Không biết Họa sĩ nào đã ký họa Nguyễn Duy - một Nguyễn Duy
trông thật ’’hầm hố’’!. Dưới bức vẽ, Vanchuongviet.org trích lời của cố nhạc
Sĩ Trịnh Công Sơn: ’’Hình hài Nguyễn Duy như đám đất hoang, còn Thơ Nguyễn
Duy là thứ cây quý hiếm mọc trên đám đất hoang đó...’’. Nguyễn Duy tên thực Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7 tháng 12
năm 1948 ở Đồng Vệ, thành phố Thanh Hóa - tỉnh Thanh Hóa. Anh là lớp nhà thơ
thế hệ thứ 3 nếu lấy mốc từ thế hệ Thơ Mới - những năm ba mươi của thế kỷ 20.
Sinh ra trong kháng chiến chống Pháp, trưởng thành hồi kháng chiến chống Mỹ,
vang danh trong hòa bình thống nhất đất nước ở thời điểm ’’Đêm trước
Đổi mới’ - thập niên 80 của thế kỷ 20. Nguyễn Duy nổi tiếng với các thi phẩm: Đánh
thức tiềm lực (1980 - 1982) và Nhìn từ xa... Tổ quốc (1983 -
1988), và Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Tôi biết đến Nguyễn Duy vào cuối năm 1991 nhân dịp người bạn
đồng môn, đồng nghiệp, đồng khoa - kết thúc Hợp đồng Lao động với Liên Sô - vừa
trở về. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, bạn cho quà chai Ruskaia Vodka, đưa cho mấy
số tạp chí Lửa Ấm, xuất bản vào nửa cuối những năm 80 ở Mockba (đã cũ mèm),
trong đó có in hai bài thơ của Nguyễn Duy. Ngoài tin, bài, sáng tác của những
người Hợp tác lao động, sinh viên, lưu học sinh đang sinh sống ở Liên Xô, Lửa
Ấm còn tuyển đăng tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ đã có danh trên văn trường
Việt Nam. Bài thơ Đánh Thức Tiềm Lực (ĐTTL) rất dài, càng đọc
càng bị say mê cuốn hút. Tôi đọc, bạn ra cổng mua mấy chai bia Tầu rồi xuống
bếp làm mồi nhắm. Khi bày bàn nhậu, thấy tôi im lặng nhìn tờ tạp chí đăm
chiêu, bạn ngỡ ngàng hỏi: Sao? Không hay à? Không hợp ’’gu’’ ư? Tớ tưởng... - Không phải - tôi ngặt lời - Trái lại, mình chưa bao giờ đọc
được bài thơ hay đến vậy. Bạn phụ họa: Tôi cũng như cậu khi lần đầu tiên biết đến thơ
Nguyễn Duy. Hai chúng tôi vừa uống bia ’’Tàu’’ (2) vừa mạn đàm sôi nổi về bài
thơ... Đánh thức tiềm lực được Nguyễn Duy viết từ năm 1980,
mãi năm 1982 mới hoàn thành. Thời kỳ đó Việt Nam ở vào ’’Đêm trước đổi mới’’,
đất nước vô cùng khó khăn vì vừa ra khỏi cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài 30
năm, lại phải tiếp tục ngay cuộc chiến tranh mới từ hai đầu: Chống diệt chủng
Pol Pot được quan thấy xúi giục, hung hăng quấy rối biên giới phía Nam và chống
ngoại xâm Trung Hoa ở biên giới phía Bắc. Chưa hết: còn bị Mỹ câm vận, bị cô
lập với thế giới bên ngoài... thôi thì đủ thứ ’’tại - bị’’. Kết thúc chiến
tranh súng đạn, lại phải tiếp tục cuộc ’’chiến’’ với chính mình: Chống trì trệ
và đói nghèo - khiến cả dân tộc gồng mình chống đỡ. Nguyễn Duy đã nghiêm khắc đối diện với thực tại - bằng sự
nhậy cảm của nhà thơ tài năng - dũng cảm gửi gắm lời cảnh báo qua ĐTTL.
Toàn bài thơ toát lên tâm trạng xót xa, trăn trở của một người yêu nước tha
thiết, mãnh liệt rồi truyền cảm xúc cho người đọc. Bài thơ nói về nhiều vấn đề
cốt lõi đang trở thành nỗi đau nhức nhối khiến xã hội như ’’dậm chân hoài một
chỗ’’ (3): ’’... Sông giàu đằng sông, bể giàu đằng bể còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào lòng đất giàu mà mặt đất cứ nghèo sao? Lúc này ta làm thơ cho nhau đưa đẩy làm chi những lời ngọt, lạt ta ca hát quá nhiều về Tiềm lực Tiềm lực còn ngủ yên! Có những câu thơ, đọc lên, người đọc mủi lòng, rưng rưng: Xin em nhìn kìa - người cuốc đất cái cuốc theo ta đời này, đời khác đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất... Xin em hãy nhìn - người gánh phân gánh thóc kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng... nhìn cái đẹp thế kia em có chạnh lòng không? cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa. Suốt bài thơ luôn lặp đi lặp lại điệp khúc: Tiềm lực còn ngủ
yên… Tiềm lực còn ngủ yên - sau những thống kê hiện tượng: ’’... Vì tim
mắc bệnh đập cầm chừng... bộ óc mang khối u tự mãn... con mắt lờ đờ thủy tinh
thể... lỗ tai viêm màng nhĩ... lỗ mũi thở khò khè không phân biệt được mùi
thơm... (thối)’’ - nghĩa là (bệnh) vô cảm của một cơ thể đang ốm nặng, tác giả ’’bốc thuốc’’: Năng động lên nào! Cấn lưu ý... cần lưu ý: lời nói thật có thể bị buộc tôi lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương... lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường Một đoạn thơ mà như khái quát cả góc khuất thế thái nhân
tình của cuộc đời: Có cái miệng làm chức năng cái bẫy Sau nụ cười lởm chởm răng cưa Có cái môi mỏng hơn lá mía Hôn má bên này, bật máu má bên kia... Có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa... Các điệp khúc như một câu hỏi của tác giả đau với nỗi đau
nhân quần. Bài thơ dài 206 câu, mà câu nào của rớm máu, thấm đẫm mồ hôi, chứa chan tủy, não... Năm 1983 - Nguyễn Duy có dịp đến Liên Xô, từ đây anh viết
bài thơ thứ 2 - Nhìn từ xa... Tổ quốc, 5 năm sau (1988) mới hoàn chỉnh. Vẫn
theo cấu trúc của Đánh thức Tiềm lực, từ nơi xa xôi đầy tuyết trắng, đêm
đêm, Nguyễn Duy tĩnh tri nhìn về quê nhà... Ngay từ hơn 20 năm trước,
Nguyễn Duy đã nhìn ra sự bất cập lớn của xã hội: ’’... Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma Ma quái - ma cô - ma tà - ma mãnh... Đạo chích thành tôn giáo phổ thông Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn Buôn lậu, buôn quan, buôn thánh thần - buôn tuốt Quyền lực bày ra, đấu giá trước ông đường. Tác giả trăn trở: Xứ sở linh thiêng sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh… tượng Phật khóc, Đức Tin lưu lạc… Xứ sở kỷ cương sao thật lắm thứ vua Vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chĩa Vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ... Luật pháp như đùa, như có, như không Một người đi chật cả con đường... Những tệ nạn xã hội đã phải báo động: Xứ sở thật thà sao lại lắm thứ điếm điếm biệt thự, điếm chợ, điếm vườn điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn... Trẻ em - tương lai của đất nước - thì: Tuổi thơ oằn vai, mồ hôi nước mắt... tuổi thơ bay như lá ngã tư đường... Nguyễn Duy đau lòng trước cuộc di tản khổng lồ: Xứ sở bao dung sao thật lắm thần dân lìa xứ lắm cuộc chia ly toe toét cười Rồi nhà thơ chỉ ra sự liên hệ hữu cơ - Nguyên nhân gây đến
các bất cập: Chích một mẫu đem xét nghiệm Tí trí thức - tí thợ cầy - tí điếm Tí con buôn - tí cán bộ - tí thằng hề Phật và Ma - mỗi thứ tí ti... Bài thơ này cũng dài 185 câu, câu nào cũng như nhát dao cứa
vào da thịt người đọc. Bẵng đi thời gian - có dễ đến cả chục năm - Nguyễn Duy mới
cho công bố tiếp thi phẩm thứ ba: Kim Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Về cấu
trúc, KMTHT vẫn giống mạch thơ của ĐTTL và TQNTX. Nhưng thi pháp, cấu tứ,
ngôn từ có nét khác. Nếu hai thi phẩm trước đó, tác giả chọn không gian thể hiện
là một nhát cắt - xã hội - theo chiều ngang đễ chiếu lên mặt phẳng,
tạo ra bức tranh toàn cảnh - như cây gỗ quý, cổ thụ - thể hiện chất lượng của
lòng mình bằng những lớp vân với nhiều sắc thái, nhiều đường cong khác nhau
do năm tháng đời gỗ - tạo ra. KMTHT lại được tác giả cắt những hai lát vuông
góc nhau; Chiều thẳng đứng và chiều nằm ngang, thể hiện rất sinh động bức tranh
lập thể ba chiều của xã hội Việt Nam hiện đại. Bài thơ không chỉ nói với người
Việt, đất Việt, mà nó đã vượt biên giới, bay trên không gian cảnh báo, nói với
cả nhân loại đang tồn tại trên hành tinh xanh: Hãy bảo vệ môi sinh cho cái
nôi sự sống. Mở đầu KMTHT, tác giả đặt vấn đề rồi khẳng định: Quả đất nóng dần lên tầng ôzôn có vấn đề gì đó Sọ dừa gặp vấn đè trì trệ Tri thức nhồi vào, tri thức cứ phòi ra Mắt vấn đề toét, tai vấn đề ù bất ổn vấn đề giấc ngủ... Sau những ’’vấn đề’’ - kết thúc chương 1, tác giả kết luận: Đai loạn thay thiên hạ rắc rối vấn đề tầng ôzôn cả thôi! Các chương sau - 2,3,4, người đọc lại đọc được những câu
thơ mang tính quy nạp triết học - rất thơ:... Có người thách ta đánh nhau Ta bảo ta già rồi lại không có võ Có kẻ thách ta chửi nhau Ta bảo ta vừa mất trộm sọt từ ngữ Có kẻ thách ta nhổ vào mặt nó Ta bảo ta hết đờm rồi... Tác giả ao ước được sống với riêng mình và những mơ ước nhỏ
nhoi của con trẻ: Ta khao khát tiếng hát giun dế Không kiểm duyệt, không biên tập Tao ao ước cái bay chim chóc Không hộ chiếu, không biên giới… Cứ thế, hết cả 4 chương, KMTHT và hơn 300 câu thơ của ĐTTL,
NTXTQ, Nguyễn Duy cung cấp dữ liệu, chứng minh, gợi mở cho người đọc tiếp tục
suy nghĩ: Thiên nhiên - không gian. Suy nghĩ về tầng ÔZÔN mãi tận chín tầng
cao - là nguyên nhân của mọi nguyên nhân những hậu quả tai họa khủng khiếp.
Thế mà, những ông lớn đang cầm cân thế giới vẫn còn đang cãi nhau, tị nạnh
nhau theo kiểu ngang ’’bứa’’, Chí phèo, đại loại: Anh giàu vì anh chính là
người trong quá khứ thải ra không gian rác rưởi nhiều nhất, bây giờ phải
gương mẫu ’’Giảm hiệu ứng nhà kinh’’ - trước. Còn tôi nghèo, tôi phải
xóa đói, diệt nghèo đã - tôi sẽ làm sau! Thế là trái đất cứ tiếp tục nóng
lên... băng ở hai cực đã bắt đầu chuyển minh - tan! Hàng loạt thiên họa triền
miên xuất hiện... Nhưng cuộc bàn thảo vẫn cứ dậm chân tại chỗ: Vì anh nào
cũng không chịu anh nào, nhất là trong việc tìm cách kiếm tiền, thu lợi cho đầy
túi mình, tập thể mình, dân tộc mình với mục đích bất minh, bất kể mang lại hậu
quả gì cho nhân loại. Đạo lý ’’Sống chết mặc bay, tiền thầy đút
túi’’- được họ thực hiện triệt để! Nguyễn Duy lại cảnh báo bằng câu thơ
đầy ấn tượng: Một... ’’ngày kia thiên nhiên ăn thịt tuốt’’! Bằng lý trí của nhà khoa học, tác giả chỉ ra: Tất
cả mọi bất cập đều do tầng ÔZÔN gây ra. Con người làm bừa, làm sai... nó
tích tụ, nhận hết, đến một lúc nào đó - ’’Lượng đổi dẫn đến chất đổi’’ - nó
trả thù: Trái đất sẽ bị hủy diệt, nổ tung - thế là đi đời hết! KMTHT được viết từ mươi năm trước, bây giờ, hôm nay - quả báo nhãn tiền: Sóng thần - Núi lửa - Động đất - Ngập lụt - Bão tố - Cháy rừng
- Bệnh dịch - vân vân và còn rất nhiều v.v... do hệ quả của sự bừa bãi, sai lầm...
tác đông đến nhân loại về mặt xã hội. Người đọc được nhà thơ dẫn dắt qua những miền văn hóa với
những hình ảnh đầy xúc động, gợi mở về những ’’vấn đề’’ đang diễn ra trong xã
hội Việt Nam hiện đại trong mọi lĩnh vực. Về Văn: Thôi đừng hót những điều chim chóc nữa. Máu nhiễm trùng, ta có thể thay chăng?... Về Thơ: Lúc này ta làm thơ cho nhau. Đưa đẩy làm chi những lời ngọt lạt... Về Âm nhạc: Những quàng quạc đành đạch âm nhạc... Về Hội họa - Tạo hình: Xin em nhìn người gánh phân gánh thóc Kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng Nhìn cái đẹp thế kia em có chạnh lòng không... Về đói - nghèo và trẻ em: Nón hành khất vấn đề xó chợ trẻ lang thang vấn đề bụi đời... Về ẩm thực - nhậu nhẹt: những cua ốc nghêu sò nguồn thi hứng tràn đầy... Vào cuộc nhậu có kẻ rất sợ tiết Dù ở đời họ máu tiết canh nhau... Và còn nhiều vân vân - nữa... Thơ Nguyễn Duy không còn là thứ Thơ theo nghĩa thông thường
cổ điển: Ngâm, Vịnh. Mà, đã trở thành một tác phẩm văn học có sức thuyết phục
như một bài bình luận - chính luận, một thiên Phóng sự, Bút ký, hay nếu xâu
chuỗi, hệ thống: Đó chính là một cuốn tiểu thuyết được cô đúc, chắt lọc -
’’Nén - ép’’ lại. Bởi vì, dù chỉ có dăm trăm câu thơ với vài ba nghìn chữ,
thi sĩ đã nói được hơn rất nhiều cuốn sách dầy hàng nghìn trang với hàng chục
vạn từ... Phân tích, ca tụng thơ Nguyễn Duy chẳng khác nào hành động
’’đốt đuốc tìm vật mất giữa ban ngày’’!. Hãy làm một việc như thế này sẽ có ích hơn: Dạo trên miếng đất hoang, kiếm, tìm thêm thứ cây - khóm hoa quý hiếm. Nhưng, khóm hoa to, quý, phải đào cả cụm. Cây quá nhiều rễ ăn sâu vào đất... không thể để đứt rễ nên
phải bứng cả đất. Làm thế nào đây: Chẳng thể có bình, đôn, chậu thông thường
chứa được cả Đất - Cây, đành lấy cái vại sành ngoại cỡ của lò gốm sứ Hương
Canh - (tuy hình hài vại sành hơi... thô, ráp) - rồi mang đặt cây vào đó,
khênh, bưng lên trên bàn Văn Chương Việt - để thỏa mãn sự chiêm ngưỡng của mọi
người! Thứ cây hoa quý hiếm tìm được trên mảnh đất hoang dã -
chính là: Đánh thức tiềm lực Nhìn từ xa... Tổ quốc Kim mộc thủy hỏa thổ (1) 7.11.2007 (1) Câu kết của bài thơ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ,
(đăng trên vanchuongviet.org ngày 8.4.2006 - tìm mục Tác giả Nguyễn Duy). (2) Tôi nhớ rõ kỷ niệm: Lúc đó cả miền Bắc chỉ có một nhà
máy Bia Hà Nội. Dân ta đưa chuối xanh lên bán cho dân Tàu, mua bia
về cung cấp cho nhu cầu của dân nghiện... bia. Ngay lập tức nổi lên dư luận:
Trung Quốc chống tăng dân số, sản xuất bia cho thêm, hòa vào chất gì đó, dân
ghiền rượu, bia uống bị ’’diệt dục’’, dẫn tới ’’vô sinh’’. Dù vậy những ’’Sâu
bia Hà Nội’’ vẫn bỏ ngoài tai bởi bia ’’Tàu’’ thực ra ngon hơn hẳn bia
’’Ta’’. (3) Thơ Huy Cận - Các vị La Hán chùa Tây
Phương. ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC NGUYỄN DUY: (Tiễn đưa anh S.D (*) đi làm kinh tế) Hãy thức dậy đất đai Cho áo em tôi không còn vá vai Cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn... Xin bắt đầu từ cơm no áo ấm Rồi đi xa hơn - đẹp và giàu, và sung sướng hơn. Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non châu báu vô biên dưới thềm lục địa rừng đại ngàn bạc vàng là thế phù sa muôn đời như sữa mẹ sông giàu đằng sông, bể giàu đằng bể còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào lòng đất rất giàu, mà mặt đất cứ nghèo sao? Lúc này ta làm thơ cho nhau đưa đẩy làm chi những lời ngọt lạt ta ca hát quá nhiều về tiềm lực tiềm lực còn ngủ yên... Tôi lớn lên: bên bờ bãi sông Hồng trong mầu mỡ phù xa máu loãng giặc giã từ con châu chấu, con cào cào mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc giọt mồ hôi nào có gì to tát bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất, mất đồng thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bẩy nổi khúc dân ca cũng bèo dạt, mây trôi hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai đói thâm niên đói truyền đời điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói... Tôi đã qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng một bên là Trường - sơn - cây - xanh bên còn lại: Trường - sơn - cát - trắng đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng, cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ cơn gió Lào rát ruột, lắm em ơi! Hạt giống ở đây chết đi, sống lại hạt gạo kết tinh như hạt muối cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời, Tôi về quê em châu thổ sáng ngời sông Cửu Long giãn mình ra biển đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi Đất tận sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt lòng còn chát chua nào mặn, nào phèn mà sung sức và ba cường tráng thế man mác âu sầu trong câu hát ru em Đã đi qua những huyền thoại cũ mèm những đồng lúa không trồng mà gặt những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt những nghễnh cẳng, vuốt râu làm chơi ăn thật miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi! Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng thóc bỏ mục ngoài mưa, thiếu xăng dầu vận chuyển phà Cần Thơ lê lết người ăn xin cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ quán rượu lai rai - nơi thừa thiếu trốn tìm Này, đất nước của ba miền cầy ruộng chưa đủ no cho đều khắp ba miền ta ca hát quá nhiều về tiềm lực tiềm lực còn ngủ yên. Lúc này tôi làm thơ tặng em em có nghĩ tôi là đồ vô dụng vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì? và trả lại được gì cho cuộc sống? em có nghĩ tôi là con chích chòe ăn và gại mỏ Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả? Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy múa võ, bán cao trên trang viết mong manh? tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh?... tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc? Em có nghĩ... mà thôi! Xin em nhìn kìa - người cuốc đất (tôi cũng từng chai tay cuốc đất) cái cuốc theo ta đời này, đời khác lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi dướn mình cao chĩa cuốc lên trời bổ xuống đánh phập đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất! Xin em nhìn - người gánh phân gánh thóc (tôi cũng từng gánh phân gánh thóc) kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh Những cái đẹp thế kia... em có chạnh lòng không? cái đẹp gợi về thuở ngày xửa ngày xưa nhịp theo tiết tấu chậm buồn cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa! Em có chạnh lòng chăng? giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu bỗng hiện lù lù chiếc xe hơi chạy than vệt than rơi tóe lửa mặt đường Em có chạnh lòng chăng? xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang Xích lô máy và xe lam chạy dầu vừa nã đại liên vừa phun khói độc người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực tiềm lực còn ngủ yên... Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo quen cái thói hay nói về gian khổ dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất bãi tha ma không một cái mả xây mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày thuở tới trường cũng đầu trần chân đất chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai thầy giáo giảng rằng nước ta giàu lắm!... lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bàiLúc này tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa ta biết buồn để biết chuyện lạc quan và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con (dù sau này dầu mỏ có phun lên) quặng bô xít cao nguyên đã thành nồi, thành xoong, thành tàu bay hay tầu vũ trụ... dù sau này có như thế... như thế... đi nữa thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại rằng: đừng quên đất nước mình nghèo! Lúc này tôi và em chẳng còn là lũ trẻ con nữa tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng trước mặt ta vẫn còn đường gập ghềnh vẫn trắng trong tấm lòng trung thực dù có thể lỗi lầm - làm thế nào mà biết được dù có sao thì vẫn phải chân thành Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành để khôn lớn ta hát bài đánh thức có lẽ nào người lớn cứ rủ nhau ru tiềm lực ngũ vùi trong thớ thịt. Tiềm lực còn ngủ yên trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng Tiềm lực còn ngủ yên trong bộ óc mang khối u tự mãn Tiềm lực còn ngủ yên trong con mắt lờ đờ thủy tinh thể Tiềm lực còn ngủ yên rong lỗ tai viêm chai màng nhĩ Tiềm lực còn ngủ yên trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm Tiềm lực còn ngủ yên rong lớp da biếng lười cảm giác năng động lên nào từ mỗi tế bào từ mỗi giác quan cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi Cần lưu ý lời nói thật thà có thể bị buộc tội lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương đạo đức giả có thể thành dịch tả lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường Cần lưu ý có cái miệng làm chức năng cái bẫy sau nụ cười lởm chởm răng cưa có cái môi mỏng hơn lá mía hôn má bên này, bật máu má bên kia có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa khái niệm bắn ra không biết lối thu về Cần lưu ý có lắm sự nhân danh lạ lắm mượn áo thánh thần che lốt ma ranh nhân danh thiện tâm làm điều ác đức rao vị nhân sinh để bán món vị mình Cần lưu ý có lắm nghề lạ lắm nghể mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo nghề ăn cắp lòng tin và chẹn họng đồng bào có cả nghề siêu nghề, là nghề không làm gì cả thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề... Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ yên Tôi muốn được làm tiếng hát của em tiếng trong sáng của nắng và gió tiếng chát chúa của máy và búa tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai tiếng trần trụi của lưỡi cuốc lang thang khắp đất nước hát bài hát ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC... T. phố Hồ Chí Minh 1980 - 1982 Nguyễn Duy (*) SD - Sáu Dân - Bí danh của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. NHÌN TỪ XA... TỔ QUỐC! Đối diện ngọn đèn trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng Đêm Bắc bán cầu vần vụ trắng nơm nớp ai rình sau lưng ta Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà xa vắng núi và sông và vết rạn địa tầng Nhắm mắt lại mà nhìn thăm thẳm yêu và đau quằn quại bi hùng Dù ở đâu vẫn Tổ quốc trong lòng cột biên giới đóng từ thương đến nhớ Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá ai cứ sau mình lẩn quất như ma Ai? im lặng! Ai? cái bóng! Ai?... xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng bóng máu bầm đen sóng soãi nền nhà Thôi thì ta quay lại truyện trò cùng cái bóng máu me ta Có một thời ta mê hát đồng ca chân thành và say đắm ta là ta mà ta vẫn là ta (1) Vâng - đã có một thời hùng vĩ lắm hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm Vâng - một thời không hể nào phủ nhận tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng Thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ ợ lên nhồn nhột cả tim gan Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh nỗi day dứt không nguôi còn sạn gót chân nhói dài mỗi bước Ai? không ai! Vết bầm đen đấm ngực Xứ sở nhân tình sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện ma cụt đầu phục kích nhà quan Ai? không ai! Vết bầm đen quều quào dơ tay Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma ma quái - ma cô - ma tà - ma mãnh... quỷ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài Đêm huyễn hoặc dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác mắt ai xanh lè lạnh toát lửa ma trơi Ai? không ai Vệt bầm đen ngửa mặt lên trời Xứ sở linh thiêng sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh Giấy rách mất lề tượng Phật khóc, Đức Tin lưu lạc Thiện ác - nhập nhằng Công lý nổi lênh phênh Ai? không ai Vệt bầm đen tọa thiền Xứ sở thông minh sao thật lắm trẻ con thất học lắm ngôi trường xơ sác đến tang thương Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt tuổi thơ oằn lưng xuống chiếc bơm xe đạp tuổi thơ bay như lá ngã tư đường Bịt mắt bắt dê (2) đâu cũng đụng thần đồng mở mắt... bóng nhân tài thất thểu Ai? không ai Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh Xứ sở thật thà sao thật lắm thứ điếm điếm biệt thự - điếm chợ - điếm vườn... Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn Vật giá tăng vì hạ giá linh hồn Ai? không ai Vết bầm đen vò tai Xứ sở cần cù sao thật lắm Lãn ông lắm mẹo lãn công Già vờ lĩnh lương giả vờ làm việc Tội lỗi dửng dưng lạnh lùng gian ác vặt Đạo chích thành tôn giáo phổ thông Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn buôn hàng lậu - buôn quan - buôn thánh thần - buôn tuốt quyền lực bày ra đấu giá trước công đường Ai? không ai Vết bầm đen nhún vai Xứ sở bao dung sao thật lắm thần dân lìa xứ lắm cuộc chia ly toe toét cườiMặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa chen nhau sang nước người làm thuê Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về Ai? không ai Vết bầm đen rứt tóc Xứ sở kỷ cương sao thật lắm vua vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chĩa (3) vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ... Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa Luật pháp như đùa - như có - như không một người đi chật cả con đường Ai? không ai Vết bầm đen gập vuông thước thợ ?...?...?... Ai? Ai? Ai? không ai Vết bầm đen còng còng dấu hỏi Thôi thì ta trở về còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại còn chút gì le lói ở trong lòng Đôi khi nổi máu lên đồng hồn thoát xác rũ ruột gan ra đếm Chích một giọt máu đem xét nghiệm tí trí thức - tí thợ cầy - tí điếm tí con buôn - tí cán bộ - tí thằng hề Phật và Ma... mỗi thứ tí ti... Khốn nạn thân nhau nặng kiếp phân thân mặt nạ Thì lột mặt đi - lần nữa mãi mà chi dù dối nữa cũng không lừa được nữa khôn và ngu cũng có tính mức độ Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít mất vệ sinh bội thực tự hào Sự thật hôn mê - ngộ độc tự hào bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại biết thế nhưng mà biết làm thế nào Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới thấy chửi bới nhẹ gian nanh cơ hội Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại lạy ông - cơ - chế, lạy bà - tư - duy xin đừng hót những điều chim chóc mãi Đừng lớn lời khi dân lành ốm đói vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn Đổi mới thật hay giả vờ đổi mới? máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng? Thật đáng sợ ai không có ai thương càng đáng sợ không còn ai ghét Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết ta là gì? ta cần thiết cho ai? Có thể ta không tin ai đó có thể không ai tin ta nữa dù có sao vẫn tin ở con người Dù có sao dù có sao đừng khoanh tay khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn? những người tốt đang cần liên hiệp lại Dù có sao vẫn Tổ Quốc trong lòng mạch tâm linh trong sạch vô ngần còn thơ còn dân ta là dân: vậy thì ta tồn tại Giọt từng giọt nặng nhọc Nặng nhọc thay Dù có sao đừng thở dài còn da lông mọc còn chồi nảy cây (4) Mạc Tư Khoa tháng 5/1983 TP. Hồ Chí Minh 19/8/1988 Nguyễn Duy Ghi chú:
(1) Một câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên hồi chiến tranh
chống Mỹ. (2) Một trò chơi dân gian của trẻ em Việt Nam. (3) Chôm: Ăn cắp; Chĩa: Ăn cướp (tiếng nóng Nam Bộ) (4) Một câu Ca dao cổ.22/11/2007 Lê Xuân Quang Theo
https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét