Đoá
hoa vô thường trong vườn địa đàng
Hoàng Công Danh
La thứ - cung bậc âm thanh ấy không phải tôi chọn
mà chính là anh - nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – đã chọn để đánh lên cho những bản
tình ca của mình trong vườn địa đàng, ở đó anh là một đoá hoa vô thường, cứ toả
hương sắc mãi cho đời…
Người ta đã viết quá nhiều, đã
nói quá nhiều về anh, nhưng cứ nói mãi vẫn chưa đủ và nếu tôi có nói thêm cũng
không phải là thừa. Mỗi tác giả viết về anh ở một góc nhìn, với tôi anh là một
“cái gì đó” không thể được định nghĩa mà chỉ có thể được nhìn bằng con mắt của
một người yêu mến hơn là hâm mộ. Tôi mạn phép gọi Trịnh Công Sơn bằng anh mặc
dù Trịnh Công Sơn đáng tuổi ông tôi. Gọi anh chứ không phải một cố nhạc sĩ vì
trong tôi anh như chưa bao giờ chết, vẫn “loanh quanh” đâu đó giữa cõi đời này
mà thôi.
Tôi không thể nhớ được là mình
yêu nhạc Trịnh từ lúc nào, hình như cái tiền kiếp đã gắn liền với một định mệnh
nào đó, nên khi sinh ra ông nội đặt cho cái tên có chữ lót là “Công” giống với
anh. Cái chữ “Công” ấy nếu vứt đi dấu mũ trên đầu thì thành ra “cong”, một đường vòng quanh, một đường
tiều tụy.
Ngày còn bé hát “Em là hoa hồng
nhỏ” cũng say sưa như những đứa bé cùng trang lứa khác. Chúng tôi đến trường,
cô giáo vỗ tay và tập cho những gì rất vui đầu đời mà sau này tôi mới biết là
“âm nhạc”.
Có thể nói bài hát đó được hầu
hết trẻ em thuộc lòng và chẳng thể quên được trong suốt cuộc đời, không phải do
trí nhớ thuở đầu sâu đậm mà là do ca từ quá gần gũi. Có một sự so sánh rất dễ
thương trong đó, “em sẽ là mùa xuân của mẹ, em sẽ là màu nắng của cha”.
Mùa xuân thường mang những hương sắc tuyệt vời đến cho đời, và em - một đứa bé
sinh ra để ngày ngày mẹ nhìn ngắm, làm cho mẹ thấy ấm áp. Con là một mùa xuân
nho nhỏ mang đến cho cha ánh nắng hồng tươi – cái màu nắng đẹp tinh khôi vào
lúc bình minh của ngày đầu năm mới. Dường như một mùa đông dài giá rét con đã
nằm trong bụng mẹ và được thai nghén bởi sự viên mãn mà tạo hoá gầy dựng, để
rồi “một sớm mai kia nở đoá xuân thì”. Thế nên con là tất cả
những gì đẹp nhất trên đời mà ba mẹ đã dành cho nhau. Anh Sơn đã nói điều đó
thật đơn giản dễ hiểu nhưng hàm ý triết lí rất lớn, một đứa bé hay một bậc phụ
huynh cũng đều hiểu được.
Cái ngày xưa ấy, chúng tôi hát
nhạc thiếu nhi, không được nhắc đến tên tác giả, chính vì thế mà tôi cũng không
biết Trịnh Công Sơn là ai, chỉ có điều cái ca khúc “Em là hoa hồng nhỏ” dễ
thuộc như một bài thơ vậy, “cây có rừng bầy chim làm tổ / sông có nguồn
từ suối chảy ra / tim mỗi người là quê nhà nhỏ / tình nồng ấm như mặt trời xa”.
Với ca khúc này Trịnh Công Sơn như muốn gửi gắm cho các em nhỏ một bức thông
điệp rằng các em sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước, các em là cả một
“quê nhà nhỏ” mà tình nồng ấm lan toả ra như ánh dương - một lời dạy rất nhẹ
nhàng mà sâu sắc.
Bài hát mà tôi ấn tượng mãi trong
một quá khứ tuổi thơ cho đến bây giờ đó là “Hoa xuân ca”. Hồi ấy, cứ mỗi lần có
dịp văn nghệ ở chùa đều ca bài này. Màu sắc Phật giáo trong các ca khúc của anh
Sơn rất đậm bởi anh là một Phật tử và sống đúng với tinh thần nhà Phật. “Cây
sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa” - một câu nói rất ý vị, một niềm hy vọng
về tương lai đầy khả quan và tràn trề sức sống, để rồi những ai đã hiểu được
điều ấy thì cố làm sao để “dâng cho đời một nụ hoa tình cờ”.
Trong đời sống, mỗi người chọn một đức tin để nương tựa, tôn giáo cũng có đóng
góp lớn vào việc hình thành nên những bến bờ vững chãi cho con người. Người ta
đã cố gắng mọi cách để đưa Phật giáo vào đời sống, và với nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn, dường như anh đã làm cho Phật giáo thoát khỏi sự trói buộc của một tôn
giáo bình thường.
Anh vận dụng nguyên lí “sắc -
không” và luật “vô thường” vào ca khúc rất tài. “Không có đâu em này /
không có cái chết đầu tiên / và có đâu bao giờ / đâu có cái chết sau cùng”
đúng là một sự “ngẫu nhiên” mà không phải vô cớ. Chết - sống là hai phạm trù
lớn của triết học, nó hiện sinh trong mỗi con người và khiến họ phải làm việc,
suy nghĩ cho sự sinh tồn.
Trong Phật giáo quan niệm cái
sống cái chết chỉ là một, sống không là mãi mãi và chết không là cuối cùng,
chúng tuần tự nhau, thay phiên nhau một cách “luân hồi”. “Hôm nay thức
dậy không còn thấy mặt trời / không còn thấy mặt người” (Không còn thấy
mặt người) - vậy là ta và đời sống quanh ta đang chết. Nhưng bỗng “Hôm
nay tôi nghe có con chim về gọi / về giữa trời về hót giữa đời tôi”
(Hôm nay tôi nghe) thì đột nhiên cái đời sống nó đã trở về ngự trị nơi trái
tim. Nhạc của Trịnh Công Sơn là nhạc của niềm yêu đời mãnh liệt, hướng con
người đến với niềm tin và sự lạc quan. “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi! Đừng
tuyệt vọng!” (Tôi ơi đừng tuyệt vọng) - nhiều người đã nói rằng mỗi khi
buồn chán mà hát mấy bài này thì sầu đau tan biến, cảm thấy “tuyệt vọng cũng
đẹp như một đoá hoa” mà phải đi đến tận cùng mới thấy được.
Cuộc sống đôi lúc làm con người
ta mệt mỏi và bận rộn, cảm thấy ngột ngạt đến mức không chịu nổi, anh Sơn cũng
có những lúc trống trải như thế, có những quãng đời như thế mà anh gọi là “tuổi
đá buồn”, thế nhưng anh vẫn hát “còn cuộc đời ta cứ vui”.
“Đoá hoa vô thường” là cuốn tiểu
thuyết bằng âm nhạc của đời Trịnh Công Sơn, người ta đã nói như vậy và có lẽ
đúng bởi ngoài cái độ dài về thời gian ra nó bao gồm nhiều chương đoạn rời rạc
mà ghép lại thì thành một thể thống nhất hệt một tác phẩm văn học. Một đoá hoa
hình thành từ cuộc kiếm tìm tình yêu “tìm em tôi tìm, mình hạc xương mai”,
chỉ gầy gò thế nhưng rồi em - nụ hồng ấy đơm lên trong vườn tình ái một đoá hoa
bất tử. Ở ca khúc này, anh khéo léo kết hợp nhiều vốn hiểu biết triết học.
“Mình hạc xương mai” là một cách ví von về dáng vẻ người phụ nữ được anh để mắt
tới. Trong cái cuốn tiểu thuyết ấy, anh đã kết hợp các cung bậc âm thanh một
cách đầy đủ, với điệu valse mở đầu như dẫn dắt ta vào một vườn hoa yên tĩnh, ở
đó có đoá vô thường mới hiện sinh. Anh cho nhạc điệu nhanh dần, vẫn là “tìm
em tôi tìm…” Nhưng bây giờ anh tự an ủi mình “nhủ lòng tôi ơi!”. Nên
chi gấp gáp. Có lẽ đó là qui luật muôn đời của tình yêu, ta cứ nôn nóng vội
vàng mà tình thì vẫn hờ hững chậm rãi, để rồi chính cái gấp gáp ấy lại chẳng
mang đến cho anh một nàng thiếu nữ, anh chỉ còn nhặt lại trên sông “những
dấu hài” mang vào kỉ niệm và thành ca khúc trong hoà điệu trái tim mà
thôi.
Tôi chưa đủ khả năng về âm nhạc
cũng như về triết lí để hiểu hết ca từ của anh dù cho đã nghe đi nghe lại không
biết bao nhiêu lần. Có lẽ nó giống với một cuốn tiểu thuyết vậy, khó mà hiểu
hết cho được những con chữ kia tác giả muốn gửi gắm điều gì. Ở giữa những đoạn
chuyển anh đệm vào mấy lời vấn ngôn từ tốn như để là dịu lại âm nhạc. Đây là
một lời như vậy “Tình do tâm ta mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn đồng
vọng. Đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi”. Đoá hoa vô
thường không biết nên gọi là ca khúc của thể loại nào, nó vừa tự sự, vừa réo
rắt, vừa nông nổi lại có lúc trầm lắng. Một cuốn tiểu thuyết ra đời có thể
không được người ta đọc hết, cũng như cái “cuốn tiểu thuyết định mệnh” của anh
Sơn rất ít người thể hiện hoàn chỉnh và có hồn vía.
Tôi may mắn có được nhiều kỉ niệm
với các ca khúc của Trịnh Công Sơn, nói đúng hơn là có duyên. Hầu như mỗi bài
hát đều gắn liền với một kỉ niệm. Cái hồi mới đầu thì hát “Diễm xưa”. Diễm xưa
là một bóng hồng thuở ngây thơ, một người con gái Huế bên kia đập Đá mà anh Sơn
đã thầm yêu trộm nhớ. Cái tên Diễm đã hay mà thêm chữ xưa vào thì cổ kính lắm.
Phải vì thế mà anh giăng lên ca khúc của mình một vẻ đẹp cổ điển “mưa vẫn
mưa bay trên tầng tháp cổ”. Đó là một cơn mưa xứ Huế vì chỉ có mưa Huế
mới dai dẳng và dằng dặc như thế “mưa vẫn mưa bay…”.
Một lần nữa, anh Sơn lại đưa
triết lí vào ca khúc của mình nhưng lần này là một lời hứa, hay một lời thề thì
đúng hơn – “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Tình yêu ấy là một
thứ tình yêu muôn đời muôn kiếp, dù khó khăn gian khổ thì vẫn yêu nhau thắm
thiết. Ôi! cái tình yêu của những người nghệ sĩ thật đáng trân trọng biết bao,
trong cuộc chơi với bạn bè hay cuộc tình với nàng đều vậy! Nhiều nhà thư pháp
đã mượn câu này để họa bút như khéo nhắc nhủ những người đang yêu hãy giữ cho
nhau cái tình bền lâu.
Nhạc Trịnh Công Sơn là sự chuyển
tiết điệu khéo léo, hầu hết ca khúc của anh đều vào gam thứ rồi đến khi cao
trào thì lên gam trưởng, với điệu slow dịu dàng mềm mại như đưa tình vậy. Với tôi,
không một cuộc rượu nào là không hát ca khúc “Như cánh vạc bay” vì nó gắn liền
với kỉ niệm tình yêu thuở ban sơ. Gặp một người con gái nào đó có cái nét giống
với nguyên mẫu trong ca khúc của anh, thế là yêu. “Nắng có hồng bằng đôi
môi em / mưa có buồn bằng đôi mắt em”. Sau này họa sĩ La Toàn Thắng đã
giải thích cho tôi cái câu ấy dưới góc nhìn Phật giáo rằng: Nắng tượng trưng cho niềm vui,
mưa là nỗi buồn, nắng mưa hay niềm vui nỗi buồn ở đời dường như đã đọng lại
trong dung nhan của em làm ta yêu, bởi ở đó có cả cuộc đời.
Anh Sơn rất quí đôi mắt, trong
nhiều ca khúc anh đã nhắc đến nó, “vì trong đôi mắt đó có quê hương bạn
bè”, chính khi ấy anh yêu nàng vì trong nàng có quê hương, có bạn bè,
yêu nàng chính là yêu cái đời sống rộng lớn ngoài kia. Dường như đến đây tình
yêu đã vượt ra ngoài khuôn khổ của sự ích kỉ vốn có trong con người, anh thoát
thân làm một đấng vô lượng cao cả.
Hầu như Trịnh Công Sơn đưa được
tất cả các giác quan bộ phận trên cơ thể vào ca khúc một cách tài tình, “môi
nào hãy còn thơm / cho ta phơi cuộc tình. Tóc nào hãy còn xanh / cho ta chút
bình yên. Tim nào có bình yên / ta rêu rao đời mình” (Ru ta ngậm ngùi).
Rồi thì tứ chi cũng được anh âm nhạc hoá thú vị, “bàn tay em năm ngón ru
trên ngàn năm” (Ru em từng ngón xuân nồng), “tôi đi bằng nhịp
điệu, một-hai-ba-bốn-năm. Em đi bằng nhịp điệu, sáu-bảy-tám-chín-mười”
(Tình khúc Ơ-bai).
Đưa các bộ phận của con người vào
âm nhạc nhưng không thô thiển kiểu nhục thể, ngược lại chúng rất có hồn. Với
“Tình khúc Ơ Bai”, anh lí giải cái chuyện ta và em không thể yêu nhau là vì ta
đi bằng nhịp một-hai-ba-bốn-năm, trong lúc đó em lại đi bằng nhịp
sáu-bảy-tám-chín-mười, chính cái sự khác nhau đó không làm ta và em hội ngộ
được một lần, cuối cùng anh đứng than thở “sông cạn đá mòn, làm sao ta
gặp, làm sao ta gặp được nhau?”.
Nhạc Trịnh Công Sơn dễ nghe, dễ
thuộc và dễ hát nhưng không phải dễ hiểu, nếu mà cố tìm cách để hiểu hết thì
càng khó, nên chi hãy cứ nghe lâu thấm dần thôi! Có người bạn bảo với tôi rằng,
hắn chỉ thích nghe nhạc không lời để tự hiểu theo ý mình, vậy nên khi nghe nhạc
Trịnh thấy hay nhưng chẳng hiểu nổi ngụ ý tác giả. Rồi hắn nhờ giải thích câu “từng
lời tà dương là lời mộ địa”, tôi nói “khi ta sống là thực chất đang
tiến dần đến cái chết, mà mỗi lúc tà dương thì thấy dường như cái chết sắp đổ
sụp theo bóng hoàng hôn”, thế đấy! Nhạc anh Sơn thâm thúy triết lí như vậy.
Bài hát “Một cõi đi về” chẳng
biết nên gọi là nhạc bi hay nhạc hùng, có lẽ nó là một qui luật tất yếu của tự
nhiên, sống và chết hiện sinh đồng thời trong mỗi phút giây. Với anh, đón nhận
cái chết là một điều rất “vô thường” chứ không phải là chuyện nghĩa vụ và thời
hạn. Chết cho một cuộc hồi sinh và tái tạo lại bản thân ở một thực thể khác, mà
với anh thì dù có kiếp nào vẫn muốn được ca hát. Anh Sơn có thích sống không?
Có! Bất cứ ai nói nhiều về cái chết đều rất yêu đời sống, chính vì yêu đời sống
nên mới tự nhủ phải nhiệt tâm với đời, với sáng tạo để khi nằm xuống đỡ phải
nuối tiếc. “Thí dụ bây giờ tôi phải đi, tôi phải đi, xa quê hương, đời
sống này. Có chiều hôm, đưa chân em, về nơi xa. Mơ…” - ấy là anh đang
“Rơi lệ ru người” mà như ru mình vậy!
Tôi thích nhìn chân dung anh Sơn
khi đang cầm điếu thuốc, nhìn bâng quơ về một miền xa xăm nào đó trong cõi mịt
mùng. Anh yên lặng với gọng kính đồi mồi, chiếc mũ tai bèo trong vóc dáng hốc
hác. Trong cái dáng vẻ ấy, anh vừa giống một nghệ sĩ, một nhà triết học và một
vị thiền sư. Mà ở góc độ Phật giáo thì anh có thời đã từng lên ở chùa nên chi
cái câu kinh dường như đang được anh niệm trong cái giây phút này. Anh Sơn, dù
ngồi hay đi vẫn tạo cho mình những khoảng lặng để nhớ nhung suy tư, “chiều
một mình qua phố / âm thầm nhớ nhớ tên em”. Người ta nói anh Sơn là
người gốc Huế nhưng nhạc của anh là nhạc của mọi vùng miền, anh như một “gã
lãng du đi qua những vùng đất và hát lên những bản tình ca.
Nhạc Trịnh Công Sơn là thứ gạo
quê hương nên ăn mãi không thấy chán, ví von như thế là để so sánh với cái loại
mì ăn liền của nhạc hiện nay. Dĩ nhiên nhạc anh Sơn mang một tầm cao hơn và ở
một đẳng cấp khác mà ai cũng phải công nhận. Phải nói anh viết nhiều nhưng
không bao giờ lặp lại chính mình, mỗi ca khúc đều có một nét riêng mà khi hát
lên ta có cảm giác được sống thực sự. Nhờ hát nhạc anh mà tôi có thêm những
người bạn tốt vì sự gặp gỡ ở một khía cạnh trong nghệ thuật cũng như đời sống.
Nhạc anh đã dẫn dắt tôi vào thế
giới của phiêu bồng và cả lang bạt ở những quán cà phê Huế. Cố đô là đất cà phê
mà hầu như quán nào cũng mở nhạc Trịnh. Lúc đầu chỉ nghe cho vui nhưng dần dà
không biết nghiện cà phê hay nghiện nhạc mà cứ thích đến ngồi một mình để suy
ngẫm. Với nhạc Trịnh, ta có thể đem làm mồi nhắm rượu đàn hát, cũng như chọn
làm bạn tri âm để ngồi ở quán cà phê. Âm nhạc của Trịnh không làm mình cô đơn
mà chỉ tạo ra sự chơi vơi.
Anh luôn phân vân giữa thực và
ảo, trong cái cõi mông lung ấy đôi khi nhận ra cái sắc-không trong Phật giáo nó
thuộc về quán ngã tự tại, trong đời sống cũng như tình yêu. Ở “Nguyệt ca”, điều
ấy thể hiện rõ hơn cả “từ khi trăng là nguyệt, lòng tôi có đôi khi, tựa
bông hoa vừa mọc, hân hoan giây xuống thế”. Đến đó tình yêu vượt ra
khỏi khuôn khổ của bản thức ham muốn vốn dĩ trong con người, nó rộng lớn như
đất trời ngoài kia. Tình yêu - với anh đó là sự dâng hiến cho đời. Anh từng nói
“ở đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô
hạn, chúng ta làm sao để lấy tình yêu cứu chuộc thân phận trên cây thập giá
đời”.
Nhạc Trịnh Công Sơn là một bức
tranh được vẽ nên bằng ca từ nốt điệu, trong bức tranh ấy anh quả là một người
hoạ sĩ tài ba với việc sử dụng màu sắc tinh xảo. Mà thực ra thì anh Sơn cũng là
một người cầm cọ tài năng đấy nhé! Nhiều bức chân dung anh để lại cho đời rất
có hồn. Anh thích vẽ chân dung thiếu nữ trong cái khắc khổ của cuộc đời – theo
tôi đó là những người tình trong cuộc đời anh.
“Trời ươm nắng, cho mây
hồng” (Mưa hồng) – chưa ai vẽ như vậy về mây cả, chỉ có anh chàng hoạ
sĩ Trịnh Công Sơn mới vẻ nổi nó. Người ta thường nói mây trắng như bông chứ mây
hồng thì hoạ chăng là điềm lạ. Nếu nhìn dưới góc độ của người quan sát thì anh
Sơn đúng, khi nắng xuyên qua những đám mây, màu của nó như đã nhuốm lên trên đó
nên mây mới có màu hồng. Anh sử dụng màu hồng ở đây để nói về niềm lạc quan hy
vọng. Anh yêu con nắng và cũng chính con nắng ám ảnh anh những ngày còn sống,
anh nói “ngày xưa mình nghĩ rằng mưa buồn, nhưng mưa không buồn hơn nắng vì mưa
thì chỉ có một màu, nắng có nhiều màu. Nắng cũng như đời người vậy!”. Ở góc độ
nào anh Sơn cũng nhìn ra được cái tinh tế của đời sống và thể hiện nó rất gần
gũi bình dị.
Màu xanh được anh phủ lên ca khúc
với cái bạt ngàn trập trùng lá “rừng xanh bao nhiêu lá, lá bao nhiêu trên
cành…” (Rừng xanh xanh mãi). Rồi thì “rừng xanh, rừng xanh, em
cây non mới lớn, còn tôi như cây già”. Cái màu xanh bây giờ nó cũng đã
có sự phân cấp, ở đó em là xanh của cây non, tôi là xanh của cây già và chúng
ta cùng hiện sinh trong một khu rừng tình ái rợp màu xanh. Có khi anh lấy màu
xanh để nói về cái gầy guộc của một người con gái “trên mùa tóc xanh,
ngón tay em gầy nên mãi ru trên ngàn năm” (Ru em từng ngón xuân nồng).
Đôi khi màu xanh là cái thèm thuồng về một nhan sắc, “em mượt xanh như
ngọc mà tôi có đâu ngờ?” (Hoa xuân ca).
Rồi thì đến vàng, bắt đầu là con
nắng, “nắng vàng, em đi đâu mà vội?” (Bống bồng ơi!), hay là cái
vàng rơi rất vội của kiếp người “nhật nguyệt í a trên cao, ta ngồi í à
dưới thấp, một đường í a cong queo, nắng vàng ối à đột ngột” (Cũng sẽ
chìm trôi).
Màu tím thì anh dùng để vẽ sắc
hoa khi hoàng hôn, “có khi nắng kia chưa lên, mà một loài hoa chợt tím…”
(Chiều một mình qua phố). Cái tím của sự chờ mong dằng dặc nỗi nhớ, có chút gì
đó buồn buồn nhuốm lên sự vật. Đối với người dân Huế thì màu tím tượng trưng
cho lòng thuỷ chung, như một tà áo tím thướt tha của dáng em qua cầu Tràng
Tiền. Màu tím của anh cũng vậy! Màu trắng thì mang nỗi tang tóc bi lụy, thế
nhưng cái buồn của anh nó cũng là “một nỗi buồn có tên” rất sang trọng “gọi
nắng, cho cơn mưa chiều nhiều hoa trắng bay” (Hạ trắng). Anh từng bị
cái màu trắng ám ảnh khi một lần chợp mắt “tôi thấy tôi qua đời”,
thức dậy cầm đàn viết bài “Hạ trắng”… Rất nhiều màu khác được anh sử dụng mà
nếu đem pha lại thì sẽ được một màu lam của Phật giáo, cái từ bi trong con mắt
và cây cọ của chàng hoạ sĩ vẽ bằng nhạc ấy.
Để vẽ chân dung Trịnh Công Sơn,
quả thật là khó! Tôi chỉ biết nói yêu anh và viết những gì mình nghĩ được khi
nghe nhạc của anh. Dĩ nhiên chừng ấy năm có mặt trên đời của anh Sơn chẳng phải
là nhiều, cũng như bao nhiêu năm đối với tôi chưa phải là đủ để hiểu hết nhạc
anh, tôi chỉ viết từ góc nhìn cảm quan cá nhân. Người ta kể lại với tôi, Trịnh
Công Sơn là một người nghệ sĩ đích thực, một vị Phật sống. Còn với tôi, anh như
một đoá hoa vô thường trong vườn địa đàng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét