Về bản chất và ý nghĩa của văn chương
Văn chương là một hiện tượng không ngừng vận
động, không ngừng đổi mới, từ môi trường xã hội văn hóa này sang môi trường xã
hội văn hóa khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác.
Trong lĩnh vực này, đối với mỗi người sáng tác, thì những gì
làm được, cho dù là thành tựu xuất sắc đi nữa, của một thời, một người nào đó,
chỉ có thể là một kinh nghiệm, một lời khuyên, một sự gợi ý, một điểm xuất
phát, cũng có thể là một thách thức, thúc giục, khai phá những con đường mới.
Tuy nhiên trong lịch sử lâu dài của nó, văn chương vẫn có một số nét bản chất
khá bền vững mà nhà văn và nhà nghiên cứu văn học cần ý thức rõ, nhằm khai thác
có hiệu quả nhất sức mạnh đặc trưng của văn chương.
Việc chú trọng đến bản chất tư tưởng của văn chương đã có từ xa xưa.
Có thể nhận thấy điều này trong quan niệm của Khổng Tử và các nhà nho về “văn tải
đạo?, thi dĩ ngôn chí?, trong nhận thức về sự bất phân giữa văn và sử, văn và
triết ở thời kỳ đầu sự phát triển của văn chương.
Những người mác xít cũng đặc biệt nhấn mạnh bản chất tư tưởng của văn chương,
coi văn chương và nghệ thuật nói chung là một hình thái ý thức xã hội, một công
cụ nhận thức, một “vũ khí tư tưởng”. Tất nhiên cách nhận thức cuộc sống, tác động
tư tưởng của văn chương nghệ thuật có những nét riêng, có tính đặc thù, so với
các hình thái ý thức xã hội khác, như triết học, đạo đức, tôn giáo…
Một hướng tiếp cận khác chú trọng bản chất nghệ thuật của văn chương,
mối liên hệ mật thiết giữa văn chương và nghệ thuật, coi văn chương là một loại
hình nghệ thuật. Đây là cách xem xét của Aristote trong quyển Thi học (có
lúc gọi là Nghệ thuật thơ ca). Đặc biệt ở các nhà mỹ học Đức từ cuối thế kỷ
XVIII, ở Kant và Hegel, bản chất nghệ thuật của văn chương càng được nhấn mạnh,
và họ coi nghiên cứu văn chương, thi học là một bộ phận của mỹ học. Theo hướng
tiếp cận này, người ta lưu ý nhiều đến mối liên hệ giữa văn chương với âm nhạc,
với nghệ thuật tạo hình, với kiến trúc, và gần đây là với nghệ thuật điện ảnh,
đề cao giá trị thẩm mỹ của văn chương, xem xét, đánh giá văn chương theo yêu cầu
của cái đẹp, sự hài hòa, sự sống.
Việc chú trọng đến bản chất ngôn ngữ của văn chương gắn với ngôn ngữ
học hiện đại. Roman Jakobson trong một tiểu luận nổi tiếng Ngôn ngữ học và
thi học (1960) xem nghiên cứu thi ca, thi học là một ngành của ngôn ngữ học.
Đối tượng của thi học, theo ông, trước tiên là phải trả lời câu hỏi: cái gì làm
cho một thông điệp bằng lời nói biến thành một công trình nghệ thuật? Và
ông cho rằng có thể tìm lời giải đáp trong chức năng thi ca của ngôn ngữ.
Dù đặt trọng tâm chú ý vào đâu, dù xuất phát từ điểm nhìn nào, từ tư tưởng,
nghệ thuật hay ngôn ngữ, thì trong thực tiễn sáng tác hay nghiên cứu văn chương
hiện nay, cả ba mặt bản chất của văn chương là tư tưởng, nghệ thuật và ngôn ngữ
cần được quan tâm theo cách này hay cách khác, ở mức độ này hay mức độ khác.
Chúng ta không ngạc nhiên là những nhà văn lớn xưa nay là những nhà tư tưởng lớn,
đồng thời là những nghệ sĩ tài ba và là những bậc thầy về ngôn ngữ. Ngay cả những
người cầm bút bình thường, muốn phát huy được sức mạnh riêng, sức mạnh tổng hợp
của văn chương, cũng phải biết khai thác cả ba mặt tư tưởng, nghệ thuật và ngôn
ngữ của nó.
Nhưng trong tình hình hiện nay, một phần do ảnh hưởng tiêu cực của các khuynh
hướng hình thức chủ nghĩa trong văn học phương Tây hiện đại, một phần do quan
niệm và cách làm của chúng ta đối với vấn đề tư tưởng trong văn học còn thô thiển,
áp đặt, khiến người ta có thành kiến, thậm chí “dị ứng” với tư tưởng. Việc coi
nhẹ tư tưởng, thành kiến đối với tư tưởng sẽ tước đi sức mạnh quan trọng nhất của
văn chương so với các loại hình nghệ thuật khác, khuyến khích việc chạy theo
hình thức, kỹ thuật, chiều nịnh thị hiếu tầm thường của công chúng, sớm muộn sẽ
dẫn văn chương đến chỗ cằn cỗi, bế tắc, không có nghĩa gì đáng kể đối với
xã hội, nhân sinh.
Tất nhiên tư tưởng ở đây phải được quan niệm một cách đúng đắn và rộng rãi,
bao quát không chỉ vấn đề chính nghĩa và phi nghĩa, thiện và ác ở đời này, mà
toàn bộ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ của con người đối với cuộc sống,
trong quan hệ với tự nhiên, xã hội và với chính bản thân.
Có thể nói, trong sự vận động của nó, văn chương đích thực dù biến
hóa muôn hình nghìn vẻ vẫn luôn đứng trên một cái thế chân kiềng tư tưởng,
nghệ thuật, ngôn ngữ, nó là một hợp chất tư tưởng - nghệ thuật - ngôn ngữ, và
đòi hỏi người sáng tác cũng như người nghiên cứu có cách khai thác có hiệu quả
nhất các mặt bản chất đó, tùy theo yêu cầu của thời đại và tài năng, sở trường
của mỗi người.
Đứng trước tình trạng bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội lan tràn, sự suy thoái về đạo
đức và sự vô cảm của con người ngày càng đáng lo ngại, tự nhiên tôi nghĩ đến
văn chương, nghĩ đến tác dụng “cứu rỗi” của văn chương, mặc dù tôi cũng như
không ít người đã nhiều lần nhận chân khá rõ cái khó khăn của văn hóa đọc và sự
bất lực của văn chương trong thế giới xô bồ và đầy hiểm họa hiện tại.
Đương nhiên văn chương cũng như nghệ thuật không thể thay thế cho kinh tế,
chính trị và những lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội. Nhưng, ngược lại,
cũng không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương trong việc giúp con
người hiểu cuộc sống và hiểu chính mình, sống có tình thương, có đạo lý, có văn
hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục, giả dối, để thăng hoa, để ước mơ, vươn
đến chân, thiện, mỹ.
Qua văn chương, con người cảm nhận và ý thức được cái đẹp, sự hài hòa, sự
sống, tiếp cận và tự nâng mình lên với những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, sâu sắc,
tinh tế, được bồi dưỡng về ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ phong phú, sinh động, giàu sức
biểu cảm nhất của dân tộc. Đối với cộng đồng cư dân văn hóa nào cũng vậy, văn
chương có một ý nghĩa cực kỳ to lớn là vì thế. Đối với nước ta là “một nước
thơ”, như Ngô Thời Nhậm từng khẳng định, thì chân lý này càng hiển nhiên.
Rõ ràng văn chương, mà trước hết là thơ, là phần có giá trị bậc nhất trong
di sản tinh thần của dân tộc ta. Người Việt không chỉ hôm qua mà cả hôm nay nữa
đã gửi vào văn chương cả kinh nghiệm sống, tình yêu, khát vọng, cả đạo đức, triết
học, tín ngưỡng của mình. Cho nên, muốn biết ông cha chúng ta đã sống như thế
nào, đã nhắn gửi những gì cho các thế hệ mai sau, cũng như muốn biết con người
Việt Nam trong thời đại này đang buồn vui, lo lắng, đau khổ, hy vọng ra sao,
thì rất cần đọc thơ văn Việt Nam.
Tham gia vào hoạt động văn chương, cho dù là sáng tác hay thưởng thức, người
ta đều được “thanh lọc”, ít nhiều sẽ trở nên tốt hơn, nhân ái hơn. Trong thế giới
ồn ả, xô bồ hiện nay, khi con người luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn vào đám
đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội, thì thi ca, văn chương lại càng cần
thiết. Tiếp xúc với văn thơ, con người có điều kiện giao lưu với những giá trị
tinh thần, suy ngẫm, chiêm nghiệm về những vấn đề nhân bản, nhân văn, không phải
giữa đám đông, hay trong lúc bận rộn bởi bao điều rắc rối, phiền toái ở đời
này, mà tương đối thanh thản, ở tư thế một mình, chỉ riêng mình trò chuyện với
tác giả, riêng mình đối diện với lương tri, với cái phần người nhất của chính
mình. Những khoảnh khắc đó thật đáng quí cho con người trong thời buổi này để bảo
tồn và phát huy phẩm giá và năng lực làm người.
Xã hội luôn chờ đợi những tác phẩm văn chương hay. Làm thế nào để có tác
phẩm hay? Điều này tùy thuộc chủ yếu vào tài năng và bản lĩnh của người cầm
bút. Nhưng không khí xã hội chung, công tác tổ chức, quản lý sự nghiệp văn học
nghệ thuật cũng có vai trò rất lớn. Nhà toán học Poincare người Pháp có
nói: “Tự do đối với khoa học cũng giống như không khí đối với động vật”. Đây
cũng là một nguyên lý đối với sáng tạo văn chương nghệ thuật.
Việc dạy và học văn ở nhà trường là một việc đáng bỏ công sức để làm cho tốt
hơn. Ngành giáo dục được giao trách nhiệm mà cũng là đặc quyền rất lớn là tổ chức
việc dạy văn và học văn cho thế hệ trẻ từ mẫu giáo cho đến hết bậc trung học phổ
thông, và một chừng mực nào đó ngay cả ở đại học. Rõ ràng chúng ta chưa khai
thác tốt thuận lợi và ưu thế này để bồi dưỡng cho lớp trẻ, những công dân tương
lai, những phẩm chất và năng lực mà văn chương thực hiện có kết quả nhất. Nhằm
mục đích này, nên cấu tạo lại chương trình văn theo hướng dành một vị trí xứng
đáng hơn cho văn học dân gian và cổ điển, chọn để dạy những tác phẩm văn chương
thật sự có giá trị, cả trong nước và nước ngoài, chứ không phải để đáp ứng những
chủ điểm hay yêu cầu định trước nào đó. Tác phẩm văn chương có giá trị luôn dồi
dào khả năng đáp ứng những nhu cầu tư tưởng và nghệ thuật cơ bản và lâu dài,
hàm chứa cả sự sâu sắc và phong phú, gợi mở nhiều liên tưởng, liên hệ. Có thể
nói văn chương là một hiện tượng đồng chất. Một câu thơ, một đoạn văn giống như
một giọt nước, một giọt sương mang hình bóng của biển cả, của bầu trời. Cần
dành một khoảng không rộng lớn cho hiểu biết, sở đắc, tâm huyết của người thầy
giáo, cho hứng thú, trí tưởng tượng của học sinh. Không có gì trái với bản chất
của văn chương hơn là sư hời hợt, máy móc, áp đặt. Văn chương là chuyện tâm hồn,
chuyện cuộc sống. Cho nên môn văn ở phổ thông phải quan tâm trước hết đến tư tưởng,
tình cảm.
Có lúc người ta đã thành kiến, thậm chí phê phán nặng nề tác dụng giải
trí, “mua vui” của văn chương. Nhưng văn chương chân chính xưa nay luôn nhằm
một mục tiêu kép: có ích và vui, bồi dưỡng và hấp dẫn, giúp cho cuộc sống đẹp hơn,
tốt hơn, có ý nghĩa hơn. Hoàn thành kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du
coi đó là “Lời quê góp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh”,
nhưng “Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ” này đã góp phần sâu thẳm biết bao
trong việc tạo dựng nên khuôn mặt tinh thần của dân tộc, và bao nhiêu thế
hệ người Việt đã và sẽ còn khóc, cười trên những trang viết của nhà thơ.
Cứ tưởng như là trò chơi, một cái gì rất phù phiếm, phù du, nhưng trong
văn chương nước ta xưa nay vẫn âm ỉ ngọn lửa thiêng lẽ sống mà “những kẻ
tư văn quê đất Việt” (Nguyễn Trãi) vượt qua bao trắc trở, trầm luân, oan khiên
đã ấp ủ và truyền lưu âm thầm và bền bỉ qua bao đời, mong con người nhìn vào đấy
biết mình là ai và nên sống như thế nào cho phải.
Văn chương luôn luôn trẻ trung, mới mẻ. Ở các nhà văn trẻ, sức trẻ và niềm khao
khát cái mới như được nhân đôi. Sáng tạo văn chương là một chọn lựa tự nguyện đầy
hứng thú, say mê, nhưng cũng là một nghề đòi hỏi nhiều công phu, lao tâm, khổ tứ,
nghề “phu chữ”, nói theo cách của nhà thơ Lê Đạt, mà văn chương đâu phải chỉ là
chữ mà là chữ nghĩa, lo việc chữ đã khó mà lo việc chữ nghĩa càng khó hơn. Hay
nói như Nam Cao, đây là nghề “chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Bàn về
nghề văn, Thạch Lam nhấn mạnh: “Làm thợ, đi buôn còn phải khó nhọc, còn phải học
nghề, tại làm sao viết văn lại không phải học, không phải cố”. Thừa nhận vai
trò quan trọng của cảm hứng trong nghề văn, Thạch Lam luôn nhắc lại ý kiến của
Dostoevski rằng “chỉ có những cảm hứng là đến đột ngột, hẳn một lúc, còn ngoài
ra là công việc nhọc nhằn cả”. Nói đến thành công, giá trị trong nghề văn, Thạch
Lam quả quyết: “Chỉ những nhà văn không chạy theo thời, không nghe theo tiếng gọi
của sự háo hức, hám danh, sự chiều lòng công chúng, mà biết đi sâu vào tâm hồn
mình, phát hiện ra những tính tình, cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn
mọi người qua tâm hồn chính mình, mới có thể tạo được những giá trị bền vững, mới
có thể đi đến chỗ bất tử mà không tự biết”. Quả đúng văn chương là vậy, nghề
văn là vậy.
15/11/2011 Nguyễn Văn Hạnh
15/11/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét