Đề tài Tình yêu thường được các nhà Văn, nhà Thơ khai thác,
sử dụng rộng rãi trong Văn, Thơ truyền thống. Đặc biệt tình yêu đôi lứa, tình
yêu trong sư chia lìa, ly biệt. Dân tộc ta có quá nhiều cuộc chia ly. Theo tài liệu các nhà
sử học mới thu thập: Cuộc chia ly đầu tiên, đáng kể trong lịch sử là của
Vương triều nhà Lý, cách đây hơn 8 thế kỷ. Nhà Trần cướp ngôi nhà Lý, vị
Hoàng tử của triều Lý phải đưa gia quyến, người hầu, đồ thờ cúng Tiên vương,
xuống thuyền đi lánh lạn. Cuộc ra đi nghìn trùng xa cách (mãi tận bên Hàn Quốc
ngày nay). Hơn 8 thế kỷ sau, hậu duệ của vị hoàng tử kia mới tìm về cố quốc
nhận họ, đến đền thờ Lý Bát Đế cúng lễ tổ tiên mấy mươi đời mình
(1). Bốn thế kỷ sau cuộc chia ly khác lại xuất hiện: Khi nhà
Trịnh lăm le cướp ngôi nhà Lê. Đại thần trung lương Nguyễn Kim kiên quyết chống
lại. Nhà Trịnh tìm cách sát hại. Nguyễn Hoàng - con trai của Nguyễn Kim - phải
bày mưu… xin anh rể Trịnh Kiểm lúc đó đang nắm quyền bính trong tay - đi vào
trấn thủ biên cương phía nam để lánh nạn nhằm bảo vệ nòi giống, dòng họ
mình. Binh lính trung thành với Nguyễn Hoàng tình nguyện đi theo rất đông.
Gia đình họ đã làm một cuộc chia ly không hẹn ngày về: Nhà nào có một con
trai, Nguyễn Hoàng không nhận, có hai con trai trở lên, con trưởng ở lại, các
con thứ được cho đi theo (2). Thế là có cảnh:… Thùng thùng trống đánh ngũ liên Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa. Cuộc chia ly đó tiếp diễn bằng trận chiến huynh
đệ tương tàn, trên bờ sông Gianh, kéo dài cả thế kỷ... Cứ thế, còn có biết
bao cuộc chia ly tiếp sau nữa… Dường như cảm thông với dân Việt, ‘’Trời’’ đã ghi lại dấu ấn:
Tạo ra ngọn núi nằm ở Lạng Sơn (3), từ xa nhìn lên đỉnh, thấy mỏm đá giống
như người mẹ bế đứa con thơ. Dân ta gọi đó là Hòn Vọng Phu (Núí chờ chồng). Rồi,
‘’Trời’’ lại cho tiếp một kì quan nữa: Tạo ra 2 trái núi giống nhau, như hai
cha con sừng sững trên biển Hà Tiên: Đó là Hòn Phụ Tử (Núi Cha, Con). Nhưng… chẳng hiểu vì giận gì dân Việt - mới đây ‘’Ngài’’ lại
bắt người cha ‘’Về Trời’’, để đứa con côi cút, đứng trơ trọi
trên bờ đại dương mênh mông, trước Bão to, Sóng cả... Nhà thơ lớn của dân tộc: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu nhìn kì
quan thiên nhiên - Hòn Vọng Phu - như thấm đượm, cảm thông nỗi niềm của những
cuộc tình chia li, đã dồn nén tình cảm, trút tài năng của mình vào thi phẩm:
Thề Non Nước, viết ở thể Lục, Bát - thể thơ truyền thống của dân tộc. Bài thơ
dài 22 câu, tạm chia làm 5 đoạn - nghĩa đen là lời tâm sự của Sơn với Thủy
(Núi - Nước) - Hai vật thể đặc trưng cho tổ quốc của người Việt. Trong thiên
nhiên, không gian, thời gian - Núi - Đất - Nước luôn gắn quyện với nhau, bên
nhau, tôn nhau lên để tạo ra mảnh đất cho 54 dân tộc sinh sống. Nhà thơ đã gửi
gắm nỗi lòng mình trong câu thơ, khiến người đọc cùng đồng cảm, như chính họ
đang nghe được tiếng lòng của người thân yêu, gợi nhớ đến lời thề nguyền
trong quá khứ và nhắn nhủ ngày gặp lại trong tương lai. Nghĩa bóng của Thề
Non Nước là lời tâm sự của người đàn ông với người đàn bà, hai người
tình, đôi vơ chồng - xa nhau, hi vọng ngày sum họp: Nước non nặng một lời thề Nước đi đi mãi chưa về cùng Non Nhớ lời nguyện nước thề Non Nước đi chưa lại Non còn đứng không Non cao những ngóng cùng trông Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày Tác giả dùng hai đại từ nhân xưng. Ngôi thứ nhất: Non
(tôi - Em), nói với ngôi thứ hai: Nước (Anh). Nếu chuyển suy nghĩ , hiểu câu
thơ từ nghĩa đen sang nghĩa bóng, người đọc nhận ra đó là hai người yêu nhau
(vơ chồng) nhớ về nhau, về lời ước hẹn... Đoạn mở đầu có nghĩa tượng trưng của
tấm lòng người ở lại: Anh có nhớ lời thề xưa không? Thế mà anh đi, đi mãi vẫn
chưa về, làm em ngày đêm vò võ đợi chờ... Sương mai một nắm hao gầy Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương Trời tây ngả bóng tà dương Càng sôi vẻ ngọc nét vàng phôi pha Em cứ chờ cứ đợi, trông vời mây núi, khóc hết nước mắt,
thân gầy, xác ve. Nhớ thương anh đến bạc mái đầu. Hết ngày này qua năm khác,
em chờ anh về. Nhất là vào những buồi chiều một mình em trong căn nhà vắng vẻ,
em cứ khắc khoải đợi… ước gì anh xuất hiện để được ngả vào vòng tay anh.
Nhưng nào thấy bóng anh. Non cao tuổi vẫn chưa già Non thời nhớ nước, nước mà quên Non Dù cho sông cạn đá mòn Còn non còn nước vẫn còn thề xưa Nhưng anh ơi! Dù sông cạn đá mòn nhưng lòi ước hẹn của đôi ta em không
bao giờ quên. Anh cũng đừng để phai mờ kỉ niệm cũ. Giây phút nào em cũng nhớ tới
anh. Cho dù phong ba bão táp, em vẫn gắng chống đỡ, đợi anh về. Anh cũng hãy
tin tưởng và nhớ về em, nhớ tới lời thề mà chúng ta đã ước hẹn… - Non xanh đã biết hay chưa? Nước đi ra biển lại mưa về nguồn Nước non hội ngô còn luôn Bảo cho non chớ có buồn làm chi Nước kia dù hãy còn đi Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. Như nghe được tiếng lòng của người yêu, người trai đáp lại: - Em ơi! Em có biết không? Anh đi theo tiếng gọi: Chí tại bốn phương. Bốn phương phẳng
lặng anh sẽ về. Chúng mình lại thỏa lòng mong nhớ. Đừng buồn nghe
em! Dù thời gian vẫn trôi, mái tóc chúng ta đã bạc, hình hài thay
đổi, nhưng hãy tin tưởng ở anh. Hãy sống vui, đợi anh về! - Nghìn năm giao ước kết đôi Non non, Nước nước không nguôi lời thề! Hãy giữ vững lời thề son sắt! Ngày đôi ta họp mặt, sum vầy sẽ đến. Đến trong hạnh phúc trọn
vẹn. Đứng ngắm nhìn Hòn Vọng Phu, biết bao Lữ khách, Thi sĩ, Nghệ
sĩ đã xúc động bồi hồi. Thi sĩ Phạm Huy Thông đã ghi lại cảm xúc của mình
trong bài thơ Vọng Phu, in trong tập Anh Nga, xuất bản năm 1934, có đoạn
làm người đọc não lòng:... Mấy lời than thở đêm xưa, Thời gian nhắc mãi bây giờ chưa thôi. Biết bao thế kỷ xa rồi Nàng còn đứng ngắm chân trời mênh mang... Ngày nay, lữ khách mơ màng Nhác trông chợt thấy bóng nàng ẵm con Trơ trơ đứng sững đầu non Tưởng chừng đá nọ vẫn còn ngậm đau... (Phạm Huy Thông - Anh Nga - Tháng 8/1934) Thề Non Nước - kết mở: Hai người vẫn chưa gặp nhau, họ vẩn
đợi chờ nhau trong yêu thương nhớ nhung. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết Thề Non Nước vào những năm hai
mươi của thế kỉ 20. Hơn 20 năm sau - trong chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945) - nhà thơ Nga, K. Xi mô nốp viết bài Đợi Anh Về. 10 năm sau nữa - đầu
những năm 50 - chúng ta mới được đọc bản dịch tiếng Việt - Đợi Anh Về của Tố
Hữu. Có thể nói, bản dịch gần lột tả hết được nguyên tác (4). Ngay ở đoạn mở đầu, những dòng thơ là lời nhắn nhủ thiết
tha, bằng ngôn từ giản dị, thân thương - đã làm người đọc xúc động: Em ơi! đợi anh về Đợi anh hoài em nhé Mưa có rơi dầm dề Ngày có dài lê thê Em ơi em cứ đợi! Dù tuyết rơi gió nổi Dù nắng cháy em ơi Bạn cũ có quên rồi Đợi anh hoài em nhé!… Hai bài thơ sáng tác về đề tài Tình yêu - Chia ly, của hai
tác giả, đại diện cho hai dân tộc, hai đất nước, nằm ở hai bán cầu, sáng tác
trong khoảng thời gian cách nhau 20 năm. Nhưng chúng có cùng một chủ đề,
cùng cấu trúc: Thề Non Nước: Người con Gái ở quê nhà nhắn nhủ người Trai ở
phương trời xa. Đợi Anh Về: Người trai đang ở chiến trường xa nhắn
người con Gái ở quê nhà. Cả hai bài thơ đều vang lên lời tha thiết yêu thương: Hãy
nhớ lời thề son sắt! Dù phong ba bão tố, tuyết sương, dù sông cạn đá mòn… dù…
dù… - thì Em ơi, Anh ơi - hãy giữ vững niềm tin và hãy cùng nhau chờ, đợi! ’’Bởi vì em ước vọng. Bởi vì em trông ngóng’’
- Nhất định Anh sẽ về! Ngày sum họp, đoàn viên sẽ đến với chúng ta!. Chú thích: (1) Đền thờ Lý Bát Đế (8 đời vua nhà Lý) hiện còn ở làng
Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Ông Lý Xương Căn - một
thương gia Hàn Quốc đang tham gia góp phần xây dựng Việt Nam - chính là hậu
duệ của vị Hoàng tử đã ra đi 8 thế kỷ trước. (2) Tôi đã đọc ở đâu đó tài liệu nói rằng: Đây là nguyên
nhân mà dân miền Nam gọi nhau trong gia đình bằng thứ tự sinh trước sau. Thứ
tự đó gọi con lớn trong nhà là thứ Hai - (Anh hai, Chị hai…). Hai chứ
không gọi là Cả như dân Bắc. Nguyên do: Con cả (thứ nhất) đã ở lại miền Bắc,
vào Nam chỉ có con thứ hai. Để kỷ niệm cuộc ra đi đó, dân Nam coi con Cả là
(thứ) Hai… (3) Ở miền Trung còn một trái núi nữa cũng được nhân dân
gọi là Hòn Vọng Phu. (4) Tố Hữu dịch bài Đợi Anh Về qua bản tiếng Pháp.
7/7/2007 Lê
Xuân Quang Theo https://www.vanchuongviet.org/ |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét