Tôi đã biết tiếng Nguyễn Vỹ từ hơn 40 năm trước nhân một lần
dự sinh nhật của anh bạn viết văn trẻ Trần Quý Thường. Khi rượu đã ngà ngà,
Thường đọc cho cả bàn nghe ba khổ thơ của bài gửi Trương Tửu, trong đó có câu
‘’… khổ như chó’’. Mọi người nghe xong trầm trồ tán thưởng, đề nghị Thường đọc
cả bài. Thường lắc đầu: Tớ cũng chỉ nghe thằng bạn là sinh viên Khoa Văn trường
đại học Tổng hợp đọc, toàn bài dài, chỉ nhớ nhất đoạn thơ này, cậu ta bảo đọc
tại chỗ trong thư viện Quốc gia (đường Tràng Thi Hà Nội).
- Thề thì chúng mình đến đó đọc rồi chép lại - một người
góp ý. Trần Quý Tường lắc đầu: Cậu tưởng đơn giản thế a? Vào đây đọc
phải có thẻ. Muốn có thẻ phải có tiêu chuẩn… chúng ta không thể có các tiêu
chuẩn để được cấp thẻ! Từ đó, tôi cố gắng tìm hiểu về NV nhưng không hề có sách
báo nào nhắc đến tên ông. Đầu thế kỷ 21, tôi mới được đọc toàn văn
bài Gửi Trương Tửu và biết chút ít về NV qua lời kể của ông Đỗ Đình Thọ,
trong Nguyễn Bính Thơ và Đời. Rất may cách đây ba tuần tôi tìm được cuốn Toàn
Tập Thi Nhân Tiền Chiến Việt Nam của Nguyễn Tấn Long trong ngăn tiếng Việt của
Thư viện thành phố Berlin - mới biết tường tận về thi sĩ Nguyễn Vỹ. Những năm 30 của thế kỷ 20 - nhất là ba năm (1936 - 1939) -
Dưới tác động của Mặt trận Bình Dân lên năm quyền ở Pháp, chế độ kiểm duyệt của
thực dân Pháp ở Đông dương được nới lỏng, văn đàn Việt Nam trở nên sôi động
trong không khí tìm tòi sáng tạo. Nhờ vậy nhiều tác phẩm Văn, Thơ có giá trị
Nhân bản - Nghệ thuật ra đời, đánh dấu một thời đại mới của Văn học Việt Nam
đương đại. Trong đó phải kể sự chuyển mình của thi ca và phong trào Thơ Mới! Thơ - là ‘’Tiếng lòng’’ của người nghệ sĩ dùng ngôn ngữ
cùng phương pháp trình bầy để diễn đạt. Thơ Mới ra đời, được viết
ra bởi người viết hoàn toàn tự do, không bị các quy tắc của thể thơ cũ gò bó,
ảnh hưởng, ràng buộc (1). Thơ Mới đã mang lại cho Thi đàn Việt Nam luồng gió
mới, sản sinh nhiều cây bút trở thành những ngôi sao chói sáng trên bầu trời
Văn chương. Nguyễn Vỹ - Thi sĩ có cá tính độc đáo - là một trong số những
ngôi sao đó. Ông góp phần tô đậm diện mạo văn học Việt trong buổi đầu chuyển
mình. Sự hiện diện của Nguyễn Vỹ đã in dấu ấn sâu đậm trong
lòng người đọc Việt Nam ở những năm 30 của thế kỷ 20 và tiếp tục
cho đến hôm nay!. Theo Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân (xuất bản
năm 1942): Nguyễn Vỹ sinh năm 1910 (2) tại Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Thời
thanh niên đã từng cắt tóc đi tu. Tu không thành, phá giới đi gánh cát thuê ở
bãi sông, bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn… Sau thời gian lăn lộn
trong mội trường thực tế đầy khắc nghiệt, lam lũ… dường như đã đủ
‘’vốn sống’’, Nguyễn Vỹ quyết định về Hà Nội, hành nghề viết văn, làm báo
cùng bạn văn đất Hà Thành. Điều đáng chú ý: Ông đã cùng nhà văn Trương Tửu, Họa
sĩ Nguyệt Hồ thành lập nhóm Việt - Pháp, ra tờ báo tiếng Pháp Le Cygne, nhằm
truyền bá tư tưởng tiến bộ. Toàn tập Thi Nhân Tiền Chiến - Việt Nam (nxb Văn học - Nguyễn
Tấn Long - 1998) thì viết: Tờ Le Cygne có rất nhiều bài viết công kích chính
sách, đường lối cai trị của thực dân Pháp… Cơ quan An ninh thực dân, nhận
ra: Le Cygne sẽ là mối họa tiềm ẩn đối với chế độ. Họ vội bắt chủ báo Nguyễn
Vỹ, đóng cửa vĩnh viễn tờ Le Cygne - kết án tù 6 tháng và phạt 3000 quan tiền. Hết hạn, ra tù, trở về, ông lại viết, chống quân phiệt Nhật… lại bị Nhật bỏ
tù. Ra tù, vào Sài Gòn, làm báo Tổ Quốc, rồi báo Dân chủ, Dân
ta, tiếp tục đấu tranh không khoan nhượng với chính quyền, bảo vệ quyền lợi
cho dân cần lao. Kết quả: Tất cả các tờ báo đều bị bị đóng cửa. Dường như suốt
thời gian dài, liên tục Nguyễn Vỹ, dùng cây bút, tài năng để phản
kháng, phê phán, đấu tranh với bất công. Ngày 7.2.1971, ông mất trong một tai nạn xe hơi
trên đường Sài gòn - Tiền giang (3). Ông Đỗ Đình Thọ kể lại trong tác phẩm: Nguyễn Bính -
Thơ và Đời (nxb Văn học 2000): Nguyễn Vỹ rất giỏi tiếng Pháp, làm thơ tiếng
Việt khá hay. Một giai thoại văn chương rất thú vị, thời đó lưu truyền thể hiện
thi tài, cá tình của Nguyễn Vỹ: Trong một lần Trưởng phòng Kiểm duyệt báo chí
của sở Mật Thám Bắc Kỳ - René Creyssac (R.C) - ‘’tạ sự’’ đến thăm nhóm Việt -
Pháp (lúc Báo chưa bị đóng cửa) - mà theo tin tức mật vụ: Nhóm -
có xu hướng ‘’Dân chủ - Tự do’’ - gồm: Nguyễn Vỹ, Nguyễn Bính và Họa sĩ Nguyệt
Hồ. Ba người quyết định tìm cách đánh tan ấn tượng xấu về Le Cygne của R.
Creyssac. Họ bàn bạc đi đến thống nhất: Rủ y đi ăn, nhậu, giải thích, tranh
thủ… rồi ‘’chiêu đãi’’ thuốc Phiện ở tiệm thuốc nổi tiếng Hà Thành thời đó -
tiệm Phi Yến Thu Lâm, phố Mã Mây. Để quảng bá cho thương hiệu mình, chủ tiệm cho kẻ chữ Phi Yến
Thu Lâm (Yến bay trong rừng Thu), đồng thời vẽ đôi chim Yến bay trên bầu trời.
Các khách hút, thường tán: Phiện Thú Lắm (Phi Yến = Phiện. Thu Lâm
= Thú Lắm). R.C là con cáo già trong nghề. Y rất giỏi tiếng Việt,
tiếng Hán, thuộc Truyện Kiều và am hiểu văn hóa Phương Đông. Cao hứng và cũng
muốn thử tài văn sĩ Bắc Hà, R.C ra một đề cho những người mời ăn,
hút - cùng làm thơ, hứa rằng nếu bài thơ hay sẽ được thưởng ‘’mấy điếu (thuốc
phiện) chính hiệu…’’. Mọi người tán thưởng. R.C chậm rãi đọc đề ra: "Phi yến Thu Lâm… nghĩ cũng hay’’ - đoạn dơ tay làm
điệu bộ - Xin mời! Nguyễn Bính nói ngay: ‘’Nằm trên giường, tựa nằm trên mây’’ Nguyễn Vỹ nói bằng tiếng Pháp nhưng lại hợp cảnh, hợp tình
đúng niêm luật: ‘’Uyn, Đơ, Troa, Cát - Ken - cờ - Píp’’ (quelques Pipes) Nguyệt Hồ - kết: ‘’Quật ngã A Nam, ngã cả Tây’’! Bài thất ngôn tứ tuyệt, liên hoàn - của cả bốn người - nói về
cảnh hút thuốc Phiện và cái thú đi mây về gió thật hay: Phi Yến Thu Lâm nghĩ cũng hay Nắm trên giường tựa nằm trên mây Uyn đơ, Troa, Cát - Ken cờ Píp Quật ngã A Nam, ngã cả Tây! (4) Điều hay, thú vị ở câu thứ 3: Toàn chữ Pháp nhưng lại rất
đúng niêm, luật, âm điệu và rất chỉnh cả nghĩa liên hoàn lẫn tiếng, chữ viết.
Thú vị hơn: Nói đúng hoàn cảnh của những con nghiện đang ‘’làm tình’’ Nàng
tiên nâu. Quan Cẩm dù rất khó chịu câu thư 4 ‘’… quật… ngã cả
Tây’’, nhưng Nguyễn Bính nhanh trí ‘’giải thích’’… quan ta nghe, miễn cưỡng…
khen hay và giữ đúng lời hứa... Sự nghiệp Văn - Thơ của Nguyễn Vỹ rất đồ sộ. Ông để lại nhiều tác phẩm gồm tiểu thuyết, biên khảo, thơ…
Trong đó có hai bài thơ rất giá trị: Gửi Trương Tửu và Sương Rơi. Đặc biệt là Bài Gửi Trương Tửu. Đầu bài thơ
đề tựa: Viết trong lúc say... Trên đời có hai loại người chỉ nói thật, không nói dối: Sắp…
chết và Sắp… say (rượu). Gửi Trương Tửu - theo thể thơ thất ngôn trường thiên, độc vận.
Toàn bài được TNVN đăng tải - gồm 6 đoạn, 40 câu, mỗi đoạn nói về một vấn đề.
Theo thông lệ của thơ Đường - Vào đề: Tác giả giải thích nguyên nhân có lá
thư gửi cho bạn rượu - Trương Tửu: Nay ta thèm rượu nhớ mong ai Một mình rót uống chẳng hề say Trước kia hai thằng hết một nậm Trò truyện dông dài, mặt đỏ xẫm Nay một mình ta một be con Cạn rượu rồi thơ mới véo von Nhà thơ đang ‘’khát ‘’rượu, có rượu nhưng chỉ có một
mình. Rượu ngon… (lại) không có bạn hiền, nên nhớ tới Trương Tửu, đành
tâm sự với bạn trong tâm tưởng rồi khẳng định: Chỉ cạn rượu (say), ‘’thơ mới
véo von’’. Tiếng hót véo von của chim họa mi là tiếng hót hay. Thơ ‘’véo von’’ cũng có thể hiểu là thơ hay… Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác Mà coi đồng tiền như cái rác Kiếm được xu nào đem tiêu hoang Rủ nhau chè chén nói huênh hoang Xáo lộn văn chương với chả cá Chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả Rồi ngủ một đêm, mộng với mê Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê… Có hơi men, tác giả nhớ về quá khứ, về thời - cả hai nghèo
kiết xác. Nhưng khi có tiền, họ vẫn hoang toàng trong đời sống, vung vãi tinh
lực, kiến thức - trong những trận say túy lúy để có sức ‘’chửi Đông, chửi
Tây’’ cho sướng miệng rồi kéo nhau đi thưởng thức món chả cá ngon có tiếng của
đất Hà Thành. Đêm đến tiếp tục say với mộng mơ... sáng dậy không còn nhớ chiếc
‘’Văn tự’’ mua bán… ‘’Trời’’ - kia. Sau trận ‘’quên hết sự đời’’. trở về cõi
thực, cả hai nhìn nhau sảng khoái ‘’cười hê… hê’’. Giấc Nam Kha dứt, chợt giật mình - ‘’Bừng con mắt dậy thấy
mình tay không’’, liên hệ với cuộc sống của kiếp nhà văn mà đau, buồn. Thời
đó, dân trí của ta quá thấp, nhiều người mù chữ. Kinh tế quá nghèo, đói, lấy
đâu ra tiền thừa đẻ mua báo, mua sách đọc giải trí, trừ số ít dân trung lưu,
dân buôn bán nhỏ ở thành thị. Do vậy nhà văn không thể bán văn chương, thơ
phú để lấy tiền sống tạm qua ngày, đói khổ là phải. Cũng may, Mặt trận Bình
Dân Pháp lên nắm quyền ở ‘’Mẫu quốc’’ (…), có một số thay đổi trong chính
sách cai trị. Chính phủ thực dân ở Đông Dương muốn lấy lòng dân thuộc địa để
tô điểm cho khuôn mặt ‘’Bình dân’’ của Sếp mình, hòng ve vuốt giới trí thức bản
địa - nguồn gốc của ngòi nổ phản kháng. Họ giảm bớt sức ép cai trị khiến dân
chúng dễ thở hơn (…) trong đó có phần nới lỏng kiểm duyệt Văn chương. Mới chỉ
có chút ít quyền, được ‘’nói cho Sướng miệng’’ thế thôi, mà văn học nghệ thuật
thời kì này đã nở rộ, ra đời nhiều tác phẩm giá trị. Còn đời sống của cả xã
hội vẫn chưa có gì thay đổi lớn, vẫn đói rách triền miên. Chúng ta nên nhớ:
Giới Văn Nghệ Sĩ khi xưa không được nhà nước cho ăn lương, tất cả đều tùy
thân vận động ’’Tùy nghi di tản’’. Nhân dân cần lao tất nhiên còn bi thảm hơn,
vì chịu số phận của kẻ nô lệ: ‘’Một cổ đôi tròng’’, bị ‘’Đè đầu cưỡi cổ’’. Sau phút ưu tư, trước hoàn cảnh bi đát… tác giả ghi lại cảm
xúc đang dâng trào: Thời thế bây giờ vẫn thấy khó Nhà văn A Nam khổ như chó Mỗi lần cầm bút nói văn chương Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương Và nhìn chúng mình hì hục viết Suốt mấy năm giời: Kiết vẫn kiết! Mà thương cho tôi, thương cho anh Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh Ông trở nên bất đắc chí, đem so sánh cuộc sống của nhà Văn
với kiếp sống của Chó - con vật mạt hạng nhất trong số các vật nuôi ở Việt
Nam. Hãy bình tĩnh, hãy ghìm mình lại, đừng tự ái khi gã say ví ta
với chó! Thật ra đây chỉ là Ngoa dụ mà Nguyễn Vĩ dùng để miêu tả sự khốn khó
của người Việt dưới chế độ nô lệ. Quan niệm của cả xã hội:
Nhà Văn thuộc tầng lớp ở trên cao mà còn khổ như vậy thì dân đen sẽ như
thế nào? Lời ví von có hơi cường điệu, cũng giống như dân gian bảo tay nói
phét, lừa đảo là Bán trời không văn tự, thôi! Vả lại, nếu đem kiếp
sống khốn khổ của nhà Văn thời đó mà ví với chó gia súc của dân nghèo thì
hơi… quá. Nhưng nếu ví với Chó Berger, Chó Nhật của dân giàu và Chó
săn của ông chủ thực dân, thì… cũng chẳng ngoa chút nào!. Thế nhưng - Người Việt có tính hay mẫn cảm: Tuy nghèo, đói
nhưng, tính sĩ diện thì hết chê. Lại nữa: Quan niệm, cái nhìn về Chó của người
Việt hoàn toàn khác dân văn minh Tây Âu bởi chú Khuyển của dân ta cũng…
‘’khác‘’ chú Cẩu của họ. Dù thế nào, đem Nhà văn - đại diện cho một
tầng lớp Trí thức - ví với Chó thì thật… quá xá! Thi sĩ Tản Đà - nổi danh trên Văn trường Việt Nam từ đầu thế
kỷ (Tản Đà sinh năm 1888. Nguyễn Vỹ sinh năm 1910) dù cụ là bậc trưởng thượng
nhưng không hề phân biệt tuổi tác, thi tài, vẫn coi Nguyễn Vỹ là bạn văn, thường
cùng uống rượu. Khi đọc được bài thơ của ‘’hậu bối bất trị’’ - cụ bất bình,
hỏi: Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó, anh không sợ xấu hổ à? Nguyễn Vỹ mơ mơ màng màng - trả lời tiền bối đáng kính: Ví
như vậy thì chó xấu hổ chú chúng ta xấu hổ cái nỗi gì! (5). Ngay trong lúc mê, say, ông vẫn mơ giấc mơ đầy hoang tưởng: Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng Tôi làm Trạng Nguyên, anh Tể Tướng Và anh bên Võ, tôi bên Văn Múa bút tung gươm há một phen… (*) Theo nhà phê bình Nguyễn Tấn Long viết trong Toàn tập - Việt
Nam Thi Nhân Tiền Chiến: bắt đầu từ đây - 14 câu thơ - ‘’Thực dân
Pháp không cho Nguyễn Vỹ nói’’ - bị kiểm duyệt cắt bỏ (chắc Hoài Thanh không
được đọc): Cho bỏ căm hờn cái xã hội Mà anh thường kêu, mục, nát, thối Cho người làm ruộng, kẻ làm công Đều được an vui, hớn hở lòng? Bao giờ chúng mình gạch một chữ Làm cho đảo điên pho lịch sử! Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa Hất mồ ngồi dậy cười say sưa Để xem hai chàng trai quắc thước Quét sạch quân thù trên Đất nước? Để cho toàn thể dân Việt Nam Đều được tư do muôn muôn năm Để cho muôn muôn đời dân tộc Hết đói rét lầm than tang tóc Rồi tiếp dòng mơ say, ông liên hệ với thực tại - so sánh: Chứ như bây giờ là trò chơi Làm báo làm bung, chán mớ đời Anh đi che tàn một lũ ngốc Triết lý con Tườu, Văn chương Cóc (6) Còn tôi bưng thúng theo đàn bà (7) Ra chợ bán văn, ngày tháng qua Đi che Tàn (lọng, Ô) nghĩa là đi hầu. Anh đi che tàn một lũ ngốc. Còn tôi bưng thúng theo đàn bà
ra chợ bán... Văn. Anh làm Tể tướng, tôi Trạng Nguyên. Anh bên Võ, Tôi bên văn - Đúng một phần đời hiện thực, trộn
với giấc mơ của của tác giả lúc căn bệnh Nhân cách phân liệt - trỗi
dậy! - ‘’Con Tườu’’ là thế nào? - Con Tườu là con Khỉ. Người Trung Hoa coi con Khỉ, tập trung của cái xấu trước
tiên là ngoại hình. Khi ghét người nào đó, họ thường nói câu cửa miệng: Mày
hãy soi gương xem cái ‘’tướng Khỉ’’ của mày đi! Nhưng khó chịu nhất: Khỉ hay bắt chước và không
có chút ‘’lịch sự’’ tối thiểu như mọi con vật khác: Khi thấy nhiều
người xúm vào xem… Hậu duệ của lão Tôn - Hoa quả vương - sẵn sàng vạch chỗ
kín ra… gãi hoặc nghịch bậy mà lẽ ra theo cách nghĩ của người: Phải kín đáo,
dấu tiệt!. Con Tườu là vậy. Triết lý con Tườu là thứ triết lý của kẻ hay bắt
chước, triết lí đậm ’’Hầu... phẩm’’! - Còn ‚’’Văn Chương Cóc’’? - Đó là văn thơ giản lược, sao chép - không phải văn theo
kiểu được Viết Sự Kiện - nghĩa là bay bổng! Ẩn dụ này bắt nguồn từ ý nghĩa của
bài thơ Con Cóc: Con cóc trong hang - Con có nhảy ra Con có nhảy ra - Con cóc ngồi đấy Con cóc ngồi đấy - Con cóc nhẩy đi!
Qua phút choáng váng, nhà thơ xẹp đi, trở lại hiện trạng cuộc
đời rồi tự an ủi mình, an ủi bạn… nhưng chỉ được ít phút, lại nổi xung… lần
này tức giận thật sự. Cuối cùng, tỉnh rượu, nhà thơ nhớ lời tiền nhân: ‘’Lập
thân tối hạ thị văn chương’’, tự chửi đổng, chửi mình cơ hội, nhiễm nặng tật
Thấu cáy học được trong những canh bạc Xì tố. Nhà thơ chắc mẩm đã ‘’chơi nước
cờ cao’’ (…) nhưng thực tế, té ra - cuộc Thấu cáy trở nên rất thấp, dẫn đến gặp
Bĩ, thua đâm, đâm thất vọng, ngẩn ngẩn, ngơ ngơ... tự nhận hành động của
mình: Điên! Cho nên tôi buồn không biết mấy Đời còn nhố nhăng, ta chịu vậy Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa Bực chí thành say, mấy cũng vừa Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ Chơi nước cờ cao lại gặp bĩ Rồi đâm ra điên, đâm ngẩn ngơ Rút cục chỉ còn mộng với mơ! (Viết trong lúc say - Báo Phụ nữ 193…(?)
Những vần thơ được tác giả sử dụng ngôn từ ‘’quá thật’’ khiến
nhà phê bình Hoài Thanh bức xúc, viết trong TNVN - (có phần võ đoán, chủ
quan, thiên lệch): ‘’Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập
xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ ra xem nhưng lại tưng hửng trở vào…’’. Bất bình
vì Nguyễn Vĩ làm ông ‘’… inh cả tai’’ (nhức óc). Hoài Thanh đã nhìn Nguyễn Vỹ bằng con mắt không mấy thiện cảm. Có thể ông không được đọc 14 câu
thơ mà kiểm duyệt Pháp cắt bỏ. Cũng có thể ông tự ái khi Nguyễn Vỹ ví ‘’Nhà
văn… như chó’’ nên trút giận… rồi viết ra những dòng văn kia - chăng? Trên đời này, con người không thích ai làm họ inh tai, nhất
là lại cho họ ‘’cái bạt tai’’ làm họ ù tai, khiến nhức óc. Cái tai do trời
ban cho con người, có hình thù đặc biệt: Âm thanh dội vào, được các vành tai
tiếp nhận, uốn lượn đưa vào màng nhĩ. Âm thanh càng thê thọt, hiệu quả có lúc
- (chứ không phải mọi lúc) - càng cao. Âm thanh làm đinh tai, người nghe
không chịu được - có lúc, (chứ không phải mọi lúc) - nhức óc, nổi cáu, thậm
chí (phát) Điên. Người đã nổi điên, hành động vô ý thức - sẽ xẩy ra và đối tượng
gây họa phải lãnh hậu quả… Nhưng, vì nói thẳng, nói thật, Gửi Trương Tửu vẫn có nhiều
người thích nghe, thích đọc. Cho dù được viết đã trên dưới 70 năm, Thi phẩm của Nguyễn
Vỹ vẫn có giá trị Nhân văn mang dấu ấn của thời đại. Thi sĩ Nguyễn Vỹ là điển hình cho một lớp văn nghệ sĩ đương
thời bất mãn vì có tâm huyết, có tài năng nhưng không được thi thố với đời để
phục vụ nhân sinh. Gửi Trương Tửu đúng là tác phẩm giá trị của dòng văn
chương ‘’Hiện Thực Phê Phán’’ - như cách xếp loại truyền thống của giới phê
bình Việt Nam - trước đây... Ghi chú:
(1) Thơ cũ: Đường luật, lục bát, song thật lục bát - có
nhiều quy tắc… Thơ Mới ngược lại, không gò bó như thơ cũ… (2) Toàn Tập Thi nhân Tiền Chiến - Việt Nam -
cho rằng: Nguyễn Vỹ sinh năm 1912 (3) Theo TNTCVN Toàn Tập - Nguyễn Tấn Long -
nxb Văn Học - 1998. (4) Chuyện này in trong Nguyễn Bính - Thơ và Đời, nxb Văn
Học 2000 (5) Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học 2002. (6) Trương Tửu lúc đó viết cho báo Hữu Ích của Lê Văn
Trương. Nguyễn Vỹ viết cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Thảo. (7) Thời Nguyễn Vỹ sống, các Bà, các Cụ Bà, vùng đồng bằng
châu thổ Sông Hồng (Nam Định, Thái Bình…) - đi chợ thường đội thúng, khi đến
chợ hạ thúng, bưng thúng, bày hàng bên trên mẹt đậy - bán cho khách… 15/10/2007 Lê Xuân Quang Theo https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét