Nói về Thơ Tình - Từ thời Tiền chiến (1930 -
1945) cho đến tận hôm nay, dư luận độc giả cho rằng không nhà thơ Việt Nam nào
có thể vượt qua Thi sĩ Xuân Diệu. Có người đã mệnh danh Xuân Diệu là ’’vua’’
Thơ tình, ’’Chúa’’ Thơ Yêu. Thơ của ông dành tất cả cho tình yêu đôi lứa. Lần
giở các trang tác phẩm của Xuân Diệu rồi làm một bản thống kê những bài thơ
tình trong hơn 50 năm ông cầm bút - từ đầu thập niên 30 đến cuối thập niên 80
của thế kỷ 20 - người đọc chọn được rất nhiều bài thơ tình xuất sắc, có thể
nói không ngoa: Đó là những thi phẩm ‘’Hay nhất thế kỷ’’. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam (TNVN) xuất bản năm 1942, nhà
biên khảo Hoài Thanh đã tuyển chọn của Xuân Diệu tới 15 bài thơ,
mà ông cho là hay (tới thời điểm đó) - Số thơ tuyển nhiều nhất so với tất cả
45 nhà thơ có mặt trong TNVN. Người đọc cũng đồng tình với đánh giá của Hoài
Thanh về Thơ Tình Xuân Diệu. Nổi bật nhất là các bài: Chiều, Huyền diệu,
Tương Tư Chiều, Lời Kỹ Nữ... Ngay từ khi xuất hiện trên Thi đàn, và lúc trở thành một
trong Bát Tú (của Tự Lực Văn Đoàn) - người yêu thơ Xuân Diệu cứ vương vấn câu
hỏi: Đây là nhà thơ ’’Nam tử’’, mà sao ’’tạng thơ’’ lại giống nhà thơ Nữ
- đến thế? Các bài thơ, ngôn ngữ xử dụng, tâm trạng của tác giả diễn đạt
trong các câu thơ, tình cảm lai láng, tràn đầy yêu thương - rất giống
phong cách của Nữ Thi Sĩ. Thế rồi... khoảng giữa thập niên 1930, đọc
bài Tình Trai của tác giả, ta thoáng ngỡ ngàng... chợt bừng tỉnh, lờ
mờ nhận ra khi Xuân Diệu ca ngợi mối tình của hai người con trai ’’yêu
nhau’’- hai thi sĩ người Pháp: Rimbaud, Varleine - điều ngược lại quan niệm của
dư luận xã hội thời đó? Tình Trai là một đoạn lý giải, bào chữa cho một tình
yêu ’’ngang trái’’. Cách đây hơn hai phần ba thế kỷ - người Việt chưa có quan
niệm đầy đủ về Đồng tính luyến ái (Chuyển giới tính). Thấy hai người đồng giới
bên nhau, yêu nhau, người đời xem họ như những ’’quái nhân’’. Bởi vậy, người
đồng tính luôn luôn mặc cảm, thấy bất an, giấu diếm tình cảm của mình. Một trạng
thái tâm sinh lý rất bình thường của con người mà phải đè nén, kìm giữ sẽ vô
cùng đau khổ. Tình Trai là lời tâm tình - đồng tình - của tác giả với
cuộc tình đồng giới. Đó là lời khẳng định dứt khoát trước dư luận - Quyền được
sống, được yêu của mọi người cho dù là Đồng tính: Hai chàng nam tử - Thi sĩ - yêu nhau. Yêu nhau khi bị tiếng
sét ái tình ‘’xẹt’’ nổ. Họ say nhau như say làm thơ, bất chấp dư luận. Họ
sánh vai nhau bước hiên ngang trên đường đời. Hai người nương tựa, dắt tay
nhau vượt qua bảo tố, gió sương. Họ thấy lòng được sưởi ấm, tươi đẹp, ngát
hương. Không cần suy tính thiệt hơn, so sánh trước sau, gạt bỏ mọi vấn vương,
bất chấp hiểm nguy: Họ nguyện cùng nhau đi đến tận cùng của cuộc đời: TÌNH TRAI Tôi nhớ Rimbaud với Varlaine Hai chàng thi sĩ choáng hơi men Say thơ xa lạ, mê tình bạn Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen Những bước song song xéo dặm trường Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương Họ đi, tay yếu trong tay mạnh Nghe hát ân tình giữa gió sương Kể chi truyện trước với người sau Quên ngó môi son với áo mầu Thây kệ thiên đường và địa ngục Không hề mặc cả, họ yêu nhau! (Thơ thơ in lần thứ hai 193…) Thời gian trôi đi… Chuyện hai chàng trai yêu nhau dần phai... Người yêu thơ tình cũng thưa nhạt vì thời cuộc chuyển vận dữ
dội, áp lực đến cuộc sống với nhiều thúc ép… Tác giả Tình Trai chắc
cũng cố đè nén… đè nén… rồi đi Kháng chiến. Cuộc Kháng chiến chống Pháp đã gắn
Xuân Diệu cùng các Văn Nghệ Sĩ sống chung với nhau trong rừng - Xuân Diệu cảm
hứng gọi nơi ở của mình và các bạn là là ’’U tì Quốc’’ - Nước (vùng đất)
Tối Tăm. Có thể lúc này sự chuyển giới tính của ông đã đến độ hoàn chỉnh.
Không thể kìm giữ, ông đã bộc lộ bằng những bột phát tình cảm, tình yêu với
nhiều bạn đồng giới - đặc biệt với Tô Hoài… Tác giả Dế Mèn Phiêu Lưu Ký lừng danh - đã
kể lại cái đêm ’’Huyền Diệu, quái quỷ’’ kia ở 4 trang sách (240 - 243) trong Cát
Bụi Chân Ai (CBCA). Ông ‘’dũng cảm’’ tả lại tỉ mỉ cuộc làm tình trong đêm của
ông và Xuân Diệu… Đây là đoạn ‘’dữ dội’’ - nhưng rất chân thực - làm người đọc
‘’nghẹt thở… rợn người’’: ‘’… chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai,
hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão trói
nhau lại, thít lại, giăng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội,
dằn ngửa cái xác thịt kia, tôi rời ra thống khoái im lặng… Giữa lúc ấy hai
bàn tay mềm như lụa… bò vào mắt, vuốt xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn… Cơn sướng
cờn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau… tôi lử lả rên ư… ử như con điếm mê
tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa… … Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo
lên, nhào lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ chạy trốn, dạt
vào ngủ lang trong xóm… … Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo dài hai tối...
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng và mấy
thằng nữa… có ai ngủ với Xuân Diệu không? Tất nhiên không ai nói ra. Tôi cũng
câm như hến…’’. Sau đó Xuân Diệu bị đem ra kiểm thảo, bị lên án ‘’Tư
tưởng Tiểu tư sản’’ … ‘’… Xuân Diệu nức nở, nói: Đấy là Tình Trai của tôi… tình
trai… rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra… ít lâu sau, trong một buổi họp chấp hành,
Xuân Diệu bi đưa ra khỏi Ban Thường Vụ… (Hội Văn hóa Cứu quốc)’’
(1). Sau lần kiểm điểm đó, Xuân Diệu ép mình lại, đau khổ chịu đựng… Kháng chiến chống Pháp kết thúc, Văn Nghệ Sĩ từ ‘’U tì quốc’’ kéo
nhau về Hà Nội. Câu chuyện kia được các bạn và nhất là Tô Hoài giữ kín nên
Xuân Diệu mới có cuộc tình đơm hoa kết trái với Đạo diễn Bạch Diệp. Tất nhiên
sau đó bà Đạo diễn phải chia tay Thi sĩ họ Ngô… Gần đây trên báo chí, bà Bạch
Diệp công bố những trang tư liệu về cuộc hôn nhân của bà, về sự tan vỡ hôn
nhân với nhà thơ… Nhiều người chứng kiến, kể lại: Khi Xuân Diệu mất, bà đến
viếng ông một vòng hoa Trắng… Đồng tính - Chuyển giới tính - ‘’lại Cái’’ là cách gọi khác
của dân gian. Họ đâu phải là tôi lỗi, họ đâu muốn! Đồng Tính là một trạng
thái tâm sinh lý do tố chất của bố mẹ tạo ra cho con cái… người không may bị
hứng chịu, phải lãnh nhận, chào thua sự an bài số mệnh! Nhưng tri thức của thời
đại mới chỉ đến thế… quan niệm của con người đương thời như vậy - đành cam chịu! Cũng phải nhiều năm sau khi Tô Hoài hoàn thành CBCA, nhất
là khi Xuân Diệu đã về cõi vĩnh hằng, không khí văn trường Việt Nam đã cởi mở
hơn - CBCA mới được xuất bản, quảng bá và độc giả yêu Dế mèn Phiêu Lưu
Ký, yêu thơ tình Xuân Diệu mới được đọc các trang bút kí sinh động của Tô
Hoài, qua đó biết đến Xuân Diệu một cách đầy đủ hơn... Đó là về sau này. Ta cùng nhau trở lại thời điểm 1965 - lúc bài thơ EM ĐI ra
đời. Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 2/1965), cuộc chiến
tranh bằng không quân của Hoa kỳ với miền Bắc được đẩy tới tới điểm đỉnh.
Toàn miền Bắc rùng rùng chuyển động, vào cuộc chiến bằng tổng động viên lần
thứ nhất. Hàng trăm nghìn thanh niên ra trận... Cuộc chia tay của nhà thơ với
chàng trai Hoàng
Cát diễn ra trên sân Ga Hàng cỏ khiến Thi sĩ xúc động mãnh liệt. Sau
những ngày ‘’tình trai’’ bị nén lại… bây giờ - dù tóc đã điểm sương (2), đã
có danh vị, thứ hạng trên thì đàn miến Bắc, (3) Xuân Diệu mạnh dạn bứt ra trước
đè nén của quá khứ, từ buổi tiễn đưa trở về: EM ĐI - ra đời. Bài thơ như giải tỏa của nỗi lòng đã từ lâu bị ức chế, giờ
bột phát trước khung cảnh chia ly, tiễn biệt. Thời đó, dù giữ kín trong lòng,
người đi tiễn thân nhân ra trận, đa số đều nghĩ cuộc ra đi của những chàng
trai tràn đầy sức thanh xuân, có thể không có ngày về, như câu nói của người
xưa, ai nấy đều tâm đắc: Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi? (Xưa nay ra trận
mấy ai về). Viết xong EM ĐI, tác giả vẫn không công bố. Có lẽ những ấn
tượng nặng nề năm xưa (…) vẫn chế ngự ông. Phải 24 năm sau - Tết Kỷ Tỵ năm
1989, khi tác giả EM ĐI đã vào cõi vĩnh hằng - Báo Nhân dân mới đăng tải bài
thơ, lục được từ trong di cảo của Xuân Diệu. Nếu Tình Trai chỉ là lý giải về tình yêu Đồng
Tính, thì EM ĐI là lời tha thiết yêu thương… yêu thương nồng nàn của ‘’một phụ
nữ’’ - có thể xem như lời của người Chị tiễn em lên đường vào chiến trường. (Phải
chăng, Hoàng Cát - Xuân Diệu đề tựa trong EM ĐI - chính là anh thương binh
Hoàng Cát, nhà Văn, với cái án văn chương Cây Táo Ông Lành - không có văn bản
phán quyết)? Nếu ta thay, hoán đổi hai đại từ nhân xưng ‘’ANH’’ - ‘’EM" trong EM ĐI - cho nhau. Nếu trí tưởng tượng của người đọc bay bổng hơn… sẽ nhận
ra nhà thơ như người phụ nữ - đang nói với người chồng, người yêu
- khi chia tay. Từ những thập niên 50, 60,70 của thế kỳ 20 - hiện tượng Đồng
tính luyến ái ở miền Bắc rất ít thấy. Hoặc có, nhưng người bị bệnh cố giấu diếm,
ráng chịu một mình. Tôi nhớ rõ, ở Hà Nội chỉ nổi lên hai người, dân Bắc gọi là
‘’Đồng cô’’. Một người trẻ tuổi, đang học đại học bỗng chuyển giới tính.
‘’Cô’’ (Anh) - con một ông chủ giàu có, có cửa hàng to lớn nằm trên một đại lộ
sầm uất ở trung tâm thủ đô. Người kia là chủ một quán ăn… Điều thú vị khiến
nhiều người tới cửa hàng ăn của ông chủ này thưởng thức bát phở Mọc ngon có
tiếng - thì ít, mà xem mặt ’’Đồng cô - ông chủ‘’ - thì nhiều. Xem, gặp mặt
xong, ai cũng cảm thấy lạ vì ‘’Đồng Cô’’ vẫn có vợ, có con. Nhưng tính cách,
nói năng khi bán hàng, quan hệ giao tiếp với xung quanh, thì… ‘’ông’’ hoàn
toàn giống một ‘’Bà’’ bán phở thực thụ… Dư luận rộng rãi của xã hội và những người yêu quý Xuân Diệu
không biết gì về việc chuyển giới tính của ông - ngoại trừ số ít trong giời
nhà văn, nhà thơ. TÌNH TRAI được nhắc lại, EM ĐI, Cát Bụi Chân Ai được công bố…
có thể coi đó là tư liệu quan trọng, là lời khẳng định… liên quan đến cuộc đời
đầy bi kịch cá nhân của thi sĩ tài danh bị Đồng tính luyến ái. Qua bài thơ EM ĐI, tin rằng lúc đó tình cảm của thi sĩ thật
rạt rào, vượt lên trên tất cả để viết được những dòng yêu thương đằm thắm,
làm người đọc xúc động, ray rứt. EM ĐI dài 24 câu, 6 khổ, thể thất ngôn tứ tuyệt: EM
ĐI Tặng
Hoàng Cát Em đi, để tấm lòng son mãi... Như ánh đèn chong, như ngôi sao Em đi, một tấm lòng lưu lại Anh nhớ thương em, lệ muốn trào. Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga Chưa chi ta đã phải chia xa! Nụ cười em nở, tay em vẫy, Ôi mặt em thương như đoa hoa! Em hỡi! đường kia vướng những gì Mà anh mang nặng bước em đi! Em ơi! anh thấy như anh đứng Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa. Nhưng bóng em đi khuất khuất rồi, Đứt lìa khúc ruột của anh thôi Tình ta như mối dây muôn dặm Buộc mãi đôi chân dẫu cách rời. Em hẹn sau đây sẽ trở về Sống cùng anh lại, những say mê... Áo chăn em gửi cho anh giữ, Xin gửi cùng em cả hẹn thề! Một tấm lòng em sâu biết bao Để anh thương mãi, biết làm sao Em đi xa cách, em ơi Cát! Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ, Yêu! Đêm 11/7/1965 - 23 giờ 30 (Báo Nhân Dân số Tết Kỷ Tỵ 1989) Xuân Diệu từ biệt chúng ta đã gần 20 năm Cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, nhà thơ tài danh của dòng
Thơ Tình, Việt Nam - vẫn chỉ để lại hình ảnh đẹp, rực rỡ trong con
mắt người yêu thơ. Ai biết đâu, đời ông lại nhiều bi kịch cá nhân đến thế?
Thiết nghĩ, người yêu thơ Xuân Diệu cần biết rõ về ông hơn những
gì đã bị thời gian xóa nhòa… bị che đậy trong đau khổ, ức chế… Chúng ta đọc tác phẩm ông viết, những trang tư liệu chân thực
về ông, càng thêm thương tiếc cho một đời Thơ tài hoa, khi tạo hóa không cho
được hưởng quyền sống như mọi người bình thường khác khiến Thi sĩ phải âm thầm
chịu đựng, kìm giữ, che đậy suốt cuộc đời. Bài viết này là bó hương thắp, cúng ‘’Vua thơ Tình,
Chúa thơ Yêu’’. Liệu ở nơi chín suối, nhà thơ có sẽ ngậm cười, vì ngày
hôm nay độc giả yêu quý ông, biết rõ hơn về ông - không? Họ hiểu hoàn cảnh bi
thảm của một con người tài năng, bị bệnh tật, lại càng thương, nhớ
Thi sĩ hơn! Nguyễn Du - Nhà thơ lớn của dân tộc, đã giãi bày nỗi lòng,
lo lắng lúc sắp trở về cõi hư không - bằng hai câu thơ, làm người đọc Việt Nam xúc
động: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Tạm dịch: Ba trăm năm nữa còn ai nhớ, Đời có còn ai khóc Tố Như? Người yêu Văn Thơ Việt Nam - các thế hệ đời đời nối tiếp -
Đã, Đang và Sẽ vẫn yêu thích Truyện Kiều, vẫn nhớ tác giả Tố Như. Hơn 70 năm
qua, người yêu thơ tình Việt Nam cũng đã đọc, say mê Thơ Xuân Diệu. Tin rằng
trong tương lai sẽ có nhiều người đọc, nghiên cứu và… ‘’khấp’’
Xuân Diệu, như đã từng ‘’khấp’’ Đại Thi hào dân tộc: Nguyễn Du - Tố Như!. (Viết nhân kỷ niệm 43 năm (5.8.1964 - 5.8.2007) - ngày đầu
tiên nổ ra cuộc chiến tranh của không lực Hoa Kỳ với miền Bắc, ném những quả bom đầu tiên, An vơ ret là Phi công Mỹ đầu tiên - rơi xuống Bãi Cháy, cửa
Dứa, Hồng Gai, Quảng Ninh). Chú thích: (1) Những dòng của đoạn văn này, lấy trong Cát
Bụi Chân Ai của Tô Hoài , trang 240 - 243 - NXB Hội Nhà Văn năm
2000. (2) Xuân Diệu sinh năm 1917. Hoàng cát sinh năm 1942. (3) Trong tập sách 101 chuyện vui các nhà văn hiện đại -
NXB Văn Hóa Thông tin - của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Xuân Diệu tự xếp vị trí
cho mình đứng thứ hai trong làng thơ Miền Bắc - Việt Nam. Câu chuyện vui của
Nguyễn Bùi Vợi như sau: (… Một lần tôi hỏi Xuân Diệu: Thưa anh, nếu chọn 5 nhà
thơ hiện đại tiêu biểu thì anh chọn những ai? Xuân Diệu nói ngay không một
chút ngập ngừng: Thứ nhất: Tố Hữu, thứ nhì: Tớ! Thứ ba: Huy Cận! Thứ tư: Chế
Lan Viên! Thứ năm: Phần - nào - Tế Hanh. - Còn nếu tính từ người thứ sáu đến người thứ mười? Xuân Diệu đưa hai tay lên trời: 14 toa đen… 14 toa đen!. (Toa đen là Toa xe lửa dùng để chở hàng hóa, thường bẩn
thỉu, nhếch nhác…).
5/8/2007 Lê
Xuân Quang Theo https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét