Ai trong chúng ta không lo không sợ cho những người thân
yêu của mình trước cơn binh lửa nơi quê nhà, khi chúng ta từ nghìn dặm xa
không giúp gì được cho họ, chỉ biết cầu nguyện và dùng nước mắt của mình để tạm
vơi đi niềm đau khổ đang dày vò; trong khi đó cụ ở xa quê cũng phải kiên dè
và sợ sệt lẫn nhau khi ở quê người.
“… Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn …”
異 鄉 養 拙 初 防 俗
亂 世 全 生 久 畏 人
(U cư I)**
Dịch:
… Quê người tỏ vụng phòng thế tục,
Đời loạn luôn sanh sợ mọi người…”
Đây là một kế sống an toàn dành cho những nạn nhân tha
hương của thời thế loạn lạc, kẽo không vô tình sẽ làm đối tượng cho mọi sự đối
đầu thù địch nghi ngờ. Hay chiến tranh loạn lạc cũng có thể đưa người về cõi
chết hay tù tội, điều đó chúng ta không thể nào lường trước được. Ngay bản
thân cụ Tiên điền Nguyễn Du cũng là nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ
Tây sơn đang hiện hữu trước mắt cụ vào lúc bấy giờ mà ra:
“ … Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm …”
四 海 風 塵 家 國 淚
十 旬 牢 獄 死 生 心
(Mỵ trung mạn hứng)**
Dịch:
Gió bụi khởi khắp nơi, lệ nước nhà,
Lao ngục mười tuần, lòng lo sống chết …”
Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên sinh mới có đủ thời gian để
ngồi tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con người thì ai cũng có tâm lý ham sống
sợ chết, đó là một thứ tâm lý bình thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự
không biết ngõ cùng ai, vì nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng
Lĩnh, đó chính là nỗi khổ tâm của cụ:
“… Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.”
我 有 寸 心 無 與 語
鴻 山 山 下 桂 江 深
(Mỵ trung mạn hứng)**
Dịch:
Ta có tấc lòng không biết bày tỏ cùng ai,
Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới núi Hồng.
Tấc lòng sâu thẳm như thế nào mà không biết đem nó ra để
bày tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy hiểm khó nói ra, hay là cái sâu thẳm
không ai dò biết được như đáy dòng sâu Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn
Du chúng ta có thể hiểu theo nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và
cũng có thế: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó
là những nỗi đau của riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau
chung của mọi người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong
những trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhơn tai), mà còn nữa:
Nào là cái đau khổ vì thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho chúng ta bất
cử giờ phút nào:
“… Cố hương hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …”
故 鄉 亢 旱 久 妨 農
十 口 孩 兒 菜 色 同
(Ngẫu hứng IV)**
Dịch:
… Cố hương hạn hán hại nhà nông,
Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…
Một thân một mình nơi tha hương đất khách, nhưng cụ vẫn
canh cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại quê nhà lâm vào thiên tai hạn hán
mất mùa, không đủ cái ăn cái mặc, thân thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng
cầu do thiếu ăn. Và có gì đau khổ lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm
liệt giường, còn phải lo cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê
nhà đang réo gọi nữa!
“… Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành động …”
十 口 啼 饑 橫 嶺 北
一 身 臥 病 帝 城 東
(Ngẫu đề)**
Dịch:
… Mười miệng đòi ăn, bắc hoành sơn,
Một thân nằm bệnh, đông kinh thành …
Một thân một mình nơi đất khách lại bị bệnh, người thân
không có, bạn bè mới nơi ở cũng không nhiều nên đành âm thầm chịu đựng với
con bệnh cũ dằn dai, cô đơn buồn khổ trong những ngày xuân:
“Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa…”
長 途 日 暮 新 遊 少
一 室 春 寒 舊 病 多
(U cư II)**
Dịch:
Đường dài chiều tối, bạn mới ít,
Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…
Trong khi sống nơi đất khách quê người thân thì nhiều bệnh
tật, tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng khi cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh
tật càng ngày càng tăng chứ không giảm và nổi buồn đau cũng theo đó mà tăng
thêm, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn:
“Đa bệnh đa sầu khí bất thư,
Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …”
多 病 多 愁 氣 不 舒
十 旬 困 臥 桂 江 居
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
Mười tuần nằm khổ bên sông Quế
Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng thông…
Không có buồn nào bằng cái buồn người bị bệnh nặng mà không
người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh càng nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ
Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm loại thuốc tiên nào để cụ uống cho mau
lành bệnh, hoặc xin thấy được ánh sáng vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần
gian phá tan màng u ám cho nhân loại được nhờ:
“… Thập niên túc tật vô nhân vấn,
Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.
An đắc huyền quang minh nguyệt hiện,
Dương quang hạ chiếu phá quần âm.”
十 年 夙 疾 無 人 問
九 轉 還 丹 何 處 尋
安 得 玄 關 明 月 見
陽 光 下 照 破 群 陰
(Ngọa bệnh II)**
Dịch:
Mười năm tật bệnh không người hỏi,
Tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần?
Mong hiện ánh sáng trăng màu nhiệm,
Ánh dương chiếu xuống phá quần âm.
Qua những bài thơ trích đoạn ở trên, chúng tôi chỉ trích ra
một ít trong những số bài thơ chữ Hán được cụ Nguyễn Du gởi gấm tâm sự của
mình vào những khổ đau buồn thương nỗi nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến
động của gia đình trong loạn lạc chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc
đói khổ, thiên tai hạn hán, chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp
người cụ Nguyễn Du cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên
nhân đưa đến khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng
xuống đầu người, chúng có thể nhìn thấy rõ được:
“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
xuân lan thu cúc thành hư sự,
hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”
壯 士 白 頭 悲 向ẻ 天
雄 心 生 計 兩 茫 然
春 蘭 秋 菊 成 虛 事
夏 暑 冬 寒 奪 少 年
(tạp thi I)**
Dịch:
Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu bạc,
Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.
Xuân lan thu cúc thành chuyện huyễn,
Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa.”
Những điều đó cụ Nguyễn Du cũng không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn
đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân mình vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình
ly tán mỗi người vì miếng cơm manh áo mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên
đầu đã bạc lại bạc thêm. Đây là những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đang
kinh qua và chứng kiến trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi
mới ba mươi tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa
thành qua bài thơ “tự thán” cụ viết;
“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.”
生 未 成 名 身 已 衰
蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹
(Tự thán I)**
Dịch:
Sống chưa thành danh thân đã suy
Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.
Chính vô thường mang lại cho chúng ta cái khổ đau. Qua đó,
vì tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay đổi (tâm vô thường), vì hoàn cảnh
hiện tượng, vật chất chung quanh cuộc sống chúng ta vô thường luôn thay đổi
(vật vô thường) chúng ta không giữ được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người
như chúng ta đã thấy qua những lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời
gian nương nhờ nơi Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người
khi mùa xuân đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến
mùa xuân qua bài Xuân nhật ngẫu hứng.
“… Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai...”
南 浦 傷 心 看 綠 草
東 皇 生 意 漏 寒 梅
(Xuân nhật ngẫu hứng)**
Dịch:
Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,
Nhú mai vàng chớm ý Đông Quân…
Nhưng còn những nguyên nhân giáng tiếp mà chúng ta trong nhất
thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, Cụ nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên
ngoài đến bản chất bên trong, đó chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm
chính cho mọi bất toàn trong cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao
nhiêu là khổ nạn cho kiếp người:
“… Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,
Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.”
古 今 未 見 千 年 國
形 勢 空 留 百 戰 名
莫 向 清 華 村 口 望
疊 山 不 改 舊 時 青
(Vị Hoàng doanh)**
Dịch:
Nước nghìn năm xưa nay chưa thấy,
Hình thể mất, còn danh trăm trận.
Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa nữa,
Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.
Triều đại nào tồn tại nghìn năm chúng ta chưa thấy! Ngay đến
doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi đóng quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay
hình thể quân trại không còn nữa, mà chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã
từng xảy ra trăm trận chiến thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy
nhìn rặng Điệp sơn vẫn còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không
bao giờ thay đổi, nhưng chỉ thay đồi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi.
cũng giống như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, chứ
còn dân tộc đất nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong cuộc sống
có những thay đổi bình thường về hình thức chúng ta thấy được, nhưng cũng có
những biến đổi tinh thần chúng ta không nhìn thấy được, vì nó thuộc về vô
hình. còn hiện tượng thì luôn tùy thuộc vào thời gian mà thay đổi như:
“Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
Môn yếm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tùy thân…”
桃 花 桃 葉 落 紛 紛
門 掩 斜 扉 一 院 貧
住 久 頓 忘 身 是 客
年 深 更 覺 老 隨 身
(U cư I)**
Dịch:
Hoa lá cây đào rơi lác đát,
Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu xiêu.
Ở lâu quên hẳn mình là khách,
Năm tháng càng qua thân càng già…”
Những hiện tượng như lá đào hao đào, cổng đóng, cửa liêu
xiêu chúng ta có thể dùng mắt để thấy được cái thay đổi của nó; nhưng thời
gian qua đi thì chúng ta khó mà hình dung được sự thay đổi này trong nguyên
nhân, mà chỉ nhìn được qua kết quả của nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay
đổi của chúng. Thời gian vô thường đã tác hại và biến hoại tất cả từ con người
đến mọi vật xung quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào
chúng: Hoa lá cây trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật
lý v.v… không gì không bị biến hoại thay đổi:
“Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư…”
十 載 塵 埃 暗 玉 除
百 年 城 府 半 荒 墟
(Bát muộn)**
Dịch:
“Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,
Thành quách trăm năm nửa hoang tàn…”
Hay:
“… Thành quách suy di nhận sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải…”
城 郭 推 移 人 事 改
幾 處 桑 田 變 滄 海
(Long Thành cầm giả ca)**
Dịch:
Thành quách đổi thay việc người đổi,
Bao cảnh ruộng dâu biến biển khơi…
Vô thường biến đổi luôn tạo ra những cú sốc đau cho những
người cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho mình, cho bản ngã, cho cái ta
trường tồn bất diệt mà nuôi lớn lòng tham lam, sân hận, si mê; biến chúng ta
thành những kẻ nô lệ cho chúng mà đẻ ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng
cay cho chúng ta, nhưng cuối cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt
buông tay, cũng chỉ hai bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản
chất của mọi sự vật là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta:
“Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạn tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.[1]”
古 時 明 月 照 新 城
由 是 昇 龍 舊 帝 京
衢 巷 四 開 迷 舊 跡
管 弦 一 變 雜 新 聲
千 年 富 貴 供 爭 奪
早 歲 親 朋 半 死 生
世 事 浮 沈 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星。
(Thăng Long 2)
Quách Tấn dịch:
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bè lớp trước sống lưa thưa
Nổi chìm thế sự đừng tham nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ
Danh lợi quyền lực là những món mồi khá hấp dẫn đối với những
ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc những thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn
lòng tham lợi, tham danh, tham quyền lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi.
Nhưng có ai trong chúng ta được cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều
hơn, cao hơn để bỏ đầy túi tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng
ta là “được voi đòi tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích
là để thõa mãn lòng thanh danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc
về sở hữu cá nhân mình, gia đình mình… Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ
nhọc cay đắng càng theo sau và, những oán đối củng tùy theo đó mà hình thành
tạo thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn được gì
sau khi nhắm mắt xuôi tay? cũng chỉ:
“… Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…”
伯 圖 泯 滅 千 年 後
古 墓 荒 涼 三 尺 秋
(Á phụ mộ) [2]
Dịch:
Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh
Nghiệp bá tan tành sau nghìn năm. Chú thích:
[1] Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973.
trang 170
[2] Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB
Văn học 1996.
Sở dĩ cụ Nguyễn Du tiên sinh đã giữ được thân mình trong
cát bụi phong ba là chính nhờ vào cụ có một cái nhìn tinh tế và sâu thẳm đối
với cuộc đời cũng như đối với các sự vật chung quanh cuộc sống, đó là cái
nhìn trong vô thường bến dịch vẫn còn có cái thường còn không biến đổi, nó
chính là bản thể của sự vật. Tuy mọi hiện tượng bên ngoài của sự vật luôn bị
vô thường biến khác nhung bản chất của chúng vẫn trường tồn trong cái không
trường tồn. Chúng vẫn trong sáng như ngày nào, chúng vẫn xanh như ngày nào,
chúng vẫn hồng như mọi buổi chiều ráng hạ, chỉ có sắc màu (của ráng chiều
thì lúc nào cũng màu hồng, lá của cây rừng thì lúc nào cũng là một
màu xanh, ánh sáng mặt trời mặt trăng vẫn sáng như ngày nào) là không đổi:
“Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng”.
無 窮 今 古 傷 心 處
依 舊 青 山 夕 照 紅
(Mạn hứng II)**
Dịch:
Điều thương tâm xưa nay vô cùng tận
Núi biếc như xưa chiều chiếu ráng hồng.
2. NGUYỄN DU VÀ PHẬT GIÁO
Đọc qua thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du chúng ta gặp những bài
thơ Cụ thường nói đến, trong vô thường biến hoại luôn có cái thường còn bất
biến mà đạo Phật thường gọi là “Vô thường tức thị thường”. Qua hai câu thơ
trên Nguyễn Du tiên sinh cho chúng ta thấy rằng trong vô thường biến hoại của
hiện tượng giới của sự vật theo nhân quả luôn luôn có sự hiện hữu của thường
tồn bất biến của bản thể sự vật đó chính là thật thể: Như vầng trăng sáng
không bao giờ thay đổi bất cứ nơi đâu bất cứ thời đại nào, lúc nào nó cũng
sáng như màu nguyên thỉ; hay lá cây xanh, ráng chiều hồng cũng là những hình ảnh
của những ẩn dụ cho những chân lý bất biến theo giáo lý Tiểu thừa giáo nhà Phật,
hay:
“… Ðạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn…”
達 人 心 境 光 如 月
處 仕 門 前 青 假 山
(Tạp ngâm 2)**
Dịch:
Tấm lòng đạt nhân vầng trăng sáng,
Trước nhà ẩn sĩ núi giả, xanh.
Chính nhờ có cái nhìn muôn vật giữa cuộc đời này nó mang ý
nghĩa “Vô thường tức thị thường” của Phật giáo nên cụ Nguyễn Du cho dù lúc
nào cũng sống trong khổ đau của cuộc đời mà cụ vẫn không bị cuộc đời quật
ngã, vẫn hiên ngang sống. Người đạt đạo, nhà ẩn sĩ được cụ Nguyễn Du đem sánh
với vầng trăng sáng, với màu xanh của núi xanh là những hình ảnh cụ lấy làm ẩn
dụ cho chân lý, cho tấm lòng trong sáng của ý đạo mà theo thuật ngữ chuyên
môn của Phật giáo gọi là: “Tâm vô phân biệt” là “Chân tâm” là “Tâm
vô sự”.
Từ cái nhìn đạt lý này, đã đưa cụ về với Phật một cách tự
nguyện và tự biến thành mình là hành giả tu tập thiền định sau này. Qua mười
năm biến động xa quê nhà, những gì mà cụ đã kinh qua trong đau thương tiếc nhớ
khi lăng lóc giữa cát bụi phong ba của cuộc đời: Một mặc dù cụ nhìn thấy rõ bộ
mặt thật của cuộc đời trong khổ đau qua vô thường-khổ không theo quan điểm của
Phật giáo và mặc khác cũng từ đây cụ đâm ra không thích sống với đời nữa, muốn
xuống tóc vào rừng ẩn tu làm người vô sự và, cũng từ đó cụ quyết tâm học Phật
và thực hành trong tu tập như trong bài Đề Nhị Thanh động:
“… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng…”
滿 境 皆 空 何 有 相?
(Đề Nhị Thanh động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Trước hết, từ khi cụ nhìn ra được hiện tượng và bản chất của
mọi sự vật trên cõi đời này rồi thì, tư tưởng muốn xuống tóc ẩn tu làm người
vô sự đã đưa cụ đến việc học Phật và thực hành theo những lời Phật dạy tùy
căn cơ có được của mình. Thật ra ở đây không ai biết được cụ đã học Phật từ
bao giờ và học ở đâu? để đẻ ra cái kết quả là cụ đã trở thành một hành giả tu
tập Thiền, đề có thời gian huân tập và ngộ đạo qua bài thơ: “Lương Chiêu Minh
Thái tử phân kinh thạch đài” nhân chuyến làm sứ đi Trung Quốc. Việc học kinh
Phật cũng giống như cụ đã học Nho giáo vậy. Không biết cụ học Nho giáo vào
lúc nào và học những kinh sách nào, học ở nơi đâu? với cuộc đời năm chìm bảy
nổi lênh đênh từ nơi này đến nơi khác, lo toan vì miếng cơm manh áo cũng đủ đứt
hơi rồi huống chi là học hành; thế mà theo như tiểu sử của cụ cho chúng ta biết
rằng cụ đã từng đi thi và đỗ tam trường trong một kỳ thi Hương và sau đó cụ
không đi thi tiếp nữa! Thì việc học Phật của cụ cũng vậy, chỉ biết qua bài
thơ chính cụ làm ra qua bài “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”
Như vậy cụ đã tập Thiền Công án qua hàng nghìn lần độc tụng về Kinh Kim Cương
và cũng đã ngộ được bản Kinh này qua “Vô tự” thị chân kinh. Theo chúng tôi
nghĩ thì có thể cụ bắt đầu học Phật Khoảng thời gian từ 1786-1795, đây là khoảng
thời gian mười năm giang hồ gió bụi của cụ. Vì bài thơ cụ làm ra để tỏ tâm sự
chán đời muốn xuống tóc vào rừng ẩn tu cũng trong khoảng thời gian này.
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”
Có lẽ đây là giai đoạn quyết định chuyển mình cho một bước
đi mới sau này của cụ. Theo chúng tôi trong hiện tại hoặc sau này, việc cụ
không tiếp tục theo đuổi con đường thi cử để thực hiện “chí cỡi mây” của mình
theo cái học của Nho gia vào lúc bấy giờ, như bài thơ người anh ruột Nguyễn Nễ
gởi cho cụ khi cụ còn lưu lạc trong đó có câu: “Tự hữu lăng vân chí” (Người
vốn có chí cỡi mây) có hai lý do: Thứ nhất nhờ cụ đã nhìn rõ được cả hai bộ mặt
thật của hiện tượng (vô thường-khổ đau) cùng bản chất của mọi sự vật là
không, do nhân duyên hòa hợp mà hiện hữu ở trên đời này nên đã quyết định
không tiếp tục con đường khoa hoạn nữa. Thứ hai có lẽ cụ không muốn cộng tác
với triều đình Tây Sơn nên không tiếp tục ra thi cử nữa. Dù là lý do nào đi nữa
thì đây vẫn là quyết định không muốn “cỡi mây” nữa mà muốn làm người vô sự:
“nằm nghe tùng hát gió đưa mây”. Từ đây cuộc đời của cụ cũng bắt đầu chuyển đổi
cho việc học Phật và thực hành sống theo nếp sống vô sự của Phật, vì cụ đã nhận
thức rằng:
"Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành".
悵 望 紅 塵 渺 無 際
不 知 日 日 此 中 行
(Từ Châu Đê Thượng Vọng)**
Dịch:
Trông xuống bụi hồng xa mờ mịt
Sớm chiều trong đó bước quẩn quanh.
Vì lợi danh quyền lực cuối cùng cũng chỉ mang đến khổ
đau và trói buộc chân chúng ta vào vòng dây oan nghiệt chạy quanh suốt đời
mãn kiếp trong chốn hồng trần không bao giờ thoát ra khỏi được chúng; chỉ vì
chúng ta không biết bước đi như thế nào để mang đến sự giải thoát khổ đau của
vòng luân hồi lẩn quẩn đó. Giờ đây cụ quyết theo bước đi vô sự như một vị
Tăng an nhiên thả giấc ngủ dưới những làng mây cô đọng chung quanh giấc cô
miên lãng đãng trong rừng núi hoang vu vắng vẻ. Một cảnh quan biểu hiện lên sắc
thái tự tại thong dong trong cuộc sống:
"… Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai".
停 雲 處 處 僧 眠 定
落 口 山 山 猿 咡 哀
一 炷 檀 香 消 慧 業
回 頭 已 隔 萬 重 崖
(Vọng Quan Âm miếu)**
Dịch:
Mây đọng nơi nơi Thầy an giấc,
Chiều xuống non non vượn kêu thương.
Ðốt nén hương đàn tiêu nghiệp tuệ,
Quay đầu đã cách vạn trùng nhai.
Ở đây chỉ cần biết quay đầu lại là bờ giác ngộ giải thoát,
chúng cách xa bờ sinh tử luân hồi muôn trùng trên mặt sự tướng; nhưng trên mặt
lý thể thì sinh tử tức là Niết bàn, khác nhau chỉ có mê và ngộ mà thôi. Quay
đầu tức là ngộ, là Phật, là vô lậu, là giải thoát, là an vui; không quay đầu
tức là mê, là chúng sanh, là hữu lậu, là trói buộc, là khổ đau. Đem tâm mê
chúng sanh mà hiểu Phật thì Phật cũng thành ma, như cụ đã từng viết:
“… Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma…”
色 空 境 界 茫 不 悟
癡 心 歸 佛 佛 生 魔
(Phân Kinh thạch đài)**
Dịch:
… Cảnh giới sắc không, mê chẳng biết,
Tâm mê hiểu Phật, Phật thành ma…
Nhờ cụ đã nhìn ra được chỗ ách yếu của phương cách tu hành
và, cũng từ đó hành giả theo Phật có thể thực hành để đạt được sự thể ngộ
chân lý qua cuộc sống bằng vào thực hành tu tập để đạt đến trạng thái hư linh
không tịch rỗng rang này, chứ không phải mang kiến thức mê muội nhị nguyên để
nói về cảnh giới Phật, cảnh giới thiền là có được. Sự có được này theo cụ
cũng chỉ là kiến thức mê; khi mê mà nói về Phật thì Phật đó cũng trở thành mê
như Kinh Viên Giác đức Đạo sư đã dạy ngài Kim Cang Tạng rằng:
Kim Cang Tạng đương
tri Như
Lai tịch diệt tánh
Vị tằng hữu chung thỉ Nhược
dĩ luân hồi tâm
Tư duy tức toàn phục Đản
chí luân hồi tế
Bất năng nhập Phật hải Thí
như tiêu kim khoáng
kim phi tiêu cố hữu Tuy
phục bản lai kim
Chung dĩ tiêu thành tựu nhất
thành chân kim thể
Bất phục trùng vi
khoáng Sanh
tử dữ Niết-bàn
Phàm phu cập chư Phật Đồng
vi không hoa tướng
Tư duy do huyễn
hóa Hà
huống kết hư vọng
Nhược năng liễu thử
tâm Nhiên
hậu cầu Viên Giác.
“Kim Cang Tạng nên biết Như
lai tánh vắng lặng
Chưa từng có chung thỉ Nếu
dùng tâm luân hồi
Suy nghĩ cảnh giới Phật Cảnh
Phật thành luân hồi
Phật tánh tuy sẵn
có Phải
tu mới hiển hiện
Cũng như vàng sẵn
có Phải
lọc quặng mới thành
Khi đã thành vàng
y Không
trở lại làm quặng
Sanh tử và Niết
bàn Phàm
phu cùng chư Phật
Thảy đều như hoa đớm Tâm
suy nghĩ đã huyễn
Nên lời nói cũng huyễn Làm
sao nhập được chơn
Nếu rõ được tâm
này Mới
cầu được Viên giác [1]”.
Nếu muốn có cuộc sống bình an vô sự theo cụ Nguyễn Du thì cần
phải đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang (hư linh), sau đó chúng ta làm gì cũng
không có lỗi với Đạo; nhưng trước hết chúng ta phải thực hành ngay trong cuộc
sống:
“… Tiện sát bắc song cao ngọa giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.”
羨 殺 北 窗 高 臥 者
平 居 無 事 到 虛 靈
(Ký hữu)**
Dịch:
… Muốn làm người nằm cao nơi cửa bắc
Sống yên vô sự đạt đến hư linh.
Khi mà con người sống bình an vô sư thì chính đó là cuộc sống
của người đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang, không bị cái gì trói buộc được. Đó
là một điều mà ai là người tu Phật cũng mong muốn đạt đến cảnh giới như vậy
và, ở đây cụ Nguyễn Du cũng vậy, mong muốn rằng cá nhân cụ có một cuộc sống
bình yên vô sự như hình ảnh của vị sư và trẻ mục đồng mà cụ đã từng thấy qua:
“… Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như …”
山 僧 對 竹 兩 無 恙
牧 豎 騎 牛 一 不 如
(lạng sơn đạo trung)**
Dịch:
… Sư bên khóm trúc vô sự cả,
Đệ nhất mục đồng cưỡi lưng trâu…
Cụ đưa ra bốn hình ảnh: Nhà sư núi và khóm trúc bên nhau
nhưng cả hai đều vô sự, trên mặt hình thức khác nhau không liên quan, trên mặt
tinh thần cũng không can hệ với nhau, sư có nếp sống vô sự của sư, khóm trúc
có cái thể hiện vô sự của nó; cũng vậy hai hình ảnh mục đồng và trâu cũng vậy
mục đồng đang nghiêu ngao trên lưng trâu, mặc cho trâu thong thả trên đường về.
Đây là những hình ảnh vô sự không can hệ lệ thuộc vào nhau để trở thành trói buộc,
mà ngược lại nó là những hình ảnh vô ngại tự tại dung thông trong cuộc sống.
Vì sống bình an vô sự chính là lối sống không bị lệ thuộc trói buộc vào bất cứ
điều kiện nào, mặc dù người sống vẫn sống chung với các duyên sống chung
quanh, nhưng người đó không bị nhiễm vào những tác nhân tạo ra nghiệp của thế
gian. Ở đây cụ Nguyễn Du cũng đang thực hành cách sống vô sự này qua:
“Bất sầu cửu lộ xiêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần".
不 愁 久 露 霑 衣 裔
且 喜 鬚 眉 不 染 塵
(Dạ hành)**
Dịch:
Tay áo dầm sương không ngại ướt
Mày râu, mừng chẳng nhiễm trần ai.
Những hình ảnh ẩn dụ của cụ đưa ra cho chính bản thân mình,
đó chính là bước đi giải thoát vô ngại của đạo Phật. Vẫn bước đi trong cuộc đời
chứ không phải lánh đời, mà vẫn sống, vẫn ăn, vẫn uống, vẫn hít thở, nói
chung là vẫn làm tất cả mọi chuyện như người thế gian không khác; nhưng chỉ
khác với người thế gian là sống với nó mà không bị đời làm nhiễm, không bị đời
trói buộc qua tác nhân không chấp ngã, không chấp pháp, làm với quan niệm vô
ngã, vô pháp thì đó chính là hành động vô sự, không bị nhiễm, không bị trói
buộc. Đó chính là lối sống của cụ:
“… Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
笑 啼 徇 俗 干 戈 際
緘 默 藏 生 老 病 餘
(Tạp Thi II)**
Dịch:
… Theo đời cười khóc qua thời loạn,
Già bệnh rồi im lặng yên thân”.
Vậy muốn cho cõi lòng chúng ta lúc nào cũng trong sáng qua
cuộc sống thì, chỉ có cách im lặng mà sống hay sống bằng cách vô sự, không
nhiễm ô đời, không để chuyện đời vướng mắc vào tâm mình, tức là chúng ta sống
với tâm vô phân biệt. Đó là lối sống với tâm không còn phân biệt chấp trước
vào sự vật; tùy duyên mà sống không cưỡng lại duyên, không cưỡng lại đời như
chuyện khóc cười theo đời, theo thời cuộc thăng trầm, hưng phế; nhưng không để
cho đời và thời cuộc trói buộc cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta để tâm chúng
ta bị trói buộc vào những việc đó của đời, vào thời cuộc của đời thì chúng ta
sẽ bị đau khổ vì sự trói buộc đó. Đau khổ là hậu quả của mọi tác nhân tạo ra
nghiệp do cuộc sống của chúng ta mang lại. Theo đó cụ Nguyễn Du đã để lại cho
chúng ta một kinh nghiệm sống của chính cụ qua tâm không sau khi nghiệp chướng
được tiêu trừ:
“… Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không …”
老 去 未 知 生 計 拙
障 消 時 覺 夙 心 空
(Thôn Dạ)**
Dịch:
… Già rồi vẫn còn vụng về sinh kế
Khi nghiệp tiêu mới biết tâm không…
Tâm không ở đây chính là tâm trong sáng, tâm vô sự, tâm
chân thật, khi nghiệp của chúng ta đã tạo ra đã được tiêu trừ rồi thì chính
ngay lúc đó chúng ta giải thoát được khổ đau và, cuộc sống của chúng ta cũng
trở nên tự tại an lạc được thể hiện, nên cụ lúc nào cũng ao ước là phải thực
hiện cho bằng được tâm vô sự này.
Chú thích:
[1] Đ.17, No. 0842, Đại Phương Quảng Viên Giác
Tu đa la liễu nghĩa, trang: 0915c22 (HT. Thích Thiện Hoa dịch).
Bài thơ “Thôn dạ” ở trên, cụ nói đến cái quả khi chúng ta
tiêu trừ được nghiệp chướng thì tâm không còn gì để trói buộc, tâm trở nên rỗng
rang, hay bảo là tâm không, hiện tiền; nhưng bằng cách nào để tiêu nghiệp nói
chung, riêng cái nghiệp trí tuệ tức là cái nghiệp của thế trí biện thông, là
nghiệp của trí tuệ thiện thuộc pháp hữu lậu.
Như kinh nghiệm ở trên cụ Nguyễn Du đã cho chúng ta biết rằng:
Khi nghiệp chướng tiêu trừ thì tâm chúng ta trở nên rỗng rang không gì trói
buộc, đó là một kinh nghiệm tâm linh có được từ nơi cuộc sống đã dạy cho cụ,
để từ đó cụ bắt đầu cho cuộc sống của chính mình qua:
“… Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng,
Bất dung trần cấu tạp thanh hư…”
未 有 文 章 生 孽 障
不 容 塵 垢 雜 清 虛
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Chưa thấy văn chương sinh nghiệt chướng,
Không để bụi nhơ vấy rỗng trong.
Vì bụi nhơ chính là chướng nghiệp chúng có khả năng làm mờ
đi bản tính rỗng rang thanh tịnh của chúng ta, và mặc khác chúng kéo chúng ta
vào con đương sinh tử khổ đau. Vì vậy cho nên cụ Nguyễn Du dứt khoát đoạn trừ
với bụi nhơ bằng cách không để chúng vấy vào tâm không rỗng rang của chúng ta
và, lấy văn chương để tiêu khiển.
Vì chính văn chương không phải tự nó sinh ra chướng nghiệt,
mà chính tâm vọng động của chúng ta tạo ra những nghiệp chướng bằng vào
thân-khẩu-ý làm công cụ cho ba độc tham lam, sân hận, si mê phát triển nuôi lớn
ngã chấp và pháp chấp tạo ra mọi thứ đau khổ ràng buộc mà đức Đạo sư gọi là
nghiệp và, khi nghiệp đã trừ đi hết rồi thì tâm sẽ trở nên vắng lặng trong
sáng, tinh thần nhẹ nhõm an lạc tự hiện ra:
“… Tam lan song hạ ngâm thinh tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.”
三 蘭 窗 下 吟 聲 絕
點 點 精 神 遊 太 初
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Dưới cửa tam lan im bặt tiếng,
Tinh thần nhẹ nhõm dạo thái sơ.
Tức là chỉ cho trạng thái tinh thần lân lân nhẹ nhõm rỗng
rang vô tận nguyên sơ chưa bị nhiễm ô. Khi mà mọi duyên trần cảnh bên ngoài bị
cắt đứt thì, tâm thần trở nên nhẹ nhàng thư thái lân lân, vì tâm lúc này
không bị ràng buộc bởi các duyên trói buộc, dù là duyên tốt hay là duyên xấu
cũng ảnh hưởng đế sự ràng buộc lệ thuộc làm cho tâm mất đi sự rỗng rang trong
sáng vắng lặng. Đối với cụ Nguyễn Du lúc này cụ đã làm chủ được tâm mình nên
đối những cảnh sắc bên ngoài không làm ảnh hưởng đến cõi lòng của cụ nữa, cho
dù đó là việc hoa nở hay hoa tàn lá vàng hay lá xanh, lá rụng hay đâm chồi nẩy
lộc, cũng không còn ảnh hưởng tác động làm cho nó lay động nữa:
"… Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như".
葉 落 花 開 眼 前 事
四 時 心 鏡 自 如 如
(Tạp thi II)*
Dịch:
… Lá rụng hoa khai ngay trước mắt,
Cõi làng năm tháng vẫn không thay.
Tức là tấm lòng của cụ vẫn trong sáng rỗng rang như cái bản
lai diện mục của nó từ nguyên thỉ chưa nhuốm bụi trần phiền não sinh tử vậy.
Vì trong hiện tại cõi lòng cụ được như như, như vậy là nhờ cụ đang trụ tâm
mình vào thiền định. Có lẽ cụ đang tham công án thiền: “Làm thế nào để tâm có
thể trụ vào nơi không có chỗ trụ?” Đây là một Công Án Thiền cụ rút ra từ cốt
tủy của bản kinh Kim Cương, một bản kinh nền tảng của Thiền Trung Quốc nói
riêng cũng như Thiền của các nước Đại thừa Phật giáo khác nói chung, kể từ
Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn trở xuống. Cụ Nguyễn Du đã đang nổ lực thực hành nó, cho
nên tâm của cụ lúc nào cũng ở trong nghi tình thiền định này:
"… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền...”
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
(Đề Nhị Thanh Động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Tâm này thường định, chẳng lìa Thiền…”
Thời gian mà cụ bắt đầu có ý muốn xa lánh đời để xuống tóc ẩn
tu là thời gian cuối những năm từ 1786-1795, lúc này cụ gần 30 tuổi và thời
gian mà cụ sống không lìa thiền đã thể hiện ra trong bài thơ này là vào những
năm 1802-1804 tức là khoảng 36 hay 37 tuổi. Như vậy, việc chuyển hướng về với
đạo Phật là khá sớm và, việc cụ tự nói lên sự tu tập độc tụng kinh Kim Cương
đến hàng nghìn lần không phải là những lời nói ngoa. (Ở đây chúng tôi xin mở
ngoặc một tí, vấn đề tu tập của Phật giáo nó không mang bất cứ một hình thức
nào nhất định hết, vì bản thân của sự tu tập này nền tảng căn bản và mục đích
cuối cùng của nó là làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý, để mọi người không
tạo ra nghiệp khổ đau mà thôi, cho nên việc tu tập cũng có rất nhiều cách: độc,
tụng, học hành, lễ bái hay làm bất cứ phương cách nào như chúng ta thường
nghe là vô lượng pháp môn tu, ở bất cứ nơi đâu, ở chùa hay ở tại thế gian
cũng có thể tu tập được hết, với mục đích là để làm cho ba nghiệp của thân miệng ý
không tạo ra tác nhân nghiệp và, dành cho bất cứ ai muốn thực hành điều đó,
chứ không phải chỉ dành cho các vị xuất gia vào chùa làm một tỳ kheo hay một
tỳ kheo ni mới gọi là tu theo đạo Phật, còn những người không mang hình thức
này không phải là người của Phật giáo. Vì quan niệm sai lầm này chúng tôi gặp
rất nhiều khi đọc những bài viết bình luận phê bình trong Văn học Việt nam,
khi viết về Phật giáo. Có nhiều người, họ cho rằng chỉ có người đi tu ở chùa
theo Phật mới gọi là những người tu theo đạo Phật còn những tại gia không ở
chùa thì không phải là người của đạo Phật!)
Sở dĩ cụ Nguyễn Du đã lựa chọn cho mình một phương pháp tu
cho thích hợp với cuộc sống và căn cơ của chính cụ cho nên Thiền Công Án là một
phương pháp Thiền Định làm thanh tịnh ba nghiệp thân miệng ý của cụ. Vì trong
Thiền Công Án này có nhiều cách để huân tập nghi tình trong lúc tu như: Tham
thoại đầu về nghi tình công Án này, hoặc tham nghi tình Công Án bằng cách tụng
đi tụng lại cho đến lúc miên mật ngay trong giấc ngủ cũng khởi lên, huân tập
nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm như vậy cho đến khi nào nghi tình này lớn
mạnh, chỉ cần nhờ một duyên cuối cùng tác động lên nó, thì Công Án nghi tình
sẽ bùng vỡ ngay, đó gọi là ngộ. Cũng vậy việc đọc kinh cũng giống như vậy, với
mục đích là huân tập đọc đi đọc lai làm cho nghi tình càng ngày càng lớn hơn
và, cho đến lúc nào đó, chỉ cần một duyên cuối cùng cũng đủ bùng vỡ, như trường
hợp của cụ Nguyễn Du cũng vậy. Phân Kinh Thạch Đài là duyên cuối cùng, là giọt
nước cuối cùng cho nghi tình Kinh Kim Cương của cụ bùng vỡ. Có nhiều người
nghĩ rằng đọc kinh không phải tu, nhưng đó là một ý nghĩ sai lầm! Vì đọc kinh
cũng là một phương pháp cắt đứt hết mọi duyên khác, chỉ định tâm vào bản kinh
và, việc định tâm vào bản kinh chính là thiền định; vì lúc chúng ta định tâm
vào kinh thì mọi duyên khác bên ngoài chúng ta cắt đứt, chỉ còn có biết bản
kinh thôi. Lúc này thân chúng ta ngồi một chỗ, hay nằm một chỗ, thay vì đọc bằng
miệng như tụng, chúng ta dùng mắt để độc và miệng thì giữ im lặng; như vậy
thì ba nghiệp thân miệng ý chúng ta đang định vào trong kinh không tạo ra các
nghiệp. Vậy là ba nghiệp thân miệng ý chúng ta ngay lúc đó không tạo ra nghiệp
dữ rồi, đó là một cách tu trong muôn ngàn cách tu khác. Ở đây ai trong chúng
ta bảo đọc không phải là tu đây!!!?. Tu chỉ có một cái nghĩa đơn giản là sửa
và, thiền định là một cách sửa tâm hay nhất đối với những người có căn cơ
này. Việc lựa chọn kinh Kim Cương để cụ Nguyễn Du tu tập bằng cách đọc kinh
là một trong muôn nghìn cách tu thiền định trong đạo Phật, với mục đích là để
làm lắng động cái vọng tâm đang lăng xăng chạy theo vô minh tạo ra nghiệp khổ,
mà cắt đứt dần mọi thứ tạp niệm của ý tạo ra những tạp niệm của thân tạo tác,
miệng tạo tác. Lâu ngày chầy tháng dần nhờ sự cắt đứt này mà tâm từ từ trở
nên trong sáng rỗng rang trở lại.
Theo Cụ Nguyễn Du, cũng giống như nước giếng xưa vốn vắng
lặng trong sạch không bị người khuấy động, trăng sáng chiếu soi thấy bóng
rõ ràng, vì đó là bản chất vắng lặng của nước. Nếu khuấy động lên thì chúng
sẽ đục, ánh trăng sáng sẽ không còn thấy được nữa. Tâm của chúng ta cũng vậy
không dao động trước mọi duyên thì với bản chất trong sáng thanh tịnh của
nó thì tự nó sẽ chiếu soi khắp cả và, cũng có khả năng hiển thị tất cả qua
bà thơ ẩn dụ đạo ý:
"Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất vị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất giao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất giao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy".
明 月 照 古 井
井 水 無 波 濤
不 被 人 牽 捨
此 心 終 不 搖
縱 被 人 牽 捨
一 搖 還 復 止
湛 湛 一 片 心
明 月 古 井 水
(Đạo Ý)**
Dịch:
Trăng sáng chiếu giếng xưa
Nước giếng không gợn sóng
Không bị người khuấy động
Tâm này thật chẳng động
Nếu bị người khuấy động
Lay động rồi lại dừng
Một cõi tâm lắng đọng
Như trăng soi giếng xưa.
Thật ra đó chỉ là một thí dụ, cụ đưa để ví dụ cho tâm con
người và nước giếng xưa tạm để chúng ta hiểu được rằng tâm ta khi định một
chỗ thì nó sẽ hiển thị ra công dụng sáng trong vắng lặng cũng giống như nước
giếng xưa nếu khuấy động làm cho nó đục thì nó sẽ không thấy vật gì hết,
còn nếu để nguyên không khuấy động thì nó sẽ lắng trong. Đó là một thứ kinh
nghiệm được cụ rút ra từ cuộc sống của chính cụ, để cho ta thấy rằng sở dĩ
thường ngày chúng ta không thấy được tâm trong sáng vắng lặng rỗng rang của
chúng ta, mà chỉ thấy hoàn toàn là những phiền não khổ đau làm
cho chúng ta đau khổ; tâm vật lý này luôn vô thường, luôn tạo ra cho chúng
ta những thứ phiền não khổ đau từ: xa lìa người thân, những vật mà mình
đang sở hữu thuộc về của mình cũng sinh ra đau khổ; những ai mình ghét bỏ,
thù oán, hoặc những vật mà chúng ta không thích, không ưa mà luôn xuất hiện
trước chúng ta cũng tạo ra những đau khổ; những điều mà chúng ta ước muốn
thuộc về chúng ta (vật chất lẫn tinh thần), mà chúng ta tìm cầu không được
cũng làm cho chúng ta đau khổ; nói chung là mọi thay đổi trong cuộc sống bất
như ý chúng ta là mang lại cho chúng ta những đau khổ. Chính những đau khổ
này nó vấy đục tâm tư chúng ta, nó làm cho tâm tư chúng ta tối tăm u ám như
nước giếng xưa đang trong lành bị chúng ta khuấy đục lên vậy, công dụng hiển
thị sáng soi không còn nữa. Do đó chúng ta muốn tâm chúng ta trong lành
sáng tỏ thì đối với mọi sự vật từ tinh thần cho đến vật chất chúng ta chỉ cần
không đắm nhiễm chạy theo nó để bị trói buộc bị khuấy dục lên thì đó chính
là tâm vô sự, đó chính là Phật, là tâm không như cụ đã từng viết:
“… Phật bổn thị không bất trước vật…”
佛 本 是 空 不 著 物
(Phân kinh thạch đài)**
Phật vốn là Không, chẳng chấp vật.
Khi tâm chúng ta không chấp vào mọi sự vật chung quanh cuộc
sống từ tinh thần cho đến vật chất thì đó chính là Phật. Phật này bản thể
là tính không, tướng của Phật là không vì sự hiện hữu của sắc thân nên Phật
do nhân duyên tích hợp mà tác thành, thân Phật này không có thực thể, nó chỉ
là một giả hợp của Năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là một tích hợp
của đất, nước gió, lửa (thuộc vật chất); thọ, tưởng, hành thức là tích hợp
của tinh thần (thuộc tâm). Vậy thì từ vật chất đến tinh thần đều do nhân duyên
hòa hợp nà hiện hữu, nên sự hiện hữu của Phật này là một hiện hữu giả danh,
vì Phật chỉ là một giả danh nên Phật vốn là Không. Khi Phật đã không thì
tâm cũng không.
Vậy tâm chúng ta đục hay trong cũng từ nơi ta cả chứ
không ai làm cho tâm ta lu mờ và sáng trong được, cho nên cụ khuyên chúng
ta nên:
"… Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu…"
人 了 此 心 人 自 度
靈 山 只 在 汝 心 頭
(Phân kinh thạch đài)**
Dịch:
… Người rõ tâm này, người tự độ,
Linh Sơn [1] chỉ ở nơi tâm ngươi…
Vì thường thì chúng ta hay cầu Phật ở nơi bên ngoài chúng
ta, tức là vong thân cầu Phật tại Linh sơn, rất nhiều người nổ lực tìm cầu
Phật bên ngoài mà bỏ quên ông Phật chính mình nơi mỗi người, đó là một cái
nhìn vô minh thiếu chánh kiến, nên lầm đường lạc lối cầu Phật bên ngoài.
Theo cái nhìn thấu tâm đạt lý của cụ Nguyễn Du thì khi chúng ta đã tỏ rõ bản
tâm của mình rồi thì chính mỗi người phải tự mình độ lấy chính mình ra khỏi
vô minh mờ tối của chính mình tạo ra đó thì tự nhiên tâm rỗng rang trong
sáng của chính mình hiện hữu chứ không cần phải dựa dẫm vào bất cứ thế lực
nào khác ngoài chúng ta. Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyễn Du mà không biết chữ
Hán hay không đọc những tập thơ mà cụ viết bằng chữ Hán để biết cuộc đời của
cụ đã chịu ảnh hưởng Phật giáo như thế nào mà viết về Nguyễn Du và Phật
giáo thì, đương nhiên có những cái nhìn tưởng tượng lệch lạc về vấn đề này.
Qua những điều chúng tôi trích dẫn từ văn thơ của cụ như vậy, ai dám bảo cụ
không phải là người của Phật giáo? không phải là người tu theo Phật nào?!
Những điều chính cụ viết ra không chịu hiểu không chịu đọc rồi ngồi đó tưởng
tượng sai lầm rằng Nguyễn Du ảnh hưởng tâm học của người này người kia v.v…
đem áp đặt lên người cụ, trong khi thơ cụ không có bất cứ chỗ nào đề cập đến
chủ trương tâm học. Bởi vì “Người rõ tâm này, người tự độ, Linh Sơn (chỗ Phật
nói pháp) chỉ tại tâm ngươi” không phải là “tức tâm tức Phật, tức Phật tức
tâm” Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm sao? Mà theo cụ thì sở dĩ chúng ta
không nhận ra được tự tánh tâm mình, không nhận ra bản lai diện mục của
chính mình là vì chúng ta tìm Phật bên ngoài, chạy rông từ kiếp này sang kiếp,
từ nơi này đến nơi kia để tìm; nhưng rốt cùng tìm mãi không ra chỉ vì người
chỉ đi tìm cái bóng của minh không thôi, trong khi bản lai diện mục lù lù nơi
chính ta mà ta không biết, càng chạy đi tìm thì càng lạc lối càng xa quê
hương xứ sở nguyên sơ của chính mình chỉ vì vô minh phiền não che lấp nên
không thấy đó thôi:
"Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri".
年 年 秋 色 魂 如 許
人 在 他 鄉 不 自 知
(Giang Đầu Tản Bộ)**
Sắc thu hồn vẫn luôn như vậy
Vì mãi xa nhà không biết thôi.
Tóm lại qua những bài thơ mà chúng tôi đã trích dẫn trong
ba tập thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du cho chúng ta một cái nhìn đúng về nhà
thơ đã ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo trong đời sống “bất ly Thiền” hằng ngày
của cụ, là một nhà thơ vĩ đại không những là của Việt Nam ta không thôi, mà
cụ còn là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế giới nữa. Cái vĩ đại của
Cụ nhờ vào hai yếu tố thứ nhất bởi một thứ trí tuệ nghiệp được huân tập di
truyền từ nhiều kiếp trước cộng với cái trí tuệ nghiệp được huấn tập từ kiếp
này, từ cuộc sống qua đó Phật giáo là một tác động quan trọng đối cuộc sống
của cụ, nhất là Thiền tông là một nhân tố tác động chính yếu cho việc cụ
khám phá ra bộ mặt thật của chính mình cũng như mọi sự vật khác, để từ đó cụ
sáng tác ra những tác phẩm mang tính nhân bản triệt để hơn qua Truyện Kiều
và Văn Tế thập loại chúng sanh mang đậm tư tưởng Phật giáo trong việc phủ
nhận thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã làm hủ hóa khiến con người không tự
mình vương lên trong cuộc sống được:
“… Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao...” (Kiều)
Với quan niệm mệnh trời như vậy thì chúng ta còn làm được
gì, đành phải bó tay bó chân thôi!
“… Thôi đành nhắm mắt đưa chân.
Thử xem con tạo xoay vần ra sao?...” (Kiều)
Đúng là với quan niệm như vậy nó làm cho con người trở
nên yếu mền, nhu nhược. Đây mới là quan niệm làm cho con người bi quan yếm
thế của Nho giáo đối với cuộc sống, chứ không phải quan niệm đời là khổ của
Phật giáo là quan niệm bi quan yếm thế như nhiều người lầm tưởng. Vì đời chỉ
là kết quả khổ, phát sinh từ nguyên nhân, chính con người của mỗi cá nhân
mang đến kết quả đó mà thôi chứ đời không phải là nguyên nhân sinh ra đau
khổ. Vậy muốn quả khổ này mất đi thì chỉ cần triệt tiêu nguyên nhân sinh ra
khổ thì đời tự nhiên hết khổ thế thôi. Vậy thì việc gì Phật giáo phải bi
quan yếm thế như một số người hiểu biết lệch lạc sai lầm về Phật giáo vậy! Ở
đây với quan niệm mệnh Trời bắt làm người có thân, bắt phong trần phải
phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao thì, đây mới chính là
quan niệm làm cho con người trở nên bi quan yếm thế không tự chủ trước cuộc
sống. Nhưng đó là quan niệm mệnh trời của Nho giáo mà cụ đưa ra làm tiền đề
và, tiếp theo đó cụ đưa ra quan điểm tự tác tự thọ, của Phật giáo qua nhân
quả báo ứng để kết luận, tức là tự con người làm thì tự con người nhận lấy
cái quả đó, mà phủ nhận cái quyền sinh sát của mệnh Trời kia. Thật sự nếu
có Trời đi chăng nữa thì Trời theo cụ chỉ là một cán cân mà thôi:
“Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai...” (Kiều)
Như vậy thì Trời đâu có thiên vị và làm theo ý Trời được,
mà phải lệ thuộc vào tác nhân của người tạo ra mà theo đó mới bắt người chịu
những kết quả tương ứng với những tác nhân trước đó của họ. Vậy thì mệnh
Trời đã bị con người tước đoạt rồi, vì Trời nếu có, bây giờ chỉ làm một cán
cân, cân giúp cho con người trong việc cân tội phước, họa phúc, nặng nhẹ thế
nào thôi. Vì vấn đề nặng nhẹ có được do chính con người tạo ra. Bây giờ con
người đại diện cho chữ tài và Trời đại diện cho chữ mệnh cả hai bình đẳng
như nhau trên mặt lý tính. Ở đây chúng tôi chỉ bàn sơ qua việc này để kết
luận cho bài viết này, việc này chúng tôi sẽ bàn chi tiết hơn trong phần thứ
hai, bài kế tiếp về “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
* Bài này trích một phần từ bài viết: - Nguyễn Du “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
**Sách tham khảo:
- Tổng tập Văn Học Việt Nam tập 13, 14.
- Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn
1973.
- Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB
Văn học 1996.
- Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm của Nguyễn Thạch
Giang và Trương Chính, NXB
Văn hóa thông tin.
Chú thích: [1] Linh Sơn: gọi cho đủ là Linh Thứu sơn, là chỉ cho núi
Linh Thứu nơi đức Đạo sư nói pháp độ sinh khi Ngài còn tại thế. Có hai thời
kỳ đức Đạo sư nói pháp ở nơi đây: Một, thời kỳ đức Đạo sư thuyết Kinh Pháp
Hoa. Hai, thời đức Đạo sư phó pháp cho Tôn giả Ma ha Ca diếp (theo Thiền
tông) “Dĩ tâm truyền tâm”. 1/9/2007 Đại Lãn Theo https://www.vanchuongviet.org/ |
| |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét