Tế Hanh họ Trần, sinh ngày 15.5.1921, tuổi Tân Dậu. Mới
nghe tên Thi sĩ, người đọc nghĩ và đặt câu hỏi: Phải chăng Tế Hanh là hậu duệ
của đại thi hào Trần Tế Xương? Nhưng sau khi trên báo có một bài viết về Tế
Hanh... người đọc mới biết: Cụ thân sinh ra ông, vốn là người yêu thích văn
thơ, đặc biệt là thơ của thi hào Tú Xương. Khi sinh con trai - vì cụ cũng
mang họ Trần - nên quyết định đặt cho con tên Tế Hanh - mong sau này Trần Tế
Hanh theo bước đại Thi hào Trần Tế Xương - cụ Tú nổi tiếng của
vùng đất khoa bảng Nam Định... Tế Hanh được cha rèn dũa, bồi đắp kiến thức thơ văn từ bé,
được sống trong làng quê yên bình... tài năng bẩm sinh cộng với ngoại cảnh,
môi trường vun đắp, Thi tài trong ông dần định hình. Nhưng vì chưa được ’’Cọ
sát’’, Tế Hanh vẫn chỉ ấp ủ Thơ trong lòng, ẩn mình nơi thôn dã... Sau khi đậu sơ học - cấp Tiểu học ngày nay - ông rời làng
Đông Yên Phủ Bình Sơn Quảng Ngãi, ra kinh đô Huế, học lên tiếp. Ở Huế - mới
chỉ ở độ tuổi ’’Trăng tròn lẻ’’ - Tế Hanh được Thi sĩ Huy Cận chỉ dẫn, giúp đỡ,
khích lệ... ông xuất bản tập thơ Nghẹn Ngào (1) Năm
1939, Tự Lực Văn Đoàn trao giải thưởng Khuyến khích cho Nghẹn Ngào cùng
với Bức tranh quê của nữ sĩ Anh Thơ. Nghẹn Ngào viết về làng quê nghèo nằm ven biển miền
Trung. Người đọc cảm nhận được hồn quê, niềm yêu thương tha thiết với quê
hương của Tế Hanh qua các vần thơ. Từ việc nhìn con đường nhỏ chạy lang thang
xung quanh làng... Ngày hè nghỉ học, ra ga, thấy những đầu máy, toa xe
’’vương vấn trong hơi máy’’, những tiếng xình xịch của máy hơi nước, tiếng loãng xoảng của xích sắt khi dồn toa... tác giả tưởng tượng ra dường như chúng mang
’’đầy nặng khổ đau’’... quan sát Làng chài lưới với những con thuyền đánh cá,
Ngư phủ ra khơi... Tế Hanh thu lượm, biến những thứ bình dị đó
thành Thơ, truyền cảm xúc đến người đọc. Thơ Tế Hanh đặc biệt gây ấn
tượng mạnh đối với những người xa nhà, phiêu bạt, khiến sự nhớ thương Quê
hương thêm đậm đà da diết. Từ Quảng Ngãi ra Huế không xa, nhưng cũng đủ gợi
cho Tác giả cảm xúc, thể hiện trong các thi phẩm điển hình: Quê hương, Lời
con đường quê, Vu vơ, Ao ước... Riêng tôi và những bạn học cùng trang lứa thời thơ ấu, bài
thơ Quê Hương có một kỉ niệm sâu đậm: Thầy giáo dạy chúng tôi ở trường làng
chừng trên dưới 60. Lớp học gồm nhiều lứa tuổi. Có nhiều anh, thậm chí nhiều
chú - cùng học chung một lớp với lũ ’’tí nhau’’. Môn văn, chia ra: Tập đọc, học
thuộc lòng, nghe thầy bình giảng và tự làm Luận. Sách dây văn gọi là Quốc Văn
Giáo Khoa Thư, tới cuối những năm 40 của thế kỷ trước - sách soạn bổ sung đổi thành Tân
Quốc Văn. Thầy biết cả Hán học, Pháp văn, còn Việt Văn thì khỏi nói. Thầy giảng
văn rất hay... Tuy vậy, vốn ham chơi, chúng tôi chưa thật chăm, Thầy lại tận
tụy với nghề, rất nghiêm khiến bọn tôi như bị ’’cưỡng bức’’ phải chăm học. Giờ Quốc Văn lần này, thầy bình giảng bài thơ
Quê Hương của Thi sĩ Tế Hanh. Tôi nhớ rõ bài Quê Hương in trong TQV với nhiều bài viết của
các tác giả quen thuộc đương thời: Nhà Mẹ Lê (Thạch Lam), Chùa
Long Giáng (Khái Hưng), Lô Hồ (Lan Khai), Dọc đường gió bụi (Hoàng
Đạo) và rất nhiều tác giả khác... Anh học sinh lớn nhất lớp đọc thuộc lòng bài thơ. Giọng anh
ngân nga đầy âm điệu khiến lũ trẻ ờ đồng bằng mường tượng ra ngay làng Chài
ven biển, vào một buổi ’’sớm mai hồng’’... con thuyền giương cánh buồm
nâu với những Ngư phủ vạm vỡ, cường tráng ’’làn da ngâm rám nắng’’
- ra khơi... Từ bài thơ, chúng tôi cảm nhận được tất cả khung cảnh làng Chài
với những hình ảnh, mầu sắc sống động... Khi cả lớp im lặng tập trung nghe... Đột nhiên có tiếng xì
xầm, ’’chí chóe’’ như hai kẻ đang tranh giành nhau cái gì đó... Thầy ngừng
nói, hơi cúi đầu, cặp kính Lão trễ xuống mũi: Phía sau mắt kính là đôi mắt
sáng (như hai vệt đèn Pin), trừng trừng phóng vào chỗ mất trật tự. Sau đó…
sau đó - y như rằng: Hai thủ phạm gây ra ồn ào bị truy hỏi bài... bí đến ’’tắc
nghẹn’’. Thực ra, bắt chúng tôi phải chăm học còn một nguyên nhân
khác: Chiếc roi Mây treo trên góc bảng. Trí tưởng của bọn trẻ hình dung nó
là... ’’hung thần’’. Tuy chỉ là đồ vật, nhưng khi nhìn chăm chú, dường như nó
nói ra lời: Hãy coi chừng! Đừng để ta vút vào mông các cậu!. Ác
cái, thầy treo chiếc roi Mây ở góc phải trên bảng khiến hầu như các cặp mắt của
cả lớp đều thường xuyên nhìn thấy và ’’nghe’’ được tiếng nó... ’’dọa’’. Giờ tập đọc, bình giảng xong, thầy yêu cầu cả lớp về nhà phải
học thuộc. Quê Hương dài 20 câu, thể thơ tự do, câu 8 chữ - hẹn 3 hôm
sau sẽ kiểm tra cho điểm. Mấy đứa ngồi cạnh nhau suýt xoa: Thế là hết cả Dế với
Ve, (Dế mèn được chúng tôi thích vì chúng là chiến binh chọi hăng nhất trong
các con vật biết chọi…). Đúng hẹn trả bài, thầy gọi từng đứa lần lượt đọc. Đứa nào đọc,
thuộc, giọng hay được cho điểm cao, ngồi yên chỗ, không thuộc tự động lên khoảnh
đất trước tấm bảng đen - xếp hàng nằm xấp, duỗi thẳng cẳng... chờ. Tai ác
thay, nằm dưới lại vừa đúng tầm hướng mắt vào chiếc roi Mây treo trên đầu,
các ’’tội nhân’’ chỉ còn biết rùng mình và… run. Khi đã gọi hết lượt, thầy quay sang hỏi đám đang nằm dài:
Trò nào muốn, đứng lên đọc, thuộc - về chỗ, không thuộc - nằm nguyên. Chỉ có
hai đứa thoát nạn, còn lại sáu, mỗi thằng nhận hai roi mậy. Chao ơi! Roi mây… Roi mây - Nỗi kinh hoàng của đám trò lười
nhác, ham chơi: Nó dài chừng 0,70 mét, làm bằng đoạn cây Mây, đường
kính chừng 5 đến 7 ly - thôn quê trồng để làm lạt buộc cạp rổ, rá,
thúng, mủng, dần, sàng, nong, nia… Mây dai, bền một cách đặc biệt. Ở cán cầm,
được cuộn lại thành vòng tròn để luồn tay vào cho chắc rồi vung lên, giáng xuống…
Trời!. Kinh hãi nhất: Roi tha hồ quật, vụt - đoạn Mây
không hề gẫy, gập. Dường như quật vào người càng nhiều, chiếc roi càng mềm,
dẻo khiến hút… ‘’thịt’’ - càng mạnh! Bạn thử nghĩ xem: Nằm dài, im lặng chờ ngọn roi quất vào
mông thật không có gì khủng khiếp bằng. Chẳng biết ai, từ khi nào đã ‘’phát
minh’’ ra thứ dụng cụ để thầy giáo thay bố ‘’uốn nắn’’ bọn ham chơi - hữu hiệu
đến thế! Cả lớp xanh mắt mèo…
Mấy đứa con gái - mặc dù chỉ phải ngồi chứng kiến nhưng
chiếc roi vun vút, giáng xuống mông bọn con trai, phát ra tiếng đen đét - làm
chúng sợ. Mỗi khi chiếc roi sắp quất xuống mông, chúng lại nhắm mắt, dúm dó -
trông thật buồn cười. Lãnh đòn xong, Thầy còn nhắc: Ngày mai các trò phải đọc
lại, nếu không thuộc, sẽ bị phạt như hôm nay. Sáu đứa mông đau đã đành nhưng
đau hơn là chịu hình phạt trước bao nhiêu cặp mắt của bạn bè, nhất là lũ con
gái. Cứ nghĩ lại, thấy chúng nhăn mặt… khiếp sợ… cảm thấy nhục quá… Tan học, sáu đứa loạng choạng lê bước trên đường làng. Ba đứa
mông tấy đau, rức phải được bạn dìu. Riêng thằng ‘’Mập’’ - con ông Lang thuốc,
nhà có hiệu thuốc Bắc - xem ra đau nhất. Nó béo ục ịch, mông núng nính những
thịt, có lẽ vì vậy mà roi mây ‘’hút’’… thịt khiến Mập đau hơn, khi roi chạm
mông nó rú to nhất. Cu cậu không bước được, mồm rên ư ử… hít hà…
Không kìm được tò mò, mấy đứa giúp dìu, vén ống quần đùi, vạch mông cậu ta,
xem: Một vệt ‘’sưng’’ màu hồng - giống như con lươn đũa, nhỉnh hơn chiếc roi
Mây - chạy từ mông bên này, vắt sang mông bên kia. Đó là kết quả của việc ham
bắt ve sầu, say bắt chuồn chuồn Ngô, chuồn Ớt (đỏ chói, đẹp một cách hấp dẫn)
- không chịu học thuộc lòng bài Quê Hương của Thi sĩ Tế Hanh. Một thằng có khiếu hài hước (sau này trở thành nhà văn N…),
tuy không bị ’’quật’’, nhưng vẫn ôm mông, khệnh khạng, vặn vẹo, mồm rên rỉ: Ôi
Quê hương, Quê hương!. Sao mà ‘’đau’’, mà ‘’rức’’ . Nhìn bộ dạng - ‘’tướng Khỉ’’ - của nó làm trò trên nỗi đau
của các bạn, tôi giận lắm. Nhưng ngẫm ra thật đúng cảnh, đúng tình… cả bọn lại
hùa nhau cười vang. Những thằng bị đòn cũng cười - trông cứ như… mếu! Vẫn chưa hết chuyện: Hôm sau thằng ‘’Kều’’ - chúng tôi đặt
cho thằng Giang biệt danh vì nó cao ngỏng cao nghẻo như cây sậy - than phiền với
cả bọn, giọng lộn xộn… có thể tóm tắt: Thật ’’bất công’’!. Một lần
tớ bị lão hàng xóm say rượu làm ’’trầy da’’, ngay lập tức bố tớ tiện việc đi
chặt tre, xách Dao rựa (2) đến ’’tính sổ’’ với kẻ làm con ông đau. Thế mà bây
giờ tớ ’’lê bước’’ về, mẹ vừa suýt xoa, vừa bóp thuốc… tớ ấm ức khóc. Ai ngờ
ông già ở ngoài về hỏi đầu đuôi, mẹ tường thuật, bố tớ trợn mắt: Bà lui ra! để
đấy tôi ‘’xoa bóp’’ cho nó! Mẹ tớ miễn cưỡng, lẳng lặng ra ghế ngồi. Bố hỏi: Thế vì sao thầy đánh đòn?
Tớ không dám nói thật chỉ ấp úng: Vì… vì… Đến đây thì nín
thít. Bố tiếp: Vì bỏ học, đi lêu lổng, không thuộc bài chứ gì?
Ông già còn nói một thôi một hồi về ý nghĩa của việc học… rồi dẫn
ra một câu chữ Nho - ’’Nhân bất học, bất chi lý. Ấu bất học, Lão hàn
vi’’. Sau rốt kết luận: Ngày mai bố sẽ đến nói để thầy biết: Về
nhà con không chịu học, chỉ suốt ngày hết đáo lỗ đến săn dế, bắn
chim… Tôi òa khóc van xin rối rít: Con hứa sẽ không như thế nữa…
xin bố đừng nói với thầy. Hai bố mẹ nhìn nhau, gật đầu. Thế rồi tớ nín khóc,
bò dậy khỏi giường dở sách học. Chỉ sau hơn một giờ đọc to, đọc đi đọc lại, tớ
thuộc làu bài Quê hương. Nghe ‘’Kều’’ nói xong, mấy đứa bị đòn lại thi nhau kể chuyện
về nhà, thái độ bố mẹ ra sao? Té ra tất cả họ đều đồng tình với việc thầy phạt.
Thời đó, Thầy là trên hết! Đạo lý: Tôn sư trọng đạo được các bậc cha mẹ coi
trọng! Còn đây - Bài thơ làm cho tôi và mấy thằng bạn khốn khổ khi
xưa… nhưng nhờ đó đã thuộc đến độ - hơn 50 năm rồi, tôi vẫn nhớ: QUÊ HƯƠNG Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồn giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thân góp gió Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng lũ lượt kéo ghe về Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng Dân chài lưới lần da ngâm rám nắng Tỏa thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vó. Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Mầu nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! (Nghẹn Ngào)
Gần 20 năm sau từ buổi bị ‘’ăn roi mây’’- khoảng đầu những
năm 60 của thế kỷ 20 - tình cờ một hôm đi làm ca đêm. Tôi đứng dưới chiếc loa
công cộng, chờ xe đưa thợ Mỏ lên tầng cao làm việc. Đài Tiếng nói Việt Nam đang
phát chương trình tiếng thơ. Nghệ sĩ ngâm thơ (hình như Trần Thị Tuyết) -
trình bày bài Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh. Thật kỳ lạ, đây
là tâm tình của tác giả nhớ con sông quê hương ông ở miền nam, nhưng chẳng hiểu
sao tự dưng lòng tôi lại rạt rào thương nhớ con sông quê mình. Tôi cũng xa
quê dù chỉ mấy trăm cây số chứ không xa như Thi sĩ Tế Hanh xa quê
ông... Con sông của Tế Hanh đang được giọng ngâm mượt mà, thiết tha của
nghệ sị tài danh thể hiện, làm tâm hồn người nghe bay bổng, khơi dậy trong
tôi nỗi nhớ con sông quê mình. Dòng sông - nơi mùa hè, chúng tôi cũng đã từng
ra tắm, bơi thi, đuổi nhau, mò cá bắt trai, hến... Con sông của làng tôi
không có bụi tre, nhưng trên bờ có cây si, cây đa, rủ cành lá, che rợp một đoạn
mặt nước. Lời thơ đưa người nghe từ thực tại ngược về quá khứ... rồi phảng phất
trong trí tưởng... Một thoáng bâng khuâng cùng thi sĩ Tế Hanh:... Toàn quốc kháng chiến...
Tế Hanh ''Cầm súng xa nhà đi kháng chiến''... Chín năm
sau - 1955, ông ra Bắc tập kết. Hình ảnh quê hương miền Nam ngày đêm nhức nhối
trong lòng. Gần ba mươi năm tính từ khi ông xa làng Đồng Yên - Bình Sơn. Từ Quảng Ngãi đến Huế, rồi ra tận Hà Nội xa xôi - bài ‘’Quê hương’’ thứ hai ra đời. Nhớ
Con Sông Quê Hương đăng trên báo, ngâm thơ trên đài phát thanh, trình bầy
trong các chương trình văn nghệ - đã làm khán thính giả miền Bắc xúc động. Tế Hanh viết về con sông quê hương mình ở miền Nam, nhưng
người đọc miền Bắc lại đồng cảm với thi sĩ và liên tưởng tới con sông quê
hương của họ với những ký ức xa xăm của quá khứ, để lại trong họ nhiều kỷ niệm
thân thương... Đột nhiên tình yêu quê hương của từng người, được những vần
thơ của Tế Hanh kích thích, chắp cánh… trí tưởng tượng bùng dậy: NHỚ CON SÔNG QUÊ HƯƠNG Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi bóng những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè... Tỏa nắng xuống lòng sông thấp thoáng. Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng Giữ bao nhiêu kỷ niệm của dòng trôi Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi Tôi nhớ mãi mối tình mới mẻ. Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhẩy Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy Bầy chim non bơi lội trên sông Tôi dơ tay ôm nước vào lòng Sóng mở nước ôm tôi vào dạ Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm khuya chài lưới trên sông Kẻ cuốc cầy mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến... Lòng tôi bỗng mưa nguồn sóng biển Lại trở về lưu luyến bên sông. Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng miền Nam... Tôi nhớ không nguôi ánh nắng mầu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tôi nhớ cả những người không quen biết... Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới... Quê hương ơi, lòng tôi cũng như sông Tình Bắc Nam chung chảy một dòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ về sông nước quê hương Tôi sẽ về sông nước của tình thương...
Cả hai bài thơ đều viết về Quê Hương ở hai thời điểm cách
xa nhau gần 30 năm. Cho đến bây giờ, nếu tính từ bài Quê Hương - thi phẩm đã
tồn tại hơn 70 năm. Người đọc, đọc lại - vẫn rạt rào cảm xúc! Các nhạc sĩ cũng sáng tác về Quê Hương - Làng quê mình… Các thi sĩ, văn sĩ khác cũng viết về Làng quê, về Quê hương
… Còn Tế Hanh viết về Quê hương ông: Cửa biển, làng chài,
cánh buồm nâu, những ‘’con cá tươi ngon thân bạc trắng’’, và ‘’con
sông quê mát rượi’’… Đó là đặc trưng của mảnh đất quê ta, dù từ Bắc đến Trung
rồi Nam, đau đâu cũng có những Cảnh, nhưng Người những Tình - giống nhau đến
kỳ lạ! Nơi nào ta đã sinh ra, lớn lên rồi vì lý do này hay lý do khác - vì
mưu sinh - phải xa nó, nhưng dù đi đâu, ở đâu, dù bao năm xa cách, hình ảnh
nó vẫn đọng lại trong ký ức, vẫn mang trong lòng rồi bật lên hai tiếng: Quê
Hương. Thi sĩ Chế Lan Viên đã nói thật chí lý: ‘’… Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua mà chẳng thấy yêu thương Nơi ta ở chỉ là đất ở Nơi ta đi - đất bỗng hóa tâm hồn…’’ Rồi đây sẽ có nhiều người sáng tạo ra những tác phẩm Nghệ
thuật - Văn học đề tài Quê hương, với nhiều sắc thái, cấp độ, quy mô khác
nhau, tựu trung: Tất cả đều nặng lòng với mảnh đất nơi ta sinh ra, lớn lên,
nơi tổ tiên, ông bà, cha mẹ ta sinh sống, nơi 54 dân tộc đã, đang quần tụ… Văn hào Liên Xô (cũ) - Ilia Ê ren bua - đã nói một câu nổi
tiếng, đại ý: Yêu tổ quốc chính là từ lòng yêu quê hương. Tình yêu đó bắt nguồn
từ yêu: cái cây, ngọn cỏ, dòng sông, ghềnh đá, con đường, biển trời, cánh rừng,
bài hát, câu ca dao, mái tranh, người thân… Tất cả gộp lại, nhào trộn nhuần
nhuyễn: Đó chính là nơi mảnh đất tổ tiên, cha ông ta đổ xương máu, mồ hôi, nước
mắt - bồi đắp, dựng lên. Trên từng thước đất của mảnh đất này đã thấm đẫm máu,
trộn lẫn thịt xương các thế hệ đời đời nối tiếp của dân tộc Việt Nam… Chú thích:
(1) Sau đó được đổi tên thành Hoa Niên. (2) Dao Rựa - Nông dân Việt dùng để chặt cây, chặt
Tre, chẻ lạt, chặt xương lợn (thay cho Rìu của nông dân xứ khác). Dao phay để
cắt thịt, cá, rau… Dao bài: Bổ cau têm trầu, bổ bưởi… Dao Nhíp - nhỏ nhất - để
cắt những vật nhỏ như sợi chỉ khâu hoặc cắt móng tay… 15/8/2007 Lê
Xuân Quang Theo https://www.vanchuongviet.org
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét