Giống như nhiều người, tôi cũng yêu thích, ngưỡng mộ Nhà
thơ Xuân Sách và tác phẩm Chân Dung Nhà Văn. Tôi quyết định thử làm vai trò của
người nghe, thưởng thức khúc độc tấu của người gẩy đàn tài ba - Xuân Sách
bàng cách THỬ NHẬN DIỆN… Có cả thẩy 100 chân dung. Tôi chỉ cố sức tìm hiểu được
số ít trong đó. Nếu nhận diện chưa đúng, còn có khiếm khuyết - mong bạn đọc bỏ
qua! Trong cuốn Chân Dung Nhà Văn, Thi sĩ Xuân Sách viết (vẽ) -
bức chân dung rồi xếp vào vị trí đầu tiên - đánh số thứ tự - 1. Điều đó nói
lên: Người được vẽ chân dung là một tài năng, có vị trí quan trọng đối
với nền Văn Chương Việt Nam hiện đại. Ta thử tìm hiểu - nhận diện xem bức chân dung này là ai? 1. Xung Kích tràn lên, nước Vỡ Bờ Đã Vào Lửa đỏ hãy còn mơ Bay chi Mặt trận Trên cao ấy Quên Chú Nai Đen, vẫn đứng chờ! Các cụm từ: Xung Kích, Vỡ Bờ, Mặt Trận Trên Cao. Vào
Lửa. Con Nai Đen làm tôi liên tưởng tới hình ảnh một tác giả còn có những tác
phẩm nổi tiếng khác: Nguyễn Trãi ở Đông quan (Kịch nói), Bài Ca Hắc Hải (trường
ca), bài thơ Đất Nước, Người Hà Nội, Diệt Phát Xít (nhạc): Đó chính là
NGUYỄN ĐÌNH THI - Tổng thư ký Hội nhà văn Việt nam - ’’Người hùng’’ của Nền
Văn - Nghệ Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa - đương đại! Nguyễn Đình Thi có thực tài, tinh thông nhiều lĩnh vực
trong Cầm, Kỳ, Thi… thơ. Ở lĩnh vực nào ông cũng được dư luận xếp hạng xuất sắc. Lẽ ra, ông xứng đáng được nhận trọng trách cao hơn nữa. Phải
chăng có những lý do đặc biệt nào ảnh hưởng tới việc bổ nhiệm, đề bạt
này? Dư luận cho rằng, nguyên nhân ảnh hưởng tới bước quan lộ của
NĐT là từ câu chuyện tình riêng tư - của ông: Đầu những năm 50 của thế kỷ
20 - Nguyễn Đình Thi được cử dẫn đầu đoàn đại biểu thanh niên Việt Nam
đi dự Đại hội liên hoan thanh niên, sinh viên thế giới. Ở đây ông gặp nữ văn
sĩ, nhà báo người Pháp - bà Ma dơ len Rip pho. Trai tài, gái sắc, hai người
yêu nhau. Nguyễn Đình Thi không được ''tổ chức’’ cho phép. Thời kỳ đó, và nhiều năm sau này, cán bộ - thậm chi dân thường
- nếu được cử đi nước ngoài công cán, học tập, lao động, ’’lỡ’’ yêu thương
người thuộc sắc tộc, quốc gia khác - đều bị coi là ’’tộí’’, Nếu ’’trầm trọng’’,
bị ''tổ chức'' trừng phạt: Đuổi về nước, ghi lý lịch. bị quy cho Tư tưởng tiểu
tư sản - Tạch Tạch Sè (biến âm viết tắt TTS). Đến mức này, ’’nạn nhân’’ coi
như ''xong'', suốt đời không ngóc đầu lên được. Chuyện ngăn cấm ’’yêu sâu đậm’’ làm giới trẻ hậm hực, phản ứng.
Song, tất cả đều im re, hoặc chỉ dám thì thào trong bóng tối. Tuy vậy, lớp trẻ
- không cam chịu. phản ứng bằng bài thơ (khuyết danh): Văn minh như thể nước Nga Người ta chẳng cấm thò ra thụt vào. Lạc hậu dù đến thể nào Cũng chẳng cấm đoán thò vào thụt ra. Anh hùng như thể nước ta Cớ sao lại cấm thò ra thụt vào? Sáu câu thơ có ba câu hỏi kèm dẫn chứng: - Nước Văn minh - Chẳng hề Cấm! (Thò ra thụt
vào) - Nước lạc hậu - Cũng không Cấm! (thò vào thụt ra) - Nước anh hùng - Cớ sao Cấm? (Thò ra thụt vào) Đọc lên, ta thấy vui, thâm thúy đến cay độc. cười trong
chua xót... Hai từ thò ra thụt vào... thò vào thụt ra cứ lặp đi lặp lại,
cò cưa, ký cưa... khiến người nghe mường tượng ra: Miệng một cái hang xuất
hiện đầu con rắn, thấy bên ngoài im im... nó đưa đầu, lưỡi lo le từ trong
hang thò ra quan sát để hành động... Chợt bên ngoài có tiếng động... động mạnh... đầu rắn vội thụt
vào nhanh để tránh... đòn. Chỉ được một lúc, động tác của cái đầu con rắn lặp lại... Cứ
thế... cứ thế... Hừ... quái quỷ thật: Thò ra thụt vào... thụt vào... thò ra -
Hê... hê... hê - Người đọc - cả già lẫn trẻ, cả Nam lẫn Nữ - đều phá lên cười,
vui. Chuyện quan hệ nam nữ - thời kỳ nửa thế kỷ trước - bị cấm
đoán đến cay nghiệt. Giới trẻ chất vấn ''Trên'' nhưng không có câu trả lời,
việc ’’Cấm’’ cứ tiếp tục! Bị ’’thiệt hại’’ nhiều nhất là Văn Nghệ Sĩ!. Nguyễn Đình Thi là một trong những ’’công thần’’ của chế độ
trên lĩnh vực Văn Nghệ, chắc không bị phê bình, nhưng mối tình ''Pháp - Việt
đề huề'' không thành, mặc dù người phụ nữ ông yêu cũng là một nữ đảng viên Đảng
Cộng Sản Pháp! Vào khoảng đầu những năm sáu mươi (TK20), trong tuyển tập
thơ Tình Yêu của nhà xuất bản Thanh Niên, Nguyễn Đình Thi cho in một bài thơ
có tựa đề - NHỚ. Đầu bài thơ ông viết - ''Tặng M...''. Tiếp sau đó là ba khổ thơ chứa chan tình cảm, tình yêu
thương nồng cháy: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cây. Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người! Việt Bắc 1951 N.Đ.T Chữ M có nghĩa là Em - người Nguyễn Đình Thi yêu! Cũng có nghĩa là chữ đầu M - tên ''nàng'' Madlen Rippho! Có thể trong tận đáy sâu tâm hồn, ông Thi không vừa lòng với
cách ‘‘Ngăn cấm‘‘ của ''lãnh đạo''. Nhưng đó là nguyên tắc tổ chức đành chấp
nhận. Trong khoảng 25 năm từ 1960 - 1985, những tác phẩm nổi tiếng với nhiều
thể loại của nhà văn lần lượt ra đời. Trong số đó, phải kể đến hai vở kịch:
Con Nai Đen và Nguyễn Trãi ở Đông Quan có nội dung ’’gai góc’’, bị giới phê
bình cho là ''có vấn đề’’ . Những ’’lính gác trung thành của lâu đài văn
hóa Việt’’ - thẳng tay… ’’phang’’ - dù đó là tác phẩm của Tổng thư ký Hội nhà
văn. Đặc biệt vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan, do đạo diễn
nổi tiếng - Nguyễn Đình Nghi, (con trai cụ Thế Lữ) - dàn dựng. Khi đoàn kịch
nói trung ương đang tập dượt diễn thử, dư luận đã nổi lên như sóng cồn. Giới
trí thức - văn nghệ sĩ thủ đô - lúc đó đặt vè: ''Nguyễn Đình Thi với Đình Nghi Mượn đời Nguyễn Trãi nói gì với ta?'' Không ai có thể phán quyết được vấn đề Nguyễn Đình Thi đặt
ra. Vở kịch gián tiếp phê phán lớp người già tham quyền cố vị... nói lên nỗi
lòng nhiều ''công thần của chế độ'', hiện đang thất sủng, bị chèn ép. NTƠĐQ động
chạm khía cạnh giống như Nguyễn Trãi - sau khi giúp Lê Lợi dựng nghiệp lớn, về
cuối đời bị vạ ''Lệ Chi Viên'' (1)... Đích thân ông Trường Chinh - lúc đó là ủy viên Bộ chính trị,
Chủ tịch ủy ban thường vụ quốc hội - nhân vật được xếp hàng thứ hai, sau Tổng
bí thư Lê Duẩn (dù chỉ là trên danh nghĩa, hình thức) - yêu cầu
xem vở diễn. Đoàn kịch nói Trung Ương được lệnh tổ chức diễn ở nhà hát Lớn Hà
Nội cho ông Trường Chinh và Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương, duyệt. Khi xem xong, có thể ’’ngầm’’ đồng ý với Nguyễn Đình Thi,
nhưng, tình hình, thời thế... ’’Người anh cả của nền Văn học - Nghệ thuật nước
nhà’’ - như lời của một nhà lý luận hàng đầu tôn vinh - ông Trường Chinh vẫn
phải đành gạt bỏ vở kịch, ra lệnh cho Bộ Văn Hóa ’’không phổ biến’’. Nguyễn
Trãi ở Động Quan bị ''xếp kho'' nhiều năm. Sau sự kiện này, Ông NĐT buồn, có ý định ''rửa tay gác...
bút''… Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 3 (1983) nhóm họp, Nguyễn
Đình Thi lại được chỉ định ứng cử và lần này ông lại trúng cử Tổng thư ký.
Trong hôm ra mắt ban chấp hành mới, bế mạc đại hội, trước màn ảnh nhỏ, khán
giả cả nước được nghe Tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam xúc động - tuyên bố:
''... Chúng ta là những nhà văn, nhưng là những hạt bụi lấp
lánh ánh sáng của đảng''! Câu nói của ông Thi được bà con ta ghi nhớ! Nhiều nhà văn không đồng tình. Nhà văn là Kỹ sư tâm hồn, là người làm công việc cao
quý: Phản ánh, ghi chép lịch sử của dân tộc, của đất nước dưới hình thức,
qua thể loại có tính đặc thù: Văn học - Nghệ thuật. Nhà văn phải là người tham gia cải tạo xã hội, dự báo cho
dân tộc - (ngay cả cho Đảng) - những khả năng mới sẽ xảy ra để dân tộc và Đảng
điều chỉnh, hành động, đưa đất nước tiến lên… Nếu chỉ dựa và lựa ánh sáng… của
Đảng để ’’lấp lánh’’, nhà văn đó cũng sẽ không được ngay Đảng - cần. Họ phải
bằng tài năng của mình thể hiện bản lĩnh thông qua các sáng tác văn học - nghệ
thuật có giá trị nhân văn - nghệ thuật đích thực. Đó mới là chức năng của nhà
Văn chân chính. Chỉ chờ để ’’lấp lánh’’ trong từng thời điểm, thì… Dân tộc,
Xã hội và Đảng - cũng sẽ không cần loại nhà văn đó! ''Những kỹ sư tâm hồn Việt Nam'' cảm thấy người đứng đầu tổ
chức đã công khai hạ thấp nhân phẩm của họ. Theo Bùi Minh Quốc trong bài
''Vài kỷ niệm làng văn bị trói'', kể lại câu chuyện điển hình về sự ''phảng ứng''
của giới cần lao và trí thức Văn Nghệ Sĩ trước câu tuyên bố của Tổng thư ký -
Nguyễn Đình Thi: ''... Hôm sau (hôm Nguyễn Đình Thi nói trên truyền hình)
tình cờ tôi gặp nhà sử học Trần Quốc Vượng. Ông Vượng cứ nhìn tôi bằng cặp mắt
như thể tôi là Nguyễn Đình Thi, rồi tặc lưỡi mà bảo: Nhà văn các ông... hừ...
việc gì phải thế?... Một anh bạn tôi - (vẫn lời kể của BMQ) - bên ngành giáo dục,
nhà gần chợ Bắc Qua, kể với tôi rằng, có một cô gái buôn gà thường ghé sang
nhà anh xem nhờ tivi (2) - hôm tường thuật lễ bế mạc đại hội nhà
văn cô ta cũng xem. Khi xem xong đoạn ông Nguyễn Đình Thi hùng hồn tuyên bố
câu ấy (...) cô gái đã hồn nhiên bật ra một lời bình phẩm (bặm trợn, dân giã,
chợ búa): Gớm, ''cậu'' đéo ’’lào’’ (nào) mà ’’lịnh’’ (nịnh) thế?''. Nguyễn Đình Thi đã để lại cho nền Văn học - Nghệ thuật Việt
Nam gia tài sáng tác khá đồ sộ, góp phần làm phong phú nền văn học nghệ thuật
nước nhà ở nửa sau của thế kỷ 20. Trong nhiều thập niên, ông trở
thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Tuy nhiên - vì cũng là con người như mọi con người bình thường
khác - Nhà Văn cũng không thể nào tránh được những phút quá ’’xuất thần - bốc
hỏa - lên đồng’’, khi tâm can có hơi men, tâm trí đang bức xúc... Chúng ta hãy thông cảm cho một tài năng, xem như những tật
nhỏ của những người nổi tiếng, giống như sự đãng trí của vĩ
nhân: Phải đục hai cái lỗ to, nhỏ - cho hai mẹ con con… mèo - ra vào,
xuyên qua tường ngăn ở một căn phòng… 5.8.2008 Chú thích: (1) Đây là một truyền thuyết được sử sách ghi lại. Xin
tóm lược câu chuyện vụ án Lệ Chi Viên: Khi còn hàn vi, trước khi đi theo
giúp Lê Lợi, cụ Nguyễn Trãi dậy học. Trường học có nhiều học trò, nhưng sân
trường lại quá hẹp. Cụ ra lệnh cho học trò ’’Lao động công ích’’ - phát
quang, san đất mở rộng sân trường để lấy chỗ vui chơi. Cụ ấn định công việc sẽ
tiến hành vào ngày sau... Đêm đó cụ nằm mơ thấy một người đàn bà bụng chửa, dắt theo
hai đứa trẻ tiến đến quỳ lạy xin cụ rút lại lệnh phát quang kia,
vì nếu làm vậy, mẹ con người đàn bà sẽ không nơi nương thân... Bừng
tỉnh, Cụ cho là giấc mơ huyễn hoặc, bỏ qua. Sáng hôm sau, học trò thi hành lệnh của thầy... Chiều đến, người trưởng tràng (lớp trưởng) đến báo tin, việc
san lấp, phát quang sân trường đã xong... anh ta không quên kể lại, trong khi
làm việc, đụng phải tổ rắn, giết chết một rắn mẹ rất to, bụng chửa - và hai rắn
con... Cụ Nguyễn Trãi không chú ý chuyện này... khen ngợi các trò, bình thản
về nhà.... Đêm đó, ngồi vào bàn đọc sách, tự nhiên từ trên mái nhà có
một giọt máu rỏ xuống đúng chữ Tam, thấm ướt ba trang giấy... cụ lạ lùng, mệt
mỏi bỏ đi nằm. Trong mơ cụ gặp lại người đàn bà và hai đứa trẻ kia, mình đầy
máu... bà ta vừa khóc vừa nói: ''Ta đã xin ngươi... chẳng những ngươi không
cho mà còn sai đệ tử giết mẹ con ta... ngươi sẽ gặp quả báo!''... Thời gian trôi đi... Cụ Nguyễn Trãi lên đường giúp Lê Lợi. Kháng chiến chống quân Minh thành công cụ được nhà vua dành
cho nhiều ân sủng. Nhiều năm làm quan trong triều. Con trai vua Lê Lợi nối
ngôi, gian thần hoành hành, Nguyễn Trãi can ngăn mà không được đành cáo quan
về ẩn dật, dạy học. Cụ tình cờ gặp người con gái trẻ, xinh đẹp, gánh chiếu đi
qua (khi đó cụ ngoài 50). Ông Đồ Nguyễn Trãi tức cảnh đọc: Cô ở đâu ta bán chiếu gon Hỏi thăm gánh chiếu hết hay còn Xuân sanh chừng độ bao nhiêu tuổi Đã có chồng chưa, được mấy con? Cô gái bán chiếu chính là nàng Thị Lộ, đẹp người, hay chữ,
thấy ông đồ buông lời chọc ghẹo, chẳng những không e ngại như bao thiếu nữ
đương thời, trái lại, nàng ứng khẩu đáp lại ngay: Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon Cớ sao ông hỏi hết hay còn Xuân sanh chừng độ trăng tròn lẻ Chồng còn chưa có - có chi con! Cuộc làm quen, dẫn đến mối lương duyên như đã tiền định... Nguyễn Trãi và nàng Thị Lộ đã đi vào lịch sử huyền thoại của
dân tộc... tạo ra bi kịch cho dòng họ một nhà chính trị đại tài, một danh
nhân văn hóa Việt Nam... Vua Lê đi kinh lý qua vùng kinh Bắc, thấy phong cảnh
đẹp, đặc biệt là khu vườn vải Thiều nằm ven sông... nhà vua hạ lệnh cắm trại
nghỉ lại. Theo lễ quân thần, Cụ Nguyễn Trãi sai gia nhân và người thiếp yêu của
mình - nàng Thị Lộ - đến chỗ vua nghỉ phục dịch. Nhà vua đêm đó trúng phong
hàn chết... lại có mặt Thị Lộ. Lũ gian thần rắp tâm muốn hại Nguyễn Trãi từ
lâu mà chưa có dịp... nhân việc này... chúng gắn câu chuyện ''Rắn Tinh báo mộng
trả thù'' vào... cho Thị Lộ là con Rắn Tinh biến thành người... giết vua để
trả mối thù khi xưa... (ứng với chuyện giọt máu rơi chữ Tam (ba họ)...
Ba trang sách (Tam Đại - ba đời)...). Triều đình ghép Cụ vào tội Khi Quân, đưa ba họ của cụ ra
chém. Đến thời minh Quân Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi và vụ án Lệ
Chi Viên mới được giải oan (…). (2) Vào đầu những năm 80, đất nước còn đói nghèo. thỉnh thoảng
những người khá giả mới có tiền mua một chiếc Tivi đen - trắng. Cứ tồi đến chủ
nhà mở cửa hoặc đưa ra sân để cho bà con láng giềng cùng xem. Hiện tượng cô
bán gà trọ, đi xem nhờ ti vi hàng xóm là chuyện hoàn toàn có thật, ở nhiều
nơi trong thành phố đều có cảnh này… Con số 49 là con số độc. Dân ta đã có câu tổng kết: ’’Bốn chín chưa qua, Năm (mươi)
ba đã tới’’ - đó là hai cột mộc - Xung và Hạn, rất ‘’nguy hiểm’’ cho một đời
người. Có lẽ Xuân Sách đã đánh số 49 cho bức chân dung hoàn toàn ngẫu nhiên? Chúng ta hãy cùng nhau nhận diện chân dung số 49: Đây là
ai? 49. Chuyện kể cho người mẹ nghe Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang Đứa con nuôi của trung đoàn Phá Vây xong lại chết mòn trong vây. Biển Lửa (truyện phim), Phá Vây (tiểu thuyết), Con nuôi của
trung đoàn (truyện) - là tên các tác phẩm của nhà văn PHÙ THĂNG. Phù Thăng - tên thật là Nguyễn Trọng Phu, sinh tại Hải
Dương, đi kháng chiến chống Pháp từ năm 1947. Phù Thăng - đọc, đảo lái
đi thành ‘’Thằng’’ Phu. Thiếu úy Đỗ Đức Dân, bạn thân, đồng hương, cùng đơn vị
chiến đấu với Phù Thăng chuyển ngành (đợt 8 vạn binh sĩ giải trừ quân bị) - về
làm phó chỉ huy công trường Khoan - Bắn mìn của mỏ Cọc 6 - Công ty than Hồng
Gai - kể lại khi báo chi phê phán cuốn tiểu thuyết Phá Vây - hồi hơn 40 năm
trước: ‘’Cậu ấy lấy bút danh Phù Thăng, ngay từ khi viết Báo tường của
đơn vị’’! Sau này, trở thành hội viên Hội nhà văn, trên văn đàn Việt
Nam, Nguyễn Trọng Phu vẫn dùng bút danh Phù Thăng, và ngay sau đó Phù Thăng
đã trở nên nổi tiếng qua cuốn tiểu thuyết Phá Vây. Và sự kiện ‘’Phá Vây‘‘ - xứng
đáng xếp vào loại ’’độc nhất vô nhị’’ trong lịch sử văn học của làng Văn Chương
Việt, ở nửa sau thế kỷ 20! Phá Vây viết về đề tài chiến tranh. Nhân vật chính (hóa thân của tác giả) là cán bộ chỉ huy đơn
vị trinh sát, có những suy tư về chiến tranh, về hòa bình khác thường, độc
đáo. Lãnh đạo Văn Nghê thời đó rất ’’cay’’ nhà văn mượn nhân vật để phê phán
chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng chiến tranh, phát triển thành
nguyên lý: ''Làm Cách Mạng không thể đeo găng tay'' (J.Stalin),'' Súng đẻ ra
chính quyền'' (Mao Trạch Đông) và gần nhất - Pol Pot đã tiến hành ‘’Đấu tranh
giai cấp’’ với chính dân tộc mình, bằng cuộc Diệt chủng man rợ... Trần Đăng Khoa nói văn tắt trong Chân Dung Và Đối Thoại về
nguyên nhân Phù Thăng ‘’mang họa’’: ‘’Tập sách sẽ là con thuyền xuôi chèo mát
mái nếu không có vài dòng Phù Thăng luận về chiến tranh…’’ (CD&ĐT trang
66). Nguyễn Quang Thân trên TT&VH số 55 ngày 24.2.2008 -
thì trích ‘’cụt lủn’’ về nguyên nhân tai họa của Phù Thăng chỉ do một
câu than vãn: ‘’… Đời Lính là đời quá nhọc nhằn’’. Nói và trích dẫn như vậy quá thiếu, khiến người đọc dễ gây
phản cảm: Lẽ nào chỉ viết có thế mà ‘’đày đọa’’ một con người - một nhà
văn đến tận đáy cuộc đời? Sự thực đoạn văn nặng ký ‘’vài dòng’’ do Nguyện Hưng Quốc
trích - đưa vào một tiểu luận - như sau: ''... Chiến tranh đã gây lên
và sẽ gây lên bao nỗi đau khổ, vất vả, tủi nhục, căm giận khác nữa… Chiến
tranh không có gì đáng ca ngợi cả, và đời lính chỉ là cuộc đời nhọc nhằn mà
thôi. Nếu như trong chiến đãu có thu được cái vinh quang chân
chính của nó, thì cũng đã trả một giá quá đắt. Phải sớm kết thúc cuộc đổ
máu cùng những thảm họa của nó!''. Có thế chứ! Đây mới là nguyên nhân chính khiến tác giả mang họa. Đoạn văn, tác giả viết ra hoàn toàn không đúng lúc. Chiến
tranh đang bao trùm không gian Việt Nam, được lý giải: Có hai loại Chiến
tranh - Chính nghĩa và Phi nghĩa. Chúng ta làm chiến tranh dù dưới hình
thức nào, với lý do gì cũng là Chính nghĩa. Bọn Đế quốc và bè lũ tay sai gây
chiến tranh là Phi nghĩa. Cần phải ủng hộ triệt để cuộc chiến tranh CHÍNH
NGHĨA, chống lại chiến tranh PHI NGHĨA... Thế mà Phù Thăng lại coi chiến tranh chung chung… và cần phải
‘’sớm kết thúc’’. Trong thời điểm khi mà nghị quyết 9 đã đưa ra, các đoàn
quân đã rùng rùng chuyển động hướng ra chiến trường… làm sao có thể chấp nhận,
cho ‘’luồng tư tưởng’’ này tồn tại. Hệ thống tuyên truyền và nền Văn Nghệ được
huy động tối đa ủng hộ, cổ vũ cho cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước. Bỗng
dưng cuốn sách của Phù Thăng công khai nói ngược thậm chí phủ định - một ý kiến
‘’lạc lõng’’. Không bị xếp vào rọ ‘’Phản động’’ là may cho Phù Thăng lắm rồi.
Sẽ không nghi ngờ lòng trung thành của một sĩ quan quân đội nhiều năm cầm
súng chống Pháp, giờ cấm bút chiến đấu trên mặt trận Văn Nghệ, chỉ gọi
lên phê phán rồi yêu cầu phải sửa lại tác phẩm, (cắt bỏ những đoạn văn luận
bàn về chiến tranh). Phù Thăng không chịu, công khai từ chối lời yêu cầu kia: ''Thực tâm tôi nghĩ thế nào thì tôi viết ra một cách trung thực thế. Nếu
các anh cảm thấy không được thì thôi, không in nữa. Nếu trót in rồi thì không
phát hành nữa, chứ bây giờ bảo tôi chữa khác đi, thì thú thực tôi chẳng biết
chữa thế nào''. (Chân dung và Đối thoại trang 67). - ’’Thế là thế nào? Nuôi quân ba năm sử dụng một
ngày. Đảng và Nhà nước nuôi anh, cho anh cơm ăn, áo mặc, môi trường để viết rồi
giúp anh in ấn, phổ biến, quảng bá tác phẩm để anh gặt hái vinh quang. Giờ cần
anh ủng hộ ‘’bằng… mồm’’, anh lại từ chối à’’? - Ơn đó tôi ghi nhận, nhưng đây là lương tâm, lương tri, bản
lĩnh của người cầm bút, tôi không thể làm khác. - Thế thì…được… được!‘’ Ngay sau đó, các Báo, Tạp chí đăng tải những bài viết phê
bình Phá Vây mà không cho ông lên tiếng thanh minh, bảo vệ, cũng giống như
trường hợp các nhà Văn khác, từng bị ''Trói vào mà đánh, khen thay chịu
đòn''. Kết quả là: Phá Vây bị thu hồi, tác giả bị chuyển đi, lần lượt từ
cơ quan này đến cơ quan khác, bị ‘’treo bút ngầm’’. Từ đó không thấy ông xuất
hiện trên văn trường nữa. Ông sống lặng lẽ cho tới khi đủ tuổi hưu trí, về
quê nhà đi cầy, vui với đồng ruộng và lũ... Gà - Vịt (1). Đề tài này quả thật gai góc: Cả chục năm sau - Việt
Phương cũng viết, bàn về Chiến tranh, bằng những câu thơ ‘’Không hợp
thời’’: Ta thắng Mỹ cho ngàn vạn năm đời sắp tới Cho cả thời con cháu ta sẽ hỏi Vì đâu? Ngày xưa trước năm 2000 Người ta giết nhau, mạng người như hòn sỏi?... Sau Hiệp định Paris (1973) - Phạm Tiến Duật - cũng lại
‘’than thở’’ về chiến tranh - trong bài thơ Vòng Trắng: ''... Khói bom lên trời thành một vòng đen Trên mặt đất hiện bao nhiêu vòng trắng… Có mất mát nào lớn bằng cái chết Khăn tang vòng tròn như một số Không...'' Việt Phương, Phạm Tiến Duật - cũng giống như Phù Thăng
- có những suy nghĩ ‘’lệch lạc’’ về chiến tranh khiến ‘’Con thuyền…
cuộc đời’’ họ đều không ‘’xuôi chèo mát mái’’. Cũng không thể ‘’trách’’ những người lãnh đạo được, vì lúc
đó, chủ trương, đường lối, nghị quyết giải phóng miền Nam bằng chiến tranh đã
ban hành, muốn thực hiện được mục đích, người lãnh đạo buộc phải làm như vậy… Nhưng cũng không thể ‘’chê’’ Phù Thăng quá cố chấp (…). Đó
là ‘’nghiệp chướng’’ của người cầm bút có bản lĩnh, chân chính và sự
kiên trì trong ý thực hệ của người lãnh đạo văn nghệ của chế độ! Cả hai phía
hành động đều đúng theo ‘’chức trách’’ của mỗi bên… Cuộc đấu sức quá chênh lệch
khiến nhà văn phải lãnh nhận hậu quả. Có điều: Hành động của Phù Thăng khiến chúng ta nhớ đến
chuyện viên quan viết Sử thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa, cách đây hơn
2000 năm, Sử gia Tư Mã Thiên đã ghi lại, có thể tóm tắt: ''Một người thoán đoạt ngôi vua. Sau khi tại vị, ông ta ra
lệnh cho các quan trong triều tìm mọi cách ca tụng mình. Trong khi các quan
thực thi ý kiến của vua mới, riêng viên quan chép Sử lại ghi vào sách: ''Năm ấy... tháng ấy... ngày ấy... ông X giết
vua...''. Nhà vua vô cùng tức giận, cho gọi người chép Sử đến, bắt ông phải sửa
lại đoạn văn. Người chép Sử không nghe, vua tuyên bố: Nếu không sửa
lại sẽ bị chém đầu. Người chép Sử vươn cổ ra chịu chém chứ nhất định không sửa
câu văn mình đã viết. Con ông ta nghe tin, đến thay Cha, lại bị chém. Người Cháu noi gương Cha, Ông tiếp tục lặp lại: ''Ngày...
ông X giết vua''. Nhà vua đọc đoạn văn, nhìn đứa cháu của viên quan ngự Sử,
ngửa mặt lên trời than: Ta chịu thua các ngươi! đoạn tha tôi chết cho Cháu
người chép Sử. Người Cháu thoát chết ra về, tới cửa thấy có nhiều người xếp
hàng chờ mình. Anh ta ngạc nhiên. Những người đứng chờ giải thích: Chúng tôi
chờ, nếu ông bị chém đầu, sẽ lần lượt thay thế chức vị của ông''. Ta cũng lại liên tưởng tới hoàn cảnh của nhà bác học Ga li
lê trước lúc đao phủ châm lửa giàn thiêu, hỏi ông lần cuối rằng, có thừa nhận
trái đất đứng nguyên không? Trước ngọn lửa, Ga li lê đành chấp nhận và
đồng ý cải chính: ‘’trái đất đứng nguyên’’… Khi được cỡi trói, chưa ra
khỏi giàn thiêu, ông đã lại thốt lên: Dù sao thì trái đất vẫn cứ…
quay! Giá - Phù Thăng hành xử như Ga Li lê thì… Nhưng ‘’Thằng - Phu - Chữ’’ đã nêu tấm gương sáng về lòng
dũng cảm của người Nghệ sĩ chân chính! Có thể coi ông là người chép Sử của Việt
Nam thời hiện đại. Qua Phá Vây, Phù Thăng muốn gửi tới người đọc đương thời bức
thông điệp về chiến tranh và hòa bình. Sự bất đồng quan điểm với lãnh đạo cấp
cao đã đến điểm đỉnh. Phù Thăng lại không nhân nhượng... Guồng máy chỉ đạo
chiến tranh không thể để cho vật chắn cản đường: Phải ‘’gạt - xúc - quẳng’’
đi! Nó không thể tồn tại trước ‘’Ba dòng thác cách Mạng’’: Giải
phóng miền Nam, Thống nhất đất nước‘’ dù có phải đốt cháy cả dẫy trường
Sơn’’! Kết cục ‘’Không xuôi chèo mát mái’’ đã đến với nhà văn tài
năng! Việt Nam ta có câu ngạn ngữ: ''Về đuổi gà cho vợ'', là ám
chỉ việc các đấng trượng phu thất bại trong sự nghiệp, trở thành phế nhân, chỉ
còn làm ông chồng suốt ngày ngồi bên bếp lửa vuốt… đuôi mèo (2), hoặc đuổi gà
cho bà xã, sống qua ngày. Câu ngạn ngữ đó vận ngay vào Phù Thăng. Chỉ khác một
điều, ông không thất bại theo nghĩa hẹp của câu nói kia. Ông về phục vụ bà
nhà: Đi cầy, hàng phục ‘’Trâu điên’’ - như Trần Đăng Khoa kể trong
CD&ĐT - và chăn… Vịt!. Thế nhưng con gà cứ ám ảnh ông... Chân dung và Đối thoại, xuất bản gần 10 năm trước (1999),
Trần Đăng Khoa dành cho Phù Thăng những dòng chứa chan ân tình rồi tóm tắt,
giới thiệu Hạt Thóc - Truyện ngắn có thể xem là ‘’Nặng Ký’’ trong sự nghiệp
sáng tác sau Phá Vây của Phù Thăng. Người đọc ‘’rùng mình’’ khi nghe đoạn văn
của Hạt Thóc, (cũng như đã từng rùng minh khi đọc ‘’vài dòng’’ trong Phá
Vây): ''... Thật tội nghiệp cho gã! Thà gã cứ coi mình là một cục
cứt để rồi mà sợ chó thì đời gã chẳng đến nỗi khổ như vậy....''. Câu văn gợi cho ta nhớ tới câu ví: ''Trí thức không đáng
giá bằng cục... Phân''! Nhưng ‘’Trí - ta’’ hãy dẹp sự tự ái sang bên, tiếp tục
nghe Phù Thăng tâm tình: ''... Chó đang thưa vắng dần... Chỉ ở Hà Nội mới
có chó. Rất nhiều chó. Chó ngào ngạt suốt một rẻo đê Nhật Tân... Nhưng đó lại là những con chó hòa bình, chẳng có gì phải sợ.
Khốn nỗi gã lại là hạt thóc, một hạt thóc bé nhỏ nên mới sợ Gà. Mà Gà thì ở
đâu chẳng có. Chúng sinh sôi nẩy nở đàn đàn lũ lũ... đến cả những phố phường
sầm uất... cũng có thể bất thần nghe tiếng gà gáy te te... bởi vậy tính mạng
gã luôn bị đe dọa''. (CD VÀ ĐT Trang 62 - 63). Chó thì được bà con nông dân nuôi ở làng quê để giữ nhà chống
trộm, để giúp các cháu bé ''làm sạch'' sau khi các cháu bĩnh ra, chứ ở Hà Nội
có điện, có nước máy, cần gì chó, ai nuôi chó… ta. Thế mà bây giờ chó ở làng
quê, miền ngược đang thưa dần... chỉ ở Hà Nội mới có chó... thậm chí rất nhiều
chó là đằng khác! Sao lạ vậy nhỉ? Chó nhiều - chẳng việc gì phải sợ: Không phải chó điên,
chó sói, chó Berger to như con bê, được nuôi phục vụ việc bắt trộm cướp, bắt
hung thủ trong các vụ án hình sự! Đây là những con chó không thể làm hại người
- chó thuần chủng, ’’chó hòa bình’’.! Chó ngào ngạt chẳng những suốt rẻo đê Nhật Tân, mà dường
như còn ảnh hưởng ''mùi'' cả Hà Nội rồi lan ra xung quanh, khiến hàng ngày
người ta ‘’đánh hơi’’ thấy, lũ lượt kéo về thưởng thức: Rượu - Thịt Chó! Chó - nhưng ''đó là những con chó hòa bình chẳng có gì phải
sợ'' - nghĩa là chúng không thể cắn người được. Ngược lại, chúng còn bị người
‘’cắn’’… lại rồi nhai ‘’chín’’, nuốt ‘’tươi’’! Một số ông chủ của đất Ngàn năm văn vật và ngay cả ở Sài
Thành Hoa Lệ ''Hòn ngọc của Viễn Đông'' - dùng chúng làm phương tiện hốt bạc.
Họ biến việc nuôi, cung cấp, kinh doanh, nhập khẩu… chó - thành Vàng và Đô
la, khiến đi trên đường phố, khách du lịch, vãng lai luôn gặp những bảng hiệu: ''A ! đây rồi - thịt cầy bảy món''! Rượu - Thịt Chó đã trở thành món hấp dẫn của cả dân Việt
khiến ngành kinh doanh ăn uống phục vụ, nhanh nhậy khai thác biến ngành ẩm thực
thuần Việt ngày một phồn thịnh phát đạt. Và trong nền kinh tế thị trường (có
giai đoạn được định hướng XHCN - bây giờ thì không), họ hàng nhà Khuyển được
nhanh chóng phân loại, xếp hạng: Nhất Vện, nhì Vàng, tam Khoang, tứ Mực -
đáp ứng nhu cầu, khẩu vị của người ăn! Thế là người này bảo người kia, rủ nhau ùn ùn, nghìn nghịt
kéo đến Nhật Tân... rồi hình thành từng mâm, từng nhóm, từng cặp... Từ già đến choai choai. Từ các ông, gã, thằng... Phu đến các sĩ phu đủ kích cở, chủng
loại - đều có mặt trong bữa nhậu. Đến ngay cả các nam thanh, nữ tú - Sinh
viên, học sinh - cũng hăng hái tham gia mâm rượu. Tất cả (xếp chân bằng tròn
trên chiếu)... đồng loạt vui vẻ, hả hê ''đưa cay'', ‘’trăm phần trăm’’ rồi cắn,
nhai ngồm ngoàm, thưởng thức hương vị của khúc dồi, đĩa chả, bát nhựa mận
trong tâm trạng ‘’Thăng hoa’’, say sưa ngẫm nghĩ về câu nói của dân gian: Sống ở trên đời ăn miếng Dồi chó Chết xuống âm phủ liệu có hay không. Tiếp đó, TĐK diễn giải - Hạt Thóc (3). Chuyện kể về nhân vật - nhà văn bị tâm thần. Gã tâm thần
mang trong lòng nỗi ám ảnh, tưởng mình là một hạt thóc... và vì là ''Thóc''
nên luôn sợ... Gà... ''Mổ''! Nỗi ám ảnh ngày một tăng... đến độ gã phải vào nhà thương
điên để chữa trị. Rất may, được người bác sĩ tài giỏi, thân ái, thậm chí kính
trọng trí tuệ gã người bệnh của mình. Ông bác sĩ nhân ái kia chăm sóc gã tận
tình đúng như câu khẩu hiệu do đích thân cụ Hồ nói về trách nhiệm của thầy
thuốc, được ghi khắp nơi trên tường của các trạm xá, bệnh viện: Lương y
‘‘kiêm‘‘ từ mẫu. (Thầy thuốc kiêm mẹ hiền - nguyên văn lúc đầu phát ra,
sau sửa ‘‘Kiêm‘‘ thành ‘‘Như‘‘). Gã được sống trong căn phòng:
''... chẳng có cửa rả, ngày đêm mở thông thống... bệnh viện chẳng có tường
ngăn, rào chắn, bệnh nhân chẳng ai bị trói giữ giam nhốt...'' (Sách đã dẫn,
trang 63) - nghĩa là gã tâm thần được sống và chữa trị trong môi trường thoải
mái, tự do! Nhờ vậy, nhà văn tâm thần kia khỏi bệnh. Người ta cho gã xuất
viện. Thế nhưng trên đường từ bệnh viện về nhà, nghe thấy tiếng gà gáy... căn
bệnh cũ lại tái phát... Người Bác sĩ ngạc nhiên hỏi, gã trả lời: Quả thực
tôi đã khỏi bệnh, tôi là NGƯỜI hẳn hoi! - Thế sao nghe tiếng GÀ... anh lại sợ như trở cơn vậy? - Đúng! Dù tôi là NGƯƠI... Nhưng lũ GÀ kia lại cứ coi tôi
là... HẠT THÓC, thì sao?... Thực ra Phù Thăng không phải là ''Thóc''... cũng chẳng phải
‘’Gà’’, lại càng không về... đuổi ''Gà''! Theo Trần Đăng Khoa nhận xét : Ông
là chỉ huy của một đoàn quân... ''ông chỉ khẽ vẫy tay là cái đoàn quân ấy
rùng rùng chuyển động...'', (CD và ĐT trang 67). - Phù Thăng là ''Tư Lệnh'' của đoàn quân... ''VỊT''! Việt Nam ta khi xưa thường gọi những người lao động là PHU: Phu Mỏ. Nông Phu. Phu Xe. Phu Mộ. Phu Bốc xếp, Phu... Phu... Nếu là người
có chữ nghĩa, trí thức thì gọi là SĨ PHU. Còn nếu là kẻ vô tích sự thì là THẤT
PHU! Nhà văn tự nguyện đại diện cho họ hàng nhà Phu bằng bút danh PHÙ THĂNG
- THẰNG PHU, là bởi ông sinh ra từ giới cần lao này. Phù Thăng
tình nguyện đại diện cho những Ông, những Gã, những Thằng Phu... vì Ông muốn
làm một người Phu chân chính, thực hiện lời dạy của tiền nhân: ''Quốc Gia
hưng vong, Thất Phu hữu trách''! Nhưng, ông đã phải trả giá quá đắt cho hành động tích cực của
mình bằng sự trả thù của ý thức hệ, dám đi ra ngoài khuôn mẫu. Phù Thăng chết
dần, chết mòn trong vòng vây thù địch chỉ vì yêu quý chế độ, giữ vững khí tiết
của nhà văn chân chính, ‘’vắt’’ ra những giọt, những dòng… máu lầy nhầy tủy
- não, mà lẽ ra ông cần phải biết: Người cầm quyền không thích loại ‘’máu’’
này! Nếu ông chịu làm ’’cục cứt’’ chồm hổm để mà đợi lũ chó ngoạm
- như ông nghĩ - thì đời ông chắc sẽ khác đi nhiều! Nhưng khốn nỗi: Ông là Phù Thăng - Thằng Phu… Chữ! Sau sự kiện Phá Vây, trên văn đàn Việt Nam, tên tuổi ông bị
sổ thẳng. Cho đến nay, hơn 40 năm trôi qua, kể từ ngày nổ ra sự kiện
Phá Vây, người đương thời không còn ai biết đến bút danh Phù Thăng nữa. Tuy
muôn, châm nhưng Văn Chương Việt vẫn dành cho Phù Thăng chỗ, để đăng tải toàn
văn truyện ngắn Hạt Thóc và khi ông về với cát bụi đã có những dòng cáo phó
chân tình. Thiết nghĩ, thế cũng là nén nhang thắp cho Phù Thăng về nơi chín
suối thanh thản. Liệu VCV có thể làm tiếp việc nữa: Cho đăng tải toàn
văn hay trích đoạn Phá Vây? Hoặc giả, cổ súy Mạnh Thường Quân nào hảo tâm cho xuất bản
những di cảo của nhà văn - ‘’sử gia’’ (tin rằng những tác phẩm như Hạt Thóc -
vẫn còn), tạo điều kiện cho Phá Vây chính thức bước vào đời (nếu chưa xuất bản),
hoặc tái xuất giang hồ (tài bản) - mà lúc tại thế, từ hơn 40 năm trước - Phù
Thăng đã mong muốn Đứa con đẻ của Thăng - Phu - Chữ (chứ không phải Con nuôi
của Trung Đoàn) được sống đời của nó. Thế nhưng, ác thay, vừa sinh ra đã bị ‘’cầm tù’’, bây giờ
đã sắp lên lão (50). Đứa con tinh thần nào của Nhà văn cũng muốn
được sống thoải mái, tự do trong cuộc đời của chúng. Những đứa ‘’con… đẻ’’ của
Phù Thăng - Nếu được như thế - chắc người cha khốn khổ sẽ ngậm cười mà an nghỉ
ở thế giới bên kia!. Chú thích: (1) Trong phim Chuyện Tử Tế, Đạo diễn Trần Văn Thủy đã
dùng câu bình rất ‘’sắc’’: ’’Xem ra khoảng cách giữa nhà quay phim và gã
chăn vịt chỉ là gang tấc’’. Phù Thăng cũng từng là ‘’Gã chăn vịt’’… (2) Nguyên văn câu ca dao: Chồng người đi ngược về
xuôi/ Chồng em ngồi bếp vuốt đuôi con mèo. (3) Hạt Thóc - VCV đăng ngày 23.2.2008.
http://vanchuongviet.org/ Xuân Sách vẽ chân dung số 39 bằng 8 câu thơ thất ngôn,
trong đó có những địa danh của Sơn Tây, Thanh Hóa, Hòa Bình: 39. ''Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi''! Về làm xiếc khỉ với đời thôi Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm Sống tạm cho qua một kiếp người Áo sờn thay chiếu anh về đất Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh Gửi hồn theo mộng về Tây Tiến ''Sông Mã gầm lên, khúc độc hành''. Chẳng cần phải suy nghĩ, nhận ra ngay câu đầu và câu
cuối thơ Chân dung là hai câu thơ của bài Tây Tiến - tác phẩm nổi tiếng của
nhà thơ nổi danh trên văn trường Việt Nam nửa sau của thế kỷ 20: QUANG DŨNG. Ông cũng còn là tác giả của những bài: Đôi Mắt Người
Sơn Tây, Đôi Bờ (đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ thành bài
hát).
Thơ Quang Dũng phảng phất chất hoài niệm, pha chất hùng ca,
lắng đọng. Đặc biệt - trong nhiều bài thơ của ông, chúng ta luôn được nghe
nói đến các địa danh của Sơn Tây và những nơi ông cùng Trung đoàn Tây Tiến đi
qua, người đọc đồng cảm cùng tác giả. Trí tưởng tượng của họ bị kích thích mạnh
bởi lời thơ lúc mộc mạc, giản dị, khi kiêu hùng, hoành tráng nhưng thắm đượm
tình người, tình yêu quê hương đất nước. Mấy khổ thơ trong bài Viếng Bạn của ông làm chúng ta suy
tư, cảm động:... Rồi đây cùng đất nước. Mà riêng rẽ Âm Dương Người bảo ''đi là chết'' Kẻ sống càng đáng thương... Tôi sẽ cùng chết đói Và cùng rét anh ơi! Với triệu người bạn hữu Là triệu mảnh đời tôi... Đêm 19/12/1946, Người Hà Nội mang đồ vật trong nhà của mình
ra xây dựng chiến lũy trên đường phố, ngăn chặn quân thù rồi ra đi Kháng Chiến
để lại sau lưng ''khói lửa ngút trời''. Quang Dũng - thời điểm đó là người chỉ
huy Trung đoàn Tây Tiến (có những người con Hà Nội tham gia) cũng đưa đơn vị
của mình tiếp tục cuộc chiến đấu ở chiến trường mới. Cảm thụ được sứ mạng của
mình và bè bạn, ông phản ánh không khí hăng say của những người lính trẻ bằng
những vần thơ đầy hào khí: ''... Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Hun hút cồn mây súng ngửi trời... Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người... Khi xa Hà Nội, mỗi khi nghĩ về Hà Nội, những chàng trai đất
Thăng Long trào dâng xúc cảm. Quang Dũng đã nói hộ họ nỗi niềm tâm sự này
trong bài thơ Tây Tiến. Ai đọc Tây Tiến, qua câu thơ đầy gợi cảm - đều nhớ Hà
Nội da diết, nhất là những bóng ‘’dáng kiều thơm’’: ''... Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành''. Những câu thơ này chẳng những một vài người lãnh đạo không
thích thú, xúc động, mà còn dị ứng hơn rồi phát ra những câu chê trách, thậm
chí truy chụp, cho thơ Quang Dũng ‘’mang đầy mộng mơ Tiểu tư sản...’’, nặng
tính ‘’anh hùng cá nhân’’ - biểu hiện của hệ tư tưởng Tiểu tư sản, trộn lẫn
phong kiến cổ điển. Các chiến sĩ - hình tượng trong thơ - phảng phất
hiệp sĩ Kinh Kha: ''Một đi không trở lại''. Rồi khẳng định: Thơ
như vậy không có giá trị gì (cho cách mạng), các hình tượng trong thơ lại
càng không thể là hình ảnh của những chiến sĩ Cách mạng... Chính vì vậy, khi còn sống, những thi phẩm xuất chúng của
Quang Dũng không được phổ biến. Nhiều người biết, yêu quý ông còn đi xa hơn,
đặt dấu hỏi: - Vì sao thơ Quang Dũng hay như vậy, con người Quang Dũng
giỏi như thế mà thơ không được phổ biến? Quang Dũng có tri thức, có tài thao
lược của viên võ quan Văn - Võ song toàn - lại bị thải hồi ngay ở tuổi 30,
trong lúc đang sung sức, đã được thử thách trong chiến đấu? Mãi sau, những người mến mộ Quang Dũng mới hiểu: Lúc
trẻ, Quang Dũng đã từng tham gia trong tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng
(VNQDĐ). Tổ chức này mới ra đời có mục đích tôn chỉ: Đánh Pháp, giành độc
lập dân tộc. Sau khi lãnh tụ Nguyễn Thái Học mất, do biến động của thời cuộc…
cộng với một số biểu hiện hồi tháng 8 năm 1945 ở Hà Nội mà điển hình là vụ án
Ôn Như Hầu… những người đã tham gia QDĐ đều có một dấu hỏi lớn đối
với chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngay như ông Trần Huy Liệu, nhà cách mạng, người Cộng Sản
lão thành, (gốc QDĐ, đã ly khai), từng bị tù cùng những lãnh tụ của ĐCS Đông
dương (…), khi CM tháng 8 nổ ra, ông Trần làm đại diện cho chính phủ cách mạng
nhận ấn kiếm thoái vị của cựu hoàng Bảo Đại ở Huế. Sau 1954, dưới thời chính
phủ VNDCCH ông Trần Huy Liệu cũng chỉ được giao trách nhiệm: Viện trưởng
Viện sử học. Huống hồ những người đã gia nhập QDĐ ở cấp thấp như Quang
Dũng. Sau hòa bình (năm 1954), Quang Dũng ra khỏi quân đội, chuyển
ngành, về công tác ở cơ quan dân sự, định cư ở Hà Nội - nơi ít bị ảnh hưởng của
Cải Cách Ruộng Đất. Đó là một cơ may, cũng là phúc cho ông, còn nói gì hơn!. Ông lui về sống lặng lẽ, an phận trong căn phòng nhỏ hẹp cùng
gia đình, không xu nịnh để kiếm miếng đỉnh chung, mặc dù rất nghèo, thậm chí
quá nghèo... Tạng người Quang Dũng to cao. Trông ông y hệt người phương
tây, làm nhiều người lầm lẫn. Một lần - hồi chiến tranh chống không quân Mỹ -
Du kích của một miền quê, tưởng ông là phi công Mỹ, bị bắn rơi, trốn chạy, giờ
đói quá phải ra xin ăn (Quang Dũng đói ăn gầy hốc hác). Họ bắt trói đưa vào
trại giam, sau tìm hiểu, biết - mới thả... Lần khác - ở Hà Nội - dắt chiếc xe đạp cà tàng đến nơi làm
việc ở tòa báo. Đang đi trên hè phố, lũ trẻ nhỏ tưởng ông là ''ông Liên Xô''
chúng bu lại, lẵng nhẵng theo sau, reo hò hát bài đồng dao của chúng: Ông Liên Xô Bà Trung Quốc Ông đi guốc Bà đi giầy Ông nhảy dây Bà đá bóng Ông đua võng Bà nằm giường... (Bài Đồng dao rất dài, chế nhạo hiện tượng ông chẳng bà chuộc
của hai ‘’đại ca’’ trụ cột của phe ta...) Hoặc nhìn thấy chiếc xe ‘’cởi truồng’’, chúng hát trêu: Ê… ê! Xe không phanh mời anh đứng lại. Không đứng lại phải nộp phạt ngay: Mất tý da đền ba đồng sáu Mất tý máu đền sáu đồng tư Mất mẩu xương phải ''sùy'' trăm bạc... Ông cười vui với các cháu. Đó thực là những giây phút hạnh
phúc hiếm hoi của ông... Khi đất nước bắt đầu đổi mới, cởi mở, bạn bè - những người
mến mộ Quang Dũng - cùng nhau tập hợp những sáng tác rải rác của ông, đem in
trong Tập Mây Đầu Ô. Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây và nhiều bài thơ
hay khác được phổ biến rộng rãi. đàng hoàng bước lên vị trí xứng đáng của
nó trên Văn - Thi đàn Việt Nam. Quang Dũng quanh năm đói, chỉ thèm ăn một bữa dù là cơm
rau, nhưng no nê - mà vẫn không được. Hoàn cảnh của nhân dân miền Bắc lúc bấy
giờ (trước năm 1975), ai cũng như ai. Nếu làm việc ở cơ quan hành chính sự
nghiệp, mỗi người, mỗi tháng chỉ được mua 13,5 Kg gạo. 250 gram thịt, 250
gram đường... một năm bốn mét vải... (Dân thường tiêu chuẩn còn thấp hơn...). Với
đàn trẻ nhỏ không thể để các con đói, với sức vóc như ông, cái đói triền miên
là tất nhiên. Báo Khởi Hành số 44 tháng 6/2000 đăng bài ký tựa đề Hương
Cố Nhân của tác giả Phan Thanh Hoài, chúng ta đọc một đoạn văn sau đây
mà xót xa, cảm động: ''... Tôi đang có vấn đề, Quang Dũng lắc đầu - kỳ này hơi
gay: Ăn lấn vào lương thực, mà tôi là thủ phạm ăn khỏe nhất nhà. Ông thấy đấy! tôi nặng trên sáu chục cân mà có 13,5 Kg lương thực một tháng. Cha nào nghĩ
ra con số ấy ghê thật, lại còn mỗi loại lao động ăn một mức. Riêng tôi tháng
nào cũng ăn lấn vào khoảng 4 - 5 cân. Tôi đang bị hụt vào tiêu chuẩn khoảng
15 cân. Đi đâu được một tháng bây giờ thì hay quá! Tôi bèn nghĩ tới việc rủ Quang Dũng đi chơi cho khuây, vơi
đi nỗi buồn: Đi chùa Hương ông ơi! Quang Dũng trố mắt xua tay: Tiền đâu? Hội hè tốn lắm! - Ta đi xe đạp... tà tà... Vào chùa đi bộ, không đi đò mà
men theo vách núi. Nghe tôi nói, QD như nhớ lại điều gì đã quên từ lâu: Ờ nhỉ,
ta vác đi ít mì cho đỡ tốn. Trên đường vào chùa Hương, tôi có nhiều cơ sở
đóng quân xưa, bà con tốt lắm... ăn vài ba ngày chẳng thành vấn đề. Ta vào
nhà bà con, nếu thấy dễ dàng, gia đình nào nhiệt tình, kinh tế khá, cho ăn
thì tốt quá. Bằng không ta tìm nơi đổi mì lấy gạo là tốt nhất...''. Sau năm 1975 các tiêu chuẩn này được nhích lên, nhưng cũng
chẳng là bao. Quang Dũng vẫn ở trong số những Văn Nghệ Sĩ... ‘’đói’’! Hoàn cảnh
chung của cả xã hội như vậy, phải chấp nhận. Ở nửa sau những năm 1980, sáng sáng, người dân Hà Thành thường
gặp một ông già to cao, trong đoàn các ông bà già ra công viên Thống Nhất
(sau đổi thành công viên Lênin), tập thể dục. Đó là nhà Thơ tài danh Quang
Dũng của chúng ta. Ông tập thể dục dưỡng sinh nhằm cố tìm cách kéo dài tuổi
thọ, đảm bảo sức khỏe để chống chọi với cái đói. Thật mâu thuẫn: Tập
thể dục thì khỏe người nhưng sau đó cơ thể đòi dinh dưỡng để phát triển. Một
tháng chỉ có mấy chục bạc lương, tiêu chuẩn cuộc sống chỉ có thế, lấy đâu ra
để bồi dưỡng sau khi tập thể dục!. Chung quy vẫn đói, ''đói truyền đời... điệu
múa cổ cũng chậm buồn như đói'' - như Nguyễn Duy đã viết trong bài thơ Đánh
Thức Tiềm Lực. Có thể xếp Quang Dũng vào danh sách nhà thơ đói…
ăn… nhất nước! Cuộc đời đã không cho Quang Dũng mãn nguyện. Chỉ cố chống chọi được đến 1988, do - hậu quả của suy dinh
dưỡng kéo dài triền miên - ông giã từ thế giới này, sang thế giới bên kia để
tìm một thế giới tốt đẹp hơn! Cầu chúc cho ông may mắn, không còn gặp nỗi bất
hạnh như thế giới mà ông đã tồn tại 67 năm - từ 1921 đến 1988... Quang Dũng được Xuân Sách vẽ, dường như lấy ý từ những câu
thơ hào hùng, bi tráng, tô đậm bức Chân dung nhà thơ tài danh của
nền Văn Chương Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 20! Xuân Sách vẽ chân dung 83 thật chân phương, chỉ đọc,
‘’xem’’, người ta nhận ngay ra đó là Nhạc sĩ VĂN CAO: Thiên Thai từ giã về dương thế Suối Mơ ngày ấy Buồn Tàn Thu Sân đình ngất nghểu ngôi Tiên Chỉ Uống rượu say rồi hát Quốc Ca! Bởi: Thiên Thai, Suối Mơ, Buồn Tàn Thu, Quốc Ca là tên những
ca khúc âm nhạc của nhạc sĩ lừng danh, người được Làng Văn - Nghệ miền Bắc
trước những năm 60 đặt cho biệt danh: ''Cụ Tiên Chỉ''. (Thời phong kiến trước 1945, cụ Tiên chỉ là chức to nhất ở
Làng. Khi Làng xã có việc hôi họp, tế lễ, cụ Tiên chỉ được mời ngồi chiếu
trên, các ý kiến của cụ được chức sắc trong làng làm theo). Viết về Văn Cao đầy đủ nhất là từ điển Wikipedia. Ở bài
này, người viết chỉ xoay quanh một vài nét đặc trưng nhất của chân dung mà
Xuân Sách điểm xuyết. Văn Cao tên thật Nguyễn Văn Cao, quê cha gốc Huyện Vụ Bản tỉnh
Nam Định, sinh tại Hải Phòng ngày 15.11.1923. Mất ngày 10.7.1995 tại Hà Nội. Tác giả Tiến Quân Ca (được nhà nước lấy làm Quốc ca của
chính thể Cộng hòa XHCN Việt Nam) - có rất nhiều tài: Học vẽ ở trường mỹ thuật
Đông Dương cùng thời với những Họa sĩ bậc thầy của hội họa Việt Nam, nhưng lại
nổi tiếng ở lĩnh vực Thơ, Âm nhạc. ''Cụ'' là nhạc sĩ, tác giả Quốc Ca còn sống
cùng với tác phẩm của mình thuộc loại lâu trên thế giới - 51 năm (1944 -
1995). Ngoài vẽ và sáng tác nhạc, Văn Cao còn nổi tiếng ở lĩnh vực
thơ... Trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, Văn Cao bị xếp vào thành phần
‘’lãnh đạo’’. Biệt danh ''Cụ Tiên Chỉ'' là do giới Văn Nghệ đặt cho Văn Cao để
chỉ tài năng đa dạng của ông (Cầm, Kỳ, Thi, Họa), nhưng trong phong trào NVGP
ông có viết bài cho hai tờ Nhân Văn và Giai Phẩm, có một số ý kiến tán đồng,
tâm đắc với bạn văn nhưng không phải là người khởi xướng NVGP. Vì uy tín và
tài năng, biệt danh Cụ Tiên Chỉ nhân đó bị gán ghép và trở thành lời kết tội
‘’Linh hồn của nhóm NVGP’’. Theo sau đó, ông bị vô hiệu hóa, treo bút (không
được công bố sáng tác bằng tên thật), về làm người minh họa cho Báo Văn Nghệ,
thiết kế Mỹ thuật cho những vở diễn và viết nhạc cho hãng phim truyện Việt
Nam. Có một thuyết nói rằng Văn Cao bị ‘’ông bạn’’ trả thù: Vào
hồi hai người - ông Văn Cao và người bạn kia đi kháng chiến, sống trong rừng
Việt Bắc. Một lần, sau chuyến đi công cán trở về, bạn khoe với Văn Cao - rằng,
mới làm được một số bài thơ rất hay... Văn Cao hồn nhiên, tếu, bảo bạn :
''Thơ cậu như ca dao ấy, có gì mà khoe!''. Vô tâm, nói rồi quên ngay. Chẳng
ngờ, câu nói đó đã theo bạn mãi, và khi có quyền thế đã ‘’tính sổ’’ với người
dám chê thơ, coi thường mình, bằng cách gán cho Văn Cao tội đầu têu, xúi bẩy
Văn Nghệ Sĩ ‘’chống Đảng’’, đày đọa ông gần 30 năm. Về chuyện ‘’Câu nói’’,
người xưa đã từng khuyên: ‘’Nhất ngôn ký xuất, Tứ Mã nan truy’’, ‘’Uốn lưỡi bảy
lần trước khi nói’’! Một số Văn Nghệ Sĩ có dịp gặp Văn Cao (lúc sinh thời) - lại
có ý kiến khác: Văn Cao từng tâm sự rằng, giữa lúc cuộc Cải Cách Ruộng Đất
có sai, toàn Đảng Lao động Việt Nam tiến hành sửa sai... để làm giảm sức căng
và áp lực dư luận, anh chị em Văn Nghệ Sĩ của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm bị
đưa ra ‘’trám lỗ hổng’’ để lái dư luận dãn ra... Dù cho thuyết nào đúng, Văn Cao vẫn là người bị trù dập có
phần oan uổng. Thật đáng tiếc cho Nền Âm nhạc, Thi ca Việt Nam ở nửa sau của
thế kỷ 20. Văn Cao bị treo bút là đã mất đi một tài năng đang độ viên mãn.
Mãi cho đến khi đất nước thống nhất (1975), ông sáng tác và công bố ca khúc
Mùa Xuân Đầu Tiên, được những người yêu nhạc cả nước đón nhận nồng nhiệt.
Trong bài hát có câu: ‘’... Từ nay người biết yêu người...’’ - đó là nỗi niềm
trăn trở trong suốt cuộc đời ông! Vào cuối năm 1981, nhận một lần gặp Nguyễn Nghiêm Bằng -
con trai thứ của Nhạc sĩ Văn Cao, cùng học ở Đại học xây dựng. Vốn ngưỡng mộ
người nhạc sĩ lừng danh, tôi ngỏ ý muốn đến thăm nhà anh với mục đích được gặp
tác giả Tiến quân ca. Bằng vui vẻ nhận lời, đưa tôi về chơi. Cửa vào căn hộ nằm
lệch một bên. Căn phòng lớn được ngăn thành nhiều buồng để ông bà cùng ba người
con trai và một cô con gái sinh sống. Bạn đọc biết không: Căn hộ một buồng của một
gia đình sáu người này, không có nhà vệ sinh. Muốn đi, mọi người phải ra ngoài
trời theo cầu thang đi xuống tầng trệt! Phòng ngoài cùng là nơi ngủ, tiếp các bạn Văn - Sĩ, và để
tác giả sáng tác. cạnh cửa sổ đặt chiếc Dương cầm, vỏ gỗ trông cũ kỹ. Vách
ngăn là chiếc tủ gỗ chỉ hai khoang ở phía dưới có cánh cửa dùng để đựng quần
áo, còn bên trên để trống, làm giá sách và những thứ linh tinh. Trên tường ở
ba mặt - treo la liệt những bức vẽ của tác giả. Tôi nhớ rõ: Một bức vẽ hình
người nhưng có hai mặt trên cùng một cái đầu, bức khác vẽ bà Nghiêm Thị Băng
- bạn đời của ông lúc còn trẻ... Sát tủ, song song, kê chiếc giường cá nhân
cho ông nằm. Cạnh giường đặt một bàn gỗ, bốn chiếc ghế. Để tiết kiệm diện tích
và không gian, bàn, ghế được thửa vừa nhỏ để chủ nhân có thể ngồi ngay trên
giường tiếp khách... rượu. Lúc này, trên ghế có hai người khách, trong đó một người là
nhà văn Đỗ Chu (Bằng đã cho tôi biết, bố mẹ anh rất quý Đỗ Chu, Bố thường
cùng Đỗ Chu uống rượu). Tôi chào, chủ nhân ngẩng lên đáp lời rồi lại hướng
vào ‘’thầy tướng’’ Đỗ Chu, nghe thầy ‘’phán’’. Nguyễn Nghiêm Bằng kéo ghế mời
tôi ngồi, nói với bố mẹ: Con đưa anh bạn tới chơi, nhân tiện nhờ anh Đỗ Chu
bói cho anh ấy một quẻ. - Ừ, ngồi cùng nghe rồi Chu sẽ xem cho. Sau ít phút, Đỗ Chu kết thúc quẻ, quay sang tôi bỗ bã, hỏi:
Ông muốn xem thế nào? - Xin ông xem hộ tôi: Có thể xuất ngoại được đợt này không?
Tôi nói ngày tháng năm sinh. Đỗ Chu cắm cúi lập bảng... Nhạc sĩ hướng vào
tôi, hỏi nơi tôi công tác, gia cảnh... tôi trả lời... lúc này Bằng mới rút từ
trong túi ra chai Russkaia Vodka đưa cho bố: Anh Quang biếu bố chai rượu được
cơ quan Cục chuyên gia phân phối nhân thể anh ấy sắp lên đường đi Hợp tác lao
động. Vào thời đó, đối với người thích rượu, chai Vodka Nga là
món quà quý, ông Văn Cao cầm chai rượu ngắm nghía rồi cười vui.... Vừa đúng
lúc ‘’Thầy’’ lập xong bảng. Anh nói vắn tắt: Ông tuổi Nhâm Ngọ... sao này chắn,
sao kia giải... sẽ phát lộc ở nơi xa rồi quả quyết: Lần này nhất định
ông sẽ đi được. Đỗ Chu được mọi người tán thưởng vì anh xem tử vi có tiếng
trong giới nhà văn trẻ, đa số đối tượng được anh xem đều công nhận đúng. Với
tôi, quả thật quẻ tử vi và lời phán của anh đã ứng: Chỉ hai tuần sau, tôi lên
đường đi HTLĐ ở Bulgaria. Ở những năm đầu của thập niên tám mươi - khi mà chủ trương
thay quốc ca đưa ra, Văn Cao thực sự rất buồn. Không buồn sao được khi
mà dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân Việt, niềm tự hào
cao nhất của nhạc sĩ - sắp bị xóa sạch. Ông lui về ‘’cố thủ’’ trong căn phòng
nhỏ bé, chật chội, vui cùng những chai rượu cuốc lủi (nút lá chuối khô) nức
hương mùi gạo nếp. Sinh hoạt của nhạc sị thời gian này thường gói gọn trong
căn hộ của mình, nhiều bạn hữu đến thăm khiến ông suốt ngày nhận quà rượu và
đãi rượu bạn... Tài uống rượu suông - uống ‘’xếch' (không mồi nhắm) - của ông
thật ‘’kinh người’’ khiến các đệ tử Lưu Linh của đất Hà Thành phải kính nể.
Ông có thể uống rượu liền tục trong ngày với bạn bè mà vẫn tỉnh
táo... Vào năm 1981 đó, không hiểu do từ ai, lý do gì lại đề xuất
thay bản Quốc Ca đã dùng từ ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
- bằng bản Quốc Ca mới. Mọi người đều rõ: Bài Tiến Quân Ca của Văn Cao - được
dùng làm Quốc ca của Chính phủ cách mạng lâm thời - ra đời năm 1944, khi ông
Trường Chinh làm Quyền Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dương (tiền thân của Đảng
CSVN ngày nay). Như vậy, chắc chắn thay Quốc Ca không phải do ông Trường
Chinh chủ xướng. Có thể do ‘’cay cú’’ trước uy tín, tài năng của Văn Cao, người
ta đi đến quyết định tai hại ''xóa sạch dấu vết'' của ông bằng cách thay Quốc
ca chăng? Nhưng, đây là nghị quyết của Bộ chính trị, cần phải thực hiện
nghiêm chỉnh! Thế là một bộ máy chỉ đạo thi sáng tác Quốc ca được thành lập...
tiếp theo đó, hàng chục nhạc sĩ, hàng trăm người có lòng nhiệt huyết với bản
quốc thiều của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam - lao vào sáng tác dự thi... Ròng rã nhiều ngày, đài Phát thanh, đài Truyền hình quốc
gia, địa phương thi nhau phát các bài dự thi tuyển chọn Quốc Ca để trưng cầu
dân ý, chọn lấy một chiếc ''cột cờ trong bó đũa''. Xung quanh việc tuyển chọn
quốc ca mới có rất nhiều giai thoại. Một nghệ sĩ danh tiếng của đất Hà Thành
kể lại: ‘‘... Một lần tôi vào quán nhậu Thanh Hoa (nằm trong
sân trụ sở 5 hội chuyên ngành - 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội). Chợt nhìn thấy sát tường
rào có bàn rượu đang ồn ào, với 6 người mặt mũi đỏ gay... đột nhiên một người
cất tiếng hát khe khẽ nhưng rõ tiếng:
Ai đã từng nghe qua quốc ca cu (cũ), quốc ca cu có nhiều thiếu sót Ai đã từng nghe quốc ca cù (cũ) quốc ca cù, quốc quốc ca cú (cũ) Buổi xuất quân Tiểu đoàn năm ấy cả Tiểu đoàn ca quốc ca cù Người chiến sĩ, ca bài quốc ca cú... Tôi dừng lại chăm chú nhìn và nghe... rồi tai ù đi vì lời
bài hát do người hát nhại theo bài Tiểu Đoàn 307, với những câu ''Quốc Ca
Cu... Quốc Ca Cù... Quốc Ca Cú''... ép vần cho phù hợp với cung bậc, giai điệu
của nốt nhạc, lặp đi lặp lại, làm người nghe lúc đầu ngỡ ngàng rồi sau thì
không nén chịu được phải cười hết cỡ... ‘’thợ mộc’’! Người hát vốn là nghệ sĩ có tuổi. Anh hát theo kiểu ép vần
của Bút Tre, nhại lại giai điệu bài hát Tiểu đoàn 307, nhạc Nguyễn Hữu Trí,
bài tủ của nghệ sĩ Quốc Hương. Lời đặt nhại từ đầu đến cuối, mà đoạn đầu bài
hát gốc - nguyên văn: Ai đã từng đi qua Cửu Long Giang Cửu Long Giang sóng trào nước xoáy. Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn, tiếng tiểu đoàn Ba trăm lẻ bảy. Buổi xuất quân tiểu đoàn năm ấy, cả tiểu đoàn thề dưới sao vàng, Người chiến sĩ tiếc gì máu rơi... Điều làm cho người được chứng kiến phải bật cười. Người hát
có cặp mắt hơi trố, cứ long lên, đảo liên hồi, nhìn hết người này đến người
kia, trong đó như ngầm bắn ra lời chất vấn ''Tại sao... tại sao?...''. Bài
hát dứt, mọi người ngồi xung quanh được dịp đế vào... câu chuyện thay quốc ca
cứ thế nổ ran… Cũng từ ở đây, khi xã hội đang đói kém, kinh tế kiệt quệ… một
vè ''Sấm Trạng'' từ trong dân gian được phổ biến, lan truyền: Thứ nhất là loạn Quốc Ca - (thi Quốc Ca) Thứ nhì loạn gạo - (Đói, gạo tăng giá từng ngày...) Thứ ba loạn tiền - (Đổi tiền, đồng tiền mất giá, trượt giá từng ngày...) Tư Loạn mua chức, bán quyền Thứ Năm buôn lậu, chích, ghiền, xì ke Thứ Sáu loạn hội, loạn bè (lúc này rất nhiều Hội ra đời) Bảy, Tám loạn Híp (HIV, AIDS), loạn nghề mạị dâm Thứ Chín - trộm, cắp tràn lan. Mười Loạn tham nhũng, quan tham lộng hành. Nước nghèo, Dân đói triền miên Bao giờ hết loạn: Nước lên, Dân giàu! (Giai đoạn này nhà thơ Tố Hữu đang làm Phó thủ tướng thứ nhất
(Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng - theo mô hình tổ chức chính phủ của Liên
Xô). Dư luận xã hội hoàn toàn không tán thành việc thay bài Quốc
ca. Theo họ: ''Tiến Quân Ca - Quốc Ca - ra đời trong không khí sục
sôi vùng lên của toàn dân tộc đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập.
Bài hát đã thúc dục người người lớp lớp... ngã xuống... tiến lên! Giờ đây,
không có một lý do nào chính đáng để thay thế bài Quốc ca''. Trên thực tế, hàng trăm bài, để chọn ra 10 bài hát, cũng
không có bài nào sánh được bài Tiến Quân Ca của Văn Cao - xét thuần túy về
nghệ thuật. Văn Cao có viết một bài đăng trên báo Nhân Dân vẻ ‘’cam chịu’’ về
chủ trương thay Quốc ca này... sau đó lặng lẽ lui về ''Uống rượu say rồi hát
Quốc ca’’ - của mình, nhớ về những kỷ niệm khi bài Tiến
Quân Ca được Quốc Dân Đại Hội ở Tân Trào chọn làm Quốc Ca của chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa... Có thể giới quân sự ngầm không đồng tình, dư luận của
nhân dân phản đối... cuối cùng chủ trương thay Quốc Ca bị lặng lẽ xóa bỏ. Ai
là người đầu tiên khởi xướng cho một việc làm tai hại này? Năm 1986 - năm đất nước đổi mới, Văn Cao được phong tặng những
danh hiệu cao quý, các sáng tác trước đó hầu như bị cấm phổ biến, dần được phục
hồi bằng cách cho tổ chức các đêm nhạc, các nghệ sĩ được hát tất cả những bài
hát của Văn Cao. Ông còn được cấp nhà mới - thay cho căn nhà nhỏ bé, chật chội
mà ông bà cùng các con sinh sống suốt mấy chục năm. Đây thực sự là một sự đãi
ngộ đền bù. Tuy chậm nhưng còn kịp. Văn Cao chỉ được hưởng những ‘’ân sủng’’
không bao lâu rồi theo quy luật của cuộc sống ông đã về với tổ tiên mình. Lúc sống - một thời gian dài bị trù dập, bạc đãi, giờ nằm
xuống Văn Cao hầu như đã được phục vị trong lòng người dân Việt, làm dịu đi phần
nào ý nghĩa câu ngạn ngữ: ''Lúc sống thì chẳng cho ăn/ Khi chết bày vẽ
làm văn tế ruồi'’. Xuân Sách vẽ chân dung số 2 bằng ngôn ngữ, bỗ bã nhưng toát
lên vẻ kính phục: Bỉ Vỏ một thời oanh liệt nhỉ Sóng Gầm sông lấp mấy ai hay Cơn Bão đến động rừng Yên Thế Con Hổ già uống rượu giả vờ say. Bỉ Vỏ (Tiểu thuyết), Sóng Gầm (Tiểu thuyết), Cơn bão đã đến (Tiểu thuyết) Núi rừng Yên Thế (Tiểu thuyết) - là bốn trong số nhiều sáng tác của người được được mệnh danh là Nhà Văn từ ‘’bùn lầy nước đọng đi lên’. Đó chính là NGUYÊN HỒNG. Ông tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5
tháng 11 năm 1918 (tại Nam Định, mất ngày 2 tháng 5 năm 1982)
- trong một gia đình nghèo, mồ côi cha, từ nhỏ theo mẹ ra Hải
Phòng kiếm sống. Nguyên Hồng bắt đầu viết văn từ năm 1936 với
truyện ngắn đầu tay tựa đề "Linh Hồn", đăng trên Tiểu
thuyết thứ 7. Năm sau (1937), ông cho xuất bản tiểu thuyết Bỉ Vỏ - tác phẩm
thực sự gây tiếng vang trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ. Bỉ Vỏ là bức tranh
xã hội sinh động về thân phận những con người nhỏ bé dưới đáy cuộc đời như Tám
Bính, Năm Sài Gòn... Cho đến nay, Bỉ Vỏ và các nhân vật của cuốn
sách vẫn được người đọc yêu quý, tìm đọc. Nguyên Hồng tham gia Cách mạng từ năm 1935, năm 1940 bị
Pháp bắt tù… Cách mạng tháng 8/1945 nổ ra, cũng như nhiều Văn Nghệ Sĩ đương thời, ông tham gia hăng hái. Toàn quốc kháng chiến, Nguyên Hồng đi
kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại - Năm 1956, ồng cùng Nguyễn Công
Hoan được giao trọng trách lãnh đạo tuần báo Văn của hội nhà Văn Việt Nam. Lẽ
ra, nhiệm vụ là phải dùng diễn đàn của báo Văn ’’vạch mặt’’, phê phán nhóm
Nhân Văn Giai Phẩm... Nguyên Hồng đã không hoàn thành nhiệm vụ, trái lại có
phần nương nhẹ, nể nang, thậm chí ’’phụ họa’’. Báo Văn phải đình bản. Nguyên
Hồng bị Kiểm điểm vì quan điểm mơ hồ trước cuộc ’’đấu tranh giai cấp’’ đang
diễn ra gay gắt ’’một mất, một còn’’. Phần khác, cùng lúc ông lại viết một
truyện ngắn cho đăng trên báo Văn mà nội dung cũng ‘’mơ hồ’’ trước kẻ thù -
cái ác - biểu tượng là Con hổ. Thực ra - theo Tô Hoài - Truyện này
Nguyên Hồng viết theo lời kể của cụ bà - mẹ mình. Câu chuyện chỉ mang đậm
tinh nhân văn chứ không chứa hàm ý gì khác, hoặc hai mặt. Có thể tóm tắt: ''Một phường săn bắt được chú Hổ con vài tháng tuổi ở trong rừng, đem
về nuôi. Do còn bé, Hổ con được nuôi như nuôi chó. Con hổ lớn lên hiền như...
chó thật. Hàng ngày nó sống hòa bình vơi gia súc dưới sự chỉ huy của con người.
Nhưng vốn gốc dòng Hổ, mọi người biết nó rất hiền nhưng nhìn nó vẫn... sợ
không dám gần. Người chủ đành đưa Hổ thả về rừng. Ít lâu sau ‘’Hổ ta’’ nhớ...
người - lại quay trở về...''. Nội dung chỉ có vậy. Truyện đăng tải vào lúc xã hội miền Bắc đang có những biến
động lớn: Cải cách ruộng đất có sai, Đảng phải tiến hành sửa sai. Nhóm Nhân
Văn Giai Phẩm đang ’’khuấy động dư luận’’ - đòi Văn Nghệ Sĩ tự do trong sáng
tác... Không khí của những buổi họp kiểm điểm được Tô Hoài nhớ lại, viết in
trong tập hồi ký Cát Bụi Chân Ai: ''Tôi ngồi cạnh Nguyên Hồng. Kiểm điểm Nguyên Hồng một buổi vẫn chưa xong. Một chồng báo
Văn, như mọi hôm. Cả tổ với nhiều tổ khác tới viện trợ cũng không hỏi thêm
Nguyên Hồng một câu nào nữa. Bây giờ mà động đến, lại phân tích, lại bổ xung,
lại ''tôi xin góp'' - thì chắc lại như hôm qua, hôm kia, trông trước kia kìa:
Nguyên Hồng xòe bàn tay (úp) trên chồng báo vuốt vuốt, mếu máo nói, nước mắt
như trút... Tôi thức đêm thức hôm... tôi bỏ hết sáng tác, ngày đêm tôi chỉ
nghĩ đến tờ báo... bài này đề tài công nhân... bài về kháng chiến... bài về
thống nhất... bài về sửa sai Cải cách ruộng đất... tôi không... tôi không...
rồi chẳng mấy lúc Nguyên Hồng khóc hu hu... (CBCA trang 119) … Nguyên Hồng bật khóc, khóc tức tưởi, khóc òa trong những
buổi đấu tố triền miên đó. Ông tìm người này, người kia kiện cáo, thanh minh
kể cả tìm tới ông Nguyễn Lương Bằng (được thời đó mệnh danh là Bao Công của
Việt Nam). Kết quả vẫn chẳng đi đến đâu… ‘’… Khi đưa cho Nguyên Hồng bài báo Tô Hoài viết đăng trên
báo Nhân dân. Đọc xong, Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi xua tay,
nói như hét vào mặt tôi (Tô Hoài): Tiên sư thằng Câu Tiễn (1)!. Ông
thì không. Nguyên Hồng thì không! Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi rồi cứ phủ phục thế, thút
thít. Chị ấy bỏ chảo nem, chạy đến: Thầy nó làm sao? Lại làm sao thế? Tôi đỡ Nguyên Hồng lên. Bà cụ có lẽ nặng tai, vẫn ngồi rờ
rẫm khâu ríu chỗ rách. Dưới sân, trẻ con đùa cười như nắc nẻ, lại cành cạch
tiếng giã cua… như không có gì mới xẩy ra. Chúng tôi ngồi trở lại, yên lặng
như từ nãy vẫn thế. Nguyên Hồng noi khẽ: Tao tính cả rồi. Trông đây này: Gian
phòng vẫn bề bộn màn mùng như mọi khi... tôi gật gù, nhưng thật cũng chưa hiểu
ra như thế nào. - Tao về Nhã Nam. - Về Nhã Nam? - Ừ, Nhã Nam. Đủ lắm rồi. Ông đ... chơi với chúng mày nữa...''
(CBCA trang 129). Dường như không thể chịu đựng hơn, Nguyên Hồng xin về hưu ở
tuổi ngoài 50 - một hiện tượng độc đáo trong giới cầm bút miền Bắc từ trước -
(kể cả cho tới nay). Cũng có thể xem là đặc biệt có một không hai đối với
hàng ngũ cán bộ đi theo Kháng chiên chống Pháp ở những năm đầu của thập niên
sáu mươi của thế kỷ 20. Ông trở lại Nhã Nam - nơi hồi kháng chiến chống Pháp
cơ quan văn Nghệ sơ tán - dựng nhà cùng vợ con sinh sống. Trong Chân Dung Nhà Văn, Xuân Sách đã nhắc đến
Con Hổ ‘’già’’ - bố của Hổ ‘’bé’’ mà ông lấy làm vật hình tượng - tải đi tư
tưởng trong truyện ngắn kia. Hổ ‘’con’’ của Nguyên Hồng do Người nuôi lớn
lên, được sống hòa bình với những con vật khác. Nhưng vì là... Hổ, nên không
được Người chấp nhận. ‘’Cậu’’ bị xua đuổi vào rừng... nhưng đã quen cuộc sống
bình lặng, ’’Cậu’’ ta không chịu được môi trường sống của đồng loại hoang dã,
lộn trở về với... Người! Nhưng lại vẫn bị Người xua đi! Khác với Hổ con của Nguyên Hồng, Hổ ‘’thanh niên‘’ - của Thế
Lữ - bị bắt nhốt làm cảnh, ''buồn’’ lặng lẽ trút tàn hơi, gầm lên: ''Hỡi rừng
xanh kiêu hãnh của ta ơi'' (2)! Còn ông bố chúng nó - ‘’Hổ già’’ thì… khóc òa, khóc tức tưởi
rồi vùi mình trong những cơn say sưa thực và cả ''giả vờ say'' - để quên hết
nỗi buồn rồi quyết định đi... ở ẩn. Cuộc về hưu non, thực chất là trốn chạy,
làm chúng ta nhớ tới chuyện Giới Tử Thôi thời Đông chu liệt quốc bên Trung Hoa
cách đây hơn 2000 năm, câu chuyện có thể tóm tắt: Giới Tử Thôi là trung thần nhà Tấn, theo Tấn Văn Công Trùng
Nhĩ tòng vong (đi trốn, lánh nạn cùng chủ). Khi Tấn Văn Công đói,
Giới Tử Thôi đã cắt thịt đùi mình cho chủ ăn. Lúc trở về lên ngôi vua, Tấn
Văn Công ban thưởng cho mọi người nhưng lại quên Giới Tử Thôi. Có người biết
chuyện trách, Tấn Văn Công hối hận cho người đi tìm... Giới Tử Thôi buồn, chán cho thế sự tình người - cõng mẹ già đi vào rừng sâu ở ẩn... Trùng Nhĩ thân chinh đến cửa rừng gọi, sai quân lính
đi tìm, Giới Tử Thôi nhất quyết không ra. Một công thần mách: Đại vương cứ
cho đốt rừng, Giời Tử Thôi rất có hiếu với mẹ, sợ mẹ nguy hiểm nhất định sẽ
trở ra. Tấn Văn Công làm theo. Giới Tử Thôi thực sự lo cho mẹ, quyết định cõng mẹ trở ra gặp
Trùng Nhĩ đang đứng đợi ở cửa rừng. Mẹ thương con không chịu để con chịu nhục
quyết định cùng chịu chết cháy chứ không về theo lời kêu gọi của Tân Văn Công
- Đông Chu Liệt Quốc, Hồi 36.(3)! Nguyên Hồng có một đặc điểm: Hay xúc động, dễ khóc! Sau này, nhiều người từng quen biết Nguyên Hồng kể lại những
tình huống ông… khóc! Mỗi khi đối tượng mà ông quen biết, nghe kể… gặp những
trắc trở, ông khóc thay cho họ. Từ khi lùi về ẩn dật ở Nhã Nam - Yên Thế, tâm
tính Nguyên Hồng như biến đổi... Vũ Thư Hiên kể lại: Một lần gặp Nguyên Hồng trên đường phố
Hà Nội, ông định tới bắt tay - chào tác giả Bỉ Vỏ. Đột nhiên khi nhìn thấy bạn
văn, Nguyên Hồng làm một động tác kỳ lạ: Lùi lại, tạt vào vệ cỏ bên đường,
chắp hai tay trước ngực, vái... vái - như động tác của các nhà quân tử xưa,
kính trọng nhau khi gặp mặt - thay cho câu nói, tiếng chào đáp lại thịnh tình
của Vũ ’’tiên sinh’’ rồi - vội vã bỏ đi... Từ 1946 - đến khi chết 1985 - 40 năm, Nguyên Hồng viết nhiều,
điển hình là bộ tiểu thuyết Sóng Gầm, bộ trường thiên tiểu thuyết Cửa Biển,
và rất nhiều tác phẩm khác. Nhưng các tác phẩm này không được độc giả yêu
thích bằng Bỉ Vỏ và Những ngày thơ ấu - xuất bản trước
1945. Người ta nhớ mãi câu: Anh đây công tử không Vòm/ Ngày mai Kẹn rệp
biết Mòm vào đâu. Các từ: Vòm (nhà), Kẹn rệp (túng thiếu, đói), Mòm (ăn) - được
nhân vật Bỉ Vỏ nói, từ hơn 70 năm trước - bây giờ giới trẻ ’’bặm trợn’’ - vẫn
dùng... Chú thích: (1) Câu Tiễn là vua nước Việt, thua trận, bi vua nước Ngô
là Phù Sai bắt đem về nước Ngô - cầm tù. Vì quyết tâm trả mối thù… Câu Tiễn
nghe theo lời quân sư Phạm Lãi, chịu nín nhịn, chờ thời. Trong đó phải kể tới
chi tiết: Để lấy lòng Phù Sai, Câu Tiễn đã ‘’nếm phân’’ của Phù sai, nhằm chứng
minh rằng mình đã hết lòng với vua Ngô, không có ý làm phản… Phù Sai mất cảnh giác không nghe lời can gián của quân sư
Ngũ Tử Tư - tha chết cho vợ chồng Câu Tiễn. Nhờ đó Câu Tiễn đã trở về nước phục
vị lặng lẽ chuẩn bị lực lượng rồi khi đủ sức, Câu Tiễn mang quân tiêu diệt
Phù Sai, chiếm lại nước Ngô… (2) Câu này theo các bản đang lưu hành đã được Thế Lữ
sửa lại. Bản Nhớ Rừng được Hoài Thanh đưa vào cuốn Thi Nhân Việt Nam
xuất bản năm 1941, tái bản năm 1977, nguyên văn như sau: ''Hỡi cảnh rừng
ghê gớm của ta ơi''. (3) Mặc dù đã hàng nghìn năm, dân TQ vẫn ghi nhận sự tích
này trong đời thường: Để kỷ niệm ngày GTT chết cháy, hàng năm, vào ngày đó
người ta có tục kiêng lửa gọi tết Hàn Thực (ăn đồ lạnh) không nấu nướng.22/8/2008Lê Xuân Quang Theo
https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét