Ai qua miền quê binh khói
Nhắn giúp rằng nơi xa xôi
Tôi vẫn mơ lùm tre xanh ngắt...
Một nhạc sĩ khác - tôi không nhớ tên - viết trong
ca khúc Làng Tôi của ông:
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh, êm xuôi về nam
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên những hàng cau: Đồng quê mơ màng...
Hình như Nhạc sĩ Phạm Duy - viết về làng mình trong một ca
khúc nói về Quê nghèo:
Làng tôi, không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng…
có lũy tre còm…
Nhạc sĩ Văn Cao lại viết về Làng mình theo cảm nghĩ của ông
khi quê hương bị quân Pháp dày xéo:
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung…
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền một dòng sông
Nhưng thôi rồi…
Ngày giặc Pháp phá làng diệt thôn…
Và còn rất nhiều người viết về quê hương, khói lửa, chiến
tranh liên miên hơn 30 năm... Khi đất nước hết cơn binh lửa, các nhạc sĩ lại
tiếp tục đề tài muôn thuở - Quê hương.
Đổ Trung Quân viết bài thơ quê hương được nhạc sĩ Giáp Văn
Thạch dùng làm lời cho bài hát nổi tiếng cũng mang tựa đề - Quê Hương:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc…
Quê hương là con đò nhỏ…
Quê hương…
Quê hương…
Và gần đây nhất, nhạc sĩ Phó Đức Phương viết bài hát Về
Quê, nét nhạc tha thiết, lời ca mộc mạc, giản dị mà rung động lòng người:
Theo em anh thì về, thăm lại miền quê
Nơi có một triền đê, có hàng tre ru khi chiều về…
Ơi quê ta bánh Đa, bánh Đúc
Nơi thảo thơm đồng xanh trái ngọt
Nơi tuổi thơ đẹp bao giấc mơ
Ơi quê ta dầu sương dãi nắng,
Phiên chợ nghèo lều mái tranh xiêu
Kìa dáng ai như dáng chị, dáng mẹ tôi…
Thế nhưng...
Thế nhưng: Chưa có bài thơ, bài hát nào gợi cho tôi nhớ về
Làng tôi bằng bài thơ Cổng Làng của thi sĩ Bàng Bá Lân. (được nhà biên khảo
Hoài Thanh đưa vào Thi Nhân Việt Nam xuất bản năm 1941).
Bởi vì cái cổng làng trong thơ của cụ đúng là cổng của làng
tôi, mặc dù cụ quê ở đâu tôi không hề biết. Hình ảnh xung quanh chiếc Cổng
làng chính là những hình ảnh mà tôi đã chứng kiến: Quả là vào một buổi chiều
mùa thu cách đây hơn nửa thế kỷ, tôi đã từng đứng hóng gió mát ở Cổng Làng
như cụ Bàng miêu tả:
Chiều hôm đón mát cổng làng
Gió Hiu hiu thổi (1), mây vàng êm trôi
Đồng quê vờn lượn chân trời
Đường quê quanh quất bao người về thôn
Lúc đó độ mươi tuổi.
Cái tuổi mới cắp sách đến trường tiểu học ở làng bên, thời
học sinh viết bút ngòi ‘’mỏ (chim) sẻ’’, chấm mực tím trong lọ. Sau buổi học,
mực dây đầy tay, đầy quần áo… Quanh nhà tôi, xóm tôi - bạt ngàn
cây ăn quả. Trên cành chim hót, hoa nở rực rỡ. Bình minh - bọn chim đánh thức,
tôi vội vội vàng vàng cùng các cô bác Nông phu băng qua cổng làng hối hả ra đồng,
còn tôi đến trường:
Sáng hồng lơ lửng mây son
Mặt trời thức giấc véo von chim chào
Cổng làng mở rộng ồn ào
Nông phu lững thững đi vào sớm mai.
Mùa hè, đi học về, lại qua cổng làng. Những hình ảnh thân
thương sống động tiếp diễn:
Trưa hè bóng lặng, nắng oi
Mái gà cục tác tìm mồi dắt con
Cổng làng vài chị gái non
Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm.
Xuân qua, Hè tới.
Mùa Hè ở vùng đồng bằng Bắc bộ hay có mưa rào. Mỗi khi đi học
về gặp mưa, tôi lại đứng trong lòng cổng trú mưa. Trận mưa đem theo gió lạnh.
Chiều, tối, mưa… trời xùm xụp, trưởng làng cho đóng cổng. Nhìn khung cảnh
xung quanh chợt lòng xao động. Nhưng khi mưa tạnh, trời quang, trăng lên,
hình ảnh xung quanh cổng làng trở nên sinh động:
Những khi gió lạnh mưa buồn
Cổng làng im ỉm trên đường lội trơn
Những khi trăng sáng chập chờn
Kìa bao nhiêu bóng trên đường thướt tha.
Ngày mùa lúa chín hương đưa
Rồi đông gầy chết, Xuân chưa vội vàng
Mừng Xuân ngày hội, Cổng Làng
Là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ
Cách đây hơn 50 năm, tuy tục lệ của làng rất khắt
khe với đám trai gái đến tuổi cập kê. Ban ngày, họ không được phép
tỏ tình quá suồng sã… nhưng khi đến tối, sáng trăng, họ cũng hẹn hò nhau và
bóng họ tha thướt trên đường qua cổng làng, sang làng bên xem hội…
Gây cho tôi niềm vui nhất phải kể: Khi mùa gặt tới.
Cổng làng nhộn nhịp, ồn ào tới đêm tối, khi cánh đồng đã vắng
bóng người, cánh cổng đóng lại. Làng xóm râm ran: Kéo đá, đập lúa - (làm hạt
thóc trên bông rơi ra)… Ba tháng vất vả chăm bón, giờ thu hoạch, người làng hồ
hởi được bửa no nê, cơm mới thơm lừng…
Hè qua, Thu đến rồi Đông cũng đi. Xuân tới: Làng tôi mở hội.
Ở cái tuổi viết bút ‘’mỏ sẻ’’, chấm mực tím - không gì vui,
hạnh phúc bằng được dự hội làng. Đông người dự lắm. Người trong làng đi dự
đông đã đành, người các làng bên cũng đổ đến xem… đường đầy Trai thanh - Gái
lịch. Nhưng đông nhất vẫn là bọn trẻ. Hội làng chính là nơi ’’chen chúc bao
nàng ngây thơ’’. Tôi là một trong số những ’’Chàng, Nàng’’ - ngây thơ đó.
Lớn lên, tôi ra ’’kinh kỳ sáng chói’’ - học
hành, làm việc.
Hàng năm, kỳ nghỉ, lại về Làng thăm ông bà, Thầy, U, họ
hàng… Trên đường về lòng rạo rực. Chưa tới đầu Làng, từ xa, đã nhìn thấy hai
cây gạo ở cổng chùa. Cây cao mấy chục mét, gốc to dăm người ôm. Tới cổng
làng, nhìn hai cây đa cổ thụ quầng lá xum xuê, trùm cả lên mái cổng.
Bao cảm xúc rạt rào ập tới: Lòng tôi xốn xang…
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây Đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng Làng trong tre. (2)
(Tiếng Sáo Diều)
Đọc bài thơ, người đọc như được kích thích trí tưởng tượng.
Cái cổng, cái Làng của cụ Bàng Bá Lân không còn là của
riêng cụ, của làng cụ, mà đã trở thành cổng - làng của tôi, của bạn, mặc dù
chúng ta không hề biết Cụ quê ở đâu. Cổng, Làng đã trở thành của cả
các làng quê Việt Nam. Cụ Hoàng Cầm có lần đã nói đại ý: Thơ hay, trước hết
phải tạo cảm xúc, kích thích được trí tưởng tượng của người đọc. Cổng làng đã
đạt được mục đích đó, cảnh giới đó!.
Hai nhà thơ: Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Thiều cùng báo Tổ
Quốc khởi xướng việc tuyển chọn 99 bài thơ Lục Bát hay nhất thế kỷ 20. Tôi
cũng muốn tham gia bình chọn, nhưng không có tài liệu, thư mục 99 bài Lục Bát
đọc để chọn, đành từ bỏ ý định tham gia cuộc chơi kia...
Tuy nhiên, theo tôi: Hai bài thơ Lục Bát hay nhất, nhì Thế
kỷ 20, trên thi đàn Việt Nam - có lẽ là:
Thề Non Nước của cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Cổng Làng của cụ Bàng Bá Lân!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét