Trong tiểu luận Chẳng hát đồng ca (1994), Lý
Nhuệ từng viết: "Từ khi nhà Tần thống nhất cách đo cách cân, vô số người
Trung Quốc chỉ thích cất giọng cùng tập thể, thực đáng chán, khó chịu.
Chúng ta liệu có gan hát solo hay không?". Tiểu thuyết đầu tiên Chốn
xưa của Lý Nhuệ, mở màn cho những bài hát solo đó. Từ khi xuất hiện trên văn đàn với tác phẩm đầu tay Chốn
xưa đến tác phẩm mới nhất Ngân thành cố sự viết năm 2002, Lý
Nhuệ được phương Tây đánh giá là một trong các nhà văn
đương đại tiêu biểu nhất Trung Hoa. Họ Lý thích sống khép kín, say mê đọc
sách và viết không ngưng nghỉ, những tác phẩm của ông được ấp ủ, thai nghén
rất lâu mới đem trình làng. Chốn xưa cũng vậy, sau chuyến về thăm quê lần đầu
tiên, ông trở về suy nghĩ miên man đến bảy, tám năm, rồi viết tròn một năm
mới hoàn thành. Trả lời phỏng vấn, ông viết: “Chuyến về quê chỉ ít ngày,
nhưng ngoảnh nhìn lại đã thấy lịch sử hàng trăm năm, hàng ngàn năm, thấy rất
nhiều sinh mệnh bị tiêu diệt một cách oan khuất trong dòng chảy của lịch sử… chỉ
cần nhắm mắt lại là thấy con sông nhỏ chảy qua thành phố, trông thấy những
ngôi nhà cũ, những mảnh vườn xưa hoang tàn. Tôi biết chúng đã từng có một lịch
sử huy hoàng và đau thương, biết sinh mệnh của rất nhiều người thân của tôi
đã mòn mỏi chết trong cái huy hoàng và đau thương ấy. Băng giá của thời
gian không chút động lòng hóa thạch những sinh mệnh và tình cảm ấy, sự thô
bạo của lịch sử không chút xót thương biến mọi cố gắng của con người với
con người thành rác rưởi…Chợt tôi thấy tất cả những gì của trăm ngàn năm nay,
hàng triệu sinh mệnh sinh ra và chết đi, đều là sự từng trải của máu thịt
tôi, là điều khắc cốt ghi tâm, không bao giờ quên… tất cả trở thành hạt cơ
bản tạo nên tác phẩm của tôi, trở thành động lực để tôi thổ lộ lòng mình”.
(1) Lý Nhuệ (Li Rui) sinh năm 1950 tại Bắc Kinh, nguyên quán ở
Tự Cống, tỉnh Tứ xuyên. Ông bắt đầu sự nghiệp viết văn từ năm 1970. Các tác
phẩm chính: Tập truyện ngắn Hậu thổ, các tiểu thuyết Cây không
gió, Chốn xưa, Ngàn dặm không mây, Ngân thành cố sự. Lý Nhuệ đạt giải
thưởng Truyền thông văn học Hoa ngữ lần thứ V. Cuốn Ngân thành cố sự đoạt
giải thưởng văn học Mao thuẫn. Ông là một trong ba nhà văn đương đại Trung
Quốc được Bộ trưởng Văn hóa Pháp - Jean Jacques Ailagon trao huân chương kỵ
sĩ về văn học và nghệ thuật. Trên thị trường văn học quốc tế, Lý
Nhuệ được chú ý hơn hẳn các nhà văn khác, bốn trong số năm tác phẩm của ông
đã được Goran Malmqvist - Viện sĩ Viện hàn lâm Thụy Điển dịch. Tác phẩm Chốn xưa được dịch sang tiếng Việt đầu
năm 2007, từ khi xuất bản Chốn xưa của Lý Nhuệ đã được nhiều nhà
nghiên cứu trong nước giới thiệu. Tuy nhiên, chỉ là những bài điểm truyện.
(2) Trong đó bài nhận định “Đề tài lịch sử cảm hứng hiện đại” của Vương Trí
Nhàn là bài viết chuyên sâu hơn cả. Chủ yếu tác giả so sánh Chốn xưa và Ngân
thành cố sự trong mạch tìm tòi và cách tân văn học đương đại
Trung Quốc, từ đó suy nghĩ về phương hướng đổi mới trong cách viết (3). Ngoài bài viết thiên về nghệ thuật này chưa có bài nào đào sâu nội dung
chính của tác phẩm. Trên cơ sở tham khảo những nhận định trên, tôi đưa ra một
cách tiếp cận khác nhằm làm sáng tỏ nội dung tác phẩm. Mục đích của việc
phân tích tác phẩm Chốn xưa, ngoài giá trị văn học, còn có ý nghĩa nhận
thức về một lịch sử đã qua, để hướng đến tương lai không chỉ của một dân tộc. Bối cảnh lịch sử Trung Hoa thế kỷ 20. (4) (5) Trước khi bước vào tác phẩm Chốn xưa, chúng ta điểm
lại toàn cảnh lịch sử Trung Hoa thế kỷ 20. Bắt đầu từ sau cách mạng Tân Hợi
(1911) đến khi kết thúc “triều đại” Mao Trạch Đông là
một thời kỳ lịch sử vô cùng phức tạp với những cuộc tranh giành đẫm máu giữa
rất nhiều thế lực. Đó là giai đoạn người Trung Hoa đi tìm lối thoát cho một
xã hội phong kiến cổ hủ đến thời suy tàn. Một bên là Quốc dân Đảng do Tôn Dật
Tiên (Tôn Trung Sơn) khởi xướng, có công trong việc lãnh đạo cuộc
cách mạng Cộng Hòa truất phế chế độ phong kiến Mãn Thanh đầu thế kỷ 20. Sau
khi Tôn Trung Sơn mất, Tưởng Giới Thạch kế thừa, được Hoa Kỳ hậu thuẫn, chủ
trương cách mạng dân tộc dân chủ. Một bên là Đảng Cộng Sản do Mao Trạch
Đông đứng đầu có Liên xô hỗ trợ, chủ trương thành lập nhà nước vô sản. Hai
thế lực này là hai bàn cờ không đơn giản, lúc hợp tác đánh Nhật, chống Tây
lúc lại chém giết tranh giành quyền lực. Cuối cùng sau hai thập kỷ nội chiến và chiến tranh quốc tế,
Mao Trạch Đông chiến thắng tiến vào Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch chạy qua Đài
Loan. Kể từ năm 1949, Trung Hoa đi vào thể chế cộng sản do Mao Trạch Đông
lãnh đạo. Cầm quyền chưa được bao lâu họ Mao lại đưa
Trung Hoa vào cuộc cờ chính trị mới - đó là sự va chạm ý thức hệ và tham vọng
cá nhân đẩy Trung Hoa vào con đường chết chóc bạo liệt chưa từng thấy. Đầu tiên là chiến dịch “Tập thể hóa ruộng đất” từ 1950 đến
1958, đất đai của các địa chủ và nông dân đều bị tịch thu vào hợp tác xã, của
cải người giàu đem chia người nghèo, đảng cộng sản Trung Hoa bắt đầu kiểm
soát giá cả. Hậu quả hàng triệu người bị đấu tố đến chết. Tiếp đến là chiến
dịch “Trăm hoa đua nở” khuyến khích người dân đóng góp ý kiến, kết quả hơn
500.000 đảng viên cấp tiến, trí thức lớn bị thanh trừng, đó là quỷ kế để
nhận diện kẻ chống đối, Mao Trạch Đông độc quyền thâu tóm quyền lực. Tiếp theo là phong trào “Bước đại nhẩy vọt”, cả nước tập
trung sản xuất sắt thép. Tất cả sản xuất thực phẩm tư nhân đều bị cấm đoán,
gia súc và dụng cụ nông nghiệp được tập trung và sở hữu tập thể. Kết quả
nông dân của nhiều tỉnh đã không có đủ ăn, hàng chục triệu người dân bị chết
đói trong các năm 1959 tới năm 1962 và đây là một trong những nạn chết đói
lớn nhất của nhân loại: hơn 37 triệu người. Sau thất bại phong trào “Bước Đại Nhẩy vọt”, trước viễn cảnh
bị mất địa vị chính trị, họ Mao phản ứng lại bằng cách phát động cuộc “Đại
Cách mạng văn hóa” vào năm 1966, dùng lực lượng thanh niên dưới 20 tuổi gọi
là Hồng Vệ Binh để họ tự lập nên các tòa án xét xử riêng. Mục tiêu loại bỏ
những phần tử “tư sản tự do” để tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của tầng lớp
cách mạng. Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này là một cách để Mao
Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy
vọt bị thất bại dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao Trạch Đông so
với đối thủ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ và cũng để loại bỏ những người bất đồng
ý kiến như Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài. Cuộc cách mạng này đã
đưa tới hậu quả khôn lường, Hồng Vệ Binh đã tàn phá phần lớn các di sản văn
hóa của Trung Hoa, đã hành hạ và nhốt tù một số rất lớn các cựu đảng viên
và các nhà trí thức, đồng thời tạo nên các tình trạng hỗn loạn về kinh tế
và xã hội tại tất cả miền quê. Hơn 20 triệu người đã bỏ mạng trong giai đoạn
này. Cuộc “Đại Cách Mạng Văn Hóa” đã phá nát cả nền văn hóa mấy nghìn năm
rực rỡ của Trung Hoa, giá trị truyền thống tốt đẹp của con người bị chà đạp,
hậu quả sản sinh ra nhiều quái thai trong tâm hồn người. Suốt thời đại Mao
Trạch Đông hàng loạt thanh trừng đã diễn ra trong quân đội và trong nội bộ
Đảng. Sau khi họ Mao qua đời năm 1976, cuộc “Đại Cách mạng văn hóa” mới thực
sự chấm dứt, khép lại một lịch sử kinh hoàng của Trung Hoa.(6) Một nhà báo
của tây phương ví Mao với Tần Thủy Hoàng, Mao đáp: “Tần Thủy Hoàng chỉ giết
có 460 kẻ sĩ. Còn tôi, tôi đã giết 46.000 trí thức, tôi hơn Thủy Hoàng cả
trăm lần chứ!”. (7) Bắt đầu những năm 80, Trung Hoa chuyển sang kinh tế thị
trường và không đề cao "ý thức hệ Mao-ít" khi quyết định các
chính sách kinh tế và chính trị. Bắt đầu từ đây Đặng Tiểu Bình đưa Trung
Hoa vào một thời đại mới ổn định và phát triển. Tác phẩm Chốn xưa kể về sự thăng trầm của hai
dòng họ Lý, Bạch ở Ngân thành. Lý Kinh Sinh - tiến sĩ sử học ở Bắc Kinh - trước khi sang
Hoa Kỳ du học, chàng trai họ Lý quyết định trở về nguyên quán để viết lại “Lịch
sử phát triển nghề muối của Trung Quốc” tại Ngân Thành. Bắt đầu
từ đây, quá khứ khốc liệt của một lịch sử xưa được tái hiện qua
cuộc đời thăng trầm của dòng họ Lý. Mở đầu tác phẩm Chốn xưa là cái chết của 108 phần
tử “phản cách mạng” trong đó có “ba mươi hai người họ Lý, hầu hết là đàn
ông đã trưởng thành, là những người nối dõi của ba chi dòng họ Lý thuộc nhà
Cửu Tư Đường”. Người hành hình là Lưu Quang Đệ, xung phong nổ phát súng đầu
tiên, tự tay bắn chết Lý Nãi Kính trưởng họ Lý, là ông trẻ của anh ta. Bên
cạnh pháp trường bắn tung máu đỏ và óc trắng là hình ảnh dòng Ngân Khê xanh
thẫm, lặng lờ chảy qua thành phố, trên vách núi có khắc ba chữ lớn ”Thính
Ngư trì”, bút tích của Tô Đông Pha. Đó là ngày 14/12/1951 vào tiết Sương
giáng, mưa thu mù mịt. “Theo tộc phả ghi lại, vị tổ họ Lý đầu
tiên là Lý Dật. Vương Mãng thời Hán thoán quyền, Lý Dật phò tá Quang Vũ đế
Lưu Tú dẹp phản nghịch được ban thưởng công trạng, phong làm Cố Thủy hầu. Từ
đấy, dòng họ Lý kế tiếp nhau hai nghìn năm, trải qua nhiều triều đại và
không biết bao nhiêu binh đao loạn lạc, cuối cùng định cư tại vùng này,
khai phá xây dựng nên thành phố, đào giếng muối đầu tiên ở đây. Giáo sư sử
học nổi tiếng người Anh Joseph Needham coi đấy là phát minh lớn thứ năm
trong lịch sử kỹ thuật Trung Quốc, cái giếng sâu hơn ngàn mét đầu tiên của
loài người được đào bằng phương pháp khoan xung lực, và đấy cũng là sản
nghiệp của nhà họ Lý. Ngay trước cửa ngôi nhà cũ của dòng họ có hai cái cổng
đá cao nhất, đẹp nhất thành phố, được gọi là cổng đá đôi. Trên cổng khắc
thánh chỉ “Quan văn xuống kiệu, quan võ xuống ngựa”. Cổng đôi này là để biểu
dương tổ tiên họ Lý có hai cha con đỗ tiến sĩ, được phong chức quan to, cổng
được xây theo chiếu chỉ vua ban. Khoảng giữa cổng đôi này và cửa lớn có một
cây hòe năm trăm năm tuổi, cành lá sum suê, bởi vậy cây hòe cổ thụ và cổng
đá đôi… trở thành biểu tượng của Ngân Thành.” (tr 32) Thế nhưng, gia tộc dòng họ Lý hai ngàn năm ấy - tượng
trưng cho xã hội truyền thống Trung Hoa - chỉ trong những năm đầu cuộc “Đại
Cách mạng văn hóa” đã bị san bằng dấu tích. Cuộc đời của những người dòng họ Lý, Bạch. Đối diện với lịch sử, con người là gì? Đối diện với thời
gian, rốt cuộc sinh mệnh là gì?... Lý Nãi Chi sinh năm 1910 thời Tuyên Thống - vị hoàng đế
cuối cùng. Lý Nãi Chi có hai người chị là Lý Tử Hận và Lý Tử Vân. Cha mẹ chết
sớm, chị em Nãi Chi ở cùng với Lý Nãi Kính tộc trưởng họ Lý của Cửu Tư Đường.
Năm 17 tuổi, Lý Nãi Chi chứng kiến cái chết của người thầy Triệu Bá Nho bị
hành hình sau cuộc bạo động Thu Thu của nông dân, anh bị chấn động. Vậy là,
cuộc thảm sát tháng 12 năm 1927 ở Ngân Thành đã tạo nên một thanh niên bi
phẫn. Trong nhật ký anh viết: “… Tôi làm thế nào để thoát khỏi cái thế giới
này?...Có cần thiết phải thay đổi cái thế giới bị tê liệt này không?... Sống
như thế này không chút hứng thú, buồn thảm vô cùng! Đọc lại “Gào thét” của
Lỗ Tấn, lẽ nào mọi người đều như kẻ ăn thịt người trong “Nhật ký người
điên” cả hay sao?... Nghe chị Vân nói, tin tức trên tỉnh và ở các tỉnh
khác, càng cảm thấy Trung Quốc thật sự vô vọng”. Rời Ngân Thành
lên tỉnh học, Nãi Chi tham gia phong trào sinh viên biểu tình, diễn thuyết
trên đường phố, rải truyền đơn chống Nhật. Cuối cùng, chỉ còn một tháng nữa
tốt nghiệp, anh bị đuổi học. Nãi Chi bình thản từ chối tấm bằng đại học. Được
Cách mạng móc nối anh tham gia hoạt động bí mật, lợi dụng là người nhà với
dòng họ Cửu Tư Đường làm vỏ bọc, anh trở về Ngân Thành trà trộn với những
người công nhân đào muối. Vì lý tưởng anh hiến dâng cả sự sống và tình yêu
của mình. Nãi Chi từ chối mối tình của Bạch Thu Vân, đi hoạt động cách mạng
cho đến khi bị Quốc dân đảng bắt giam kết án tử hình năm 1939. Nhờ người chị
thứ hai: Lý Tử Vân - vợ của tướng Dương Sở Hùng (một vị tướng của Quốc dân
đảng) can thiệp, trên pháp trường xử bắn, “theo mật lệnh của Dương Sở
Hùng, viên đạn lẽ ra phải xuyên tim anh thỉ chỉ bắn gãy xương sườn”, Nãi
Chi được hai người chị cứu sống. Trốn thoát, anh được Bạch Thu Vân chăm
sóc, nàng cùng anh tham gia cách mạng đến ngày thắng lợi. Nãi
Chi sống ở Bắc Kinh và sau đó từ Cục trưởng anh lên Thứ trưởng, đúng lúc thời
“Đại cách mạng văn hóa” loại bỏ những phần tử có lý lịch “tư sản tự
do”. Vậy là, Lý Nãi Chi chỉ trong một đêm biến thành kẻ phản bội, gián
điệp nằm vùng cùng mấy thứ trưởng được đưa lên Trường cán bộ 7/5, cải tạo
lao động. Nãi Chi được phân công chăn bò trên nông trường giá lạnh. Vào một
đêm giá rét, trong chuồng bò ở tỉnh Giang Tây, Lý Nãi
Chi bị thổ huyết và chết lặng lẽ khi ngoài trời tuyết bay trắng xóa. Đến
lúc chết Nãi Chi vẫn còn thảng thốt viết chi chít trên tờ Nhân dân nhật báo
một từ: “... cách mạng, cách mạng, cách mạng, cách mạng... chữ dày ken,
chữ nọ nối tiếp chữ kia. Không ai hiểu ông viết thế để làm gì, không ai hiểu
tâm trạng ông khi viết những chữ ấy lên trang báo”. Nó vẫn còn là một dấu hỏi? Bạch Thu Vân là con gái của Bạch Thụy Đức, một nhà doanh
nghiệp có thực lực tài chính hùng hậu ở Ngân Thành. Bạch Thụy Đức du học từ
Mỹ về đem theo những kiến thức khoa học kỹ thuật làm thay đổi phương thức sản
xuất lạc hậu. Ông là người đầu tiên đưa cơ giới vào khai thác muối, sản xuất
muối theo phương thức hóa học, cũng là người đầu tiên ở Ngân Thành mua ô tô
Ford bốn máy, xây biệt thự tráng lệ kiểu Tây phương. Gia đình Bạch Thu Vân
và biệt thự Bạch Viên trở thành cảnh Tây trong con mắt người Ngân Thành.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thương gia giàu có nhưng Bạch Thu Vân
là một tiểu thư khuê các có đầu óc cấp tiến, nàng được gia đình cho lên tỉnh
học cùng trường với Lý Tử Vân chị của Lý Nãi Chi. Biết Nãi Chi yêu mình
nhưng từ chối, Thu Vân đau khổ. Về sau, khi Lý Nãi Chi bị án tử hình vượt
thoát, nàng lén trốn gia đình, bỏ học quyết tâm theo người yêu, không sợ gian
khổ, hiểm nguy. Bạch Thu Vân và Lý Nãi Chi sinh được ba người con Lý Kinh
Sinh, Lý Diên An và Lý Tiểu Nhược. Ngày chồng bị bắt cải tạo, họ để lại cho
nàng một tờ “Mệnh lệnh”, bắt nàng phải “triệt để phân rõ ranh giới với tên
phản bội, gián điệp, phải tố giác tội trạng, đồng thời trong một ngày gần
đây sẽ phải tham gia đội lao động cải tạo lũ tà ma quỷ quái, nếu
không sẽ chung số phận không đáng bãi cứt chó như Lý Nãi Chi”. Trương Tài,
viên quản lý đội cải tạo lao động là một công nhân nông nghiệp, rất thô khỏe.
Được làm đội trưởng đội cải tạo anh vui lắm, vì ngày nào cũng nắm trong tay
các quan ông, quan bà. Trong đội, hắn đặc biệt rất khoái Thu Vân, đơn giản
vì nàng là quan to nhất. Vợ thứ trưởng. Ngày đầu tiên, hắn phân công nàng đảo
phân ở hai cái bể lớn để múc phân tưới rau, hành hạ nàng như một thú vui. “Hôm
nay đội ta có thêm một nhân vật cỡ bự, bà phu nhân thứ trưởng, hãy nhìn đôi
găng tay này, trắng quá! Tôi nghe nói, hiện tại y không được phát lương nữa,
tiền tiết kiệm cũng bị tổ chuyên án giữ, bây giờ thì chúng ta bình đẳng như
nhau. Tôi làm lụng cả đời mà cũng không có nổi đôi găng tay này, vậy bà
nghĩ bà là thứ của quý gì? Bà còn tỏ ra là lá ngọc cành vàng ở đây hay sao,
bà cũng như những người kia, mẹ kiếp bà, bà cũng chỉ là đồ cứt chó!”. Bạch
Thu Vân trải qua hai năm cải tạo lao động, trở thành một công nhân nông
nghiệp đúng tiêu chuẩn, làm cỏ, cắt lúa, gánh nước, quạt thóc, hái bông,
phun thuốc trừ sâu… việc gì cũng thạo. Đến một ngày mệt mỏi tận xương tủy,
không chịu đựng được nữa nàng uống thuốc ngủ tự tử, mong lấy cái chết để chấm
dứt cuộc sống tù túng, mòn mỏi và khốn khổ. Bé Lý Chi Sinh cháu trai của tộc trưởng Lý Nãi Kính khi vừa
chào đời mẹ chết, lại đúng vào lúc cả gia tộc 32 người đàn ông nhà Cửu Tư
Đường bị đem xử bắn “vì là bọn địa chủ phản cách mạng”. Mồ côi cha mẹ, Chi
Sinh được Lý Tử Hận đem về nuôi. Cuộc “Đại cách mạng văn hóa” 1966 Chi Sinh
mới là cậu bé vừa lên trung học, em bị lũ bạn cùng lớp đánh hội đồng vì là
“chó con của nhà Cửu Tư Đường”. Hai hôm sau, lũ bạn học của Chi Sinh, tràn
vào bắt “chó con” Chi Sinh lên cầu “Hồng Vệ” để “tẩy não”. Tất cả những ai
bị gọi là “yêu ma quỷ quái”(từ của Mao chủ tịch viết trong cuốn cẩm nang) đều
bị dẫn lên cầu, ném xuống sông Ngân Khê. Những ngày ấy, quần chúng cách mạng
trống giong cờ mở đứng chật hai bờ sông. Bé Chi Sinh khóc lóc, kêu la thảm
thiết cũng chẳng ích gì, em cũng bị lôi lên cầu và ném xuống sông. Ông Đông đầu bạc trắng - người gánh nước thuê cho gia
đình Cửu Tư Đường - là tên nô lệ trung thành - vì nhảy xuống sông
cứu Chi Sinh, nên bị đòn hội chợ máu me đầm đìa, ngất xỉu. Cả hai một trẻ một
già đều bị ném trở lại dòng sông cuộn xiết, trong tiếng hò reo rầm
trời. Lý Tử Hận chị cả của Lý Nãi Chi và Lý Tử Vân là một người
đàn bà mang đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông. Người
con gái xinh đẹp, mảnh mai nhưng lại có một nghị lực phi thường. Nhẫn nhục
hy sinh suốt cuộc đời vì người thân. Từ năm lên bảy, đã nhận trách nhiệm của
người cha căn dặn trước khi ông mất: “ Tử Hận, con đã bảy tuổi, con là
chị, có câu này cha dặn con phải nhớ: tất cả không là gì, chỉ có sự học là
cao nhất. Các em con lớn lên, nhất thiết con phải để các em học hành nên
người”. Bắt đầu từ đó nàng đã gánh trách nhiệm làm cha và cả làm mẹ dạy dỗ
hai em. Năm hai mươi bốn tuổi, khi Lý Nãi Chi và Lý Tử Vân băn khoăn không
muốn lên tỉnh học vì lo chị một mình ở quê nhà, Tử Hận đã dùng
nhan châm tự hủy hoại nhan sắc của mình, ăn chay niệm Phật để cho hai em
toàn tâm ý lên tỉnh học, không bận tâm về mình. Khi dòng họ Cửu Tư Đường 32
người từ già đến trẻ bị bắn chết, Tử Hận đem đứa cháu mới sinh mồ côi cha mẹ
của dòng họ về nuôi cho đến ngày đứa trẻ bị ném xuống cầu
“Tẩy nảo”. Lặng lẽ chôn cất người thân, Tử Hận sống âm thầm và
sau đó chết trong ngôi nhà hoang vắng ở Cửu Tư Đường không một
ai hay biết. Kết thúc tác phẩm là cái chết cô đơn của Lý Tử Vân vợ tướng
Dương Sở Hùng - người cuối cùng của nhà Cửu Tư Đường - tại khu chung cư người
già ở bang Virginia, nước Mỹ vào những năm cuối thập kỷ 80 thời Trung Quốc
đổi mới. Thông qua những cái chết của hai dòng họ Lý, Bạch, tác giả
phản ảnh rõ nét bi kịch con người trong dòng chảy lịch sử Trung Hoa suốt thế
kỷ 20. Ý nghĩa của những cái chết. Trong một lần phỏng vấn người ta hỏi ông: “Trong tiểu
thuyết của ông có nhiều người bị giết và nhiều cảnh giết người, ông định
nói lên điều gì?”. Lý Nhuệ trả lời: “Một bộ lịch sử nhân loại cũng có thể
coi đấy là một bộ lịch sử tàn sát. Thông thường, một nhóm người này muốn chứng
tỏ và quán triệt một ý chí này, đã tàn sát một nhóm người khác; sau một thời
gian, nhóm người kia muốn chứng tỏ và quán triệt ý chí, lại tàn sát nhóm
người này. Cuối cùng, lịch sử sẽ vứt bỏ tất cả những cái gọi là ý chí thuộc
về con người, để những số phận bị tiêu diệt tỏ rõ nỗi cô đơn, đau khổ và sự
hoang đường vô lý... Hầu hết những nhân vật chính trong tiểu thuyết của
tôi đều chết, họ không làm anh hùng để chết, họ chết trong dòng chảy của lịch
sử...Không thể trốn chạy cái chết những năm tháng ấy, ý nghĩa của những cái
chết và bao năm tháng cuộc đời mất đi khiến tôi cảm thấy sâu sắc nỗi đau của
con người vì con người”. (8) Thầy giáo Triệu Bá Nho - tượng trưng cho những nhà nho
yêu nước làm cách mạng thời kỳ đầu say mê và tin tưởng vào lý tưởng của chủ
nghĩa Mác mặc dù biết cuộc khởi nghĩa sẽ thất bại, bản thân không cho phép
cậu học trò Lý Nãi Chi tham gia, nhưng vẫn lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa nông dân, bình thản lên pháp trường xử trảm. Trần Cẩu Nhi - tượng trưng cho tầng lớp nông dân tham gia
bạo lực cách mạng rất nhiệt tình và hiệu quả do lòng đố kỵ và hận thù giai
cấp mà không có chút khái niệm về lý tưởng chính trị nào, loại người có
công với cách mạng nhưng kém hiểu biết cũng nhanh chóng trở thành tai họa của
nhân dân. Lý Nãi Kính tộc trưởng nhà Cửu Tư Đường - tượng trưng cho
thành phần Trung Hoa phong kiến cổ truyền - sống nhân nghĩa, trách nhiệm,
khôn ngoan lèo lái cả gia tộc vượt qua bao thăng trầm binh biến, loạn lạc
nhưng cuối cùng thời “Tập thể hóa ruộng đất” - dòng họ nhiều đời mở hầu
bao cứu trợ, giúp đỡ biết bao người nghèo khổ học hành- lại bị cách mạng
đem xử bắn vì được xem là thành phần địa chủ “phản cách mạng”. Lý Nãi Chi - một trí thức mới mang khát vọng lớn
lao muốn thay đổi xã hội - dám từ bỏ mảnh bằng đại học, tham gia cách mạng
những ngày đầu để cuối cùng trong “Đại cách mạng văn hóa” vì không chứng
minh được lý lịch “trong sạch” của mình, phải đi cải tạo chăn bò
và chết âm thầm trên nông trường lạnh giá. Lý Tử Hận - tượng trưng cho giá trị nhân văn cao cả của
truyền thống Trung Hoa - hy sinh suốt cuộc đời vì người thân, rốt cuộc cũng
không bảo vệ được đứa cháu đích tôn bị “quần chúng” vứt xuống sông “tẩy
não”, sau đó chết âm thầm trong ngôi nhà Cửu Tư Đường không ai
hay biết. Bạch Thu Vân, con gái một thương gia giàu có nức tiếng
Ngân Thành - tượng trưng cho lớp nhà giàu mới, ảnh hưởng Tây học, sẵn sàng
vì tình yêu theo chồng tham gia cách mạng, cuối cùng vẫn bị xem là “tiểu
thư thối tha con nhà tư sản” bị đày ải lao động trên nông trường, mệt
mỏi đói khổ đến cùng cực phải tự tử để thoát khỏi sự khổ ải của kiếp người. Đó là những bi kịch. Cái “chân lý” mà biết bao người hy sinh khi đi tìm, không
ngờ đã lần lượt giết chết họ. Đầu thế kỷ 20, khi người Trung Hoa
đang lúng túng đi tìm lối thoát cho một xã hội phong kiến đến thời suy tàn,
họ phân vân giữa nhiều ngã đường - phóng tầm nhìn sang Nhật, sang Tây,... bất
ngờ chạm đến chủ nghĩa Marx-Lenin, cứ ngỡ phát hiện ra “chân lý”, cái gọi
là chân lý mang tính “khoa học” đó đã được Mao Trạch Đông bùa phép cho tham
vọng cá nhân và chủ nghĩa dân tộc - biến Trung Hoa thành một chảo
dầu sôi. Trãi qua bao biến động của đất nước, Lý Nhuệ thấm thía nhận
ra điều cay đắng: “Tính vô lý của lịch sử đã tàn nhẫn dìm chết sinh mạng
con người, khiến tôi thể nghiệm sâu sắc rằng lịch sử vô lý nhất lại được
tạo ra từ nhân loại có lý tính nhất, con người tự tạo ra cảnh khốn
cùng không thể giải thoát của chính mình. Đó là một bi kịch lớn, một nỗi
đau vô cùng tận”. (9) Đó còn là sự vô lý trong cách mà mỗi con người lao theo
cái ác với toàn bộ ý chí một cách tự nguyện. Lưu Quang Đệ, nhân danh bước đi của lịch sử vì quyền lợi
của giai cấp vô sản đạp lên tình nhà hủy hoại giá trị truyền thống Trung Quốc, xung
phong bắn phát súng đầu tiên vào ông trẻ của anh là Lý Nãi Kính- được coi
là phần tử “phản cách mạng”. Tại sao Lưu Quang Đệ người cháu ruột phải tỏ
ra hồ hởi ra tay đối với chính người họ hàng của mình. Người thân tự tay giết
người thân - người Trung Quốc giết người Trung Quốc, nhân danh tư tưởng đấu
tranh giai cấp được du nhập từ phương Tây. Lý Diên An con gái Lý Nãi Chi, một cô gái xinh đẹp, giới
trí thức thành phố. Xung phong ghi tên lên vùng núi Thiểm Bắc để “trở thành
một điển hình”. Cô quyết “làm cho người lấm bùn đất, tay thành chai” để
thay đổi thịt da xương cốt, cải tạo bản thân. Phân rõ ranh giới với bố là một
Thứ trưởng. Tình nguyện lấy Lệch một nông dân chăn cừu, không biết chữ, cả
đời không tắm, hôi thối bẩn thỉu - cốt sao để thế hệ sau của mình là thành
phần nông dân ưu tú của cách mạng như lời Mao chủ tịch: “Sạch sẽ
nhất là công nhân và nông dân, cho dù tay họ đen bẩn, chân họ giẫm vào phân
bò thì vẫn còn sạch hơn giai cấp tư sản, tiểu tư sản và cả trí thức nữa”.
Khi nghe tin mẹ chết, cha chết cô không về thăm, không chịu để tang. Diên
An thản nhiên lý lẽ: “là đảng viên không làm điều lạc hậu, không để chuyện
này ảnh hưởng đến công tác cách mạng xây dựng đồng ruộng Đại Trại của
đội, hơn nữa đã phân rõ ranh giới với gia đình rồi, không về.” Một người ngu dốt như Lệch còn biết: “Người
nhà quê rất xem trọng hai người: người sinh ra mình, người mình sinh ra.
Cha mẹ chết mà không để tang chẳng hóa ra súc vật hay sao?” Tại sao một trí thức có học vấn như Diên An lại không hiểu
đạo đức tối thiểu của một con người? Tất cả sản phẩm đó chính là hậu quả giáo dục con người mới
xã hội chủ nghĩa của Mao Trạch Đông. Dưới thời Mao chủ tịch mọi giá trị
truyền thống Khổng - Mạnh (10) tốt đẹp của Trung Hoa đều bị đào tận gốc, trốc
tận rễ, thay vào đó là tham vọng cá nhân và chủ nghĩa cơ hội. Những con người
như Lưu Quang Đệ, Lý Diên An không phải là cá biệt, giai đoạn đó những người
như họ là phổ quát (11) - họ sẵn sàng phá bỏ những vật cản, ngăn trở bước
đường tương lai của họ, cho dù đó là cha mẹ, vợ chồng, anh em dòng họ. Tất
cả những điều đó đã tạo ra một “xã hội mất gốc” đạo đức cổ truyền bị chà đạp,
nhân phẩm con người suy đồi và tha hóa đến mức “Không có một công thức đạo
đức giản dị nào mà nhà trường có thể chuyển tải”. (12) Chính tác giả Lý Nhuệ
cũng từng nhìn nhận: “Nửa thế kỷ trở lại đây, truyền thống văn hóa Trung Quốc
bị tan rã khủng khiếp và thất bại thảm hại (...)... Tôi cảm nhận được nỗi
khổ về tinh thần của người Trung Quốc, và tôi dùng tiểu thuyết để biểu thị
nỗi khổ ấy” (13) Chốn xưa mổ xẻ mọi ung nhọt của chủ nghĩa Mao một
cách thẳng thừng. Tác giả vạch rõ bản chất thật của những ngụy
tín, hư ảo, sự ngu dốt của một thể chế đã phá nát nền tảng đạo đức của một
đất nước, giết chết tâm hồn bao thế hệ, hậu quả di hại đến tương lai đời
sau. Bút pháp nghệ thuật và quan niệm sáng tác. Với bút pháp lạnh lùng, bạo liệt, Lý Nhuệ vạch trần tường
tận xã hội tàn bạo mà ông từng sống một cách không khoan nhượng: từ đầu đến
cuối tác phẩm toàn là máu người. Mở đầu bằng những cái chết của 108 phần tử
phản cách mạng, óc bắn tung trắng xóa điểm “lốm đốm trắng đỏ như sương mùa
thu” trên bức tường đá; cuộc thảm sát 3.800 nông dân bạo động, người bị bắn
người bị chặt đầu, máu nhuộm đỏ dòng Ngân Khê, 57 đảng viên cộng sản bị
chém và bị bêu đầu ở cổng thành khắp năm huyện suốt một năm ròng, bêu
cho đến khi thịt nát tóc rụng biến thành những cái xương sọ; 10 đội viên
xích vệ nông dân bị trói vào cột gỗ, biến thành mười đống lửa kêu gào
thảm thiết...hai hôm sau, có người còn thấy mười cái thi thể cháy dở co
rúm, run rẩy trên những cọc gỗ cháy đen. Hãy xem tác giả miêu tả cái chết của đội trưởng Xích vệ
Trần Cẩu Nhi và cái chết của thầy giáo Triệu Bá Nho với lối miêu tả tương
phản gay gắt: Trần Cẩu Nhi lãnh đạo đội Xích vệ nông dân bị lột sạch
quần áo, bị trói vào cọc gỗ, đao phủ cắt bộ phận sinh thực rõ to “đã từng
được thưởng thức vô số các bà các cô khắp năm huyện” khi đội Xích vệ tạm thời
chiếm được thành địa phương - Chỉ mới mấy tháng trước những người nông dân
đời đời kiếp kiếp đói nghèo đón chào bạo động tưng bừng như đón Tết, Trần Cẩu
Nhi như hung thần cầm lưỡi hái, đi đến đâu chém sạch đến đấy, “có rất nhiều
đầu người đỏ máu buộc dây treo lủng lẳng, giống như đèn lồng treo khắp đường
làng ngõ xóm vào mỗi dịp Tết đón xuân” - Cẩu Nhi mất cái của đàn ông, máu
chảy đầm đìa, mắt nhìn miếng thịt không còn dùng được nữa bị vứt ra kia,
anh ta kêu gào chửi bới...tiếng gào khản đặc, vỡ vụn không còn ra tiếng gào
của con người. Tên đao phủ lại cắt lưỡi Cẩu Nhi, Cẩu Nhi không nói được nữa,
vẫn trừng mắt, giãy giụa trên cái cọc gỗ, miệng phun từng búng máu –anh ta
vẫn đang chửi, vẫn giãy giụa, cho đến khi tên đao phủ cầm trái tim còn nóng
trên tay mới đột ngột dừng lại. Chỉ trong khoảnh khắc, tất cả mọi người có
mặt tại hiện trường đều kinh ngạc, kẻ giết người và người xem giết người đều Thầy giáo Triệu Bá Nho bước lên đoạn đầu đài, mặc áo
dài, cái kính vẫn trên sống mũi, vẫn giản dị, nho nhã, dáng vẻ ung dung,
bình tĩnh như mọi khi, thầy vuốt mái tóc rũ xuống trước mặt, lộ rõ khuôn mặt
tiều tụy và nhợt nhạt của kẻ thất bại. Thầy chỉ vào biển người xem ông bị
hành hình, nói: Không thể giết hết quần chúng lao khổ! Không thể giết
hết những người cộng sản!;... Hãy nhìn thế giới ngày mai, phải là thế giới
cờ đỏ! Tiếp theo, ba tên đao phủ nắm chặt hai cánh tay thầy giáo đẩy thầy nằm
trên một thớt gỗ vừa to vừa bẩn, một tên giơ cao lưỡi búa to bản, chỉ
nghe thấy một tiếp phập, chém phăng cái đầu chứa đầy kiến thức và lý tưởng,
chứa đầy chủ nghĩa và chân lý, chứa đầy những câu thơ và ý nghĩ cháy bỏng. (tr
20-21) Lối viết tương phản, mang tính tượng trưng cao, còn thể
hiện ở cái chết về mặt thể xác của Lý Tử Hận và cái chết về mặt tinh thần của
Lý Diên An. Cái chết của Tử Hận là sự kết thúc của một giai đoạn lịch
sử đã qua , nhưng giá trị tinh thần nhân văn của nó vẫn mãi trường tồn. Tử
Hận chết nhưng “đức hy sinh” của cô vẫn là tấm gương đẹp cho người đời sau:
“Hàng xóm nói, khi họ phá cửa vào thì thấy bộ xương nằm trên cái
giường gỗ đàn hương có chạm khắc hoa văn, ruồi nhặng ào ào bay ra cửa, ruồi
nhặng đen đặc, tưởng chừng xô ngã cả người.(…)… Tất cả vô cùng ngạc nhiên
phát hiện, thi thể bà Sáu trong trang phục đẹp như cô dâu về nhà chồng.
Xung quanh bà toàn lụa là gấm vóc, những tấm gấm hoa do bàn tay bà tự thêu.
Mọi người cùng nín thở, lặng lẽ nhìn bộ xương được bọc trong gấm vóc, cùng
nghĩ đến người đàn bà có một không hai ở Ngân Thành này. Không ai biết bà
chết từ lúc nào, cũng không ai biết bà chết trong đau khổ hay sướng vui,
càng không ai biết tại sao bà lại tô điểm cho cái chết đẹp như thế, khiến họ
phải kinh ngạc và sợ hãi”. Đến đây, người đọc tinh tế sẽ liên tưởng ngay
đến hình ảnh Lý Tử Hận hàng ngày ngồi bên khung cửa thêu những tấm gấm hoa
rực rỡ, tấm áo cô dâu mà bất cứ người con gái nào cũng ao ước được một lần
mặc trong đời. Thì ra, tuy đã tự mình dùng một bó nhang đang cháy đỏ
đâm vào mặt, hủy hoại nhan sắc để cả đời không nghĩ đến
chuyện lấy chồng, cho hai em toàn tâm toàn ý ăn học, nhưng trong sâu thẳm
tâm hồn Lý Tử Hận vẫn luôn ước mơ về hạnh phúc riêng tư, điều này càng làm
tăng thêm ý nghĩa đẹp đẽ của sự hy sinh đó. Ước mơ “mặc áo cô
dâu trong ngày cưới” đã được nàng thực hiện khi chết. Qua đó, người đọc
càng thấm thía hơn sự chịu đựng âm thầm của Tử Hận suốt những tháng năm
dài. Lẽ tự nhiên, bất cứ người con gái nào, sắc đẹp cũng là điều quan trọng
nhất, có ai dám tự hủy hoại dung nhan xinh đẹp của mình? thế mà Tử Hận đã
làm. Tôi nghĩ, tác giả Lý Nhuệ đã phải dụng công rất nhiều cho sự hy sinh
“rất đẹp” này ngay từ những hình ảnh đầu tiên, người đọc tưởng chừng bình
thường nhưng lại ẩn nhiều hàm ý - trong cái chết mục rửa về mặt thể
xác ấy - lại sáng bừng lên một tâm hồn cao cả. Ngược lại với Lý Tử Hận là cái chết về mặt linh hồn của
Lý Diên An (14). Đêm hợp hôn của Diên An và Lệch chính là đêm Diên An tự giết
linh hồn mình. Nhà văn Lý Nhuệ đã rất tài tình khi miêu tả đám cưới và “đêm
động phòng” có một không hai này, vì nó quá đặc biệt. Lần đầu tiên gặp Lệch, biết là anh chăn cừu,
không biết chữ, thành phần bần cố nông thứ thiệt, hôm sau Diên An chủ động
gặp và đề nghị cưới nhau để được… báo chí đưa tin “điển hình”. “Sau khi nhận
giấy đăng ký kết hôn, Diên An đưa Lệch mười đồng và bộ đồ mới, nói Lệch đến
nhà tắm công cộng tắm. Lệch vui lắm, mặt đỏ bừng vì cả đời Lệch chưa tắm
bao giờ. (15) Lệch đến nơi thì nhà tắm đang sửa chữa, tạm nghỉ. Đành lặn lội
về thôn, bộ đồ mới vẫn kẹp nách vì biết rằng đây là bộ đồ động phòng. Hôn lễ
đúng như Diên An nói, cách mạng hóa. Cô dâu chú rể cúc cung bái lạy Mao chủ
tịch ba lạy, đọc hai đoạn lời dạy của Người, sau đấy ông bí thư nói: hai
người hát bài Đông phương hồng. Hát xong, ông bí thư sốt ruột, vỗ
tay: Xong rồi, nhập phòng đi thôi. Phòng ở là một cái hang khoét
trong lòng đất trên cao nguyên hoàng thổ, tối đen. Cho đến khi ăn cơm tối
xong, thắp đèn, trải giường trải chiếu. Lệch đành thú nhận chưa tắm được,
xin lỗi vợ nếu mình sợ bẩn để tôi nấu chút nước rửa qua. Nhưng
chậu nước nhỏ chỉ mới rửa được nửa thân trên. “Khi Diên An đẩy cửa bước
vào, Lệch vội lấy tay che nửa người dưới, anh ta nói …Mình…Diên An ngước
lên, rồi vội nhắm mắt lại. Cô không ngờ Lệch to khỏe và bẩn đến thế. Lệch
nói: Mình xem, nửa chậu nước không đủ…Diên An đi sâu vào trong hang,
thổi tắt đèn, lập tức bóng tối bao trùm như trong huyệt mộ bịt kín. Trong
bóng tối dày dặc, Diên An cởi bỏ từng chiếc áo quần rồi nói: Em quyết
làm việc này đến cùng”. Nhưng khi cái cơ thể to khỏe và rắn chắc bao bọc bởi
hơi đàn ông và mùi gây của cừu dê đè xuống, Diên An đau như bị dao đâm,
cô đẩy, đánh, kêu la, giãy giụa.(…) Thế nhưng, sáng hôm sau cô nhìn Lệch
và nói: Em nghĩ kỹ rồi, em sẽ làm việc này đến cùng.” Tôi nghĩ, Lý Nhuệ đã cố tình miêu tả “chuyện ấy” diễn
ra trong một hang sâu trong lòng đất, tối đen như huyệt mộ, làm
người đọc liên tưởng đến hành động của những động vật cấp thấp. Đối với người con gái, điều thiêng liêng nhất là sự trong
trắng. Bất cứ cô gái nào cũng mong muốn dâng hiến sự trong trắng của mình
cho người đàn ông mà mình yêu thương, quý trọng. Thế nhưng, Diên An đã làm
gì cuộc đời cô? Tôi nghĩ rằng giây phút hợp hôn chính là giây phút linh hồn
cô đã chấm dứt, chính cô là người chủ động giết chết linh hồn mình. Thế nhưng, đọc kỹ lại trường đoạn đám cưới, có điều
gì đó bi thảm hơn ẩn sâu từ ngữ lạnh lùng của tác giả, tôi phân vân: có thật
Diên An không yêu quý tấm thân trong trắng của mình, có thật cô
không hối tiếc khi tự dâng hiến đời mình cho một người đàn ông dơ bẩn, ngu
dốt mà cô không hề yêu thương? Tôi không tin, bởi hình ảnh: “… dòng
nước mắt trào ra nóng hổi, rơi lã chã trong đêm đông vắng lặng năm 1969”
khi cô đứng ngoài hang chờ Lệch tắm? Tại sao cô phải cắn răng âm thầm khóc?
Có điều gì đó còn kinh khủng hơn nếu không bằng mọi cách được là người “bần
cố nông”. Đó chính là lời tố cáo khủng khiếp nhất về một thể chế đã
biến con người sống không ra sống, chết không ra chết, hành động như một cỗ
máy. Người xưa nói lịch sử tạo tính cách, quả không sai.
Con người làm sao thoát nỗi dòng chảy của lịch sử. Chính lối miêu tả lạnh lùng, tương phản này đã gây hiệu ứng
cảm xúc mạnh cho độc giả, tăng tính bạo liệt của sự việc. Bên cạnh đó, Chốn xưa có nhiều trường đoạn miêu
tả lắng đọng như cảnh Thư ốc Trời Xanh tại Cửu Tư Đường của dòng
họ Lý, hay vẻ thơ mộng và hùng tráng của dòng Ngân Khê xanh thẫm. Đặc biệt,
trường đoạn mô tả nghề làm muối tại thành phố Ngân Thành vừa hoành tráng vừa
bi thương: “Hai bờ sông Ngân Khê là những giá ròng rọc sừng sững, những đường
ống dẫn muối dọc ngang, thuyền mua muối cắm sào đậu san sát nơi bến sông,
nghe thấy điệu hát kéo xe quặn lòng của những người công nhân chở muối. Một
trăm tám mươi đàn ông, vai gùi nặng, người cúi rạp đi về phía trước như những
con ngựa thồ hàng. Theo tiết tấu bài hát, nước muối từ dưới sâu hơn trăm
trượng múc lên mặt đất. Điệu hát bắt nguồn từ những gùi muối trên lưng tạo
nên sức mạnh lay động lòng người. Ngồi bên xe lĩnh xướng là chị em được
thuê ở viện Phù dung và lầu Hoa đào, việc các cô làm được gọi là “ngồi mâm
xe”. Những ngày nắng nóng, các cô ngồi mâm xe để lộ bờ vai tròn lẳn và cặp
đùi trắng nõn. Có lúc để an ủi những “ngựa” ở càng xe, chị em cất giọng thỏ
thẻ hát điệu “khúc bài” hoặc điệu “áo hồng loan” hoặc “chuồn chuồn ngọc”,
hát những bài mà các cô không làm nổi và vĩnh viễn không bao giờ làm nổi: Từ
nay đoạn tuyệt lại qua/Khóa lầu ngọc, tẩy phấn son, không làm con hát/ Lấy
anh bán rau cùng vui cuộc sống/ Bỏ mặc chuyện người, chuyên việc mình tôi”
( tr 95-96) Với phương pháp lập đi lập lại sự kiện và các mốc thời
gian: cuộc bạo động của nông dân 5 huyện thuộc Ngân Thành tháng 12 năm
1927: 3.800 nông dân bị bắn chết, 57 đảng viên bị chém bêu đầu, 57 bộ xương
sọ; vào tiết sương giáng năm 1951: 108 người bị hành hình, 32 người đàn ông
nhà họ Lý... quá khứ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Chốn xưa như
một vòng xoáy sai lầm, tạo ám ảnh về tính vô lý của lịch sử, khiến độc giả
bị day dứt không thể nào quên. Ngoài ra, Lý Nhuệ thường sử dụng tài tình thủ pháp đồng
hiện của điện ảnh. Trong cùng một thời gian tác giả miêu tả nhiều sự việc xảy
ra cùng một lúc ở nhiều không gian cách xa nhau, nhằm mở rộng tầm nhìn bao
quát cho độc giả. Chỉ trong một tích tắt Lý Nhuệ đã đưa người đọc đi từ
Ngân Thành đến Bắc Kinh rồi sang Đài Loan, qua những thước phim ngoạn mục:
“Vào lúc óc của ba mươi hai người đàn ông dòng họ Lý dính đầy bức tường,
Lý Tử Hận ngất trong căn nhà trống rỗng, Lý Nãi Chi cưỡi trên chiếc máy kéo
Staline 55 chạy băng băng trên cánh đồng phì nhiêu và Lý Kinh Sinh oa oa
chào đời, nhà họ Lý chỉ còn một người mặc tang phục kêu khóc thảm thiết, đó
là Lý Tử Vân, chị ba của Lý Nãi Chi. Nhưng Tử Vân không khóc vì gia đình họ
Lý mà khóc chồng là tướng Dương Sở Hùng, khóc vì chồng chết ở nơi đất khách
quê người mà lễ truy điệu có long trọng đến mấy cũng không thay đổi số trời
định” (tr 12) Lý Nhuệ là nhà văn có lối viết cổ điển, ông viết theo sự
dẫn dắt của nội tâm. Mặc dù sau này tác giả vẫn chưa ưng ý về mặt
hình thức nhưng với tôi, chính vì không áp dụng nhiều kỹ thuật Chốn xưa mang
vẻ đẹp giản dị, tự nhiên của người viết lần đầu mà mọi dồn nén bấy lâu được
thỏa sức tuôn trào. Trong một lần phỏng vấn, người ta hỏi ông: “Ông có bị ảnh
hưởng thủ pháp kể chuyện (tự thuật) của Borges (16), nhất là cách vận dụng
thời gian và không gian? Lý Nhuệ trả lời: “Không biết tôi có bị ảnh hưởng của
Borges hay không. Cứ theo lòng mình để suy ra, tôi vẫn chưa bằng lòng về sự
cố gắng của mình đối với hình thức của Chốn xưa. Tôi vẫn nghĩ, về hình thức
nên chăng đi xa hơn nữa?...Xa “tả thực” hơn, gần ngụ ngôn và “tả ý”
hơn....( ) Nhưng tôi cho rằng, hình thức tuyệt nhiên không phải là một thứ
thao tác mang tính kĩ thuật bề ngoài, hình thức phải tuôn trào rất tự nhiên
và chân thành từ trong thế giới nội tâm nhà văn, ở đấy, bất cứ một chút làm
dáng hoặc lên gân nào cũng sẽ chôn vùi bản thân tác phẩm và tác giả. Thời đại
chúng ta rất dễ bị “thời thượng” nhận chìm, thà rằng tôi tin ở nội tâm và
tình cảm mình.” (17) Đánh giá ngòi bút Lý Nhuệ, nhà phê bình Vương Trí Nhàn viết:
“... Lý Nhuệ gợi lại ấn tượng về một dòng văn xuôi có cái chất sang trọng,
quý phái... Điều mà người ta cần nhớ từ trường hợp Lý Nhuệ, đó là mỗi ngòi
bút phải giữ riêng lấy sự đơn độc tinh thần, không theo đuôi, không bầy
đàn, việc đi tìm cái mới không phải là một trò chơi trội mà cũng thiêng
liêng và đầy thách thức như mọi việc khác của đời sống” (18) Thật vậy, với văn phong mãnh liệt pha trộn cổ điển và hiện
đại, văn ông mang nặng chiều sâu, với lối viết tương phản, tưởng chừng bình
dị nhưng từng chi tiết đều có dụng ý, mang đầy tính tượng trưng hàm nghĩa
bao quát, sâu rộng. Chốn xưa phảng phất thơ Đường, mang phong vị
cổ điển. Điểm xuyết trong tác phẩm là những hoành phi, câu đối, thơ Đường của
Tô Thức, bút tích của Tô Đông Pha. Chỉ trong 347 trang, Chốn xưa đã phản ánh chiều
dài lịch sử Trung Hoa cận đại đầy khốc liệt. Bằng cách biểu tượng hóa các
giá trị và lực lượng xã hội thành những con người và sự việc cụ thể, với lối
viết không gian đồng hiện, thời gian lịch đại xếp chồng, lịch sử đã được dồn
nén tối đa, có khi chỉ trong một trang ông đã nén lại cả chiều dài nhiều thập
kỷ.( 19) Đồng thời, kỹ thuật thể hiện tương phản giúp chuyển tải được đầy đủ
tính khốc liệt của lịch sử, qua đó cho thấy thái độ quyết liệt không khoan
nhượng của tác giả , chính những điều này đã làm nên thành công lớn của tác
phẩm. Đọc Chốn xưa người đọc có cảm tưởng như có hai
nước Trung Hoa, một Trung Hoa đầy tính nhân văn đáng kính và một Trung Hoa
bạo liệt, thổ phỉ. Phải chăng đất nước rộng lớn này kết hợp cả hai nền văn
minh lúa nước và du mục nên đã sản sinh ra một Trung Hoa đầy mâu thuẫn. Ấn tượng lớn nhất sau khi đọc Chốn xưa, không phải
là bi kịch của từng cá nhân mà là bức tranh toàn cảnh - LỊCH SỬ
- lịch sử vô lý là nhân vật chính trong tiểu thuyết của ông. Nói như Vương Trí Nhàn, trong khi miêu tả lịch sử, Lý Nhuệ
đã mang lại cho nó một “bộ mặt người”. Chốn xưa giúp người đọc hiểu rỏ về một thời đại lịch
sử đã qua, từ đó giúp chúng ta tránh lập lại những sai lầm của lịch sử.
Chúng ta hiểu quá khứ để sống cho hiện tại và hướng đến tương lai. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng cảnh báo những nguy
cơ tiềm ẩn của chủ nghĩa dân tộc cực đoan phục vụ cho các ý đồ
chính trị bành trướng nhất thời của một thể chế, nguy hại không
chỉ cho dân tộc Trung Hoa mà cho cả các dân tộc khác.(20) Những thế hệ như
Lý Diên An, như Lưu Quang Đệ vẫn còn, và tác hại của nó sẽ khôn lường. Nhưng tôi hy vọng, với một dân tộc đã từng có nền
văn minh rực rỡ khiến cả nhân loại phải kính ngưỡng, Trung Hoa sẽ biết cách
vượt qua những giới hạn để phát triển trên tinh thần nhân văn cao đẹp, phù
hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại. Thật vậy, không phải ngẫu
nhiên trong đêm khai mạc Thế vận hội Olympic Bắc Kinh 2008, đạo
diễn Trương Nghệ Mưu đã cố tình trình diễn cho thế giới biết tinh thần của
dân tộc Trung Hoa qua chữ “HÒA” và học thuyết KHỔNG – MẠNH chính
thức được khôi phục và đề cao sau hơn 50 năm bị chà đạp.(21) Với tác phẩm Chốn xưa, Lý Nhuệ chứng tỏ là một
nhà văn tự do, bản lĩnh, ngòi bút ông không quỵ lụy quyền lực, không kỵ húy
lịch sử, ông viết theo tiếng gọi của con tim, như lời ông nói: “Tôi rất
ghét cái lịch sử vô lý, ghét cay ghét đắng cái lịch sử vì “mục đích hợp lý”
mà giết người hợp lý. Có lẽ đó là di sản văn hóa? Nghe đã quá nhiều những
lời bịp bợm thiêng liêng... Cái gọi là “lịch sử khách quan chân thực” chớp
mắt trở thành những lời dối trá. Tất cả những lời dối trá đều coi thường
sinh mạng con người. Tôi muốn vớt những sinh mạng bị chết sặc bởi những
lời dối trá lên cho mọi người xem...” (22) Xin mượn lời của Lý Nhuệ để kết thúc bài viết này: “Xưa
nay, sự tồn tại của văn học chưa bao giờ giảm bớt nỗi khổ dù chỉ một chút
xíu, nhưng sự tồn tại của văn học luôn chứng minh sự tàn nhẫn của áp bức
bóc lột, luôn chứng minh cái giá của những sinh mạng bị đọa đày đau khổ,
luôn chứng minh nỗi buồn của con người tự trói mình, luôn chứng minh con
người nên được hạnh phúc tự do”. (23) Ghi chú: Bài viết đã đăng trên Tạp chí Hợp Lưu số 100
tháng 5&6/2008, California Hoa Kỳ, tác giả đăng lại có bổ sung. Chú thích: 1. Lý Nhuệ, Chốn xưa, (Sơn Lê dịch), nxb
Hội nhà văn, 2007. Trả lời thư phỏng vấn của bà Lương Lệ Phương, Tiến sĩ,
Giáo sư khoa Ngôn Ngữ Đông Á, Đại học Alberta - Canada, in trong
phần phụ lục Chốn xưa, tr 358-359. 2. Trên Evan, Hoàng Mai cho rằng “Chốn xưa” là
câu chuyện kể về những mối tình. http://evan.vnexpress.net/ Minh Tuệ, Chốn xưa và nỗi đau ám ảnh http://www.vtc.vn/; Vân Anh, Chốn xưa một cuốn
sách đáng kinh ngạc nhất về Trung Quốc (http://www.laodong.com.vn/ 3. Vương Trí Nhàn, Đề tài lịch sử cảm hứng
hiện đại, in trong phần phụ lục Ngân thành cố sự, nxb Hội
nhà văn, 2007, tr 341-355 4. Bối cảnh lịch sử Trung Hoa thế kỷ 20, xem
tài liệu: Lịch sử Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; Cách mạng văn hóa Trung
quốc; Mao Trạch Đông, nguồn: vi.wikipedia.org; 5. Mao Trạch Đông cuộc đời chính trị và tình dục,
nguyên tác Hoa ngữ: Mao Trạch Đông, tư nhân bác sĩ hồi ký lục, bản tiếng
Anh: The private life of Chairman Mao, tác giả Bác sĩ Lý Chí Thỏa, Trần
Trung Đạo trích lược dịch theo bản tiếng Anh có đối chiếu với nguyên tác
Hoa ngữ, nguồn: http://www.uvyd.com/ 6. Tổng kết thời kỳ này trong lời tựa tác phẩm “Mao
Trạch Đông - ngàn năm công tội của Tân Tử Lăng, hai tập 700 trang, Nhà
xuất bản Thư tác Phường, Hồng Kông ngày 2 tháng 8 năm 2007), viết: “Lời kết thúc” cuốn sách này chỉ rõ: “Nhảy vọt lớn và Đại
Cách mạng Văn hóa Vô sản là sự phát triển ác tính của chủ nghĩa xã hội bạo
lực Mao Trạch Đông. Ba năm nhảy vọt lớn, cả nước có 37,55 triệu người bị chết
đói. Tổn thất khoảng 320 tỷ NDT. Mười năm Cách mạng Văn hóa, theo cách nói
của Diệp Kiếm Anh tại lễ bế mạc hội nghị công tác trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc tháng 12 năm 1978 là đã chỉnh 100 triệu người, làm chết 20 triệu
người, lãng phí 800 tỷ NDT, nếu cộng thêm tổn thất thu nhập quốc dân là 500
tỷ NDT do Lý Tiên Niệm nói (tại hội nghị kế hoạch toàn quốc ngày 20 tháng
12 năm 1977) thì lãng phí và giảm thu tất cả là 1300 tỷ NDT. Từ lúc Trung
Quốc thành lập tới lúc Mao Trạch Đông chết, không có nội chiến, không có
thiên tai lớn, số người chết không bình thường lên tới trên 57,55 triệu người,
tổn thất kinh tế là 1400 tỷ NDT. Trong gần 30 năm ấy tổng mức đầu tư cho
xây dựng cơ bản nhà nước là 650 tỷ NDT. Hai lần phá đi làm lại lớn đó đã gấp
hơn hai lần tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản của nước ta trong 30 năm đầu.
Có nghĩa là nói, những đồng tiền vốn quí báu vốn có thể dùng để xây dựng đất
nước cải thiện đời sống nhân dân đã có tới trên 2/3 bị Mao Trạch Đông phá
đi làm lại mất sạch. Đó là bản kê tổng thành tích lấy đấu tranh giai cấp
làm cương lĩnh xây dựng đất nước của Mao Trạch Đông. Lấy “bản kê tổng thành
tích” này làm căn cứ, kết luận của tác giả là: sai lầm của Mao lớn hơn công
lao, phải là tội bẩy công ba, nhà cách mạng vĩ đại, nhà xây dựng thất bại. (Nguồn: Talawas, 27.5.2008 Lý Nhuệ, Công lao hơn đời,
tội ác tày trời) 7. Xem Cách mạng văn hóa Trung Quốc 1966, nguồn:
huongv.wordpress.com/ 8. Trả lời thư phỏng vấn của bà Lương Lệ
Phương, sdd, tr 362-366. 9. Lý Nhuệ, Ngân thành cố sự, (Trần Đình
Hiến dịch), Nxb Hội nhà văn, 2007. Chung Hồng Minh phỏng vấn Lý Nhuệ,
in trong phần phụ lục Ngân thành cố sự, tr 331. 10. Học thuyết Khổng Mạnh, Xem tài liệu về Nho
giáo: http://vi.wikipedia.org/ 11. “Phổ quát” vì không những ở Trung Hoa, mà
còn ở những nước có thể chế tương đồng như Việt Nam. 12. Angus Foster, Đi tìm bản chất Trung Hoa hiện đại,
BBC News, ngày 3.6.2008 “… Khổng giáo bị Đảng Cộng sản phế bỏ từ sau năm 1949.
Nhưng trong hai thập niên vừa rồi, tại đây nảy sinh ‘cơn sốt quốc học’. Nhà
nghiên cứu - ngôi sao Vu Đan trở nên nổi tiếng với cuốn sách về Luận ngữ,
bán được hơn 10 triệu bản. Có thật nhiều nguyên nhân. Những thế hệ mới muốn hiểu
về quá khứ, một số người lo ngại đang có khoảng trống đạo đức sau khi chủ
nghĩa cộng sản bị kinh tế thị trường thay thế. Và tăng trưởng kinh tế dẫn tới
biến động xã hội, buộc hàng triệu người phải bỏ thôn quê đi tìm việc. Theo giáo sư Spence, “đây là một xã hội khá mất gốc, tiêu
biểu là khoảng 100 triệu người di cư tìm việc. Không có một công thức đạo đức
giản dị nào mà nhà trường có thể chuyển tải.” “Nhìn theo cách này, Khổng Tử có thể lấp đầy khoảng trống,
và người ta có thể bơm vào nhiều điều khác nhau để đáp ứng nhu cầu.” 13. Chung Hồng Minh phỏng vấn Lý Nhuệ, sdd,
tr 333 14. Nhân vật Diên An lấy tên từ địa danh Diên
An một cao nguyên hoàng thổ nghèo của Trung Quốc, cái nôi của Cách mạng,
đây là căn cứ của Cách mạng Trung Quốc từ 1937 đến 1947. Bởi vậy nói đến
Diên An người ta liên tưởng ngay đến thánh địa cách mạng.
Xem tài liệu: http://vietbao.vn/ 15. Chi tiết “Lệch chưa bao giờ tắm” và khi “rửa
mới nửa thân trên đã hết nước” trước đêm động phòng, hình ảnh này quá đặc
biệt, khiến bất cứ người đọc nào am tường “thâm cung bí sử” lịch
sử đương đại Trung Quốc đều liên tưởng ngay đến hình ảnh Mao chủ tịch không
bao giờ tắm, ông ta chỉ dùng khăn nhúng nước ấm lau mình và đặc biệt không
bao giờ rửa bộ phận của đàn ông. Tôi tin rằng nhà văn Lý Nhuệ đã
cố tình “cài bẫy” chi tiết này một cách rất thông minh. (Theo hồi ký của
Bác sĩ Lý Chí Thỏa, “Mao Trạch Đông - cuộc đời chính trị và tình dục”, bác
sĩ riêng của Mao Trạch Đông viết: “…Với một đời sống tình dục quá độ như
Mao, việc nhiễm bịnh phong tình, hoa liễu là một việc không thể nào tránh
khỏi… Tôi muốn Mao tạm ngưng việc làm tình một thời gian. Mao chống chế cho
rằng vì là bác sĩ, tôi có vẽ trầm trọng hóa vấn đề chứ bản thân y có cảm thấy
đau đớn gì đâu… Tôi đề nghị với Mao rằng ít nhất ông ta cũng phải cho phép
rửa sạch bộ phận đàn ông của y. Hàng đêm các cán bộ phục vụ vẫn lau người y
bằng khăn tẩm nước nóng, Mao chưa hề thật sự tắm rửa. Bộ phận đàn ông của
Mao chưa bao giờ được lau cho sạch. Mao bắt bẻ "tôi rửa bộ phận của
tôi bên trong cơ thể của đàn bà". Nghe Mao nói tôi muốn ói mửa. Sự
khoái lạc xác thịt của Mao vượt khỏi sự chịu đựng của tôi. Mặc dù tôi cố gắng
vẫn không làm sao ngăn chận được căn bịnh nơi Mao, ông ta mang căn bịnh này
cho đến ngày cuối cùng trong cuộc đời”. (Trích chương 12. “Những cách ham
mê xác thịt kỳ dị của Mao”) http://www.uvyd.com/ 16. Jorge Luis Borges (1899-1986) nhà văn Argentina, người
mở đầu trào lưu tiểu thuyết siêu thực tại Argentina, truyện của ông pha lẫn
hiện thực và mộng ảo, hiện tại và dĩ vãng, thời gian và không gian xa xôi,
không rõ rệt. (theo Từ điển tác gia văn học nước ngoài - Hữu Ngọc). 17. Trả lời thư phỏng vấn của bà Lương Lệ
Phương, sdd, tr 361-362 18. Vương Trí Nhàn, Đề tài lịch sử cảm hứng
hiện đại, sdd 19. Từ đoạn “Vào lúc óc của ba mươi hai người… lòng chợt buồn
vô hạn” (Chốn xưa, tr 12-13) 20. Trung Quốc có thể hướng tới chủ nghĩa phát xít một kiểu
"độc tài với đặc tính chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ".(Nguồn: Tạp
chí Kinh tế Viễn Đông, tháng 6/2008. Bản tiếng Việt của Thông tấn
Xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt số 154-TTX, thứ Hai ngày
7/7/08, tr. 18-23). Talawas in lại, với tựa đề: Trận động đất ở Tứ Xuyên và
công cuộc cải tổ của Trung Quốc, ngày 19.7.2008. 21. Tuy nhiên, tôi cũng không loại trừ khả năng màn trình
diễn trong đêm khai mạc là ý tưởng sáng tạo của riêng đạo diễn
Trương Nghệ Mưu nói lên ước mơ của nhân dân mình, còn chính quyền
Trung Hoa lợi dụng để chơi trò tiểu xảo, ngụy quân tử trước thế giới, nhằm
đánh bóng đất nước. 22. Chung Hồng Minh phỏng vấn Lý Nhuệ, sdd,
tr 332 23. Chung Hồng Minh phỏng vấn Lý Nhuệ, sdd,
tr 339.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét