Vài nét tiểu sử:
Nguyễn Minh Châu (1930-1989). Ngoài một số cuốn sách đã nêu trong bài, ông còn là tác giả Mảnh đất tình yêu (1987), Cỏ lau (1989).
Phấn đấu hết mình vì một lý tưởng nghề nghiệp cao quý
Bên cạnh những Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân v.v... trong hàng ngũ những nhà văn Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, có một lớp trẻ hơn, trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu viết khỏe và nổi tiếng ngay từ sau 1954. Đó là Hữu Mai và Hồ Phương, Nguyễn Quang Sáng và Anh Đức, Phan Tứ và Nguyễn Kiên v.v... phần lớn họ sinh trưởng trước sau 1930 một vài năm. So với những tác giả ấy, Nguyễn Minh Châu tuy cũng sinh 1930, nhưng bắt đầu viết muộn hơn. Khoảng 1955-1956, khi Nguyên Ngọc đã được tặng giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, thì Nguyễn Minh Châu còn đang công tác ở một đơn vị chiến đấu. Và một lần, vui chuyện với bạn bè, ông mới rụt rè bảo "sau này tôi sẽ viết văn!" thì mọi người đều nghĩ rằng ông nói đùa, trong bụng thật không ai tin. Những năm 1958-60, Anh Đức (khi ấy còn ký Bùi Đức ái) đã rất nổi tiếng với Một chuyện chép ở bệnh viện, Nguyễn Khải đã có Xung đột lại có Mùa lạc, Phan Tứ (Lê Khâm) có Bên kia biên giới, Trước giờ nổ súng... Nguyễn Minh Châu còn đang là cộng tác viên của tạp chí Văn nghệ quân đội, truyện ngắn gửi về, cái được, cái hỏng. Mãi tới 1967, cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Minh Châu mang tên Cửa sông mới được in ra. Có điều, tiếp theo Cửa sông, qua năm 1972, Nguyễn Minh Châu lại rất thành công với Dấu chân người lính, một tác phẩm xét về cả khối lượng lẫn chất lượng đều thuộc loại đầy đặn bậc nhất của văn học trong những năm chống Mỹ. Từ đấy, nhiều truyện ngắn, truyện vừa khác tiếp tục ra đời và thật khó hình dung văn học Việt Nam hiện đại, nếu thiếu đi những trang văn xuôi của Nguyễn Minh Châu. Hóa ra, sự xuất hiện muộn mằn ở đây lại là một điều có lợi. Nhà văn được chuẩn bị kĩ lưỡng để dẻo dai, bền bỉ trong công việc.
Những ảnh hưởng quan trọng
Tìm hiểu những số báo Văn nghệ đặc biệt dành riêng để nói về các nhà văn, nhà thơ Việt Nam từ sau 1945, người ta nhận ra hai vùng đất đã từng sản sinh ra nhiều người viết là Nghệ Tĩnh và Hà Nam Ninh. Đó cũng là hai mảnh đất quê hương của nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học.
Điều may mắn với Nguyễn Minh Châu là tác giả có điều kiện tiếp thu được truyền thống văn hóa của cả hai vùng đất đó. Quê hương Nghệ Tĩnh, nhưng những năm chống Pháp, người lính này lại chiến đấu ở Sư đoàn chủ lực 320 nên có dịp gắn bó với các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Có lẽ vì thế, trong con người cũng như trong văn của ông, người ta dễ "đọc" ra cả hai ảnh hưởng quan trọng đó. Mới gặp, dễ nghĩ đây là một con người chắc thiệt giản dị, vẻ không dây dưa gì với văn chương. ở lâu hơn một chút, lại thấy đó là một người đôn hậu, sống có tình với mọi người, ai có chuyện gì vui buồn cũng muốn chia sẻ. Chỉ khi đọc văn Nguyễn Minh Châu, người ta mới nhận ra đấy là một con người tài hoa, thường nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ và có được một cảm quan tinh tế về ngôn ngữ văn học, nên biết thực hiện được những nhiệm vụ chính trị của một người viết văn một cách sáng tạo, như một hành động văn hóa.
Tác phẩm hôm qua và hôm nay
Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, Cửa sông miêu tả một vùng đất đồng bằng Bắc bộ khoảng những năm 1965-1966, khi sức người, sức của vừa hồi sinh sau cuộc kháng chiến chống Pháp, lại được huy động ráo riết phục vụ cuộc chiến đấu mới.
Được viết nhân chuyến tác giả đi công tác dài ngày vào mặt trận Khe Sanh (1967-1968), Dấu chân người lính có phần đi sâu hơn vào đời sống tinh thần của lớp thanh niên những năm chống Mỹ. Dưới nhan đề Hành quân, phần một của cuốn sách dựng lên cả bức bích họa rộng lớn về hình ảnh đoàn quân ra trận, qua đó, bút lực của tác giả được công nhận là khá già dặn.
Từ sau 1975, cảm tình của Nguyễn Minh Châu với những con người đã dạn dầy trong chiến đấu chẳng những vượt lên mà còn đi vào bề sâu. Trong nhiều truyện ngắn, nhà văn có dịp dừng lại ở nhiều trạng thái tâm lý tế nhị. Bức tranh: sự hối hận của một con người sao nhãng lời hứa của mình trong chiến tranh. Mẹ con chị Hằng: mối quan hệ nhiều vẻ giữa các thế hệ khác nhau trong một gia đình cán bộ. Khách ở quê ra: Một nét tâm lý nông dân, những người gánh chịu cuộc chiến tranh ghê gớm vừa qua, những người sống bám vào đất đai vườn ruộng để mà tồn tại và nay đang đứng trước ngưỡng cửa của những đổi mới chưa từng có... Khoảng hai chục đoản thiên ông viết hồi ấy sau được tập hợp lại trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985). Một số truyện của Nguyễn Minh Châu còn sượng, dụng ý đạo đức phô bày lộ liễu. Một số truyện khác, tác giả còn ấp úng, chưa thật nhuyễn, chưa hoàn toàn làm chủ được điều mình định nói với bạn đọc. Song, phải công nhận Nguyễn Minh Châu là một ngòi bút mang nhiều tâm huyết với đời sống, ông luôn luôn muốn chứng tỏ mình sống giữa mọi người, cùng vui buồn lo lắng với từng bạn đọc bình thường. Sau những câu chuyện dung dị, đôi khi ẩn giấu một nụ cười ý nhị, dường như tác giả muốn nói với chúng ta: cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ. Với người này, lúc này, nó hiện ra sôi nổi hào hùng, với người khác, vào một lúc khác, nó có thể nhếch nhác, buồn tẻ... Nhưng dù thế nào, nhìn kĩ, nó vẫn có cái vẻ đáng yêu, đáng để chúng ta sống.
Phấn đấu hết mình vì một lý tưởng nghề nghiệp cao quý
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn rất nghiêm túc trong vấn đề nghề nghiệp và thường băn khoăn tìm tòi để nâng cao chất lượng sáng tác. Ông hiểu trang viết của bản thân và nhiều đồng nghiệp không khỏi còn nhiều chỗ yếu, trong đó, một chỗ yếu đáng kể là bản lĩnh văn hóa của chính những người cầm bút. Cuộc sống của nhân dân, đất nước trong những năm này, không thiếu cái để viết, nhưng điều quan trọng là chúng ta biết làm toát ra từ đấy một tinh thần nhân bản cao quý. Có được cái ánh sáng đó, trang viết của nhà văn sẽ không sợ phôi pha theo thời gian. Những trang viết đó không chỉ được sự thông cảm của những người đọc chân chính, mà còn giúp cho các nhà văn tiến tới để một lúc nào đó, có thể xây dựng được những tác phẩm sánh ngang với mọi thành quả của các thế hệ viết văn tài năng trước đây.
Sự dũng cảm rất điềm đạm
Nguyễn Minh Châu và nghề văn Trong trí nhớ của những người có mặt ở Hà Nội những năm ngay sau hòa bình lập lại 1954, những anh bộ đội từ Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô hiện ra với một vẻ thiêng liêng đến mức gần như thần thánh. Lớn lên giữa một nông thôn Việt Nam ngưng đọng trước 1945, những anh bộ đội ấy thường có cái vẻ chân chất hiền lành mà chỉ thời gian đó mới có. Nếu như lại được những trường tiểu học trung học cũ bồi đắp thêm cho kiến thức văn hóa thì những nét mặt chất phác đó sẽ rõ ràng một thứ ánh sáng tinh thần thực thụ. Trong bộ quần áo vải thô, cái áo trấn thủ "36 đường gian khổ", và cái mũ tre đơn sơ, ở họ toát lên sự ổn định tính cách và mỗi chiến sĩ đều trở thành những con người rất đáng tin cậy.
Từ những lần gặp đầu tiên, Nguyễn Minh Châu đã gợi nhớ trong tôi hình ảnh lớp bộ đội chất phác và có văn hóa đó. Về sau đôi khi có thấy ông xúng xính trong bộ quần áo com-lê tham gia một đoàn nhà văn Việt Nam đi nước ngoài, hoặc diện vào người chiếc áo sơ mi trắng tinh tươm, chiều hè đạp xe thong thả trên đường Thanh niên bên Hồ Tây... nhưng cái hình ảnh đậm nét nhất mà Nguyễn Minh Châu để lại trong tôi vẫn là một anh bộ đội. Anh bộ đội ấy có đằng sau lưng mình những năm chiến tranh. Anh bộ đội ấy có vô vàn đồng đội dũng cảm. Có điều, ở anh bộ đội ấy lại có những nét cao quý, nó là dấu ấn của một thời gian, khi con người sống hòa hợp với hoàn cảnh của mình và biết tìm cho mình một lẽ sống đẹp. Người chiến sĩ mà Nguyễn Minh Châu đại diện là người chiến sĩ có văn hóa; và, trên mặt trận văn hóa, người chiến sĩ đó đã bộc lộ cái bản lĩnh vững vàng cái cốt cách đàng hoàng tinh tế của mình. Người chiến sĩ ấy đồng thời là một tay thợ tài hoa nữa.
Mở đầu một bài viết sau này được công bố như một thứ di bút cuối cùng, Nguyễn Minh Châu kể rằng trời phú cho ông một bản tính nhút nhát, trời buộc ông cứ phải lúng túng ngần ngại trước đông người, mặc dù khi ngồi giữa một đám bạn bè, ông cũng mau mồm mau miệng, và tài đấu hót, của ông xem ra chả kém ai.
Bây giờ thì cái lối tự mình châm biếm mình đã phổ biến lắm, Nguyễn Minh Châu lại cũng đã đủ nổi tiếng để không cần dùng lối tự châm biếm cốt làm cho mình nổi tiếng hơn, song sự thật là cả hai nét tính cách đó đều có thật ở ông. Hơn thế nữa, nhìn cả đời văn tác giả mà xét, phải thấy một cái gì rộng hơn: sự mau mắn của Nguyễn Minh Châu không phải chỉ trong đối đáp mà nằm ngay trong suy nghĩ; đằng sau sự nhút nhát không thể khắc phục nổi đó là một sự dũng cảm gần như bẩm sinh, sự dũng cảm mà một nhà văn nhất thiết phải có, và do chỗ vẫn cùng tồn tại với sự nhút nhát kia, nên nó lại là một sự dũng cảm rất điềm đạm.
ý tôi muốn nói đến cách hiểu về sứ mệnh nhà văn của Nguyễn Minh Châu, một cách hiểu đầy trách nhiệm và gần với sự thật.
Từ lâu lắm rồi, mỗi khi có dịp trình bày những suy nghĩ của mình về nghề nghiệp, các nhà văn ở ta thường có thói quen trưng ra cái hạnh phúc, cái may mắn mà họ có: Rằng được viết văn thời này thật là sung sướng. Rằng ở họ có bao nhiêu thuận lợi... Nghe nói đi nói lại mãi như vậy, rồi bạn đọc có lẽ cũng quen đi và tin là thật. Mấy ai biết tới những đau xót trong nghề, những khi - mượn cách nói của Nguyễn Minh Châu - nước mắt ứa ra trên mắt người viết, giọt nuốt vào lòng, giọt rơi lã chã trên trang giấy? Mấy ai biết tới những nguy hiểm trong nghề? Có những cây bút, kể cả những cây bút có tài, đã đầu hàng trước những thách thức này, tự đánh mất mình, trở thành những kẻ cầu an, những ông phán cách mạng, nhạt nhẽo, khó chịu.
Thế còn con đường của Nguyễn Minh Châu ra sao?
Đọc những truyện ngắn truyện dài ông viết khi mới vào nghề, thấy chỗ xuất phát của Nguyễn Minh Châu cũng giống như mọi người. Không phải ngẫu nhiên trong Dấu chân người lính, tác giả để cho nhân vật mà ông hết sức yêu mến là Lữ buột ra một lời tâm huyết: "Tất cả chúng ta có thể sẵn sàng đổi mọi thứ khả năng khác nhau riêng của mình để lấy một thứ khả năng quân sự... Lúc này không có một thứ tài năng nào quý bằng tài năng đánh giặc". Khi viết những dòng ấy, dường như Nguyễn Minh Châu đang tự nhủ với chính mình: trong chiến tranh mỗi người phải sẵn sàng làm tất cả, miễn trở thành một ngòi bút phục vụ tốt cho cuộc chiến đấu.
Nhưng, như Nguyễn Minh Châu từng nói, quá trình viết vừa là quá trình xả điện, vừa là nạp điện, trong khi viết ra những cuốn sách, các nhà văn lại nghiền ngẫm để làm nên số phận văn học của mình. Lăn lộn trên các ngả đường khu Bốn và đồng bằng Bắc bộ những năm chống Pháp, những ngả đường Vĩnh Linh, Cam Lộ, Khe Sanh, Cửa Việt... những năm chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu nhận ra rằng chiến tranh không chỉ là những chiến công, chiến tranh còn là muôn vàn vận động thay đổi liên quan đến cuộc đời từng con người cụ thể, và nếu như trong chiến tranh, việc sử dụng trang viết như một sự cổ vũ là cần thiết, thì, đến lúc nào đó, nhất là sau chiến tranh, lương tâm và trách nhiệm lại buộc người cầm bút phải có cách tiếp cận với đề tài chiến tranh một cách cụ thể, xác thực mà cũng là đa dạng và cận nhân tình hơn.
Từ cuối những năm 60, tức là trong quá trình chuẩn bị viết Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã có lần ghi vào nhật ký: "Trong cuộc chiến đấu để giành lại đất nước với kẻ thù bên ngoài hai mươi năm nay, ta rèn cho dân tộc ta bao nhiêu đức tính tốt đẹp như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự nghiệp của Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó, hai mươi năm nay không có thì giờ để nhìn ta một cách thật kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc, vụ lợi còn được ẩn kín và đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu? Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài".
Để đến được nhận thức như vậy, Nguyễn Minh Châu đã trải bao day dứt, vật vã nhưng lương tâm là điều một người như ông không thể từ chối. Lương tâm buộc ông phải trở thành một ngòi bút dũng cảm. Và thế là tiếp sau Cửa sông, Dấu chân người lính, những năm sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu cho ra đời liên tiếp những Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa..., những trang viết cho ta thấy một khuôn mặt mới của Nguyễn Minh Châu. Đọc những tác phẩm viết trong hơn mười năm cuối đời của ông, tôi lại nhớ tới những anh bộ đội của những năm kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội với chiếc áo trấn thủ "36 đường gian khổ" và những chiếc mũ tre đơn sơ, đôi khi được căng một mảnh dù nhỏ ở ngoài. Điều thú vị ở đây là con đường của một ngòi bút dũng cảm không dẫn tác giả đi đâu xa mà trở về với cội nguồn của lẽ sống mới, tức cũng là trở về với những lý tưởng tốt đẹp đã thúc đẩy hàng triệu người làm nên Cách mạng và Kháng chiến.
Một bản di chúc
Không có mặt trong cả Bến quê lẫn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Chợ tết lẻ loi lọt đi giữa một số báo đến mức nhiều người không biết có nó. Ai ngờ thiên truyện ngắn ngủi lại chứa đựng nỗi niềm tâm sự sâu sắc nhất Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới bạn đọc.
Có một năm, khoảng đầu 1973-1974 gì đấy, đang giữa tháng chạp âm lịch, Nguyễn Minh Châu bị bệnh, phải đi viện và khi ông ra viện, thì đã xong tết. Mọi người ai cũng tỏ vẻ tiếc cho ông là mất một dịp vui, nhưng tôi nhớ là khi nghe vậy, Nguyễn Minh Châu chỉ cười, cái cười hiền lành tự tin vốn có. Rồi ông bảo:
- Thôi cũng tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên!
Thoạt nghe câu nói có vẻ khinh bạc, nhưng những ai có biết Nguyễn Minh Châu hẳn còn nhớ thường ông sống hơi khó khăn trước những đám đông, cái việc ông ngại tết là có thật, và mỗi lần tết đến thường ông cứ vừa hoan hỉ vừa lúng túng thế nào đó, khiến mọi người có lúc buồn cười song lại nhiều phen thương cảm.
Lại đã có những lần, đúng vào dịp gần tết, Nguyễn Minh Châu về quê. Cái làng chài nơi ông đã lớn lên là thuộc huyện Quỳnh Lưu, cách Hà Nội hơn hai trăm cây số. Hồi ấy, bà cụ sinh ra ông còn sống và càng thương mẹ, ông lại càng thương quê, thương cái làng mà có lần ông nói với tôi một cách khái quát rằng, nó còn "thiên nhiên thiên bẩm", nghĩa là còn hoang dã lắm. Từ quê trở ra, hầu như bao giờ Nguyễn Minh Châu cũng buồn. Những ngày thường cái buồn đã nặng trĩu tâm hồn ông, huống chi những ngày giáp tết. Biết ông vừa đi xa về, nhưng bọn tôi cũng chỉ nói quấy quá ít chuyện vui vẻ mà không dám hỏi sâu thêm. Song, càng thấy Nguyễn Minh Châu xúc động, người ta càng tin món nợ viết về làng quê vẫn nung nấu trong ông và chờ ngày có dịp chứng kiến ông viết trực tiếp về quê hương.
Chợ tết là một dịp để Nguyễn Minh Châu trả món nợ đó. Thiên truyện in ra lần đầu trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 2-1988. Gần một năm sau, Nguyễn Minh Châu qua đời, ngày 27-1-1989. Một cách ngẫu nhiên, Chợ tết có cái may mắn nằm trong số báo xuân cuối cùng mà Nguyễn Minh Châu tỉnh táo còn được nhìn thấy. Và sự trùng hợp đó càng cho phép tôi tin rằng đây là một thiên truyện được Nguyễn Minh Châu để tâm săn sóc kỹ lưỡng, nó giống như bản di chúc Nguyễn Minh Châu rút ra từ đời văn và đời làm người của mình. Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm cuối đời là Khách ở quê ra. Để tránh những sự công kích vô lối, có lần nhà văn hay lo xa đã phải tìm cách mang lại cho tác phẩm một nội dung thời sự bằng cách chua thêm vào bên cạnh đầu đề dòng chữ "Vài nét cốt cách của một người sản xuất nhỏ cổ sơ còn lại ở nông thôn phản ứng trước tập quán công nghiệp và đô thị". Tuy nhiên, ai cũng biết cảm hứng chi phối Khách ở quê ra là cái phần bóng tối còn nặng nề, cái phần lạc hậu một thời gian dài còn bao trùm lên con người và cuộc sống nông thôn. Lớn lên trên mảnh đất đã quá cằn cỗi, con người ta phải như cây rau dền gai thô tháp, chen cạnh, bám chặt vào cuộc sống thì mới sống nổi.
Một ấn tượng tương tự về nông thôn cũng có thể tìm thấy trong Chợ tết. Nhếch nhác, bẩn thỉu, cái làng biển được nói tới ở đây lúc nào cũng tanh mùi cá, và con người thì quẩn quanh tù túng, lúc nào cũng bận bịu với cuộc mưu sinh, không sao ngẩng mặt lên được. Đến một chiếc cầu qua chiếc lạch hẹp, "khéo lắm chỉ dài gấp đôi thân con bò" (lời Nguyễn Minh Châu trong nguyên văn) người ta cũng không bắc nổi, và muốn lên chợ, người ở xã bên cạnh chỉ có cách chen chúc trên một chiếc đò cũ nát, cọc cạch, để sang xã bên này. Lạ một cái là chỗ nào cũng đầy người, mảnh đất lầy lội vào những ngày phiên chợ càng chật những người là người, đám đông vữa ra như một con sứa bầy nhầy nhũn nhẽo khiến cho lão Đất (một thứ cai chợ) muốn lập lại trật tự chỉ có cách dùng đến roi vọt. Chính ở điểm này, chúng ta thấy sự hợp thời của lão Đất cũng như trong Khách ở quê ra, đã thấy sự hợp thời của lão Khúng: nghĩa là càng cổ lỗ, đơn giản, dung tục, thì càng được việc. ở đây không có chỗ cho sự tinh tế.
Như Nguyễn Minh Châu có lần đã kể, sau khi viết Khách ở quê ra, ông còn chí thú định viết một truyện nữa, có thể tạm gọi là Khách ở tỉnh về. Khi những mảnh sống tương phản được đặt cạnh nhau - Nguyễn Minh Châu giải thích - chúng làm tôn nhau lên và cho ta thấy rõ điều hàng ngày ta còn chưa thấy.
Tuy không được dày dặn như Khách ở quê ra, song Chợ tết chính là một thứ Khách ở tỉnh về mà Nguyễn Minh Châu đã dự định.
Cái làng biển được tả ở đây, là dưới con mắt Định, một người đang sống ở Hà Nội và có bà con họ hàng với lão Đất nói ở trên. Mang cốt cách một viên chức, một "cán bộ thoát ly", đời sống tinh thần của Định khá phong phú. Và cái chính là Định đã biết nhìn làng quê của mình bằng tầm mắt của người đi xa, biết rộng. Bởi vậy, nét nổi bật của cái làng chài được miêu tả trong Chợ tết lại là vẻ trì trệ cũ kỹ của nó. Phong cảnh hiện ra như từ muôn đời vẫn vậy, khiến Định luôn luôn ngạc nhiên: "mặc dù mặt đất bị xáo trộn, nhưng cuộc sống con người lại ngưng đọng, như một sự lặp lại". Thế còn con người trong làng? Một thiếu nữ mới nhớn, giống y như mẹ cô ta, ba mươi năm về trước. Một người kéo đò hơn năm mươi tuổi, cũng giống y như người kéo đò năm xưa, khiến Định ngạc nhiên, tưởng như ông ta không già không chết, sau hỏi ra mới biết đấy là con nối nghiệp bố. Cho đến cả câu đối tết nữa, Định cũng chả buồn đọc, bởi tin chắc "câu đối tết năm nào chẳng viết những câu như mọi năm trước". Có thể là trong những ngày thường sự tù túng tẻ nhạt đã ngự trị, song đến những ngày tết, sự ngưng trệ này mới hiện lên như một ám ảnh. Tâm trạng Định được phác họa như một trạng thái nước đôi, liên tục biến chuyển. "Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết, ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động, song sau đó, hình như chính nó lại làm Định đến phải phát mệt và sợ. Định tưởng mình cùng với cả một đám đông đang sôi sục đến chóng mặt trong một cái guồng quay đầy luẩn quẩn". Nhà văn hiện đại nổi tiếng Lỗ Tấn là một tài năng kiệt xuất với cái kích thước rộng lớn mà nước Trung Hoa hiện đại mang lại cho ông.
Tôi không có ý muốn đặt tài năng Nguyễn Minh Châu bên cạnh Lỗ Tấn, để làm một cuộc so sánh.
Tuy nhiên, đọc Chợ tết tôi cứ thầm nhớ lại Cố hương của nhà văn Trung Hoa mà sinh thời Nguyễn Minh Châu trong những câu chuyện với chúng tôi, thường tỏ ý khâm phục.
Cũng như trong Cố hương, đọc Chợ tết, ta có dịp sống lại những ý nghĩ của người con đi xa, về thăm quê cũ. Cũng vui buồn lẫn lộn xen lẫn bên nhau, và niềm vui gặp lại dù rộn ràng bao nhiêu cũng không đủ xóa hết ấn tượng về sự nghèo nàn tù túng đang vây bủa quê hương. Sau hết, sự gần gũi giữa Chợ tết và Cố hương là ở cái chất trữ tình như một làn sương mỏng thấp thoáng ẩn hiện sau những dòng chữ. Nhân vật Nhuận Thổ trong Cố hương sau mấy chục năm gặp lại, cũng già đi, xấu xí tầm thường đi, như người đàn bà tên là Tề, mà Định gặp trong phiên chợ tết. Nhưng người con của Nhuận Thổ là Thủy Sinh cũng tươi tắn sinh động, như cô gái tên Kim, con gái mẹ Tề, coi sạp hàng sách quốc doanh hôm nay. Kết truyện, trong khi Lỗ Tấn thiết tha tự nhủ "Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống", thì Nguyễn Minh Châu, qua nhân vật Định, sau một hồi thảng thốt trước một thực tế luẩn quẩn, cũng gần như kêu lên: "Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao, nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?".
Người ta thường nói nhà văn nên kín đáo giấu mình sau tác phẩm. Nhưng trong thực tế sáng tác, trước những khung cảnh xúc động, các nhà văn thường không ngại "xé rào" bước ra trò chuyện trực tiếp với người đọc. Lỗ Tấn đã làm như thế, rồi đến lượt Nguyễn Minh Châu, không hẹn mà nên, cũng làm như thế. Và điều nhân vật Định tự nhủ trong đầu cũng là điều chính Nguyễn Minh Châu muốn nhắn nhủ với chúng ta qua Chợ tết.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989). Ngoài một số cuốn sách đã nêu trong bài, ông còn là tác giả Mảnh đất tình yêu (1987), Cỏ lau (1989).
Phấn đấu hết mình vì một lý tưởng nghề nghiệp cao quý
Bên cạnh những Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân v.v... trong hàng ngũ những nhà văn Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, có một lớp trẻ hơn, trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu viết khỏe và nổi tiếng ngay từ sau 1954. Đó là Hữu Mai và Hồ Phương, Nguyễn Quang Sáng và Anh Đức, Phan Tứ và Nguyễn Kiên v.v... phần lớn họ sinh trưởng trước sau 1930 một vài năm. So với những tác giả ấy, Nguyễn Minh Châu tuy cũng sinh 1930, nhưng bắt đầu viết muộn hơn. Khoảng 1955-1956, khi Nguyên Ngọc đã được tặng giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, thì Nguyễn Minh Châu còn đang công tác ở một đơn vị chiến đấu. Và một lần, vui chuyện với bạn bè, ông mới rụt rè bảo "sau này tôi sẽ viết văn!" thì mọi người đều nghĩ rằng ông nói đùa, trong bụng thật không ai tin. Những năm 1958-60, Anh Đức (khi ấy còn ký Bùi Đức ái) đã rất nổi tiếng với Một chuyện chép ở bệnh viện, Nguyễn Khải đã có Xung đột lại có Mùa lạc, Phan Tứ (Lê Khâm) có Bên kia biên giới, Trước giờ nổ súng... Nguyễn Minh Châu còn đang là cộng tác viên của tạp chí Văn nghệ quân đội, truyện ngắn gửi về, cái được, cái hỏng. Mãi tới 1967, cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Minh Châu mang tên Cửa sông mới được in ra. Có điều, tiếp theo Cửa sông, qua năm 1972, Nguyễn Minh Châu lại rất thành công với Dấu chân người lính, một tác phẩm xét về cả khối lượng lẫn chất lượng đều thuộc loại đầy đặn bậc nhất của văn học trong những năm chống Mỹ. Từ đấy, nhiều truyện ngắn, truyện vừa khác tiếp tục ra đời và thật khó hình dung văn học Việt Nam hiện đại, nếu thiếu đi những trang văn xuôi của Nguyễn Minh Châu. Hóa ra, sự xuất hiện muộn mằn ở đây lại là một điều có lợi. Nhà văn được chuẩn bị kĩ lưỡng để dẻo dai, bền bỉ trong công việc.
Những ảnh hưởng quan trọng
Tìm hiểu những số báo Văn nghệ đặc biệt dành riêng để nói về các nhà văn, nhà thơ Việt Nam từ sau 1945, người ta nhận ra hai vùng đất đã từng sản sinh ra nhiều người viết là Nghệ Tĩnh và Hà Nam Ninh. Đó cũng là hai mảnh đất quê hương của nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học.
Điều may mắn với Nguyễn Minh Châu là tác giả có điều kiện tiếp thu được truyền thống văn hóa của cả hai vùng đất đó. Quê hương Nghệ Tĩnh, nhưng những năm chống Pháp, người lính này lại chiến đấu ở Sư đoàn chủ lực 320 nên có dịp gắn bó với các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Có lẽ vì thế, trong con người cũng như trong văn của ông, người ta dễ "đọc" ra cả hai ảnh hưởng quan trọng đó. Mới gặp, dễ nghĩ đây là một con người chắc thiệt giản dị, vẻ không dây dưa gì với văn chương. ở lâu hơn một chút, lại thấy đó là một người đôn hậu, sống có tình với mọi người, ai có chuyện gì vui buồn cũng muốn chia sẻ. Chỉ khi đọc văn Nguyễn Minh Châu, người ta mới nhận ra đấy là một con người tài hoa, thường nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ và có được một cảm quan tinh tế về ngôn ngữ văn học, nên biết thực hiện được những nhiệm vụ chính trị của một người viết văn một cách sáng tạo, như một hành động văn hóa.
Tác phẩm hôm qua và hôm nay
Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, Cửa sông miêu tả một vùng đất đồng bằng Bắc bộ khoảng những năm 1965-1966, khi sức người, sức của vừa hồi sinh sau cuộc kháng chiến chống Pháp, lại được huy động ráo riết phục vụ cuộc chiến đấu mới.
Được viết nhân chuyến tác giả đi công tác dài ngày vào mặt trận Khe Sanh (1967-1968), Dấu chân người lính có phần đi sâu hơn vào đời sống tinh thần của lớp thanh niên những năm chống Mỹ. Dưới nhan đề Hành quân, phần một của cuốn sách dựng lên cả bức bích họa rộng lớn về hình ảnh đoàn quân ra trận, qua đó, bút lực của tác giả được công nhận là khá già dặn.
Từ sau 1975, cảm tình của Nguyễn Minh Châu với những con người đã dạn dầy trong chiến đấu chẳng những vượt lên mà còn đi vào bề sâu. Trong nhiều truyện ngắn, nhà văn có dịp dừng lại ở nhiều trạng thái tâm lý tế nhị. Bức tranh: sự hối hận của một con người sao nhãng lời hứa của mình trong chiến tranh. Mẹ con chị Hằng: mối quan hệ nhiều vẻ giữa các thế hệ khác nhau trong một gia đình cán bộ. Khách ở quê ra: Một nét tâm lý nông dân, những người gánh chịu cuộc chiến tranh ghê gớm vừa qua, những người sống bám vào đất đai vườn ruộng để mà tồn tại và nay đang đứng trước ngưỡng cửa của những đổi mới chưa từng có... Khoảng hai chục đoản thiên ông viết hồi ấy sau được tập hợp lại trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985). Một số truyện của Nguyễn Minh Châu còn sượng, dụng ý đạo đức phô bày lộ liễu. Một số truyện khác, tác giả còn ấp úng, chưa thật nhuyễn, chưa hoàn toàn làm chủ được điều mình định nói với bạn đọc. Song, phải công nhận Nguyễn Minh Châu là một ngòi bút mang nhiều tâm huyết với đời sống, ông luôn luôn muốn chứng tỏ mình sống giữa mọi người, cùng vui buồn lo lắng với từng bạn đọc bình thường. Sau những câu chuyện dung dị, đôi khi ẩn giấu một nụ cười ý nhị, dường như tác giả muốn nói với chúng ta: cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ. Với người này, lúc này, nó hiện ra sôi nổi hào hùng, với người khác, vào một lúc khác, nó có thể nhếch nhác, buồn tẻ... Nhưng dù thế nào, nhìn kĩ, nó vẫn có cái vẻ đáng yêu, đáng để chúng ta sống.
Phấn đấu hết mình vì một lý tưởng nghề nghiệp cao quý
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn rất nghiêm túc trong vấn đề nghề nghiệp và thường băn khoăn tìm tòi để nâng cao chất lượng sáng tác. Ông hiểu trang viết của bản thân và nhiều đồng nghiệp không khỏi còn nhiều chỗ yếu, trong đó, một chỗ yếu đáng kể là bản lĩnh văn hóa của chính những người cầm bút. Cuộc sống của nhân dân, đất nước trong những năm này, không thiếu cái để viết, nhưng điều quan trọng là chúng ta biết làm toát ra từ đấy một tinh thần nhân bản cao quý. Có được cái ánh sáng đó, trang viết của nhà văn sẽ không sợ phôi pha theo thời gian. Những trang viết đó không chỉ được sự thông cảm của những người đọc chân chính, mà còn giúp cho các nhà văn tiến tới để một lúc nào đó, có thể xây dựng được những tác phẩm sánh ngang với mọi thành quả của các thế hệ viết văn tài năng trước đây.
Sự dũng cảm rất điềm đạm
Nguyễn Minh Châu và nghề văn Trong trí nhớ của những người có mặt ở Hà Nội những năm ngay sau hòa bình lập lại 1954, những anh bộ đội từ Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô hiện ra với một vẻ thiêng liêng đến mức gần như thần thánh. Lớn lên giữa một nông thôn Việt Nam ngưng đọng trước 1945, những anh bộ đội ấy thường có cái vẻ chân chất hiền lành mà chỉ thời gian đó mới có. Nếu như lại được những trường tiểu học trung học cũ bồi đắp thêm cho kiến thức văn hóa thì những nét mặt chất phác đó sẽ rõ ràng một thứ ánh sáng tinh thần thực thụ. Trong bộ quần áo vải thô, cái áo trấn thủ "36 đường gian khổ", và cái mũ tre đơn sơ, ở họ toát lên sự ổn định tính cách và mỗi chiến sĩ đều trở thành những con người rất đáng tin cậy.
Từ những lần gặp đầu tiên, Nguyễn Minh Châu đã gợi nhớ trong tôi hình ảnh lớp bộ đội chất phác và có văn hóa đó. Về sau đôi khi có thấy ông xúng xính trong bộ quần áo com-lê tham gia một đoàn nhà văn Việt Nam đi nước ngoài, hoặc diện vào người chiếc áo sơ mi trắng tinh tươm, chiều hè đạp xe thong thả trên đường Thanh niên bên Hồ Tây... nhưng cái hình ảnh đậm nét nhất mà Nguyễn Minh Châu để lại trong tôi vẫn là một anh bộ đội. Anh bộ đội ấy có đằng sau lưng mình những năm chiến tranh. Anh bộ đội ấy có vô vàn đồng đội dũng cảm. Có điều, ở anh bộ đội ấy lại có những nét cao quý, nó là dấu ấn của một thời gian, khi con người sống hòa hợp với hoàn cảnh của mình và biết tìm cho mình một lẽ sống đẹp. Người chiến sĩ mà Nguyễn Minh Châu đại diện là người chiến sĩ có văn hóa; và, trên mặt trận văn hóa, người chiến sĩ đó đã bộc lộ cái bản lĩnh vững vàng cái cốt cách đàng hoàng tinh tế của mình. Người chiến sĩ ấy đồng thời là một tay thợ tài hoa nữa.
Mở đầu một bài viết sau này được công bố như một thứ di bút cuối cùng, Nguyễn Minh Châu kể rằng trời phú cho ông một bản tính nhút nhát, trời buộc ông cứ phải lúng túng ngần ngại trước đông người, mặc dù khi ngồi giữa một đám bạn bè, ông cũng mau mồm mau miệng, và tài đấu hót, của ông xem ra chả kém ai.
Bây giờ thì cái lối tự mình châm biếm mình đã phổ biến lắm, Nguyễn Minh Châu lại cũng đã đủ nổi tiếng để không cần dùng lối tự châm biếm cốt làm cho mình nổi tiếng hơn, song sự thật là cả hai nét tính cách đó đều có thật ở ông. Hơn thế nữa, nhìn cả đời văn tác giả mà xét, phải thấy một cái gì rộng hơn: sự mau mắn của Nguyễn Minh Châu không phải chỉ trong đối đáp mà nằm ngay trong suy nghĩ; đằng sau sự nhút nhát không thể khắc phục nổi đó là một sự dũng cảm gần như bẩm sinh, sự dũng cảm mà một nhà văn nhất thiết phải có, và do chỗ vẫn cùng tồn tại với sự nhút nhát kia, nên nó lại là một sự dũng cảm rất điềm đạm.
ý tôi muốn nói đến cách hiểu về sứ mệnh nhà văn của Nguyễn Minh Châu, một cách hiểu đầy trách nhiệm và gần với sự thật.
Từ lâu lắm rồi, mỗi khi có dịp trình bày những suy nghĩ của mình về nghề nghiệp, các nhà văn ở ta thường có thói quen trưng ra cái hạnh phúc, cái may mắn mà họ có: Rằng được viết văn thời này thật là sung sướng. Rằng ở họ có bao nhiêu thuận lợi... Nghe nói đi nói lại mãi như vậy, rồi bạn đọc có lẽ cũng quen đi và tin là thật. Mấy ai biết tới những đau xót trong nghề, những khi - mượn cách nói của Nguyễn Minh Châu - nước mắt ứa ra trên mắt người viết, giọt nuốt vào lòng, giọt rơi lã chã trên trang giấy? Mấy ai biết tới những nguy hiểm trong nghề? Có những cây bút, kể cả những cây bút có tài, đã đầu hàng trước những thách thức này, tự đánh mất mình, trở thành những kẻ cầu an, những ông phán cách mạng, nhạt nhẽo, khó chịu.
Thế còn con đường của Nguyễn Minh Châu ra sao?
Đọc những truyện ngắn truyện dài ông viết khi mới vào nghề, thấy chỗ xuất phát của Nguyễn Minh Châu cũng giống như mọi người. Không phải ngẫu nhiên trong Dấu chân người lính, tác giả để cho nhân vật mà ông hết sức yêu mến là Lữ buột ra một lời tâm huyết: "Tất cả chúng ta có thể sẵn sàng đổi mọi thứ khả năng khác nhau riêng của mình để lấy một thứ khả năng quân sự... Lúc này không có một thứ tài năng nào quý bằng tài năng đánh giặc". Khi viết những dòng ấy, dường như Nguyễn Minh Châu đang tự nhủ với chính mình: trong chiến tranh mỗi người phải sẵn sàng làm tất cả, miễn trở thành một ngòi bút phục vụ tốt cho cuộc chiến đấu.
Nhưng, như Nguyễn Minh Châu từng nói, quá trình viết vừa là quá trình xả điện, vừa là nạp điện, trong khi viết ra những cuốn sách, các nhà văn lại nghiền ngẫm để làm nên số phận văn học của mình. Lăn lộn trên các ngả đường khu Bốn và đồng bằng Bắc bộ những năm chống Pháp, những ngả đường Vĩnh Linh, Cam Lộ, Khe Sanh, Cửa Việt... những năm chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu nhận ra rằng chiến tranh không chỉ là những chiến công, chiến tranh còn là muôn vàn vận động thay đổi liên quan đến cuộc đời từng con người cụ thể, và nếu như trong chiến tranh, việc sử dụng trang viết như một sự cổ vũ là cần thiết, thì, đến lúc nào đó, nhất là sau chiến tranh, lương tâm và trách nhiệm lại buộc người cầm bút phải có cách tiếp cận với đề tài chiến tranh một cách cụ thể, xác thực mà cũng là đa dạng và cận nhân tình hơn.
Từ cuối những năm 60, tức là trong quá trình chuẩn bị viết Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã có lần ghi vào nhật ký: "Trong cuộc chiến đấu để giành lại đất nước với kẻ thù bên ngoài hai mươi năm nay, ta rèn cho dân tộc ta bao nhiêu đức tính tốt đẹp như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự nghiệp của Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó, hai mươi năm nay không có thì giờ để nhìn ta một cách thật kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc, vụ lợi còn được ẩn kín và đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu? Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài".
Để đến được nhận thức như vậy, Nguyễn Minh Châu đã trải bao day dứt, vật vã nhưng lương tâm là điều một người như ông không thể từ chối. Lương tâm buộc ông phải trở thành một ngòi bút dũng cảm. Và thế là tiếp sau Cửa sông, Dấu chân người lính, những năm sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu cho ra đời liên tiếp những Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa..., những trang viết cho ta thấy một khuôn mặt mới của Nguyễn Minh Châu. Đọc những tác phẩm viết trong hơn mười năm cuối đời của ông, tôi lại nhớ tới những anh bộ đội của những năm kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội với chiếc áo trấn thủ "36 đường gian khổ" và những chiếc mũ tre đơn sơ, đôi khi được căng một mảnh dù nhỏ ở ngoài. Điều thú vị ở đây là con đường của một ngòi bút dũng cảm không dẫn tác giả đi đâu xa mà trở về với cội nguồn của lẽ sống mới, tức cũng là trở về với những lý tưởng tốt đẹp đã thúc đẩy hàng triệu người làm nên Cách mạng và Kháng chiến.
Một bản di chúc
Không có mặt trong cả Bến quê lẫn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Chợ tết lẻ loi lọt đi giữa một số báo đến mức nhiều người không biết có nó. Ai ngờ thiên truyện ngắn ngủi lại chứa đựng nỗi niềm tâm sự sâu sắc nhất Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới bạn đọc.
Có một năm, khoảng đầu 1973-1974 gì đấy, đang giữa tháng chạp âm lịch, Nguyễn Minh Châu bị bệnh, phải đi viện và khi ông ra viện, thì đã xong tết. Mọi người ai cũng tỏ vẻ tiếc cho ông là mất một dịp vui, nhưng tôi nhớ là khi nghe vậy, Nguyễn Minh Châu chỉ cười, cái cười hiền lành tự tin vốn có. Rồi ông bảo:
- Thôi cũng tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên!
Thoạt nghe câu nói có vẻ khinh bạc, nhưng những ai có biết Nguyễn Minh Châu hẳn còn nhớ thường ông sống hơi khó khăn trước những đám đông, cái việc ông ngại tết là có thật, và mỗi lần tết đến thường ông cứ vừa hoan hỉ vừa lúng túng thế nào đó, khiến mọi người có lúc buồn cười song lại nhiều phen thương cảm.
Lại đã có những lần, đúng vào dịp gần tết, Nguyễn Minh Châu về quê. Cái làng chài nơi ông đã lớn lên là thuộc huyện Quỳnh Lưu, cách Hà Nội hơn hai trăm cây số. Hồi ấy, bà cụ sinh ra ông còn sống và càng thương mẹ, ông lại càng thương quê, thương cái làng mà có lần ông nói với tôi một cách khái quát rằng, nó còn "thiên nhiên thiên bẩm", nghĩa là còn hoang dã lắm. Từ quê trở ra, hầu như bao giờ Nguyễn Minh Châu cũng buồn. Những ngày thường cái buồn đã nặng trĩu tâm hồn ông, huống chi những ngày giáp tết. Biết ông vừa đi xa về, nhưng bọn tôi cũng chỉ nói quấy quá ít chuyện vui vẻ mà không dám hỏi sâu thêm. Song, càng thấy Nguyễn Minh Châu xúc động, người ta càng tin món nợ viết về làng quê vẫn nung nấu trong ông và chờ ngày có dịp chứng kiến ông viết trực tiếp về quê hương.
Chợ tết là một dịp để Nguyễn Minh Châu trả món nợ đó. Thiên truyện in ra lần đầu trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 2-1988. Gần một năm sau, Nguyễn Minh Châu qua đời, ngày 27-1-1989. Một cách ngẫu nhiên, Chợ tết có cái may mắn nằm trong số báo xuân cuối cùng mà Nguyễn Minh Châu tỉnh táo còn được nhìn thấy. Và sự trùng hợp đó càng cho phép tôi tin rằng đây là một thiên truyện được Nguyễn Minh Châu để tâm săn sóc kỹ lưỡng, nó giống như bản di chúc Nguyễn Minh Châu rút ra từ đời văn và đời làm người của mình. Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm cuối đời là Khách ở quê ra. Để tránh những sự công kích vô lối, có lần nhà văn hay lo xa đã phải tìm cách mang lại cho tác phẩm một nội dung thời sự bằng cách chua thêm vào bên cạnh đầu đề dòng chữ "Vài nét cốt cách của một người sản xuất nhỏ cổ sơ còn lại ở nông thôn phản ứng trước tập quán công nghiệp và đô thị". Tuy nhiên, ai cũng biết cảm hứng chi phối Khách ở quê ra là cái phần bóng tối còn nặng nề, cái phần lạc hậu một thời gian dài còn bao trùm lên con người và cuộc sống nông thôn. Lớn lên trên mảnh đất đã quá cằn cỗi, con người ta phải như cây rau dền gai thô tháp, chen cạnh, bám chặt vào cuộc sống thì mới sống nổi.
Một ấn tượng tương tự về nông thôn cũng có thể tìm thấy trong Chợ tết. Nhếch nhác, bẩn thỉu, cái làng biển được nói tới ở đây lúc nào cũng tanh mùi cá, và con người thì quẩn quanh tù túng, lúc nào cũng bận bịu với cuộc mưu sinh, không sao ngẩng mặt lên được. Đến một chiếc cầu qua chiếc lạch hẹp, "khéo lắm chỉ dài gấp đôi thân con bò" (lời Nguyễn Minh Châu trong nguyên văn) người ta cũng không bắc nổi, và muốn lên chợ, người ở xã bên cạnh chỉ có cách chen chúc trên một chiếc đò cũ nát, cọc cạch, để sang xã bên này. Lạ một cái là chỗ nào cũng đầy người, mảnh đất lầy lội vào những ngày phiên chợ càng chật những người là người, đám đông vữa ra như một con sứa bầy nhầy nhũn nhẽo khiến cho lão Đất (một thứ cai chợ) muốn lập lại trật tự chỉ có cách dùng đến roi vọt. Chính ở điểm này, chúng ta thấy sự hợp thời của lão Đất cũng như trong Khách ở quê ra, đã thấy sự hợp thời của lão Khúng: nghĩa là càng cổ lỗ, đơn giản, dung tục, thì càng được việc. ở đây không có chỗ cho sự tinh tế.
Như Nguyễn Minh Châu có lần đã kể, sau khi viết Khách ở quê ra, ông còn chí thú định viết một truyện nữa, có thể tạm gọi là Khách ở tỉnh về. Khi những mảnh sống tương phản được đặt cạnh nhau - Nguyễn Minh Châu giải thích - chúng làm tôn nhau lên và cho ta thấy rõ điều hàng ngày ta còn chưa thấy.
Tuy không được dày dặn như Khách ở quê ra, song Chợ tết chính là một thứ Khách ở tỉnh về mà Nguyễn Minh Châu đã dự định.
Cái làng biển được tả ở đây, là dưới con mắt Định, một người đang sống ở Hà Nội và có bà con họ hàng với lão Đất nói ở trên. Mang cốt cách một viên chức, một "cán bộ thoát ly", đời sống tinh thần của Định khá phong phú. Và cái chính là Định đã biết nhìn làng quê của mình bằng tầm mắt của người đi xa, biết rộng. Bởi vậy, nét nổi bật của cái làng chài được miêu tả trong Chợ tết lại là vẻ trì trệ cũ kỹ của nó. Phong cảnh hiện ra như từ muôn đời vẫn vậy, khiến Định luôn luôn ngạc nhiên: "mặc dù mặt đất bị xáo trộn, nhưng cuộc sống con người lại ngưng đọng, như một sự lặp lại". Thế còn con người trong làng? Một thiếu nữ mới nhớn, giống y như mẹ cô ta, ba mươi năm về trước. Một người kéo đò hơn năm mươi tuổi, cũng giống y như người kéo đò năm xưa, khiến Định ngạc nhiên, tưởng như ông ta không già không chết, sau hỏi ra mới biết đấy là con nối nghiệp bố. Cho đến cả câu đối tết nữa, Định cũng chả buồn đọc, bởi tin chắc "câu đối tết năm nào chẳng viết những câu như mọi năm trước". Có thể là trong những ngày thường sự tù túng tẻ nhạt đã ngự trị, song đến những ngày tết, sự ngưng trệ này mới hiện lên như một ám ảnh. Tâm trạng Định được phác họa như một trạng thái nước đôi, liên tục biến chuyển. "Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết, ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động, song sau đó, hình như chính nó lại làm Định đến phải phát mệt và sợ. Định tưởng mình cùng với cả một đám đông đang sôi sục đến chóng mặt trong một cái guồng quay đầy luẩn quẩn". Nhà văn hiện đại nổi tiếng Lỗ Tấn là một tài năng kiệt xuất với cái kích thước rộng lớn mà nước Trung Hoa hiện đại mang lại cho ông.
Tôi không có ý muốn đặt tài năng Nguyễn Minh Châu bên cạnh Lỗ Tấn, để làm một cuộc so sánh.
Tuy nhiên, đọc Chợ tết tôi cứ thầm nhớ lại Cố hương của nhà văn Trung Hoa mà sinh thời Nguyễn Minh Châu trong những câu chuyện với chúng tôi, thường tỏ ý khâm phục.
Cũng như trong Cố hương, đọc Chợ tết, ta có dịp sống lại những ý nghĩ của người con đi xa, về thăm quê cũ. Cũng vui buồn lẫn lộn xen lẫn bên nhau, và niềm vui gặp lại dù rộn ràng bao nhiêu cũng không đủ xóa hết ấn tượng về sự nghèo nàn tù túng đang vây bủa quê hương. Sau hết, sự gần gũi giữa Chợ tết và Cố hương là ở cái chất trữ tình như một làn sương mỏng thấp thoáng ẩn hiện sau những dòng chữ. Nhân vật Nhuận Thổ trong Cố hương sau mấy chục năm gặp lại, cũng già đi, xấu xí tầm thường đi, như người đàn bà tên là Tề, mà Định gặp trong phiên chợ tết. Nhưng người con của Nhuận Thổ là Thủy Sinh cũng tươi tắn sinh động, như cô gái tên Kim, con gái mẹ Tề, coi sạp hàng sách quốc doanh hôm nay. Kết truyện, trong khi Lỗ Tấn thiết tha tự nhủ "Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống", thì Nguyễn Minh Châu, qua nhân vật Định, sau một hồi thảng thốt trước một thực tế luẩn quẩn, cũng gần như kêu lên: "Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao, nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?".
Người ta thường nói nhà văn nên kín đáo giấu mình sau tác phẩm. Nhưng trong thực tế sáng tác, trước những khung cảnh xúc động, các nhà văn thường không ngại "xé rào" bước ra trò chuyện trực tiếp với người đọc. Lỗ Tấn đã làm như thế, rồi đến lượt Nguyễn Minh Châu, không hẹn mà nên, cũng làm như thế. Và điều nhân vật Định tự nhủ trong đầu cũng là điều chính Nguyễn Minh Châu muốn nhắn nhủ với chúng ta qua Chợ tết.
Vương Trí Nhàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét