Quan niệm về văn học - Đóng góp
của Bùi Giáng với lý luận văn
học dân tộc
1. Thế kỷ XX, thi đàn Việt sau nhiều thập niên được thắp
sáng bởi ánh hào quang của chòm sao chổi thơ ca Hàn Mặc Tử, lại
được bừng lên với một hiện tượng thi ca mới: Bùi Giáng, một "thiên tài
không định nghĩa được" (1).
Từ buổi xuất hiện, thiên tài kỳ lạ ấy đã định vị mình trên lược
đồ văn học dân tộc như "ngôi tinh văn kỳ dị có bóng dáng lồng lộng nhất hậu
bán thế kỷ XX" (Hoàng Phủ Ngọc Tường) (2). Lúc sinh tiền người đời ngưỡng
vọng dành cho ông nhiều danh xưng cao quý: "Người hóa thân cho thi ca",
"Người Thơ,"… Tự bản thân, Bùi Giáng nhận mình là Trung Niên Thi Sĩ.
Bên cạnh thành tựu thơ văn đã và đang ngày càng thu hút sự quan tâm tìm
hiểu, nghiên cứu, ông còn để lại những di sản phê bình triết học, dịch thuật,
phê bình văn học, hội họa. Và trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, ít ai biết rằng,
Bùi Giáng cũng có những đóng góp đáng ghi nhận về lý luận sáng tạo nghệ
thuật văn chương.
2. QUAN NIỆM VĂN HỌC
2.1. Quan niệm về thơ ca
Thơ ca là hình thái văn học đầu tiên nảy sinh từ khi con người
bắt đầu cảm thấy mối liên hệ giữa mình và thực tại và sâu sắc hơn là khi con
người có những nhu cầu tự biểu hiện trong đời sống. Ý thức cao về lập trường
sáng tạo thơ ca, Bùi Giáng đã xây dựng quan niệm sáng tác riêng - những quan điểm
thường được ông phát biểu gián tiếp, thông qua cách nói hình tượng: “Thơ là một
cái gì không thể bàn tới, không thể diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một
trận mưa rào bằng thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể
phát động một trận mưa rào, một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài
việc làm thơ ra, con người không còn phép nào khác. Thế có nghĩa là muốn
bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài khác. Người xưa am
hiểu sự đó, nên chỉ vịnh thơ chứ không điên rồ mà bàn luận về thơ. Người đời
nay trái lại. Họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luận lý không được “bốc đồng”
vịnh lăng nhăng cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghì vậy” [1,tr149]. Thi
sĩ nói thêm về cách ông làm thơ: “Thơ tôi làm chỉ là một cách dìu ba đào về
chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm giông bão một lúc thì lập tức xô
ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức… Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn,
đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay
đi (…). Tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình giữa thơ dại chiêm bao. Trong
chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm
bao. [2, tr.33].
Bùi Giáng không định nghĩa thơ bằng lối nói mang màu sắc luận
lý. Chiêm nghiệm thực tế sáng tác, thi sĩ nhận ra thơ là “cõi phiêu bồng” (Lời
phiêu dựng lại một điệu chào dị sai - Lá Hoa Cồn). Thơ là vô ngôn. Ông lý
giải: “Cái nói của tư tưởng chỉ đạt tới chỗ bình hòa thanh tịnh thuần thanh và
tìm thấy lại tinh thể của mình là chính lúc nó không nói được điều gì, nó phải
được tồn tại trong vô ngôn, một sự vô năng như thế sẽ nhiếp dẫn tư tưởng tới tiền
diện sự thế, sự vật từ như” [3,tr36]. Quan niệm về thơ của Bùi Giáng khá gần gũi
với mỹ học về cái nhạt của Trung Hoa mà nhà triết học hiện đại
F. Julien đã bình giải: "Cái nhạt chỉ hiện ra để người ta cảm nhận được
khi nó hướng người ta đến cái hài hòa đã qua, cái đã được định đoạt trong im lặng"
[4,tr20]. Như thế với Bùi Giáng, thơ mang một hàm nghĩa rất rộng; là một thế giới
nhiệm màu, tế vi và tự nhiên, nhi nhiên như cuộc sống muôn vẻ đa chiều
kích; là nghệ thuật tinh túy của ngôn từ chảy tràn ra từ những siêu thăng
trong tâm hồn, tiềm thức và vô thức (Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì
từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao). Thơ với Bùi
Giáng, là cái gì vượt thoát (Lời phiêu), "là lô hỏa thuần thanh
- ngọn lửa đã xanh - lửa đã xanh thì tươi mát như ngọn lá đa mới nở. Nhưng
sức nóng mãnh liệt của nó có thể thiêu rụi bất cứ thứ cứng rắn nào" [5,tr.104]
và thơ cốt phải trở về được với nguồn cội đời sống tại thể người (một
sự vô năng như thế sẽ nhiếp dẫn tư tưởng tới tiền diện sự thế, sự vật từ như).
Chính lúc đó thơ ca làm cuộc đời hiện lên trong vẻ đẹp vừa siêu thoát vừa chân
thật như vốn có. Bùi Giáng đã đưa thể tính của thi ca về đúng chỗ của nó, là hệ
quả của phép làm thơ, một quá trình sáng tạo kì diệu như ông nói: “… hãy quên đi
rồi hãy viết. Hãy viết như viết trong chiêm bao: nơi đó mọi thứ đã trộn lẫn. Một
thứ trộn lẫn đầy cảm động và mãnh liệt. Đừng có chằm hăm vào một cái gì, một chỗ
nào. Hãy nên chằm hăm vào chỗ rạt rào”. [5,tr.10]. Thơ ông đã đạt được đến
độ dạt dào nhựa sống, lay động hồn người chính từ quan niệm như thế:
Một hôm nào em mở cửa đầu khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá
Chim chóc xanh đòi đẻ trứng bây giờ.
(Làm thân con gái)
Bùi Giáng mặc khải về sự khai hạ, sự sinh nở nơi người Mẹ cuộc
sống huyền nhiệm như hoạt cảnh chúa trời giáng thế; hạt mầm sự sống tí tách trở
động trong nguồn ánh sáng nguyên sơ dựng dậy một suối nguồn sự sống tràn trề,
xanh ngát. Có thể thấy, ông chủ trương đưa thơ ca thành tiếng nói gần gũi với đời
sống con người nhất nhưng phải là thứ tiếng nói về cuộc sống ở trình độ tinh
tuyển, để cuộc sống hiện lên trên một giác độ mới, một trần gian lộng lẫy hơn,
mê đắm hơn nhưng không xa lạ. Quan niệm thơ là cõi phiêu bồng, là vô ngôn, Bùi
Giáng dùng ngôn ngữ thần ngôn, chi ngôn, trùng ngôn, phản ngữ, nhằm đạt đến chỗ im
lặng nổi sóng như tinh thần Thiền Tông Phương Đông và tinh thần của triết
học Heidegger phương Tây về ngôn ngữ: "Trong cõi ngôn ngữ nghiêm hàn ấy có
sự trì ngự huyền hỏa bão giông và tại trung tâm huyền hỏa bão giông đó có cõi
viên dung thanh tịnh" [6,tr.24]. Thử nghiệm hai câu trong bài “Chào
Nguyên xuân” của ông:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau.
Hai câu thơ lâu nay vẫn được xem là tuyệt bút, bởi đứng trước
nó người đọc được dẫn vào một cõi miền đầy bảng lảng. Ta thấy cái vẫy tay lấp
lánh niềm hân hoan của thi nhân để dấn bước vào dòng chảy cuộc sống đang mời gọi.
Nhưng, để định vị được tọa độ nào là điểm đứng của thi nhân quả thật
vô cùng mờ ảo. Có thể hiểu mùa Xuân phía trước là tương lai
và miên trường phía sau thuộc về quá khứ. Hay ngược lại, thời khắc mùa Xuân cuộc
đời nhà thơ chỉ còn là quá khứ và tương lai phía trước chỉ là giấc miên
trường - giấc ngủ dài. Câu thơ ảo diệu, uyên bác nhưng cứ tự nhiên, thơ thới
tuôn chảy như không hề có dấu vết của bàn tay của người sáng tạo. Bằng
cách đó, thế giới thơ ca Bùi Giáng mở ra phiêu bồng, bát ngát - cái thế giới của
bóng vang.
Từ quan niệm về thơ, Bùi Giáng cũng manh nha suy nghĩ về cách
đọc thơ và nâng lên thành cách đọc văn chương:
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng dòng
(Bé con ơi)
Cách đọc thơ theo ông là vừa là một sự tri âm: mở óc trong đầu
ra, mở máu trong tim ra, phải có hùng tâm đừng nghi tâm, biết
đau khắp tâm can: Mười về châu lệ chín sa dòng dòng, biết trân trọng
nâng niu: Dịu dàng cuối lá đầu hoa. Nhà Đông phương học Nhật Bản
Toshiko Izutsu có bàn về hai cấp độ đọc: "Ý thức cấp một là ý thức thông
thường bằng thao tác, bằng cảm xúc bằng tri giác, bằng tư duy duy lý, chủ yếu
nhận thức sự vật trong thời gian và ở bình diện hiện tượng luận. Ý thức cấp hai
là chiều sâu của ý thức, nó có năng lực đọc được sự vật trong trạng thái “sự thống
nhất nguyên thủy ở trạng thái tuyệt đối chưa phân hóa của chúng và ở phía sau,
phía bên kia của sự vật đã đa dạng hóa thành những hiện tượng”, nó đọc được “cơ
sở văn bản phi hiện tượng, siêu hình và chưa đa dạng hóa của chúng" (3). Cách mà Bùi Giáng khuyên
người đọc đến với văn bản ở đây thuộc về trường hợp thứ hai, đến bằng vô
thức và ý thức. Khi đó tiếp nhận văn học như một hoạt động đối thoại “muốn bàn
tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài khác”. Thông qua sự
va chạm với vô thức và ý thức tác giả thể hiện nơi văn bản, người đọc nắm
bắt được những lóe sáng của trực giác, cảm thức về ý nghĩa văn bản. Đó là: văn
bản khác trong sự chiếm lĩnh của người đọc, có giá trị thanh lọc tinh thần,
tâm hồn.
Không thể có lối chiếm đoạt hoàn toàn văn bản một cách chủ định
như lối nghĩ truyền thống khi đến với tác phẩm văn chương, ông nói: “Đi vào cõi
thơ. Thế nghĩa là? Có một cõi và một cuộc đi, cuộc đi có nhiều thể
thái. Có thể theo lối chu du của ông Khổng Tử.
Có thể đi theo lối ngồi yên không rục rịch suốt bao diên trường
tuế nguyệt dưới một gốc cây bồ đề theo lối Như Lai. Cũng có thể đi theo lối
anh lùa bò vào đồi sim trái chín (4). “Đi như vậy dù sao thì
dù, cũng là trong ý hướng mở cõi ra chơi. Không ai buộc ai phải theo ý của
riêng độc đoán của ai… đã gọi là mở cõi thì chẳng nên khép miền. Nghĩa là… tránh cái lối bưng bít (…). Đó là điều kiện cần và đủ, không buộc ai phải
đi qua miên bạc bình sinh.” [7, tr.482]. Vẫn bằng lối nói hình tượng, nhìn nhận
trên của Bùi Giáng tỏ ra khá gần với lý luận văn học hiện đại và hậu hiện đại với
những khám phá về yếu tố người đọc tích cực và văn bản văn học. Thông diễn học
hiện đại với các quan điểm của M.Heidegger, G. H.Gadamer, Mỹ học tiếp nhận với
các nhà lý luận W.Iser, H. Robert Jauss thừa tiếp thành tựu triết học về
ngôn ngữ và triết học Hiện tượng học của chủ nghĩa hiện sinh đi đến hình thành lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Các nhà lý luận hiện đại, hậu hiện đại quan niệm tác
phẩm văn học như là quá trình (5), luôn chờ đón người đọc đến đối
thoại để hiện thể chính nó. Người đọc ở mỗi trường hợp đến với tác phẩm là thực
hiện một cuộc giao tiếp giữa toàn thể cái thế giới vô thức và ý thức của
bản thân với văn bản, nơi hiện thể toàn bộ cái vô thức và ý thức của tác giả. Mỗi
người đọc có một trình độ tiếp nhận nhất định, trường phái Mỹ học tiếp nhận
Konstanz (6) gọi là tầm
đón nhận. Ở mỗi thời đại khác nhau, người đọc có những quan điểm, thiên kiến
khác nhau. Vì vậy quá trình tiếp nhận tác phẩm ở mỗi người đọc cũng khác
nhau. Như thế, kết quả giải mã và hiển thị giá trị của tác phẩm trong lịch sử tiếp
nhận trên trục thời gian đồng đại và lịch đại mới làm nên giá trị thực tại của
nó.
Đối sánh với quan điểm của lý luận văn học hiện đại phương
Tây về hai trong các yếu tố then chốt của hệ thống văn học, dễ nhận thấy quan
niệm văn học của Bùi Giáng có những điểm rất mới mẻ, độc đáo đồng thời gần gũi
và thích hợp về các yếu tố cơ bản của văn học (Nhà văn - Tác phẩm - Người đọc) với
lý luận văn học thế giới đương đại. Ông cho rằng tiếp nhận tác phẩm văn học là
hoạt động chủ động của mỗi người đọc (cuộc đi có nhiều thể thái). Mỗi người
đọc khác nhau (có thể hiểu là: khác tầm hiểu biết về thể loại, hình thức, ngôn
ngữ của tác phẩm, sở thích, sở trường, kinh nghiệm…) sẽ có cách và sự chiếm
lĩnh khác nhau đối với tác phẩm. Theo đó, tác phẩm văn học (cõi thơ) được nhìn
nhận như là một hệ thống mở (không bưng bít, khép miền), chứa đầy ẩn số.
Nó kích thích sự đào sâu suy nghĩ, cảm nhận, tìm cách giải mã, lấp đầy chỗ “bất
khả giải” tức thời của tác phẩm (thơ ca) và nó kéo dài ra đến vô hạn tùy theo sự
nội cảm, trạng thái nhận thức và trình độ của chủ thể tiếp nhận. Người đọc ở những
tầng bậc thẩm mỹ khác nhau sẽ lĩnh giải tác phẩm ở những điểm khả thủ khác
nhau.
Lâu nay, đứng trước thế giới thi ca Bùi Giáng, người ta vẫn
thường có tâm thế “kính nhi viễn chi”, cảm thấy như đứng trước một thế giới thơ
ca luôn ở thế tràn bờ, không biên giới; thế giới được xây cất bởi thứ ngôn ngữ
đầy khả biến như đời sống, chẳng hạn: Thử một lần đối diện thơ Bùi Giáng
(Trương Vũ Thiên An), Một thử nghiệm đọc thơ Bùi Giáng (Khế Iêm), hoặc
một sự ghi nhận khoáng đạt: Cuộc hòa giải vô tận: trường hợp Bùi
Giáng (Nguyễn Hưng Quốc),… có lẽ điều đó xuất phát từ hiệu ứng của quan niệm
thơ, cách làm thơ như đã thấy ở ông. Bùi Giáng có một quá trình tiếp xúc với hệ
thống tư tưởng triết học hiện sinh phương Tây mà nền tảng của nó là hiện tượng
học Husserl; ông đặc biệt yêu thích tư tưởng triết học của M.Heidegger và hệ thống
tư tưởng phương Đông xưa cổ… Sự tiếp thông suối nguồn tư tưởng đó có thể nói đã
dẫn đạo cho những suy tư văn học sâu sắc nói trên. Đây có thể xem là những đóng
góp không nhỏ và độc lập của Bùi Giáng trong lĩnh vực lý luận văn học dân tộc.
Ông thường nói: “Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy đuổi theo mọi thứ trào lưu
chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh tế cỏn con nào để
thể hội rằng lục bát Việt Nam là một cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của
năm châu bốn biển ba sông bảy hồ và (…) Cái thói học đòi vá víu thông thái
đã âm thầm giết chết máu me thân thể chúng ta” (7). Bùi Giáng luôn muốn giữ
sự tôn quý và đề cao bản lĩnh dân tộc.
Vui thôi mà là câu ông thường nói khi được hỏi về việc làm
thơ. Nói như đại thi hào Nguyễn Du, sáng tạo Truyện Kiều cũng chỉ để Mua
vui cũng được một vài trống canh. Song, như đã biết, Bùi Giáng đã có khoảng 60
tác phẩm ở các thể loại thơ, tạp văn, bàn luận về văn học và triết học;
chuyển ngữ nhiều tác phẩm văn chương thế giới (bằng tiếng Pháp, tiếng
Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Đức) sang Việt ngữ. Tất cả đều theo một
thể điệu riêng biệt của ông. Riêng thơ, ông có trên ngàn bài. Văn nghiệp Bùi
Giáng đồ sộ vô cùng. Một mặt, ông nghĩ về thơ như một cõi vô ngôn. Mặt khác,
nói về chức năng của thi ca, Bùi Giáng cũng nhìn nhận một cách nhẹ nhàng, kín
đáo: Thơ tôi làm là để tặng chuồn chuồn châu chấu (8). Như vậy phải chăng với
thơ, ông không đặt nặng vấn đề vị nghệ thuật hay vị nhân sinh của
thi ca - văn học? Thực tế, người làm thơ muôn thuở đều khao khát được người đời
chia sẻ, vì đó là mục đích tự thân để thơ ca được thành tựu. Và sứ điệp của thơ
ca bao giờ cũng hướng đến một cứu cánh nào đó cho cuộc đời.
Khi cho rằng làm thơ để tặng chuồn châu chấu thiết
nghĩ là Bùi Giáng cần ở con người một thái độ vô cầu, vô ưu trước thế giới thi
ca ông. Buông mặc cho tâm tưởng tan chảy vào thế giới vi diệu đó, người đọc sẽ
bắt gặp được nhiều ý vị, tìm thấy không phải là những điều vĩ đại thì ít nhất
cũng là một thoáng chốc bình yên giữa cõi phù sinh, tìm được niềm vui nho nhỏ để
yêu, sống. Bùi Giáng đã nói đến chức năng của thơ(văn học) như một nhịp cầu để
đồng điệu, tri âm giữa người với người, là nơi con người được giải trí và bồi bổ
nhựa sống.
2.2. Quan niệm về thi nhân
Bắt chước ông Khổng Tử
Con chim thì ta biết nó biết bay
Con cá thì ta biết nó lội
Thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ
Nhưng thơ là gì thì đó là điều ta không biết
(Sa Mạc Trường Ca)
Bùi Giáng quan niệm về thi nhân - thi sĩ giản dị, tự nhiên
như bản mệnh đời sống vốn có: thi sĩ là người làm thơ. Bản thân ông sinh
ra là để sống cho thơ và làm thơ. Nhiều thi sĩ xem ông là hóa thân của thi
ca. Và cũng bằng một giọng điệu dị thường cố hữu, ông nhận định thêm về người
làm thơ: Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa ly
kỳ gay cấn (9). Vượt qua
những định danh quen thuộc về sứ mệnh cao cả, lớn lao của người nghệ sĩ - chiến
sĩ trên mặt trận văn hóa, hay cách nhìn trên tinh thần lãng tử của các nhà Thơ
mới: thi sĩ “là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi” (Xuân Diệu), “Thi
sĩ không phải là người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là
Ma, là Quỷ, là Tinh, Là Yêu. Nó thoát Hiện tại. Nó xối trộn Dĩ vãng. Nó ôm trùm
Tương lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói ra những điều vô nghĩa, tuy rằng
những cái vô nghĩa hợp lý (Chế Lan Viên). Với Bùi Giáng, người làm
thơ trước hết là một con người đến với mảnh đất trần gian nhiều quyến rũ và gay
cấn này để sống trọn, uống trọn những mật ngọt lẫn đắng cay của cuộc đời
và bằng một tinh thần vô ưu, vô cầu: Tôi lớn lên giữa linh hồn cỏ mọc để
cháy hết mình, tận quyết chết - với thiên chức làm thơ của nó đến trọn
đời. Cái chết ở đây được hiểu trên tinh thần của câu nói: Nếu người không
chết trong cuộc tại thế thì người sẽ mất tích sau khi qua đời. Thi sĩ Bùi
Giáng, kẻ đã chết trong cuộc tại thế này như chính thi sĩ nói: Tôi sống
trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết
hai ba lần trong trận sống đã đặt yêu cầu rất thiêng liêng, cao cả đối với
con người mang hai tiếng: thi nhân. Nhà thơ Holderlin từng kì vọng và tôn
xưng: Con người sống trên mặt đất này, như một thi sĩ. Thi sĩ là người
vinh hạnh đại diện trên hết cho vẻ đẹp rực rỡ của loài hoa đất
trên hành tinh xanh. Với Bùi thi sĩ, có thể nói ông là bảo chứng trọn vẹn cho
chính định nghĩa đó. Và nói như nhà thơ Huy Tưởng: Ông là người… Tận hiến
hết cả đời mình cho Duy nhất Thơ ca (10). Nguyễn Hữu Hồng Minh thì gọi
Bùi Giáng là “Người Thơ” bởi: Thơ với cuộc đời tiên sinh như đã được quán
luận, được thực hành như một Đạo. Đạo Thơ. [8,tr.432,433].
3.Qua hai tác phẩm lý luận chính: “Thi ca tư tưởng” và “Đi
vào cõi thơ”, các quan điểm văn học của Bùi Giáng được nêu lên khá hệ thống,
mang nhiều hạt nhân mới mẻ, hiện đại, có tính đột phá và độc lập trong
quan niệm về thi ca (tác phẩm), về thi nhân (tác giả), về cách tiếp nhận tác phẩm
văn chương (cách đọc), về ngôn ngữ thơ so với quan niêm văn học truyền thống;
có những gợi mở đáng chú ý về người đọc và tác phẩm gần gũi với quan
niệm của các nhà lý luận văn học thế giới đương đại (11). Đi qua bao vùng trời tư tưởng
Đông-Tây, kim-cổ, với sự tham chiếu, soi rọi nhau giữa những tư tưởng triết - mỹ
Đông Tây từ cổ điển đến hiện đại đó, Bùi Giáng đã tìm thấy được những điểm khả
thủ về bản chất của thơ ca, nghệ thuật; thấy được bản chất sự sáng tạo và tiếp
nhận văn học tương ứng với quan niệm thơ ca, nghệ thuật đó. Sự nghiệp sáng tạo
thơ ca Bùi Giáng dựa trên nền tảng quan điểm văn học đích thực cũng đã thu được
những thành tựu rực rỡ, góp phần đưa thi ca dân tộc bước vào lộ trình hiện đại
hóa và nhập cuộc cùng thế giới trên cả bình diện lý luận và sáng tác. Hiện tại,
từ hiệu năng của lý luận sáng tạo văn chương mới mẻ, thế giới thi ca Bùi Giáng
đã trở thành một hệ thống mở đã, đang được cộng thông và lan tỏa nhiều trong đời
sống Việt trong nước (12) và
ngoài nước và vẫn còn sức vẫy gọi những người đọc đồng sáng tạo ở phía trước.
Chú thích:
1. Chữ dùng của nhà nghiên cứu triết học, dịch giả Bùi
Văn Sơn Nam.
2. Vị trí dẫn đầu về kiểu nhà thơ “kỳ dị” nửa đầu thế kỷ XX được Chế Lan Viên ghi nhận thuộc về thi
sĩ Hàn Mặc Tử.
3. Dẫn theo Hoàng Ngọc Hiến, Lời giới thiệu Minh triết
phương Đông và triết học phương Tây, NXB Đà Nẵng,tr49.
4. Tên một bài thơ trong tập Mưa Nguồn của
Bùi Giáng.
5. Tên một tác phẩm lý luận văn học của GS-TS Trương Đăng
Dung.
6. Trường phái lý luận văn học Konstanz (Đức) xuất
hiện vào cuối những năm 60 đầu những năm 70 thế kỷ XX với đại diện: Hans
Robert Jauss.
7. Đoàn Tử Huyến, tài liệu đã dẫn, tr 479;
8. Bùi Giáng, tài liệu đã dẫn, tr 34.
9. Dẫn theo Đoàn Vị Thượng, Thể thao và Văn hóa, Bùi
Giáng: Người tiên lạc bước hồng trần, Thứ bảy, 30 Tháng 10. 2010
10. Lời nhà thơ Huy Tưởng đọc trước mộ Bùi Giáng.
11. Bùi Giáng viết độc lập các tác phẩm Thi ca tư tưởng, Đi
vào cõi thơ… vào thời điểm những năm của thập niên 60-70 thế kỷ XX, cùng thời điểm
các trường phái lý luận Thông diễn học hiện đại, Mỹ học tiếp nhận ra đời ở châu
Âu.
12. Hiện nay, thơ Bùi Giáng đang được quan tâm nghiên cứu
rộng rãi, liên tục trong môi trường học thuật ở các trường đại học
và trong đời sống.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đoàn Tử Huyến (2008), Bùi Giáng
trong cõi người ta, Đi vào cõi thơ, NXB Lao động - Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây.
[2] Bùi Giáng (1969),Thi ca tư tưởng, NXB
Ca Dao, Sài Gòn.
[3],[6] Bùi Công Khanh (2005), Bùi Giáng trong
tôi, NXB Văn Nghệ, T.p HCM.
[4] Hồ Thế Hà (2007), Những khoảnh khắc đồng hiện, Khoảng
lặng của ngôn từ thơ hay tín hiệu của cái nhạt trong thi ca, NXB Văn học.
[5] Nhiều tác giả (1999),Tưởng Nhớ Thi Sĩ Bùi Giáng,
NXB Trẻ.
[7] Đoàn Tử Huyến (2008), Bùi Giáng trong cõi người
ta, Bùi giáng - hồn thơ bị vây khổn, NXB Lao động - Trung tâm Văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây.
[8] Đoàn Tử Huyến (2008), Bùi Giáng trong cõi người
ta, Bùi Giáng - “Người thơ” cuối cùng của thế kỷ 20, NXB
Lao động - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
10/7/2020Đoàn Thị Minh Trà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét