từ đắt giá.
Một bài thơ lý tưởng, là bài thơ làm cho người đọc có cảm
xúc sâu sắc và ấn tượng khó phai với bài thơ đó.
Chúc các bạn thành công, sáng tác được những vần thơ tuyệt diệu .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét