Văn Cao sáng tác ca khúc bất hủ “Làng tôi” từ một giao ước với... vợ!
Tôi ngồi bên bà Nghiêm Thúy Băng, vợ nhạc sỹ tài hoa Văn Cao để thấy sự lặng lẽ mà chăm chú, tỉ mẩn của bà khi lần giở từng bức ảnh, bài thơ, cuốn sách. Bàn tay bà, cử chỉ, rồi đôi mắt, tất cả đều nhuốm màu kí ức về người chồng thân yêu. ở tuổi 80, bà vẫn gọi cố nhạc sĩ bằng cái tên trìu mến là "Anh".
Với giọng run run, bà kể
lại câu chuyện về sự ra đời của bài "Làng tôi" - một trong những số
bài hát bất hủ của âm nhạc Việt Nam. Bài hát được Văn Cao sáng tác trong một
thời điểm rất đặc biệt của tâm trạng: Hạnh phúc lứa đôi không thật sự trọn vẹn
vì cuộc Kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
Vừa chuẩn bị đám cưới
vừa di tản
Bà Nghiêm Thúy Băng là
một trong những giai nhân nổi tiếng ở Hà Nội thập niên 50-60 của thế kỉ trước.
Bà là con gái của ông Nghiêm Xuân Huyến - chủ nhà in Rạng Đông, chủ bút
báo Bắc Kỳ thể thao (1939 - 1940), báo Con Ong (1941-1942). Trong kí ức
của bà Nghiêm Thúy Băng - nguyên mẫu cho nhiều sáng tác của nhạc sĩ Văn
Cao, mùa thu mà tuyệt phẩm "Làng tôi" ra đời là một mùa thu
không bao giờ quên được. Mùa thu ấy là mùa của cốm, của hồng, của những
buồng chuối trứng cuốc ửng vàng, hoa hoàng lan thơm ngát rụng đầy dưới
các gốc cây và gió thu thoang thoảng mát làm xao xuyến những trái tim
thiếu nữ.
Nhạc sĩ Văn Cao và bà
Nghiêm Thúy Băng
Nét đài các, kiêu sa,
phúc hậu của cô thiếu nữ Hà thành xưa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong
các sáng tác của Văn Cao, không chỉ trong âm nhạc mà còn ở văn thơ, hội họa.
Suốt cuộc đời yêu và làm vợ của người nhạc sĩ tài hoa, cho đến hôm nay, kí ức
về ông gần như vẫn còn vẹn nguyên trong tâm hồn bà. Cái tên Thúy Băng gợi nhớ
sự lãng mạn, thùy mị, trong trẻo, từng lấp lánh trên trang thơ của Văn Cao:
"Giữa những ngày dằng dặc / Chỉ còn khuôn mặt em / Sáng trong và bình lặng
/ Dù hai đứa chúng ta / Chưa lúc nào sung sướng / Những ngày đau khổ ấy / Khuôn
mặt em / Như mảnh trăng những đêm rừng cháy/..." (Trích bài thơ
"Khuôn mặt em").
Người phụ nữ ấy nâng niu
từng vần thơ, nốt nhạc, lời ca và say mê kể chuyện về cuộc đời, sự nghiệp của
ông bằng những yêu thương cảm động nhất. "Năm 1947 mợ tôi quyết định sẽ
hiến nhà in Rạng Đông cho Cách mạng để chuyển lên Việt Bắc. Mợ cũng lo sửa soạn
cho các con và người nhà đi tản cư. Nhưng lễ ăn hỏi vẫn cứ tiến hành theo tục
lệ thường, đủ cả bánh chưng, bánh dầy, chè, cau để chia cho bà con trong
họ", bà Thúy Băng hồi tưởng.
Chú rể Văn Cao tất bật
sửa soạn. Anh đến các nhà xuất bản lấy nhuận bút. Anh nhờ gia đình cụ Lễ đặt
cho đủ số bánh chưng, bánh dầy, mua chè cau giúp. Lễ ăn hỏi được tổ chức ngay
tại làng Cự Đà thuộc huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ), quê ngoại nhà gái.
"Anh sẽ làm bài hát
cho ngôi làng"
Hà Nội đã nổ súng đêm 16
tháng Chạp năm 1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Người Hà Nội
kéo về Cự Đà ngày một đông hơn, trong đó có cả các cơ quan đoàn thể. Văn Cao
bận nhiều việc. Gia tài anh mang theo, ngoài mấy bộ quần áo còn có cây đàn ghi
ta. Anh phải locho việc ra báo, lo minh họa bài vở cho trang văn nghệ của báo
Độc Lập. Các văn nghệ sĩ cũng đã lên đường kháng chiến như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn
Đỗ Cung, Nguyễn Huy Tưởng....
Nhạc
sĩ Văn Cao (1923 - 1995) là tác giả của Tiến quân ca - bài hát được chọn làm
Quốc ca, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân
nhạc Việt Nam. Văn Cao còn là một nhạc sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.
ông thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong. Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng
tác các ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi... ghi dấu
ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết
Tiến quân ca, Làng tôi, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội... trở thành nhạc
sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến. Năm 1996 Văn Cao được tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên.
|
Đôi ba ngày Văn Cao cũng
được đọc tin chiến sự về Hà Nội. Quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm ở Nhà hát
Lớn, nhà Xô Va, nhà Dây Thép, chợ Đồng Xuân...gây cho địch nhiều tổn thất. ở Cự
Đà ít ngày, Thúy Băng cùng với gia đình tản cư về Lưu Xá, huyện Chương Mỹ. Lưu
Xá là một làng quê nghèo, yên tĩnh, nằm bên một dòng sông nước trong veo, đầy
ắp. Bến sông lúc nào cũng có vài con thuyền neo đậu. Vùng này khi trước cũng là
cơ sở cách mạng. Văn Cao rất mê dòng sông này. Anh đã có vài ngày theo gia đình
thuyền chài lênh đênh trên sông. Con sông thật thơ mộng, thật êm ả đối với nghệ
sĩ. Bên kia sông là ngôi nhà thờ nhỏ xinh xắn, cứ khoảng 5h30' sáng, tiếng
chuông nhà thờ lại thánh thót vang lên. Bên dòng sông hiền hòa, bóng thuyền
chài và các giáo dân, nam cũng như nữ, áo dài đen hay áo nâu, vẻ mặt bình thản,
nối nhau xuống thuyền qua sông cho kịp buổi lễ sớm.
"Anh Trần Huy Liệu
là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền khi đó chọn một góc cách nhà thờ một cây số để làm
việc, đó là nơi yên tĩnh nhất. Văn Cao cũng theo anh vào đó làm việc. Cha xứ
trông coi nhà thờ là người Italia nhưng thạo tiếng Việt và có tên Việt Nam,
người ta hay gọi là cha Minh. Văn Cao, Trần Huy Liệu nói chuyện với cha
Minh khi bằng tiếng Việt khi bằng tiếng Pháp. Nhưng để tránh những con mắt tò
mò, có khi các anh cũng ăn mặc theo kiểu giáo dân", bà Thúy Băng kể.
Nhưng ở đây ít lâu, thôn
xóm cũng nhuốm màu không khí chiến tranh. Người dân cũng nhộn nhịp lo xây làng
kháng chiến. Người ta đào hào, đắp lũy, đào hầm bí mật, thanh niên trai tráng
vào đội tự vệ, vào du kích tập tành khuya sớm. Tết năm 1947, bên chiếc đài bán
dẫn, Văn Cao nghe Bác Hồ đọc bài thơ chúc Tết: "Cờ đỏ sao vàng tung bay
trước gió / Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông...". Văn Cao suy nghĩ
về thơ chúc Tết của Bác và cảm xúc cứ từ từ dâng lên trong anh: “Anh sẽ làm một
bài hát gì đó cho ngôi làng thơ mộng, bình dị này”, ông nói với bà Thúy Băng,
vợ sắp cưới lúc bấy giờ.
"Có gian nan đến
đâu cũng không bỏ sáng tác"
Lễ cưới Văn Cao - Thúy
Băng được tổ chức đơn giản tại thôn Lưu Xáỏ. Trước hôm anh Trần Huy Liệu rời
lên Việt Bắc theo sự điều động của Trung ương, anh nói với Văn Cao: "Tôi
đi, anh chuyển sang nhà tôi mà ở cho tiện việc sáng tác". Rồi anh Liệu
cười vui hóm hỉnh: "Nhưng cậu phải nhớ vui duyên mới không được quên nhiệm
vụ đấy". Văn Cao cũng cười: "Vâng, tôi vẫn nhớ anh ạ". Anh Liệu
không biết, sau ngày cưới, Văn Cao đã cùng vợ giao ước: "Dù kháng chiến có
gian nan đến đâu, Văn Cao vẫn phải phấn đấu cho sức khỏe để làm việc, không bỏ
sáng tác". Thúy Băng cũng tạm biệt cuộc sống phồn hoa, nhung lụa để làm vợ
một người nghệ sĩ cách mạng. Cô tự hứa sẽ chăm sóc anh để anh có thời gian sáng
tác. Cuộc kháng chiến sẽ còn gian khổ nhiều mà sức khỏe của anh lại yếu. Thúy
Băng cũng dần dần quen với cuộc sống thôn quê. Cô mua những vuông lụa đen Hà
Đông về may quần, cắt những chiếc áo dài, lòa xòa, tha thướt thành áo ngắn.
Khi Trung đoàn Thủ đô đã
rút khỏi Hà Nội, giặc Pháp bắt đầu đánh ra vùng ngoại thành. Chúng đi đến các
làng quê càn quét, đốt phá. Ngay cả nhà thờ là nơi thiêng liêng nhất, chúng cũng
không từ.
Nhạc sĩ Văn Cao
Vào ngồi ở một góc tĩnh nhất của nhà thờ, Văn Cao thả hồn cho cảm hứng cứ
mỗi lúc một dâng lên yêu thương, chan chứa và những giai điệu đầu tiên của bài
"Làng tôi" đã đến với anh: "Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng
chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung...". Bài hát vừa làm xong, Văn
Cao vui vẻ nói với vợ: "Anh đã làm xong bài hát hôm nào anh đã nói với em
rồi đó, để anh đàn và hát cho em nghe nhé".
Trong căn phòng ấm cúng,
những âm thanh, những lời ca tuyệt vời ấy theo tiếng đàn cứ vang lên. Thúy Băng
cảm thấy ngập tràn hạnh phúc. Cô là người đầu tiên được thưởng thức bài ca ấy.
Cô tựa đầu vào vai chồng, nắm chặt bàn tay anh, âu yếm: "Bài "Làng
tôi" hay quá, anh ạ, chắc dân làng thích lắm".
Dân làng từ các ông bà
già đến lớp thanh niên hết thảy đều tự hào vì ca khúc "Làng tôi" được
ra đời từ mảnh đất Lưu Xá nghèo khó này. Sau đó, ca khúc này được in trên báo
Độc Lập, không lâu sau trở thành bài ca của mọi làng quê. Văn Cao cũng không
ngờ "Làng tôi" trở thành bất tử.
KIM LINH (Theo lời kể
của bà Nghiêm Thúy Băng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét