Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, người quê ở Bình Định,
học trường Quy Nhơn (1). Ông đến với thi đàn Việt Nam bằng tập thơ Điêu Tàn
(1937) lúc mới 17 tuổi. Đó là tập thơ có chủ đề đặc biệt, cấu trúc độc đáo.
Vào lức nổi danh, tác giả là chàng trai - theo quan niệm chung của các bậc
’’Cha - Chú’’: Đang tuổi ’’Ăn chưa no, lo chưa tới’’. Lẽ ra, Chàng Phan đang
mài đũng quần ở trường lớp chuyên nghiệp nào đó. Hoặc ít ra, cần được vũ
trang lý luận của một ngành chuyên khảo về lịch sử, phải có thời gian sống,
chiêm nghiệm thế thái nhân tình, ’’đào bới’’... ’’quằn quại’’, suy tư - mới
viết được những vần thơ làm người đọc ’’Sốc’’ trước đau thương của cả một thời
đại, một dân tộc, một quốc gia hoàn toàn xa lạ với Phan Ngọc Hoan - giờ chỉ
còn hoang phế.
Đọc Điêu Tàn, người đọc bỡ ngỡ... đến choáng ngợp. Điều
’’kinh hoàng’’ hơn: Chàng Phan còn dụng dậy những hồn ma, làm họ sống động
như những con người thật, đi lại, vật vờ xung quanh đống đổ nát của đền đài,
cất tiếng than khóc cho số phận nghiệt ngả của mình. Chế Lan Viên đã nhập hồn,
hóa cốt vào dân tộc Hời rồi bước lên thi đàn Việt Nam như một biểu tượng
trong dòng Thơ Mới phôi thai - nửa đầu của thế kỷ 20.
Có thể đọc một bài tiêu biểu trong Điêu Tàn - làm thí dụ:
TRÊN
ĐƯỜNG VỀ
Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời...
(Hai dòng này bị kiểm duyệt thời đó cắt bỏ)
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian,
Những sông vắng lê mình trong bóng tối,
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn.
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn,
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ quy!
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận,
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang,
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.
Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm Quốc,
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi,
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp,
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui.
Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng,
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm trơ trên sông lặng,
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành.
Đây, trong ánh ngọc lưu ly huyền ảo,
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng, uyển chuyển uốn mình hoa.
Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi,
Và từ đãy lòng ta luôn tràn ngập,
Nỗi buồn thương, nhớ tiếc giống dân Hời!
(Điêu Tàn - 1937)
Tập thơ ra đời được 5 năm, ngay cả Hoài Thanh nhà biên khảo
có uy tín trên văn đàn Việt Nam - cũng viết: ‘’… Vong linh đau khổ của nòi giống
Chàm đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên dầu không phải người họ Chế,
CLV vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành…’’ (2). Nhiều người cũng phát
triển, nhận định: ‘’… tập thơ (Điêu Tàn) miêu tả nỗi cô đơn của một người
không tìm thấy sự hòa hợp với cuộc đời…’’ (3).
Nếu chúng ta đọc ĐT theo một cách khác: Mở rộng và suy tư
thêm, nhận ra - Nghĩa đen của ĐT đúng là tác giả hướng dẫn người đọc đi vào
thế giới mộng ảo và cảm nhận quá khứ bi thương... Nhưng trấn tĩnh lại, ta chợt
giật mình, nhận ra, ở phía sau - nghĩa bóng của Điêu Tàn: Bao thế kỷ, bao năm
qua, dân tộc Việt, nói giống Việt cũng đã bao phen chèo chống cố thoát ra khỏi
cảnh bi nô lệ, bị dân Hán (…) chiếm đất, phải bồng bế nhau xuôi dòng sông,
chạy xuống sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới là Việt Nam ngày nay. Rồi, đã có
kinh nghiệm của quá khứ làm gương… cho nên quyết không để Người Phụ Mình cho
dù phải bắt buộc Mình Thà Phụ Người để tồn tại. Lịch sử đã ghi lại, chứng
minh: Việt Nam đã từng bị vương quốc Chiêm Thành xâm chiếm… vua nhà Trần phải
mang con gái cưng của mình hiến cho vua Chiêm, để đổi lại sự yên bình cho
dòng tộc Việt ở phía Nam. Trong thời đại thế giới hỗn mang trên nguyên tắc tồn
tại: Mạnh được, yếu thua. Hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ lại bị ép từ hai phía:
Bắc - phong kiến Trung Hoa lăm le thôn tính, lợi dụng cuộc
Huynh - Đệ tương tàn của hai dòng họ: Trịnh - Nguyễn, coi nhà Trịnh như một
tên lính xung kích để chờ thời sẵn sàng hớt tay trên.
Nam - Chiêm Thành luôn luôn xâm lấn, đe dọa…
Không còn đường nào khác, thế là cuộc trường chinh: Dẹp, mở
rộng phía Nam để yên một mặt, chú tâm chỉ chống một kẻ thù phía Bắc - thay vì
chống với cả hai. Đây là hoàn cảnh, là lịch sử. Nếu lần này nữa lại
hành xử như quá khứ: Bồng bế nhau rút chạy? Nhưng bây giờ: chạy đi đâu? Thế
là phải thực hiện quy luật: Cùng tắc Biến (Biến tắc thông). Và, thảm cảnh đã
xảy ra…
Cao hơn, đúng hơn: Chế Lan Viên viết Điêu Tàn chỉ là cách
‘’mượn xác - hoàn hồn’’ - lấy Xưa nói Nay. Tác giả đã đánh thức cả dân tộc bằng
một thông điệp: Dân tộc Việt Nam hãy nhìn gương tấy liếp đây!
Xin bạn đọc hãy chú ý hai câu thơ - thứ 3 và 4 - ở khổ thơ thứ
nhất - Trên Đường Về.
Tôi rất muốn biết: Hai câu thơ đó là thế nào, mà kiểm duyệt
Pháp thời năm 1937 - xóa đi. Chúng ta biết: Từ năm 1936, Mặt trận Bình dân
lên nắm chính quyền ở Pháp. Họ đã mở rộng ‘’thí cho’’ các nước thuộc địa một
số cải cách để dân nô lệ đỡ ngột ngạt. Thế mà hai câu thơ này vẫn bị xóa, chứng
tỏ nội dung của nó rất ’’Dữ dội’’ khiến chính phủ bảo hộ ở A Nam không chịu được.
Chắc chắn hai câu thơ ‘’phạm húy’’… động chạm đến chính sách cai trị của chế độ
thực dân ở thuộc địa. Nếu trước đây sẽ bị hành xử khác. Nhưng còn bây giờ, vì
có chỉ thị từ bên nhà (Pháp quốc), bộ máy kiểm duyệt đành cho cắt bỏ hai câu và
để cả bài thơ vì mất hai câu - đã chuyển hướng theo ý nghĩa khác - vẫn được phổ
biến, để không bị Sếp lớn cho là - bất tuân thượng lệnh!
Thời kỳ đầu Thế kỷ 20 đến cuối những năm ba mươi, Thực dân
Pháp đàn áp các cuộc nổi dậy, chém giết các chiến sĩ cách mạng tràn lan: Hà
Thành Đầu Độc, Ngày Tang Yên Bái, Cần Vương, Đề Thám… Có thể tinh thần phản
kháng đó nằm ở hai câu thơ mà thực dân Pháp nhận ra rồi cắt bỏ. Từ suy nghĩ
phân tích trên, có thể đi đến nhận định: Chế Lan Viên viết Điêu Tàn là có chủ
ý: Khơi dậy trong lòng dân tộc tinh thần chống ngoại xâm. Bảo vệ độc lập chủ
quyền của lãnh thổ. Chúng ta phải phục hiện sự thực, cho dù hơi muộn nhưng muộn
vẫn còn hơn không. Không thể để các thế hệ sau tiếp tục hiểu sai lệch ý tác giả Điêu Tàn, chỉ vì vài ý kiến trước đó hiểu chưa đầy đủ (…) - kéo theo, làm biến
dạng nguyên tác...
Chế Lan Viên là người yêu tổ quốc, đất nước như bao người
Việt Nam khác. Chỉ nói riêng phần thi ca, ông đã viết, làm nổi lên những giá trị, nối tiếp sau Điêu Tàn. Chỉ cần bốn câu thơ trong bài Tiếng Hát Con Tàu đã
đủ, tiếp tục đưa ông lên vị trí thi hào của dân tộc:
‘’…
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua mà chẳng thấy yêu thương
Nơi ta ở - chỉ là đất ở
Nơi ta đi - đất bỗng hóa tâm hồn…’’
Nhà Văn - Nghệ - Sĩ có thể có nhiều cách thể hiện ca ngợi tổ
quốc mình bằng sáng tạo tác phẩm - dài, ngắn. Chế Lan Viên chỉ cần bốn câu thơ
đã nói thay cõi lòng của nhiều người. Tổ quốc - Dân tộc là Đất -
Nước. Đọc lên mọi người cảm nhận ngay bởi mấy từ Đất bỗng hóa tâm hồn. Vì là
tâm hồn nên Đất trở thành thiêng liêng, thân yêu. Đất - chính là Mẹ
hiền, là Tổ quốc Việt Nam!
Phải nghe tiếp những câu thơ hào hùng trong bài: Tổ quốc có
bao giờ đẹp thế này chăng? - xâu chuỗi lại mới thấy rõ chủ ý của Chế Lan Viên
- từ Điêu Tàn, ngược từng cột mốc lịch sử của hôm qua rồi quay trở về hôm
nay: Kêu gọi cả dân tộc đứng lên bảo vệ tổ quốc khỏi họa xâm lăng:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa đâu!
Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất!
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên
trên
sóng Bạch Đằng...
Những anh hùng dân tộc - đứng đầu các cuộc chống xâm lăng
phương Bắc được nhà thơ ghi lại trong từng câu thơ khiến người đọc đương thời
cảm động, trỗi dậy khí thế hiên ngang nhờ oai linh của tổ tiên…
Chế Lan Viên đã để lại cho thi đàn Việt Nam nhiều bài thơ
giá trị, cùng những tác phẩm nhiều thể loại khác. Nhưng ông cũng là người duy
nhất trong làng thơ Việt Nam: Dù đã đi vào cõi vĩnh hằng, dù lúc còn sống các
thi phẩm giá trị chưa được công bố. Giờ, khi tác giả đã trở về với cát bụi,
các thi phẩm tuyệt vời mới được người đời, đọc. Người đọc Việt Nam ngà mũ
kính chào thi sĩ trứ danh của văn chương Việt Nam hiện đại.
Các thi phẩm nổi tiếng công bố muộn màn của Chế Lan Viên -
in trong Di Cảo Chế Lan Viên - chính là ba bài thơ: Ai Tôi - Bánh Vẽ - Trừ
Đi!
AI TÔI?
Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống sót có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó?
Tôi!
Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong
mọi lúc xung phong
Một trong 30 người khi ở mặt trận
về
sau mười năm
Ngồi bán quần trên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy mọi chỗ
Chả Huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ!
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm
Mà tôi xấu hổ!
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay
Tôi có thể cười!...
1987. (Di cảo của Chế Lan Viên)
BÁNH VẼ!
Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui!
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì còn đâu dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì sảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...
(Rút trong tập Văn học và Dư luận, NXB Trẻ TP HCM - Di cảo của Chế Lan Viên)
TRỪ ĐI!
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay...
trước
khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho
được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển.
Giết mưa và giết luôn cả cỏ
mọc
trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi,
không
có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!
(Rút trong tập Di cảo (4) của Chế Lan Viên)
Chú thích:
1. Lấy từ Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942. Theo Bách
khoa toàn thư Việt Nam: Chế Lan Viên sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị (?)
2. Thi Nhân Việt Nam trang 238 - 239
3. Lời giới thiệu của Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam…
4. Di Cảo được Hội nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng văn
chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét