Toàn bài gồm 5 khổ, chia làm 5 đoạn, thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt.
Mở đầu:
Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu
Đêm vắng người im cảnh lặng tờ. (1)
Người đọc mường tượng như đang đứng bên ngoài hàng rào của
một ngôi nhà ở làng Đô Quan xã Nam Lợi thuộc huyện Nam Trực, Tỉnh Nam Định -
Quê hương của cụ Đoàn. Cách đây hơn 60 năm, thôn quê vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng có rất ít nhà xây, nhà gỗ. Hầu hết là nhà lợp rạ, gianh, cột kèo
tre, tường đắp đất hoặc vách đất. Đêm hè nóng nực, các bà, các mẹ chống nực
cho con cháu để chúng ngủ ngon - bằng cách truyền thống, phổ biến: Ôm trẻ nằm
trên võng.
Võng khi xưa (ngày nay ở miền quê vẫn dùng) - bện bằng vỏ
cây Gai. Ngồi, nằm trên đưa đi đưa lại, tạo ra gió như phe phẩy quạt. Hai đầu
của chiếc vọng được buộc vào cột hoặc kèo nhà. Khi võng đưa, sợi chão nối
võng với cột kèo, cọ sát nhau, phát ra tiếng kẽo kẹt... kẽo kẹt. (2).
Nhìn ra đầu hè con chó cứ nằm sủa ông ổng.
Nó cứ sủa... sủa đều đều... cách quãng... sau mỗi lần ngẩng
đầu sủa - lại cúi xuống, để mõm kê lên hai chân trước, nhắm mắt y như đang ngủ...
mơ. Ta nhìn về phía trước - nơi con chó hướng mõm sủa - Chẳng có đối
tượng nào quấy rầy hay xuất hiện cả. Hiện tượng này được dân gian ví là ''Chó
cắn Ma'' - nghĩa là cắn vật tàng hình - (Ma), sau trở thành câu ngạn
ngữ ''Ông ổng như chó cắn ma'' - chỉ những người vô duyên, say rượu... nói
lung tung, nói lấy được mà không thèm biết có ai nghe, hưởng ứng!
Bên cạnh hàng dậu ngăn nhà với đường làng, có bụi tre.
Những ngọn tre do làn gió nhẹ - chỉ có ở trên cao - thổi,
làm đung đưa. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, ngọn tre kia in bóng xuống mặt đường,
cứ như bóng người lơi lả... tha thướt...
Ta tiếp tục nhìn vào trong sân:
Ông lão nằm chơi ở giữa sân
Tàu cau lấp lánh ánh trăng ngân
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
Từ trên ngọn cau, tầu lá non được ánh trăng rọi vào, khi
gió thổi, lá lay động, hắt ra lóng lánh ánh bạc - như ta cầm chiếc gương hướng
về phía nguồn sáng rồi rọi vào mắt người...
Nhà tranh, dân quê thường dùng đồ vật đơn sơ được chế tạo bằng
tre, nứa. Chõng tre nhỏ hơn giường, thông dụng hơn ghế vì có thể vừa ngồi, vừa
nằm, nhẹ, dễ di chuyển. Múa hè nóng nực, cụ già sai con mang chõng ra sân nằm
vắt chân chữ ngũ cùng thằng cháu lẫm chẫm biết đi - hóng mát, ngắm trăng.
Trong khi cụ già thưởng thức trăng... cậu bé đang nằm trong lòng ông, thấy
con mèo, vội tụt xuống men thành chõng... con mèo khẽ kêu meo... meo... đi tới
cọ người vào chân bé rồi lượn đi, quay lại... tạo ra cảnh ''quyện dưới chân''.
Chợt phía xa xa, nơi chiếc giếng thơi - chứa nước ăn cho cả
xóm - có tiếng ồn ào, ta lia mắt nhìn ra:
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đoàn vui vẻ rủ nhau về
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.
Thôn quê vùng các xã Nam Lợi, Nam Long, Nam Thanh - nhất là
các làng Đô Quan, Xối Tây, Ngọc Tỉnh - thường rất nhiều ao hồ. Nước ao chỉ
dùng để giặt giũ, rửa chân tay... Các làng, các xóm phải đào những chiếc giếng
lấy nước sạch để ăn, đảm bảo vệ sinh. Ban ngày bà con đi làm đồng. Tối về,
cơm nước xong các cô gái mới rảnh tay mang thùng ra giếng múc nước về đổ vào
bể chưa. Từng đoàn vui vẻ rủ nhau về - nên những tiếng kĩu kịt phát
ra từ chiếc đòn gánh - làm bằng tre bánh tẻ (chưa già lắm) - gánh đôi thùng
nước, hòa cùng tiếng võng đưa kẽo kẹt làm đêm trường chợt xao động...
Thế nào là cổng tre?
Dân nghèo làm gì có tiền để làm cổng xây, cổng gỗ. Cổng nhà
họ là những cậy tre đang sống ở trong bụi - trồng ở hai bên lối đi - được chủ
nhà vít xuống, buộc, tạo thành hai trụ. Rồi cũng dùng ngay những cây tre khác
đã chặt, ngâm, đan, ghép làm thành cánh cổng. Loại cổng tre này cánh thường
không mở sang hai bên mà chống, nâng lên, hình dáng giống cánh của chiếc bẫy
chuột. Ngày chống lên lấy lối ra vào. Đêm hạ xuống chốt giữ bên
trong nhằm ngăn Trộm... vặt. Tuy đứng ngoài vẫn nhìn thấy mọi thứ
bên trong, nhưng muốn đột nhập vào cũng không dễ. Loại cổng này được nông
thôn xử dụng từ xa xưa. Sau Toàn quốc Kháng chiến cổng Tre lại được dân quê xứ
dụng hữu hiệu trong phong trào rào làng kháng chiến chống Pháp, do Ủy ban
Kháng chiến các địa phương phát động...
Sự ồn ào do những chiếc đòn gánh gánh nước của các cô gái
cũng nhanh chóng qua đi.
Tiếng kẽo kẹt đưa võng cũng đã ngừng. Có lẽ cháu bé đã ngủ
say, bà hoặc mẹ đã vực vào giường, và cái chính trời càng về khuya, nhiệt độ
càng giảm. Không khí tĩnh mịch của đêm trường dần trở lại:
Trong xóm giờ lâu quá nửa đêm
Tiếng chầy giã gạo đã ngừng im
Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi
Đom đóm bay qua giải nước đen.
Cả ngày đi làm đồng, tối về cơm nước xong nhiều nhà mới đổ
thóc vào cối say, dần, sàng rồi đưa vào giã thành gạo, lấy cám - lớp vỏ gạo bị
giã bong ra - cho lơn ăn. (3).
Thế mà đến quá nửa đêm, nhát bổ cuối cùng của chiếc chày
giã gạo mới ngừng, trả lại sự tĩnh mịch hoàn toàn cho đêm trường. Lũ
đom đóm lúc chập tối thường bay ra như kích thích con người. Các cô các cậu
bé thi nhau đi bắt bỏ vào lọ ngắm nhìn. Khi trăng lên, đom đóm ít bay, ra y
như chúng cũng né tránh, không dám đem chút sáng của mình thi với ánh trăng.
Lúc Trăng tà hạ xuống... chúng mới lại thi nhau bay là là trên mặt ao. Khi
trăng lặn, mặt ao hồ chỉ còn là một khoảng không tối om, đen kịt... ánh lân
tinh từ bụng những con đom đóm được mặt ao làm nền... dường như rực sáng, to
hơn.
Bỗng:
Tiếng ốc trên chói rúc thiết tha,
Gió lay cót két rặng tre già,
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ,
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.
(Báo Ngày Nay)
Thời xa xưa, phương tiện báo động, đánh thức dân làng là
chiếc Tù và làm bằng sừng trâu hoặc vỏ những con ốc biển lớn, do những Tuần
đinh, trai tráng (Thanh niên) được chức sắc của làng cắt cử canh gác đảm bảo
an ninh cho làng xóm. Khi có động (trộm cướp, cháy nhà...) người gác ngoài việc
đánh chiêng, trống, hò reo... họ còn thổi Tù và, vỏ ốc... chúng sẽ
phát ra tiếng động vang xa, dân làng vùng dậy chống trả, cứu chữa...
Nếu cả đêm bình yên, khoảng gần 5 giờ sáng người gác chỉ
đưa chiếc vỏ ốc lên miệng thổi... tiếng ốc rúc - âm thanh như tiếng chuột rúc
nhưng to, dài hơn nhiều. Tiếng rúc nghe chói tai... nhưng cả làng
vẫn cảm thây quen thuộc, thiết tha, thanh bình. Mọi người bật dậy,
chuẩn bị cho một ngày lao động mới.
Làng xóm râm ran...
Đã sắp sáng.
Khí hậu lạnh, gió thổi mạnh khiến những cây tre già lung
lay, đu đưa cọ gốc vào nhau phát ra những tiếng cót két... Trên trời thỉnh
thoảng lại vụt xuất hiện một ngôi sao sa, trông như những giọt lệ khổng lồ từ
con mắt của người khổng lồ rơi xuống...
Cả đêm sương rơi, bao phủ làm cánh đồng chìm ngập trong
khói sương...
Trời sáng.
Sương dần tan: Bức tranh thủy mạc được thiên nhiên vẽ đang
hiện ra…
Phương đông ửng hồng: Mặt trời mọc!
Với năm khổ thơ mà miêu tả được cảnh đêm hè thật sống động.
Từ đầu đến cuối chỉ có mầu sắc và âm thanh:
Tiếng võng kẽo kẹt...
Tiếng chó sủa ông ổng...
Tiếng kĩu kịt của chiếc đòn gánh...
Tiếng thình thịch của chầy giã gạo...
Tiếng ốc rúc... rúc thiết tha...
Cuối cùng là tiếng cót két của những gốc cây tre già cọ vào
nhau.
Nhà thơ dùng từ thật điệu nghệ:
Kẽo kẹt của võng đưa.
Kĩu kịt của đòn gánh và
Cót két của rặng tre già - ba hợp âm Kẽo kẹt - Kĩu kịt -
Cót két - tuy rất gần nhau, thậm chí có thể dùng liền làm từ đệm, nhưng ở đây
trong từng đoạn thơ, ba cụm âm thanh lại diễn tả ba trạng thái hành động ở ba nơi, ba thời điểm khác xa nhau...
Màu sắc thì có:
Ánh trăng ngân...
Bóng đen của con mèo.
Ánh sáng của đàn đom đóm.
Mầu đen kịt của giải nước mặt ao hồ khi trăng đã lặn... ánh
sao sa - giọt lệ khổng lồ... không gian mờ sương khói...
Tất cả âm thanh, màu sắc đó cùng với lời thơ, nhịp thơ, âm
hưởng của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quyện chặt, nhuần nhuyễn... đã gieo vào
lòng người đọc cảm xúc mạnh.
Bài thơ đã tồn tại 2/3 thê kỷ mà người đọc vẫn cảm thấy như
tác giả vẽ, viết từ khung cảnh thực, sống động trong những đêm mùa hè ở nông
thôn ngày nay. Những con dân đất Việt dù xa cách nghìn trùng, khi đọc lại bài
thơ như chợt được sồng lại cùng quê hương trong khoảnh khắc…
‘’Người thư ký’’ cần mẫn, xuất sắc: Đoàn Văn Cừ - đã lưu giữ
được hồn quê Việt trong thi phẩm tuyệt vời của mình, cho hậu thế - Hôm nay và
mai sau!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét