Bốn mươi hai năm trước -
tức vào năm 1971 - ở giữa lòng Sài Gòn, bấy giờ là thủ đô ngụy quyền, Phạm Duy
được xem là nhạc sĩ số một, là thần tượng của một số lớp trẻ thì đã bị “khai
tử”, vào buổi sáng ngày mồng 6 tháng 6. Người “khai tử” Phạm Duy là ông Nguyễn
Trọng Văn.
Ông Nguyễn
Trọng Văn
|
Chào đời ngày 1-8-1941 ở
Hà Nội, năm 1954 Nguyễn Trọng Văn theo gia đình di cư vào Nam sau Hiệp định
Genève. Viết văn, dạy học sau khi đỗ thạc sĩ triết học, ông luôn được đánh giá
là con người nghiêm túc, chân thực, luôn giữ gìn đức độ và tôn trọng lẽ phải.
Ngày 6-6-1971, phong trào Tự trị đại học tổ chức buổi nói chuyện cho sinh viên
tại Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, và diễn giả là ông Nguyễn Trọng Văn, với
đề tài “Phạm Duy đã chết như thế nào?”. Cuộc nói chuyện gây cú sốc khá mạnh cho
một số đối tượng, sớm lan tỏa rộng rãi và gây được chấn động trong dư luận. Ông
Nguyễn Trọng Văn đã khai triển đề tài trên để viết thành tác phẩm Phạm Duy đã
chết như thế nào?, dày 140 trang, do cơ sở xuất bản Văn Mới ấn hành vào ngày
9-9-1971. Cơ sở Văn Mới là một sự tập hợp của 20 văn nghệ sĩ, hiện nay một số
người còn sống và hoạt động văn hóa khá tích cực ở TP.Hồ Chí Minh, như các ông
Sâm Thương, Vũ Đức Sao Biển...
Ngày 23-6-2013, ông
Nguyễn Trọng Văn đã qua đời sau thời gian khá dài bị yếu sức vì đột quỵ, ở ngôi
nhà T6 đường Hồng Lĩnh, cư xá Bắc Hải, thuộc quận 10, TP.Hồ Chí Minh.
Vậy Phạm Duy đã chết như
thế nào? Chúng ta đều biết vào năm 1945 khi cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi
thì sau đó Pháp đã được Mỹ hỗ trợ để quay lại mong tái chiếm Việt Nam. Cuộc
kháng chiến gian khổ và hào hùng kéo dài suốt 9 năm trời thì chấm dứt bằng
chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa đến hội nghị Genève tạm thời chia đôi đất nước
trong hai năm rồi sẽ tổng tuyển cử để quyết định chế độ. Nhưng liền sau đó Pháp
đã giao miền Nam cho Mỹ để trừ nợ và chúng ta lại phải chiến đấu vô cùng gian
khổ suốt hai thập niên mới có được sự thống nhất và nền độc lập.
Ngay từ ngày đầu Phạm
Duy đã tham gia chống Pháp - vào năm 1945 - nhưng đến năm 1951 thì chạy về Hà
Nội, rồi sang Pháp. Thời còn chiến đấu ông đã sáng tác những bài nhạc có giá
trị, như Quê nghèo, Tiếng hát sông Lô, Bà mẹ
Gio Linh, nhưng khi vào Nam, ở thời Mỹ-Diệm, thì như ông Nguyễn Trọng Văn
nhận xét: “Các sáng tác trong thời kháng chiến đều được Phạm Duy sửa
lại lời mới, mất hết lịch sử tính và chiến đấu tính, chỉ còn là những bản nhạc
của những tên lại cái, đồng cô, bóng cậu”(1). Và cũng theo ông Văn thì sau
khi Mỹ giết Diệm-Nhu, đổ quân ồ ạt vào miền Nam, cho không lực dội bom miền
Bắc, nhúng tay vào những vụ đảo chính… thì “nhân dân và trí thức miền
Nam bừng tỉnh, vùng dậy đặt vấn đề chủ quyền quốc gia, tranh đấu cho hòa bình (…) Trước
người ta còn ngây thơ tin rằng Mỹ là đồng minh tốt, nhưng từ 65-66 mọi người đã
thấy rõ mặt thực của Mỹ, coi Mỹ là đại bịp” (tr.38). Vào thời điểm ấy, Bộ
Ngoại giao Mỹ mời Phạm Duy sang Mỹ chơi, với tư cách là “một khách du lịch” và
sau khi trở về, “ông đã thay hình đổi dạng quá nhiều, đã xóa bỏ quá khứ
của mình, đã chuyển hướng theo một góc 180 độ. Ông có tài nhưng thân phận ông
như một cô điếm, đúng ra là một cô điếm rành nghề, lão luyện, có tài làm vừa
lòng bất cứ ai chịu chi tiền” (tr.42). Tóm lại, “nhạc sĩ Phạm
Duy kháng chiến ca của dân tộc đã chết” (tr.45).
Còn về dân ca của
Phạm Duy, thì tác giả đã trích dẫn những câu nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba trả lời
phỏng vấn của nhà văn Vũ Bằng, rằng “trong một số bài nhạc của Phạm
Duy, có người nhận thấy anh đã ghi lại những đoạn nhạc sẵn có trong dân ca cổ
truyền, hoặc giữ nguyên, hoặc thay đổi đôi chút rồi nhận là của mình sáng tác,
tỉ dụ như bản Con đường cái quan, bản Trèo lên quán dốc do
Hội Việt Mỹ xuất bản và bản Tình tự tin, chép lại gần hết bài Tình
bằng có cái trống cơm, hoặc bản Ru con trong đó Phạm Duy
chỉ đổi lời…” (tr.67).
Theo tác giả, các bản
nhạc như Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam… chỉ nói những
điều xa lạ đối với thực tiễn đất nước, con người Việt Nam. Không ai muốn hát
những bài như thế. Tóm lại, “dân ca kháng chiến là dân ca thực, còn dân
ca hiện nay của Phạm Duy chỉ là dân ca trá hình. Quần chúng tiến bộ không hát
những dân ca đó, hiện nay chúng bị lợi dụng như một lợi khí chính trị phục vụ
những quyền lợi phi dân tộc” (tr.72).
Còn về các loại tình
ca, tâm ca, tục ca, đạo ca của
Phạm Duy thì sao? “Từ 66-67 trở đi, ông lao mình vào tình ca, vỉa hè
ca, tục ca… nghĩa là đi vào những thứ văn nghệ thoát ly, mơ mộng, sau khi đã
mất hướng đi, lạc lõng trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Tình trạng bế tắc,
mê ngủ, tính cách quyến rũ của tình ca, sự mời gọi thoát ly trong thế giới thần
tiên của tình ái… tất cả chỉ là lối thoát tất nhiên của Phạm Duy cũng như của
những người thành thị không còn quê hương thân yêu nào ngoài những phòng trà,
quán rượu, ngoài không khí mờ ảo khói thuốc, tiếng hát ảo não quyện với ánh đèn
màu” (tr.96).
Tóm lại, tất cả những
thứ bày đặt ấy của Phạm Duy “vẫn chỉ là những hình thức bù trừ cho việc
ông đã rời bỏ quần chúng, quê hương, cảnh đói khổ, chiến tranh. Bù trừ bằng
tình ca cũng như bù trừ bằng mông, vú, chân dài, vai lẳn… Thiên đàng tình yêu
trở thành linh hồn của những người mộng du, cũng như thân xác đàn bà trở thành
niềm cảm hứng cao độ nhất đối với con người bị giản lược thành bản năng sinh
lý, thành những con heo nọc” (tr.105).
Với 140 trang sách, ông
Nguyễn Trọng Văn đã phân tích khá cụ thể các bản nhạc của Phạm Duy để đi đến
kết luận là nhạc sĩ này không còn chỗ đứng trong lòng quần chúng, trong lòng
dân tộc, và ông đã tự giết chết mình bằng chính cái chủ nghĩa cá nhân tồi tệ
của mình.
(1) Trang 34, sách Phạm
Duy đã chết như thế nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét