1. Bản nhạc “Áo lụa Hà Đông” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên
phổ từ thơ Nguyên Sa, thơ và nhạc đã khiến người nghe không khỏi bâng khuâng,
quyến luyến một hình ảnh quyến rũ và duyên dáng của giai nhân trong chiếc áo lụa
Hà Đông, một địa danh nổi tiếng về ngành dệt lụa. Chắc chắn chiếc áo mà
Nguyên Sa mô tả đây phải là chiếc áo dài, chứ không thể là áo cánh hay áo bà ba được. Vẫn biết y phục của phụ nữ Việt Nam có ba bốn loại áo. Áo bà ba mà
người miền Nam thường mặc ở trong nhà hay đi chợ, giống như cái áo cánh của phụ
nữ miền Bắc và miền Trung vậy. Thế nhưng, tất cả ba miền, khi người phụ nữ đi dự
lễ, đình đám, tiệc tùng… thì hầu như các bà, các cô đều mặc áo dài cả.
Tiếng hát của Duy Trác tha thiết:
Nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng….
Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu thương,
Anh thay mực cho vừa màu áo tím.
(Nguyên Sa)
Vâng, màu áo nàng đã khiến những anh sinh viên ngơ ngẩn mỗi chiều bên cổng trường ngóng đợi một tà áo thân quen…
Những tà áo trắng như những cánh bướm của các nữ sinh đang tuổi xuân thì đã khiến bao con tim các nam sinh rung động.
Sân trường bầy gái trẻ
Đùa nắng má hây hây
Gió vô tình thổi nhẹ
Tà áo trắng tung bay…
(Trần văn Lương)
Và còn nhiều nữa, như:
Sàigòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà áo em bay theo giọt nắng vàng.
Con đường ta đi dòng sông kỷ niệm,
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng.
(Trần Ngọc)
ngoài cửa lớp
Là áo người trắng cả giấc ngủ mê
Là bài thơ còn hoài trong cặp
Giữa giờ chơi mang đến lại mang về.
(Đỗ Trung Quân)
Em về mặc cánh hoa rơi
Áo em tím suốt một trời bằng lăng.
(Bình Nguyên Trang)
Áo dài thường may bằng những hàng lụa mỏng, màu sắc nhẹ nhàng. Chiều dài của áo cách gấu quần khoảng 30 phân, có khi ít hơn. Áo dài có cổ, giống như cổ áo tàu, cổ áo cao chừng hai, ba centimet. Thân trên của áo dài may sát với thân hình người phụ nữ, kín từ cổ đến cánh tay, nhưng vẫn phô trương được nhưng nét mỹ miều của thân thể, và vẫn là kín đáo đoan trang. Từ vòng eo trở xuống thân áo gồm hai vạt áo, vạt trước và vạt sau. Bên trong, người phụ nữ mặc quần dài, may thuôn theo hai ống chân, những cô gái có đôi chân dài, mặc quần bằng tơ, hay lụa óng, khi bước đi, dáng uyển chuyển, và hai tà áo được tự do bay bay theo gió thổi, đã khiến một ký giả người Mỹ, bạn của anh tôi, lần đầu đến Việt Nam vào thập niên 60 khi nhìn các nữ sinh trung học lúc tan trường, đã phải kêu lên là đẹp quá và đã ví những tà áo trắng đó không khác gì một đàn bướm bay lượn trên con đường Cường Để ngập lá vàng.
2. Chiếc áo dài đã được biến dạng ra sao từ những năm xa xưa?
Khoảng thời điểm của năm 1910 tới 1950, chiếc áo dài được may hơi rộng rộng, không bó sát thân hình, vì người phụ nữ phải mặc chiếc áo cánh ngắn tay bên trong, thông thường là áo “phin” hàng cotton, mỏng, sợi tơ vải rất thanh, và nhẹ, gọi là áo “phin nõn”. Chiếc áo ngắn đó có túi nhỏ bên hai vạt áo. Hàng áo dài thường là lụa, vải, còn gấm và tơ dành cho những người giàu có. Người nghèo thì may áo dài bằng vải.
Nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng….
Áo Lụa Hà Đông - Duy Trác - NhacCuaTui
Chiếc áo dài Việt Nam đã được ca tụng qua bao nhiêu triều đại và quả đúng như vậy, vì chiếc áo dài khi được mặc trên mình người thiếu nữ, đã duyên dáng xinh đẹp ra sao, nên mới đánh động được các thi, hoạ,văn nhân tốn bao nhiều sơn, mực, phấn, giấy, vải, để lưu lại hình ảnh giai nhân với chiếc áo dài tha thướt đó. Các thi nhân thì ngẩn ngơ khi ngắm một tà áo bay bay trong chiều thu sang.Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu thương,
Anh thay mực cho vừa màu áo tím.
(Nguyên Sa)
Vâng, màu áo nàng đã khiến những anh sinh viên ngơ ngẩn mỗi chiều bên cổng trường ngóng đợi một tà áo thân quen…
Những tà áo trắng như những cánh bướm của các nữ sinh đang tuổi xuân thì đã khiến bao con tim các nam sinh rung động.
Sân trường bầy gái trẻ
Đùa nắng má hây hây
Gió vô tình thổi nhẹ
Tà áo trắng tung bay…
(Trần văn Lương)
Và còn nhiều nữa, như:
Sàigòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà áo em bay theo giọt nắng vàng.
Con đường ta đi dòng sông kỷ niệm,
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng.
(Trần Ngọc)
ngoài cửa lớp
Là áo người trắng cả giấc ngủ mê
Là bài thơ còn hoài trong cặp
Giữa giờ chơi mang đến lại mang về.
(Đỗ Trung Quân)
Em về mặc cánh hoa rơi
Áo em tím suốt một trời bằng lăng.
(Bình Nguyên Trang)
Áo dài thường may bằng những hàng lụa mỏng, màu sắc nhẹ nhàng. Chiều dài của áo cách gấu quần khoảng 30 phân, có khi ít hơn. Áo dài có cổ, giống như cổ áo tàu, cổ áo cao chừng hai, ba centimet. Thân trên của áo dài may sát với thân hình người phụ nữ, kín từ cổ đến cánh tay, nhưng vẫn phô trương được nhưng nét mỹ miều của thân thể, và vẫn là kín đáo đoan trang. Từ vòng eo trở xuống thân áo gồm hai vạt áo, vạt trước và vạt sau. Bên trong, người phụ nữ mặc quần dài, may thuôn theo hai ống chân, những cô gái có đôi chân dài, mặc quần bằng tơ, hay lụa óng, khi bước đi, dáng uyển chuyển, và hai tà áo được tự do bay bay theo gió thổi, đã khiến một ký giả người Mỹ, bạn của anh tôi, lần đầu đến Việt Nam vào thập niên 60 khi nhìn các nữ sinh trung học lúc tan trường, đã phải kêu lên là đẹp quá và đã ví những tà áo trắng đó không khác gì một đàn bướm bay lượn trên con đường Cường Để ngập lá vàng.
2. Chiếc áo dài đã được biến dạng ra sao từ những năm xa xưa?
Khoảng thời điểm của năm 1910 tới 1950, chiếc áo dài được may hơi rộng rộng, không bó sát thân hình, vì người phụ nữ phải mặc chiếc áo cánh ngắn tay bên trong, thông thường là áo “phin” hàng cotton, mỏng, sợi tơ vải rất thanh, và nhẹ, gọi là áo “phin nõn”. Chiếc áo ngắn đó có túi nhỏ bên hai vạt áo. Hàng áo dài thường là lụa, vải, còn gấm và tơ dành cho những người giàu có. Người nghèo thì may áo dài bằng vải.
Về màu sắc của áo dài, thì vào thời điểm đó, phụ nữ còn nhiều nhút nhát e dè.
Không dám làm cách mạng trong vấn đề y phục, nên họ thường mặc những màu nhạt, nhẹ nhàng, mà không dám mặc những màu sặc sỡ, trông chói lọi vì sợ
cho là không đứng đắn. Cái nền nếp, sự bảo thủ của lớp người cổ xưa đã khiến
người phụ nữ thuở đó phải ngại ngần trong sự chọn màu sắc của áo. Chỉ những
ả đầu hay đào hát mới dám dùng mầu sặc sỡ cho y phục. Còn các tiểu thư, các bà
mệnh phụ đa số là mặc những màu hồng nhạt, màu lòng tôm, màu mỡ gà. Những màu rực
rỡ chỉ được họ mặc trong dịp lễ lớn như đám cưới, đám rước hội. Hầu như người
ta không thấy người phụ nữ bình thường ở lớp tuổi 30 lại mặc màu đỏ khi đi phố.
Màu trắng, đen, xám, và nâu là dành cho những phụ nữ tuổi
ngoài 40. Vào thập niên đó khó mà kiếm được một cô gái đương thì, tuổi xuân mộng
lại chọn màu xám buồn để mặc. Màu trắng, quần trắng là thường dành cho học sinh
trung học, Ngoài ra, màu trắng, màu đen, cũng thường dùng cho những trường hợp
tang chế.
Cổ áo dài thường may giống như cổ áo Tàu. Phụ nữ ở vào tuổi trung niên thì cổ áo may hở một khúc nhỏ phía trước khoảng bằng nửa gang tay để phô trương những dây hột vàng 24k được đánh như dây chuyền, gồm các hột vàng nhỏ bằng 1/3 hột đậu xanh, kết lại thành một chuỗi dài và quấn nhiều vòng quanh cổ, nhưng họ chỉ khoe phần nữ trang đó ở chỗ cổ phía truớc. Phần còn lại được đeo dấu bên trong áo. Họ không đeo nguyên xâu chuỗi ra ngoài cổ áo.
3. Khuy áo cũng đóng một vai trò quan trọng và biến dạng dần theo mốt của áo. Khuy áo cũng được đổi thay theo mốt của áo. Khuy áo thường được làm bằng những hạt thủy tinh trong, tròn như hòn bi và to hơn hạt ngô, đủ màu theo áo. Nhưng thường là màu hổ phách, hay màu xanh ngọc, như màu quả nho, hoặc hạt khuy được tráng thủy giống như những viên ngọc trai màu phấn hồng, màu ngà.
Khuy áo được đính vào áo bằng chân khuy. Chân khuy áo được kết bằng hàng vải cùng màu, hay chính vải của áo, được may lộn nhỏ như thân cây tăm to, đó là những chiếc chân khuy đẹp. Người thợ may xếp hai chân khuy như hai chiếc tăm nhỏ nằm song song nhau. Khéo và may giỏi là sao hai chân khuy áo may lộn cho thật mướt, đều và nhỏ, mũi kim đính khuy vào thân áo phải đều như tắp, chiếc khuy được lồng vào chân khuy, bộ khuy được chia làm hai phần, phần một là phần có hạt khuy áo, phần kia là phần hạt khuy áo được lồng vào, chân của khuy áo đều giống nhau từ dạng đến kích thước. Ngoài ra khuy cũng được làm bằng vải kết lại, khuy thường là bằng vải cùng màu với vải may áo, nếu là áo hoa, thì sẽ phải chọn một màu nào nhiều nhất của áo để làm khuy.
Cổ áo dài thường may giống như cổ áo Tàu. Phụ nữ ở vào tuổi trung niên thì cổ áo may hở một khúc nhỏ phía trước khoảng bằng nửa gang tay để phô trương những dây hột vàng 24k được đánh như dây chuyền, gồm các hột vàng nhỏ bằng 1/3 hột đậu xanh, kết lại thành một chuỗi dài và quấn nhiều vòng quanh cổ, nhưng họ chỉ khoe phần nữ trang đó ở chỗ cổ phía truớc. Phần còn lại được đeo dấu bên trong áo. Họ không đeo nguyên xâu chuỗi ra ngoài cổ áo.
3. Khuy áo cũng đóng một vai trò quan trọng và biến dạng dần theo mốt của áo. Khuy áo cũng được đổi thay theo mốt của áo. Khuy áo thường được làm bằng những hạt thủy tinh trong, tròn như hòn bi và to hơn hạt ngô, đủ màu theo áo. Nhưng thường là màu hổ phách, hay màu xanh ngọc, như màu quả nho, hoặc hạt khuy được tráng thủy giống như những viên ngọc trai màu phấn hồng, màu ngà.
Khuy áo được đính vào áo bằng chân khuy. Chân khuy áo được kết bằng hàng vải cùng màu, hay chính vải của áo, được may lộn nhỏ như thân cây tăm to, đó là những chiếc chân khuy đẹp. Người thợ may xếp hai chân khuy như hai chiếc tăm nhỏ nằm song song nhau. Khéo và may giỏi là sao hai chân khuy áo may lộn cho thật mướt, đều và nhỏ, mũi kim đính khuy vào thân áo phải đều như tắp, chiếc khuy được lồng vào chân khuy, bộ khuy được chia làm hai phần, phần một là phần có hạt khuy áo, phần kia là phần hạt khuy áo được lồng vào, chân của khuy áo đều giống nhau từ dạng đến kích thước. Ngoài ra khuy cũng được làm bằng vải kết lại, khuy thường là bằng vải cùng màu với vải may áo, nếu là áo hoa, thì sẽ phải chọn một màu nào nhiều nhất của áo để làm khuy.
4. Thế rồi có một cuộc cách mạng lớn về y phục của thập niên 30, do nhà vẽ kiểu
mẫu y phục thời trang: Cát Tường, được mệnh danh là Le Mur, Người sáng chế
những đổi mới cho áo dài, đã làm một cuộc cách mạng lớn về y phục phụ nữ ngày
đó. Ông Cát Tường đã cải biến những chiếc áo dài, gây sôi nổi trong xã hội
thời bấy giờ và bị giới bảo thủ chống đối kịch liệt, cho là kiểu áo mới làm hư
phụ nữ. Dĩ nhiên những kiểu áo dài do ông sáng chế ra đã được một số phụ nữ
theo mới yêu thích. Những chiếc áo đó có cái đẹp riêng của chúng. Chiếc áo Le Mur cải biến là tay áo không ráp theo lối thường trước đó, tức là tay áo ráp ở khoảng giữa cánh tay, từ vai xuống khuỷu. Lối cải biến của nhà may
Cát Tường thì tay áo được ráp từ vai như áo sơ mi hay áo ngắn. Vai áo hơi bồng, hò áo được thay đổi, cổ áo được cắt rộng xuống, không còn cổ như kiểu áo
Tàu nữa, mà cổ áo là hình trái tim, hay cổ tròn, rồi kết ren quanh cổ, tùy theo màu áo và màu sắc.
Ngực áo thêu hay gắn ren. Khuy áo cũng được thay đổi, người
ta dùng những loại khuy tròn và dẹt, hình những bông hoa v...v... như khuy dùng
cho các loại áo ngắn.
Những kiểu áo Le Mur này đã bị những người bảo thủ cho là lố lăng, dị hợm, và lên tiếng công kích dữ dội trên báo chí, mặc dù các kiểu áo được những phụ nữ cấp tiến hưởng ứng nhiều. Vào giai đoạn 1930, xã hội Việt Nam cũng có những thành phần chạy theo Tây, học đòi theo ngoại bang những cái rởm, hành động lố lăng, trơ trẽn của một lớp người trưởng giả học làm sang, đã khiến nhà văn Nguyễn Trọng Phụng cho ra đời cuốn truyện “Số đỏ” để chấm biếm những thói hư tật xấu của một tầng lớp nào đó trong xã hội đương thời.
Nhưng rồi phong trào cấp tiến của áo dài đó cũng không tồn tại, người ta lại trở về với lối áo cổ xưa, nghĩa là chiếc áo dài đơn thuần giản dị hợp với cá tính của phụ nữ Việt Nam hơn. Áo vẫn may hơi rộng rộng.
Những kiểu áo Le Mur này đã bị những người bảo thủ cho là lố lăng, dị hợm, và lên tiếng công kích dữ dội trên báo chí, mặc dù các kiểu áo được những phụ nữ cấp tiến hưởng ứng nhiều. Vào giai đoạn 1930, xã hội Việt Nam cũng có những thành phần chạy theo Tây, học đòi theo ngoại bang những cái rởm, hành động lố lăng, trơ trẽn của một lớp người trưởng giả học làm sang, đã khiến nhà văn Nguyễn Trọng Phụng cho ra đời cuốn truyện “Số đỏ” để chấm biếm những thói hư tật xấu của một tầng lớp nào đó trong xã hội đương thời.
Nhưng rồi phong trào cấp tiến của áo dài đó cũng không tồn tại, người ta lại trở về với lối áo cổ xưa, nghĩa là chiếc áo dài đơn thuần giản dị hợp với cá tính của phụ nữ Việt Nam hơn. Áo vẫn may hơi rộng rộng.
Mãi cho đến thời điểm 1960, người ta mói bắt đầu mặc áo dài
may bó sát lấy thân hình để phô trương nét kiều diễm của thân thể, tà áo may vừa
phải, không quá lớn, cũng không quá nhỏ. Sau đó mốt áo lại được cải biến
dần dần, cứ vài năm lại thay đổi một tí, khi thì cổ áo được may thấp, khoảng 1
centimet rưỡi đến 3 centimet là tối đa, chiều dài của áo cũng được may ngắn
hơn, khi thì mode lại đổi, là chiều dài của vạt áo dài chỉ cách gấu quần
khoảng một gang tay, và cổ áo lại được may cao hơn, từ 5 tới 7 centimet. Mốt áo may ngắn đi thì dễ cho phụ nữ sửa lại, chỉ việc cắt vạt áo cho ngắn
bớt, là có áo mặc hợp với thời trang, nhưng khi mốt áo đổi thành dài hơn, thì
người phụ nữ bắt buộc phải tốn tiền may áo mới. Chiếc áo dài lại kén chủ nhân mặc
nó, bới vì mập quá, hay ốm quá, đều được “nó phản bội” rõ ràng, không giúp chủ nhân che những khuyết điểm của thân hình, như khi người phụ nữ mặc y
phục của Tây Phương: dress hay blouse, hay longdress, và nhất là kiểu áo đại lễ
của Đại Hàn thì còn che được bụng bầu đến vài ba tháng.
Ngoài ra quần mặc với áo dài cũng được thay đổi theo mốt luôn. Mầu quần căn bản là quần lụa trắng, hoặc đen, nhưng thường người ta mặc quần trắng, chỉ mặc quần đen vào những kỳ có kinh nguyệt. Quần thường may bằng hàng lụa mềm, may dài đến gót chân, ống quần rộng khoảng một gang tay rưỡi, lưng quần được lồng dây thun. Vào năm 1954, người miền Nam có sáng kiến rất hay, là họ mặc quần nút bấm, thì quần được may sát vòng bụng, may vừa đúng eo, và để thân hình có chui lọt được, bên hông phía trước của quần được xẻ xuống chừng một gang tay, và có nút bấm, loại quần này khi mặc với áo dài sẽ đẹp hơn, vì vải không cộm lên ở bụng như lưng quần bằng thun, nên nhìn rất mượt mà.
6. Thập niên 60, có rất nhiều đổi thay quan trọng về chiếc áo dài Việt Nam. Đó là tay áo raglan. Người ta sáng chế ra áo tay raglan, tức là tay áo nối từ cổ xuống nách, xéo theo hò áo. Loại tay áo này sẽ không nhìn thấy khúc nối ở lưng cánh tay nữa, chiếc áo dài coi đẹp hơn. Và cũng từ kiểu áo raglan này, lại sáng chế thêm sự văn minh khác nữa, tức là người mặc có thể cho may hai tay áo bằng hàng ren một màu trong các hoa của áo, hoặc tiệp màu với màu vải áo, có khi là hàng voan, coi cũng rất đẹp. Và khuy áo cũng được thay đổi luôn, họ dùng khuy bấm cho áo dài. Áo dài ở thời điểm này may ôm sát vào thân hình, eo áo được thắt chặt, có người còn dùng dây quanh áo phía trong ở vòng hai để eo được nhỏ hơn. Vạt áo may dài lê thê, chỉ hở tí gấu quần. Giữa thập niên 60, mốt áo mới thay đổi là áo dài midi, coi xinh xắn hơn, vì vạt áo không dài nữa, chỉ dài quá đầu gối một gang tay.
Ngoài ra quần mặc với áo dài cũng được thay đổi theo mốt luôn. Mầu quần căn bản là quần lụa trắng, hoặc đen, nhưng thường người ta mặc quần trắng, chỉ mặc quần đen vào những kỳ có kinh nguyệt. Quần thường may bằng hàng lụa mềm, may dài đến gót chân, ống quần rộng khoảng một gang tay rưỡi, lưng quần được lồng dây thun. Vào năm 1954, người miền Nam có sáng kiến rất hay, là họ mặc quần nút bấm, thì quần được may sát vòng bụng, may vừa đúng eo, và để thân hình có chui lọt được, bên hông phía trước của quần được xẻ xuống chừng một gang tay, và có nút bấm, loại quần này khi mặc với áo dài sẽ đẹp hơn, vì vải không cộm lên ở bụng như lưng quần bằng thun, nên nhìn rất mượt mà.
6. Thập niên 60, có rất nhiều đổi thay quan trọng về chiếc áo dài Việt Nam. Đó là tay áo raglan. Người ta sáng chế ra áo tay raglan, tức là tay áo nối từ cổ xuống nách, xéo theo hò áo. Loại tay áo này sẽ không nhìn thấy khúc nối ở lưng cánh tay nữa, chiếc áo dài coi đẹp hơn. Và cũng từ kiểu áo raglan này, lại sáng chế thêm sự văn minh khác nữa, tức là người mặc có thể cho may hai tay áo bằng hàng ren một màu trong các hoa của áo, hoặc tiệp màu với màu vải áo, có khi là hàng voan, coi cũng rất đẹp. Và khuy áo cũng được thay đổi luôn, họ dùng khuy bấm cho áo dài. Áo dài ở thời điểm này may ôm sát vào thân hình, eo áo được thắt chặt, có người còn dùng dây quanh áo phía trong ở vòng hai để eo được nhỏ hơn. Vạt áo may dài lê thê, chỉ hở tí gấu quần. Giữa thập niên 60, mốt áo mới thay đổi là áo dài midi, coi xinh xắn hơn, vì vạt áo không dài nữa, chỉ dài quá đầu gối một gang tay.
7. Một biến đổi lớn vào nữa đầu thập niên 60 là áo dài cổ hở do bà Ngô Đình Nhu
sáng chế. Áo dài không có cổ, mà cắt hở chút vai, mốt này cũng bị nhiều
người chống đối, nhưng khi nhìn quen mắt lại thấy đẹp, nhất là cho những ai có
cổ cao và trắng, với bộ ngực đầy đặn. Sau này cổ áo lại cắt sâu xuống, hình
vuông, hay hình tròn rộng để khoe một phần da thịt mịn màng hoặc khoe dây nữ
trang đeo cổ.
Ngoài kiểu áo hở cổ lại có mốt là áo không cổ, tức là cổ áo cắt sát chân cổ, chỉ có đường viền nhỏ quanh cổ mà thôi.
Mốt cổ áo bà Ngô Đình Nhu này không được mặc ở trường Trưng Vương. Thuở
đó tôi còn nhớ, lúc năm đệ tứ, hay tam, mấy chị đệ nhị hay đệ nhất, áo mặc
chít eo chật quá, để khoe vòng số hai nhỏ xíu, là bị các bà giám thị gọi lên
văn phòng, “chỉnh” cho và bắt về nhà thay áo. Thập niên đó, cô đào Người Pháp
Brigitte Bardot, đang là thần tượng cho nhiều học sinh, sinh viên lúc bấy
giờ.
BB có mái tóc dài buông lơi đến quá lưng rất là quyến rũ. Tóc cũng hơi đánh rối phía trước. Nên nhiều nữ sinh bắt chước kiểu tóc của nàng. Tại Trưng Vương, nữ sinh nào tóc đánh rối cao quá, cũng bị các bà giám thị tóm vô văn phòng, bắt gỡ tóc chải lại. Ngoài ra cũng tuyệt đối cấm mặc áo dài mà chỉ mặc su chiêng ở trong. Các nữ sinh của trường đều phải mặc áo lá mỏng ngắn bên trong áo dài, ngoại trừ áo dài nào may bằng hàng teteron dày, khiến các bà giám thị hay giám học không nhìn thấy su chiêng thì mới thoát.
Cũng ở thập niên này, áo dài được chế biến thêm là kiểu áo ba tà. vạt áo phía trước xẻ từ cổ xuống thành hai tà phía trước, và dùng khuy tàu đính từ cổ áo một hàng khuy dài đến tận eo bụng ở vạt trước. Tay áo raglan, hàng may áo thường được lựa là hàng gấm, mốt áo này cũng không được chuộng cho lắm.
Thập niên 60, lại phát minh ra áo vẽ, người mặc áo vẽ đầu tiên, phát minh ra kiểu áo vẽ là HKL, khi đó mới đệ ngũ, tự mình vẽ lấy áo. Ai đã đi chợ tết vào thập niên đó, chắc hẳn có người đã nhìn thấy và còn nhớ một cô bé với chiếc áo dài màu hồng phấn, vạt áo vẽ hình một thiếu nữ phù tang, che dù, mặc kimono đi dưới hàng cây anh đào, hoa anh đào rơi lả tả từ ngực xuống tận gấu áo. Tấm áo vẽ ngày đó đã lôi kéo bao sự tò mò của mọi người đi chợ tết khi nhìn chiếc áo dài đặc biệt như thế. Nhưng với trí óc của tuổi học trò đệ ngũ, đã không biết là có những thứ sơn có thể vẽ trên vải, để mình có thể làm giàu bằng sự sáng tạo đó. Áo HKL vẽ bằng màu nước, giặt một lần là hết. Đến hai ba năm sau Sàigòn mới có áo vẽ do các nhà thuơng mại và họa sĩ hợp tác. Áo vẽ thịnh hành từ thuở đó, nhưng đâu có ai biết rằng, người đầu tiên nghĩ ra vẽ trên vải áo, và người đầu tiên mặc chiếc áo vẽ thuở đó là một cô bé mới 13 tuổi đầu, nay đang ngồi viết bài này và nhớ lại một thuở học trò xa xưa!.
Cũng ở thập niên này, phụ nữ lăng xê mốt mặc áo dài với quần tây may ống thẳng, chán rồi đổi qua mốt quần xéo, may bằng những hàng mềm, và quần may được xếp vải thật xéo để cắt cho ống thật rộng, rất tốn vải. Muốn diện đẹp và có tiền thì may quần bằng hàng mouseline mỏng, có lót, coi rất tha thướt và duyên dáng, hàng may quần cũng chỉ là màu đen, hay màu trắng.
8. Sau 75, thì chiếc áo dài bị cách mạng cho là loại y phục hủ hóa, làm giảm thiểu mức sinh hoạt của phụ nữ, nên chiếc áo dài hầu như bị biến mất ở thành thị. Không hiểu có phải chiếc áo dài xinh xắn bị ruồng rẫy một cách oan uổng đáng thương vì do thời điểm nghèo khó của đất nước lúc bấy giờ?. Vì mỗi gia đình một năm chỉ được chính phủ cho mua vài mét vải, thì lấy đâu ra may áo dài? Ngay may quần mặc thường còn không đủ chiều dài cho những ai có chiều cao tốt nữa, nên quần mặc cũng ngắn cũn cỡn.
Những chiếc áo dài của thời vàng son truớc 75 nay được cắt lấy hai vạt áo để may áo ngắn. Và thảm thương hơn nữa cho nhiều chiếc áo dài xinh đẹp của một thời xa xưa đó, nay nằm tủi buồn bên lề phố, chủ nhân nó phải ngậm ngùi bán nó đi để đổi lấy chút cơm gạo cho gia đình sống qua bữa.
Thỉnh thoảng tôi nhận được thư gia đình và bạn bè thân còn bên quê nhà, thư chuyển qua đường bên Pháp rồi mới đến Mỹ, ngụy trang mọi cách, từ hình thức đến nội dung để đến được tay mình. Nhìn hình ảnh những người bạn học xinh đẹp ngày xưa của một thời hoa gấm, một thời óng ả duyên dáng trong những chiếc áo dài duyên dáng. Nay thì… tuy vẫn còn được dạy học, nhưng nét mặt không dấu nổi nét buồn rầu u ám đến thảm hạị. Thân phận cô giáo nghèo nàn trong chiếc áo ngắn bạc màu, và chiếc quần đen cũ kỹ, dáng dấp đã thay đổi, nét vất vả hằn trên khuôn mặt, trông bạn không khác gì mấy người buôn bán hàng rong ngoài chợ trước 75. Nhìn hình ảnh bạn mà xót xa lòng!.
9. Thế rồi qua thập niên 80, chiếc áo dài được rón rén về lại với dân thành thị Sài Gòn, nhưng ở thời điểm này chiếc áo dài mất đi nét tha thướt duyên dáng truyền thống. Không biết có phải vì điều kiện khó khăn nghèo nàn của đất nước đã ảnh hưởng đến chiều dài, ngắn, của vạt áo được may không? Bởi vì ở giai đoạn này, có thể nói là giai đoạn xấu nhất về mốt của áo dài. Tà áo ngắn cũn cỡn, hầu như chỉ dài hơn đầu gối tí chút mà thôi, vạt áo lại may nhỏ, kích áo cũng quá cao, nhìn người mặc áo, thấy như áo bị hớt lên. Giai đoạn này chiếc nón lá cũng bị thay đổi kích thước nữa, Chiếc nón lá thường là vật làm tăng thêm nét duyên dáng rất nhiều cho thiếu nữ khi họ mặc áo dài. Nhưng sau 75, vòng nón, đường kính đã bị thu nhỏ đi nhiều, khiến chiếc nón mất đi nét đặc thù của nó. Nhìn cái nón khá giống một loại mũ, hay giống giống kiểu nón của người Trung Hoa, nghĩ thật đáng tiếc!.
BB có mái tóc dài buông lơi đến quá lưng rất là quyến rũ. Tóc cũng hơi đánh rối phía trước. Nên nhiều nữ sinh bắt chước kiểu tóc của nàng. Tại Trưng Vương, nữ sinh nào tóc đánh rối cao quá, cũng bị các bà giám thị tóm vô văn phòng, bắt gỡ tóc chải lại. Ngoài ra cũng tuyệt đối cấm mặc áo dài mà chỉ mặc su chiêng ở trong. Các nữ sinh của trường đều phải mặc áo lá mỏng ngắn bên trong áo dài, ngoại trừ áo dài nào may bằng hàng teteron dày, khiến các bà giám thị hay giám học không nhìn thấy su chiêng thì mới thoát.
Cũng ở thập niên này, áo dài được chế biến thêm là kiểu áo ba tà. vạt áo phía trước xẻ từ cổ xuống thành hai tà phía trước, và dùng khuy tàu đính từ cổ áo một hàng khuy dài đến tận eo bụng ở vạt trước. Tay áo raglan, hàng may áo thường được lựa là hàng gấm, mốt áo này cũng không được chuộng cho lắm.
Thập niên 60, lại phát minh ra áo vẽ, người mặc áo vẽ đầu tiên, phát minh ra kiểu áo vẽ là HKL, khi đó mới đệ ngũ, tự mình vẽ lấy áo. Ai đã đi chợ tết vào thập niên đó, chắc hẳn có người đã nhìn thấy và còn nhớ một cô bé với chiếc áo dài màu hồng phấn, vạt áo vẽ hình một thiếu nữ phù tang, che dù, mặc kimono đi dưới hàng cây anh đào, hoa anh đào rơi lả tả từ ngực xuống tận gấu áo. Tấm áo vẽ ngày đó đã lôi kéo bao sự tò mò của mọi người đi chợ tết khi nhìn chiếc áo dài đặc biệt như thế. Nhưng với trí óc của tuổi học trò đệ ngũ, đã không biết là có những thứ sơn có thể vẽ trên vải, để mình có thể làm giàu bằng sự sáng tạo đó. Áo HKL vẽ bằng màu nước, giặt một lần là hết. Đến hai ba năm sau Sàigòn mới có áo vẽ do các nhà thuơng mại và họa sĩ hợp tác. Áo vẽ thịnh hành từ thuở đó, nhưng đâu có ai biết rằng, người đầu tiên nghĩ ra vẽ trên vải áo, và người đầu tiên mặc chiếc áo vẽ thuở đó là một cô bé mới 13 tuổi đầu, nay đang ngồi viết bài này và nhớ lại một thuở học trò xa xưa!.
Cũng ở thập niên này, phụ nữ lăng xê mốt mặc áo dài với quần tây may ống thẳng, chán rồi đổi qua mốt quần xéo, may bằng những hàng mềm, và quần may được xếp vải thật xéo để cắt cho ống thật rộng, rất tốn vải. Muốn diện đẹp và có tiền thì may quần bằng hàng mouseline mỏng, có lót, coi rất tha thướt và duyên dáng, hàng may quần cũng chỉ là màu đen, hay màu trắng.
8. Sau 75, thì chiếc áo dài bị cách mạng cho là loại y phục hủ hóa, làm giảm thiểu mức sinh hoạt của phụ nữ, nên chiếc áo dài hầu như bị biến mất ở thành thị. Không hiểu có phải chiếc áo dài xinh xắn bị ruồng rẫy một cách oan uổng đáng thương vì do thời điểm nghèo khó của đất nước lúc bấy giờ?. Vì mỗi gia đình một năm chỉ được chính phủ cho mua vài mét vải, thì lấy đâu ra may áo dài? Ngay may quần mặc thường còn không đủ chiều dài cho những ai có chiều cao tốt nữa, nên quần mặc cũng ngắn cũn cỡn.
Những chiếc áo dài của thời vàng son truớc 75 nay được cắt lấy hai vạt áo để may áo ngắn. Và thảm thương hơn nữa cho nhiều chiếc áo dài xinh đẹp của một thời xa xưa đó, nay nằm tủi buồn bên lề phố, chủ nhân nó phải ngậm ngùi bán nó đi để đổi lấy chút cơm gạo cho gia đình sống qua bữa.
Thỉnh thoảng tôi nhận được thư gia đình và bạn bè thân còn bên quê nhà, thư chuyển qua đường bên Pháp rồi mới đến Mỹ, ngụy trang mọi cách, từ hình thức đến nội dung để đến được tay mình. Nhìn hình ảnh những người bạn học xinh đẹp ngày xưa của một thời hoa gấm, một thời óng ả duyên dáng trong những chiếc áo dài duyên dáng. Nay thì… tuy vẫn còn được dạy học, nhưng nét mặt không dấu nổi nét buồn rầu u ám đến thảm hạị. Thân phận cô giáo nghèo nàn trong chiếc áo ngắn bạc màu, và chiếc quần đen cũ kỹ, dáng dấp đã thay đổi, nét vất vả hằn trên khuôn mặt, trông bạn không khác gì mấy người buôn bán hàng rong ngoài chợ trước 75. Nhìn hình ảnh bạn mà xót xa lòng!.
9. Thế rồi qua thập niên 80, chiếc áo dài được rón rén về lại với dân thành thị Sài Gòn, nhưng ở thời điểm này chiếc áo dài mất đi nét tha thướt duyên dáng truyền thống. Không biết có phải vì điều kiện khó khăn nghèo nàn của đất nước đã ảnh hưởng đến chiều dài, ngắn, của vạt áo được may không? Bởi vì ở giai đoạn này, có thể nói là giai đoạn xấu nhất về mốt của áo dài. Tà áo ngắn cũn cỡn, hầu như chỉ dài hơn đầu gối tí chút mà thôi, vạt áo lại may nhỏ, kích áo cũng quá cao, nhìn người mặc áo, thấy như áo bị hớt lên. Giai đoạn này chiếc nón lá cũng bị thay đổi kích thước nữa, Chiếc nón lá thường là vật làm tăng thêm nét duyên dáng rất nhiều cho thiếu nữ khi họ mặc áo dài. Nhưng sau 75, vòng nón, đường kính đã bị thu nhỏ đi nhiều, khiến chiếc nón mất đi nét đặc thù của nó. Nhìn cái nón khá giống một loại mũ, hay giống giống kiểu nón của người Trung Hoa, nghĩ thật đáng tiếc!.
10. Bước vào thập niên 90, mốt áo dài lại được thay đổi lần nữa, lần này
thì khá hơn. Khi mà Việt Nam có bộ mặt sung túc hơn thời điểm của thập niên 80,
vì do sự tài trợ của Việt kiều đổ đô la về giúp thân nhân, người dân thành thị ở
Sài Gòn đã có bộ mặt sáng sủa hơn, nên mốt áo dài cũng được thay đổi luôn. Tà áo được may dài hơn, cổ áo cao hơn, hàng may áo màu sắc cũng đẹp hơn. Áo thêu, áo vẽ trở nên thịnh hành... và người ta còn sáng chế ra kiểu mặc quần màu, thường
là cùng màu với hàng áo, hoặc chọn một màu trong áo dài hoa đó. Nhìn những áo
này, vẻ đẹp xấu tùy theo quan niệm mỗi người. Riêng cá nhân tôi, thì tôi vẫn thấy áo dài mặc với quần đen hay trắng là đẹp nhất.
11. Thập niên 2000 thì phải nói chiếc áo dài Việt Nam đã được bước vào giai đoạn toàn mỹ nhất từ xưa đến nay. Bây giờ người dân ở Sài Gòn đã diện lắm rồi vì cuộc sống đã sung túc hơn xưa rất nhiều nhờ những ngoại tệ của các nước đầu tư vào nền thuơng mại ở Việt Nam, nên hàng hóa tràn đầy, do đấy tơ lụa gấm vóc còn nhiều hơn thời điểm trước 75 nữa.
Ngoài ra hiện nay tại Việt Nam có nhiều nghệ sĩ vẽ kiểu mẫu thời trang về y phục. Họ đã rất thành công vì thiết kế được nhiều kiểu áo dài độc đáo và quá đẹp. Những người vẽ kiểu mẫu áo dài này đã biết mang sắc thái cổ xưa vào phần thiết kế áo dài, để vẫn giữ được những nét đặc thù của một loại y phục có lẽ là đẹp nhất Á Châu. Họ đã dùng những loại tơ, lụa in hình hoa văn, và dùng những loại lụa mềm để làm tăng nét tha thướt uyển chuyển của người phụ nữ Việt Nam. Sự pha trộn về màu sắc lại rất hài hòa, và chú trọng sự cắt ráp hoa để tạo nên những đường nét độc đáo của áo. Áo dài của giai đoạn này đã đạt đến mức tuyệt đỉnh về cả mỹ thuật lẫn kỹ thuật.
11. Thập niên 2000 thì phải nói chiếc áo dài Việt Nam đã được bước vào giai đoạn toàn mỹ nhất từ xưa đến nay. Bây giờ người dân ở Sài Gòn đã diện lắm rồi vì cuộc sống đã sung túc hơn xưa rất nhiều nhờ những ngoại tệ của các nước đầu tư vào nền thuơng mại ở Việt Nam, nên hàng hóa tràn đầy, do đấy tơ lụa gấm vóc còn nhiều hơn thời điểm trước 75 nữa.
Ngoài ra hiện nay tại Việt Nam có nhiều nghệ sĩ vẽ kiểu mẫu thời trang về y phục. Họ đã rất thành công vì thiết kế được nhiều kiểu áo dài độc đáo và quá đẹp. Những người vẽ kiểu mẫu áo dài này đã biết mang sắc thái cổ xưa vào phần thiết kế áo dài, để vẫn giữ được những nét đặc thù của một loại y phục có lẽ là đẹp nhất Á Châu. Họ đã dùng những loại tơ, lụa in hình hoa văn, và dùng những loại lụa mềm để làm tăng nét tha thướt uyển chuyển của người phụ nữ Việt Nam. Sự pha trộn về màu sắc lại rất hài hòa, và chú trọng sự cắt ráp hoa để tạo nên những đường nét độc đáo của áo. Áo dài của giai đoạn này đã đạt đến mức tuyệt đỉnh về cả mỹ thuật lẫn kỹ thuật.
Các nhà thiết kế về áo dài còn phối hợp được cái đẹp của Tây
phương mang vào y phục Việt Nam, như những chiếc áo hở một bên vai, khoe cánh
tay trần trắng nõn nà, hoặc những chiếc áo hở cả phần ngực trên và vai, lộ hai
cánh tay trần, người mặc được choàng ra ngoài chiếc khan san mỏng, dài để che bớt
cánh tay, và vẫn quyến rũ. Hoặc áo không dùng tay raglan, mà là khóa kéo phía sau lưng để phần ngực áo được mượt mà v.v… Thêm vào giới phụ nữ trẻ ở
quê nhà, hay ngay cả bên hải ngoại, họ đều có chiều cao hơn phụ nữ ngày xưa, do
đấy khi các thiếu Việt Nam mặc chiếc áo dài, với thân hình dong dỏng cao, chân
dài, bước đi uyển chuyển trong chiếc quần tơ óng mượt, thật không một y phục
Á Châu nào có thể quyến rũ và gợi cảm hơn chiếc áo dài Việt Nam trong thời kỳ
hưng thịnh này.
Hương Kiều Loan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét