Huyền thoại khúc nghê thường
Lê Hải Đăng
“Khúc Nghê thường” còn có tên gọi đầy đủ là “Nghê thường vũ y
khúc” hay “Nghê thường vũ y vũ”, gọi tắt là Nghê thường. Ở nước ta, “Khúc Nghê
thường” được nhiều người biết đến qua tác phẩm “Thiên Thai” của nhạc sĩ Văn
Cao. Nó xuất hiện trong khổ thơ: “Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm
trần gian. Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần. Thiên Tiên
chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm. Khúc nghê thường này đều cùng múa
vui bầy tiên theo đàn.” Đây có thể coi là khổ thơ hay nhất trong bài “Thiên
Thai” của nhạc sĩ Văn Cao. Toàn bộ “thế giới quan” của tác phẩm đều hiển thị
nơi bốn câu thơ này. Lạc cảnh “hoa xuân chưa gặp bướm trần gian”, “Mùa
đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần” chắc chỉ có ở cõi Tiên, nơi mà
không gian - thời gian chưa phân chia. Và “ Khúc nghê thường” được sử dụng
trong bối cảnh đó. Song, đằng sau sự nổi tiếng của tên gọi Khúc Nghê thường, âm
nhạc, vũ điệu của nó hoàn toàn xa lạ với tất cả chúng ta. Hầu như người thời
nay chưa ai từng nghe qua Khúc nghê thường dù chỉ một lần, thậm chí kể cả tác
giả tuyệt phẩm “Thiên thai” bất hủ. Vì, khúc Nghê thường đã bị thất truyền từ
hơn nghìn năm về trước.
1. Bối cảnh văn hóa đời Đường
Nhà Đường là thời kỳ xán lạn nhất trong lịch sử văn hóa âm nhạc
Trung Quốc. Nhà Đường thống trị quốc gia gần 300 năm, trong thời kỳ đó, tài
lực, vật lực, nhân lực đều tập trung trong tay hoàng thất. Đó là lý do khiến
cho chính quyền Đại Đường có thể triển khai nhiều chính sách đổi mới trên quy
mô lớn, đặc biệt vào hai thời kỳ Khai Nguyên (713 – 740), Thiên Bảo (741 –
755), trên có vị vua anh minh, tài năng xuất chúng và vô cùng yêu thích nghệ
thuật là Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, dưới có những nhạc công tài ba lỗi lạc
như ba anh em nhà Lý Quy Niên, Lý Cổ Niên, Lý Hạc Niên, Hoàng Phan Xước, nhạc
công Lý Thị, đầu đời Đường còn có những nhạc nhân người Hồ: Tào Diệu Đạt, An
Mạt Nhược, An Mã Câu, giữa đời Đường có Bạch Minh Đạt, Vương Trường Thông, cuối
đời Đường có Uy Trì Chương, Lý Khả, Vi Tùng… Nhân tố con người thêm một chiều
kích khác tác động vào việc triển khai chính sách âm nhạc trên diện rộng, từ
quy chế Thái thường tự, Giáo phường, Lê viên… cho đến Mười bộ nhạc, Bốn bộ
nhạc, rồi ngoài chốn dân gian có Kỹ quán, Tửu lầu (phát triển mạnh hơn vào thời
kỳ nhà Tống)… Từ thể chế, hiểu là chính sách đi đến Thiết chế (thiết lập cơ sở
vật chất, tập kết nguồn nhân lực, vật lực) dẫn đến thúc đẩy hoạt động âm nhạc
phát triển. Tới giữa đời Đường, thể chế, thiết chế âm nhạc Đại Đường đi đến
giai đoạn chín muồi, hoàn thiện với quy mô hàng chục cơ quan quản lý, tổ chức
hoạt động biểu diễn nghệ thuật cho đến tổng số nhạc nhân, nhạc kỹ, nhạc sư… lên
tới con số hàng vạn người khiến cho đời sống văn hóa âm nhạc đời Đường cực kỳ
xán lạn.
Nhà Đường còn đánh dấu giai đoạn giao lưu văn hóa mạnh mẽ, các
trào lưu tư tưởng Nho, Phật, Đạo đều có điều kiện truyền bá, đặc biệt Đạo giáo
rất được ưa chuộng. Thời vua Cao Tông (650-683), nhà Đường tự xưng mình là hậu
duệ của Lão Tử (Lý Thị), từng ra lệnh cho nhạc công sáng tác 28 điệu lấy tên là
Pháp khúc Đạo điệu (năm Thiên Bảo thứ 30), cùng với điệu Tiên lữ liên quan tới
Đạo giáo.
Khúc Nghê thường phục hồi
Đến thời hoàng đế Võ Tắc Thiên (690-705), Đạo giáo trở thành quốc
giáo! Võ Tắc Thiên hết mực sùng tín Đạo giáo, bà cho đổi tên hàng loạt cơ quan
âm nhạc, như Phủ Vân Thiều, Phủ Tiên Thiều … đi kèm với nó là những nhạc khúc
mang màu sắc Đạo giáo, như nhạc Vân thiều, Nam thiều, Vân thiều phụng thánh
nhạc…trong phạm trù Pháp khúc.
Thời Huyền Tông, nhà vua đích thân giảng dạy Pháp khúc trong Lê
viên. Đệ tử Lê viên cũng gọi là Đệ tử Hoàng đế Lê viên. Pháp khúc bấy giờ có ý
nghĩa như Chính nhạc, nhưng không phải âm nhạc Phật giáo (Phật khúc) như nhiều
tài liệu ngộ nhận. Trong Pháp khúc có một bộ phận chủ yếu là di sản của Thanh
thương Tam nhạc hay Thanh nhạc đời Hán, như các tác phẩm: Đại bạch trữ, Thập
thị thời, Phiếm long châu, một bộ phận do vua Huyền Tông sáng tác, có: Cảnh
đàn, Cửu chân, Tử cực, Thừa thiên, Thuận thiên, nổi tiếng nhất có đại vũ Nghê
thường vũ y. Và thế giới quan Tiên cảnh ứng với tác phẩm “Thiên Thai” của nhạc
sĩ Văn Cao chính là không khí chủ đạo của tác phẩm này.
2. Xuất xứ tác phẩm
Khúc Nghê thường vốn là một Đại vũ khúc (hay Đại khúc) nổi tiếng
vào thời kỳ nhà Đường (618 – 896), Trung Quốc. Đại khúc hiểu là tác phẩm nghệ
thuật tổng hợp có quy mô lớn viết cho ca, múa và nhạc cụ. Về xuất xứ tác phẩm
có khá nhiều giả thuyết khác nhau.
Thứ nhất, tác phẩm này do vua Đường Huyền Tông Lý Long Cơ sáng
tác.
Thứ hai, theo “Đường hội yếu”, năm Thiên Bảo thứ 13, vua Đường
Huyền Tông cải biên một số nhạc khúc Bà La Môn du nhập từ Tây Vực (hiểu là Ấn
Độ) thành ra Khúc nghê thường.
Thứ ba, Đường Huyền Tông sáng tác nửa đầu tác phẩm, còn nửa sau
cải biên từ chất liệu nhạc khúc Bà La Môn do Tiết độ sứ Hà Tây Dương Kính Thuật
cung hiến.
Trong cả ba giả thuyết trên đều có liên quan tới vua Đường Huyền
Tông Lý Long Cơ. Tương truyền Lý Long Cơ nằm mơ rong chơi cung trăng nghe thấy
tiếng nhạc tiên, các tiên nữ múa trong trang phục sắc màu cầu vồng (Nghê
thường) làm bằng lông chim (Vũ y). Tiếng hát của bày tiên nữ huyền diệu ưu mỹ,
điệu bộ thanh thoát, bay bổng… Sau khi tỉnh giấc, Lý Long Cơ còn nhớ rõ cảnh
tượng trong mộng. Ông muốn chép lại khúc nhạc đó để cho nhạc công diễn tấu cùng
ca nữ múa. Ông dần dần hồi tưởng lại giấc mơ, rồi lần lượt chép lại vũ điệu,
nhạc khúc, thậm chí có lúc thiết triều, Lý Long Cơ còn thủ sẵn một cây Địch
bằng ngọc, vừa nghe các Đại thần bẩm tấu, vừa lén bịt lỗ Địch nhằm dò tìm âm
điệu. Rồi một lần tới trạm Tam Hương, Lý Long Cơ dõi nhìn ra núi Tiên Sơn xa
xăm. Trước cảnh núi non điệp trùng, mây mờ che phủ, ông vua nổi tiếng phong lưu
tài hoa nhất trong lịch sử quân vương Trung Hoa bỗng tức cảnh sinh tình, nhớ
lại toàn bộ cảnh tượng trong mộng ngày trước. Sau khi trở về, ông sáng tác Khúc
Nghê thường với kết cấu của một Đại khúc sử dụng cho cung đình. Nhạc công diễn
tập nhạc khúc, lệnh ái phi Dương Ngọc Hoàn thiết kế phần vũ đạo. Kể từ đó, Khúc
nghê thường chính thức ra đời và chuyên sử dụng trong các nghi thức quan trọng
hoặc yến hưởng (hiểu là tiệc tùng) diễn ra tại cung đình.
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc danh tiếng người Nhật Bản Kishibe
Shigeo trong cuốn “Nghiên cứu lịch sử âm nhạc đời Đường”, viết: “Nghê thường
vũ y là một tên gọi khác của nhạc khúc Hồ Bà la môn do Tiết độ sứ Dương Kính
Thuật (trong sách viết là Trung) người Hà Tây dâng biếu vào
thời Khai Nguyên.” Cuốn “Bích kê mạn chí” của Vương Chước lại cho rằng:
Nghê thường vũ y là tác phẩm do “Tây Lương sáng tác, Minh Hoàng sửa sang”.
Và Kishibe Shigeo có diễn dịch thêm rằng, Nghê thường vũ y được sáng tác dựa
trên “tinh thần chủ đạo của việc cải biên tên bài mà thực chất là Trung Quốc
hóa Hồ khúc xét về mặt tính chất.”
Như vậy, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất về tác giả của khúc Nghê
thường vũ y xoay quanh vua Đường Huyền Tông đa phần xuất phát từ việc luận giải
các giả thuyết chồng chất theo thời gian. Vua Đường Minh Hoàng có phải là tác
giả của tác phẩm này không? Những ghi chép trong “Bích kê mạn chí” của Vương
Chước (đời Tống) và diễn dịch của Kishibe Shigeo rất đáng lưu ý. Chúng ta khó
thể nói rằng, Đường Huyền Tông với tài năng âm nhạc cái thế, cộng với mong muốn
khuếch trương văn hóa âm nhạc Đại Đường không có năng lực để sáng tác. Có điều,
trên cương vị của một hoàng đế trị vị thần dân đại quốc, đế chế phong kiến hùng
hậu nhất trong lịch sử phong kiến, vào thời kỳ giao lưu văn hóa, phía Tây có Ấn
Độ, Đông có Nhật Bản, Cao Ly (Triều Tiên), Nam có cư dân Bách Việt, xuống sâu
hơn tới Chân Lạp, Phù Nam… thời kỳ này cũng nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa chống
lại triều đình, thiên tai mất mùa tạo nên làn sóng di dân… như thế liệu Đường
Huyền Tông còn thời gian, tinh lực dành cho sáng tác? Ghi chép mô tả việc Đường
Huyền Tông thủ sẵn ống Địch ngọc để dò tìm âm điệu tiên nhạc trong mộng khi
thiết triều mang màu sắc của một giả thuyết hơn những bằng chứng đáng tin cậy!
Sự gắn kết tác phẩm này với Đường Huyền Tông rất có thể vì ông đã phê chuẩn,
chấp bút sửa sang (đôi chút) “theo tinh thần Trung Quốc hóa Hồ khúc” bản
Nghê thường vũ y (mà Kishibe Shigeo suy diễn).
Theo nhà thơ Lý Bạch, toàn bộ tác phẩm khúc Nghê thường gồm 36
đoạn, chia thành ba phần: Tán tự (sáu đoạn), Trung tự (mười tám đoạn) và Phá tự
(mười hai đoạn).
Tán tự giống như Khúc dạo đầu, tốc độ vừa phải, tiết tấu tự do.
Biên chế nhạc cụ gồm có: khánh, tiêu, đàn tranh, địch độc tấu hoặc diễn tấu
thay phiên nhau. Phần này chưa có sự tham gia của ca, múa.
Trung tự còn gọi là Phách tự hay Ca đầu, một bộ phận có tính chất
trữ tình, tốc độ chậm, giữa có mấy chỗ thay đổi, chuyển từ tốc độ chậm sang
nhanh. Phần này có cả ca, múa, nhạc.
Khúc phá hay còn gọi là Vũ biên, cao trào của tác phẩm. Phần này
múa đóng vai trò chủ đạo, âm nhạc dồn dập, tốc độ nhanh, hoạt bát… Tốc độ có xu
hướng chuyển từ vừa đến chậm rồi nhanh dần. Sắp kết thúc, tác phẩm chuyển hẳn
về tốc độ chậm, không hát chỉ có múa.
Về thời gian diễn tấu của đại khúc “Nghê thường vũ y” rất dài,
trên cơ sở 36 đoạn trên mà theo truyền thuyết, khi Thuyền ra khỏi thành được 15
dặm mới kết thúc phần giữa, khoảng thời gian 1 tiếng.
Về biên chế dàn nhạc, cũng theo mô tả của nhà thơ Lý Bạch trong
tác phẩm “Nghê thường vũ y vũ ca hòa vi chi” có: “Linh Long không hầu Tạ
Hảo tranh. Trần Sủng tất lật Trầm Bình sênh. Thanh huyền xuế quản tiêm tiêm
thủ. Giáo đắc Nghê thường nhất khúc thành” (Linh Long chơi không hầu, Tạ Hảo
gảy đàn tranh. Trần Sủng thổi tất lật, Trầm Bình thổi sênh. Dây đàn trong,
tiếng quản giòn, những cánh tay thon nhỏ. Dạy được Nghê thường một khúc xong).
Như vậy, theo “Nghê thường vũ y vũ ca hòa vi chi” của nhà thơ Lý Bạch,
thành phần nhạc cụ của Nghê thường vũ y có: không hầu, đàn tranh, tất lật,
sênh, bốn chủng loại nhạc khí. Còn vào thời Văn Tông diễn tấu Nghê thường vũ y
có thêm Khánh ngọc, đàn cầm, đàn sắt, chúc, tiêu. Dù trong Nghê thường vũ y
không thấy nói tới biên chế dàn nhạc, cũng như diễn viên múa có bao nhiêu
người, song tham chiếu với tình hình của các Đại khúc khác thời Đường, biên chế
của nó chắc hẳn rất đồ sộ.
Khúc Nghê thường hiện đại
4. Kết luận
Suốt hơn nghìn năm qua đã có rất nhiều cố gắng trong việc phục chế
nhạc khúc Nghê thường. Nhưng, công việc này không mấy thu nhận được kết quả,
ngay vào thời Văn Tông (827), tức sau loạn An Sử khoảng nửa thế kỷ, âm điệu
khúc Nghê thường qua công tác phục chế của Phùng Định đã khác nhiều so với
nguyên tác. Đến thời Ngũ đại, hậu chúa Nam Đường Lý Dục và Đại Chu Hậu viết
lại, bổ sung và âm hưởng đó không còn phản ánh phong khí của thời thịnh Đường
huy hoàng. Những mảnh phổ rời rạc mà Khương Quỳ phát hiện, rồi viết lời cho
Phần giữa ghi chép trong tập “Ca khúc Đạo nhân Bạch Thạch” cũng chỉ có lời ca.
Ngoài ra, chúng ta cần lưu ý thêm về tình hình ghi chép nhạc phổ đời Đường.
Theo mục Phách bản cuốn “Nhạc phủ tạp lục” có đoạn viết: “Phách bản vốn không
có bản phổ. Minh Hoàng sai Hoàng Phan Xước sáng chế nhạc phổ. Sáng chế xong lại
còn vẽ thêm hai cái tai lên giấy. Hoàng thượng hỏi lý do vì sao? Phan Xước trả
lời, miễn là có tai, chỗ không cần đến tiết tấu vậy.” Có nghĩa là, tình trạng
ghi chép nhạc khúc đời Đường còn khá sơ sài, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của
nhạc nhân. Điều này càng khiến cho việc phục chế nguyên tác gặp muôn vàn khó
khăn, đặc biệt là những cái tai biết về khúc Nghê thường đã đi vào cõi vĩnh
hằng. Mặt khác, so với với những tuyển tập nổi tiếng trước Công nguyên như Kinh
thi, Sở từ hay “Ca khúc Đạo nhân Bạch Thạch” thời Tống liệt kê lời ca trong tác
phẩm âm nhạc có cơ sở để phục chế dễ dàng hơn nhiều, vì, khuôn khổ khá ngắn
gọn, quan trọng nữa là chúng tồn tại trên cơ tầng của âm nhạc dân gian, len lỏi
vào tầng lớp Nho sĩ và được bảo lưu bằng thói quen văn hóa. Tất cả những yếu tố
đó có giá trị hỗ trợ nhất định để tìm về nguyên tác. Còn khúc Nghê thường vốn
là một đại vũ, đỉnh cao tinh hoa của văn hóa âm nhạc cung đình. Sau khi triều
Đường chấm dứt vai trò lịch sử, những sản phẩm văn hóa, tinh thần tượng trưng
cho giá trị thời đại ấy dễ dàng mất đi. Khuôn khổ tác phẩm càng đồ sộ càng có
nguy cơ tuyệt diệt, cộng hưởng với tình trạng văn bản hóa thời đó chưa phản ánh
hết những nguyên tố cấu thành tác phẩm. Dù cho truyền thống ghi chép sử biên
niên của Trung Quốc đã cung cấp rất nhiều dữ liệu liên quan, cộng thêm thơ ca,
truyền thuyết, song tư liệu sống động cũng chỉ cho phép người đời sau có thể
phục hồi phần “xác” của khúc Nghê thường, còn phần “hồn” của nó đã mãi mãi tắt
lịm trong không gian và thời gian của lịch sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét